Tải bản đầy đủ (.pdf) (110 trang)

Việc làm và giải quyết việc làm theo bộ luật lao động việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (10.32 MB, 110 trang )


BỘ G IÁ O DỤC VÀ ĐÀO TẠO

B ộ T ư PH Á P

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
KHOA SAU ĐẠI HỌC

Họ và tên tác giả : Trần Việt H ùng
TÊN Đ Ể TÀ I

VIỆC LÀM VÀ GIẢI QUYẾT VĨỆC LÀM
THEO BỘ LUẬT LAO ĐỘNG VIỆT NAM
MÃ S Ố : 50515

LUẬN ÁN THẠC SỸ LUẬT
Người hướng dẫn khoa hoc
Phó giáo su Nguyễn Hữu Viện
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội
—'

T i U r Ờ N f 3 Đ H L IJ Á T - H A M Ọ I

THƯ V ÊN (•■ÁO VI ẺN
6
1

m

Hà Nội, tháng 01 năm 1997



LÙI c ả m 0fR
^704 3eùt gjửi Lởi eảm ổn ehíìn thùith lùi kính
trwiÂj (tỉýĩ nhà tvư&ễuạ,, Ixcưi chủ. tiltiíin Uh/UL

C£bơ h ạc, eAa th à y, eê ụiá& f eáxi thùịẬ

kệi

ítầ ítiỊ kh iư i hjỌc, ÚỈL n h íứ là th ù ụ QtịịÂiụỈM
'cĩỗữu (T)ièn đ ã tậm tìn h ạiú$L đ ã ’ hưầnẨỊ, dÁ n
tò i tv o íiíị (ỊẮIẨI trìn h , h ạc, OOL íu ừ ư i th íL ítli ỉxcưt
liu ụ i củi írăụ,.

& v Á ii ( D iệ t lĩõ tíitíỊ
'^ùỡ
3- tụui
• e. txìíti CCU
• Luật
• íih tltí 1
trưồ*ựL
lĩõà Qílội
» itíù
• hạc
• lu ật



2



sra c L ạc
Trang

Lời nói đầu:

5

Chương I:
Quan niệm về mặt pháp lý của việc làm và ý nghĩa
kinh tế và xã hội của việc làm.

9

1- Quan niệm vể việc làm của quốc tế và một số quốc gia
trên thế giói

9

1 - Quan niệm về việc làm của quốc tế.
2- Quan niệm vể việc làm ở một số quốc gia.
3- Quan niệm về việc làm của một số tác giả trên thế giới.

10

II- Vấn đề giải quyết việc làm theo pháp luật quốc tế

11

III- Quan niệm pháp lý vể việc làm trong thời gian trước

năm 1986 ở nước ta.

17

IV- Quan niệm về mặt pháp lý và ý nghĩa của việc làm trong
nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường
có sự quản lý của Nhà nước.

20

V- Khái niộm việc làm theo bộ luật lao động Viột nam.

26

VI- Ý nghĩa kinh tế xã hội của viộc làm

33

Chươngll. Thực trạng của vấn đề việc làm và giải quyết
việc làm theo pháp luật lao động của nước ta qua các thời kỳ
và hiện nay.

35

I- Giải quyết việc làm theo pháp luật lao động thời kỳ 1945-1954

35

II- Giải quyết việc làm theo pháp luật lao động thời kỳ 1954- 1985


37

III- giải quyết việc làm theo pháp luật lao động thời kỳ 1986- 1994
( Thòi kỳ chuyển đổi cơ c h ế )

42

3


1 - Vấn đề học nghề.

45

2- Tuyển dụng lao động và hợp đổng lao động

46

3- Giải quyết việc làm đối với những người dôi ra trong khu vực
hành chính sự nghiệp

52

5- Giải quyết viộc làm cho người lao động ở nước ngoài trở về
theo các hiệp đinh hợp tác lao động.

52

6- Một số chủ trương, biện pháp giải quyết việc làm cho một số
đối tượng khác.


54

VI- Thực trạng việc làm ở nước ta hiện nay và giải quyết việc làm
theo quy định của bộ luật lao động.

58

6.1- Tình hình tăng dân số và vấn đề việc làm.

58

6.2- Nguồn lao động và chất lượng lao động.

60

6.3- Hiện trạng việc làm

63

6.4- Tình hình giải quyết việc làm hiện nay
theo quy đinh cùa bộ luật lao động

70

6.5- Xác định trách nhiệm trong việc giải quyết việc làm .

77

6.6- Chính sách giải quyết viộc làm đối với lao động đặc thù.


83

ChươnglH: Những tồn tại trong việc giải quyết việc làm
hiện nay và một số kiến nghị về phương hướng giải quyết
theo tinh thần của Bộ luật lao động.

88

I- Những mâu thuẫn chủ yếu của vấn đề việc làm và giải quyết
việc là m .

88

II- Nguyên nhân chủ yếu của mâu thuẫn về tình hình việc làm

91

III- Một số quan điểm, những phương hướng và biện pháp
giải quyết việc làm trong thời gian tói.

94

Kết luận.

107

Tài liêu tham khảo

109


4


LÒI ĨIÙ 3 Đ ấ a
/ - Sự cáp thiết của đề tài nghiên cứu:
Việt nam đang trong giai đoạn quá độ chuyển từ nền kinh tế kế hoạch
hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước. Gần ] 0
nãm qua, với việc thực hiện chính sách đổi mói, Việt Nam đã đạt được những
thành tựu quan trọng, tốc độ tăng trưởng kinh tế nhiều năn gần đây đã đạt
được ưên 8% năm. Nói chung nền kinh tế Việt Nam đang phát triển với nhiều
thuận lợi và bước đầu có tích lũy.
Tuy nhiên Việt Nam đang phải đối mặt vói những khó khăn to lớn. Một
trong những khó khăn đó là mức độ tăng dân số còn cao, công nghệ lạc hậu,
năng suất lao động thấp, tình trạng thất nghiệp, dư thừa lao động chiếm tỉ lệ
đáng kể, nhu cầu về việc làm đã và. đang tạo ra sức ép to lán đối với sự phát
triển kinh tế- xã hội.
Việc làm cho lao động xã hội là một trong những vấn đề có tính toàn cầu
và là mối quan tâm lớn của mỗi quốc gia. ở Việt Nam giải quyết việc làm cho
lao động xã hội là một trong những nội dung cơ bản của chiến lược phát triển
kinh tế xã hội của đất nước từ nay đến năm 2000 và những năm sau, đòi hỏi
chúng ta phải nỗ lực giải quyết.
“Giải quyết việc làm Nhà nước đầu tư tạo thêm chỗ làm việc và tạo điều
kiện cho mọi ngươi tự mình và giúp đỡ người khác tạo việc làm, giảm tỉ lệ
người chưa có việc làm ở thành thị xuống còn 5% và nâng tỉ lệ sử dụng thời
gian lao động ở nông thôn lên 75% vào năm 2000...
Đảm bảo công ăn việc làm cho dân là mục tiêu xã hội, không đ ể thất
nghiệp trở thành các căn bệnh kinh niên, Nhà nước chú trọng đầu tư tạo việc
Xuất phát từ tính cấp thiết về việc giải quyết việc làm, để đáp ứng về yêu
cầu kinh tế xã hội, đề tài việc làm và giải quyết việc làm theo pháp luật lao

động trước đây và bộ luật lao động Việt Nam hiện nay nhằm đóng góp một số
(') Trích báo cáo chính trị đại hội Đảng CSVN toàn quốc lần thứ v i n (6/96)

5


giải pháp cụ thể trong chính sách giải quyết việc làm ở nước ta hiện nay và
những năm sau.
2 - M ục đích và ý nghĩa của luận án:
Đây là đề tài khó, phạm vi của đề tài rộng trong giới khoa học chưa có
công trình nào nghiên cứu có tính hệ thống nên không dễ gì giải quyết được
một cách hoàn chỉnh. Luận án chỉ góp phần nghiên cứu và giải quyết một số
vấn đề lí luận cũng như thực tiễn và tạo việc làm theo pháp luật lao động để
nhằm góp phần phát triển kinh tế, xã hội một cách ổn định, lâu dài, bền vững.
Luận án khái quát các quan niệm về việc làm ở Việt Nam qua các thời kỳ
cho đến khi Nhà nưóc ban hành bộ luật lao động (1994), các quan niệm việc
làm quốc tế hiện nay .
Luận án khái quát thực trạng tình hình việc làm hiện nay ở nước ta, ở các
vùng thành thị, nông thôn, những vướng mắc và khó khăn hiện t ạ i .
Luận án kiến nghị các giải pháp giải quyết việc làm theo quy định của bộ
luật lao động Việt Nam, nêu lên trách nhiệm và phương hướng giải quyết việc
làm trong tình hình hiện tại và những năm tới trong việc tạo việc làm cho
người lao động ở nước ta.
3 - Đối tượng, phạm vỉ và phương pháp nghiên cứu :
Để thực hiện đề tài, chúng tôi dựa vào các cơ sở của chủ nghĩa Mác và
những quan điểm, đường lối của Đảng, Nhà nước về giải quyết việc làm cho
người lao động ở Việt Nam và các vấn đề xã hội có liên quan.
Luận án khái quát tình hình giải quyết việc làm ở Viột Nam qua các thời
kỳ trên cơ sở các văn bản pháp luật lao động của Nhà nước ta đã ban hành.
Phân tích đánh giá thông qua phương pháp duy vật biộn chứng và duy vật lịch

sử, phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê và so sánh dựa trên những số
liệu điều tra cơ bản trong những năm gần đây của bộ lao động - thương binh
xã hội và các ngành liên quan.

6


4 - Đóng góp của luận án :
Luận án xuất phát từ quan điểm: Con người là mục tiêu và động lực của
sự phát triển kinh tế xã hội. Xóa đói, giảm nghèo, công bằng, bình đẳng, mọi
người lao động đều có việc làm đê có sự phát triển bền vững của xã hội là
mục tiêu cao nhất. Tạo việc làm cho người lao động là mối quan tâm của tất
cả mọi quốc gia.
Việt Nam là một trong những nước kinh tế chậm phát triển. Dân số đông.
Nếu chúng ta giải quyết tốt vấn đề việc làm sẽ là một ưong những nhân tố có
tính chất quyết định để đất nước sớm thoát ra khỏi tình trạng tụt hậu.
Luận án này tác gỉa xin mạnh dạn đề xuất một số giải pháp giải quyết
vấn đề việc làm hiện nay cho lao động xã hội .
5 - Nội dung và kết cấu của luận án :
Tên luận án“ Việc làm và giải quyết việc làm theo bộ luật lao động Việt
Nam “
Ngoài phần mở đầu, kết luận, luận án gồm 3 chương:
Chương I: Quan niệm về mặt pháp lý của việc làm và ý nghĩa của nó về kinh
tế và xã hội.
Chương II: Thực trạng về vấn đề việc làm và giải quyết việc làm ở nước ta
theo bộ luật lao động.
Chương HI: Những tồn tại trong việc giải quyết việc làm hiộn nay. Phương
hướng, biện pháp giải quyết việc làm theo tinh thần của Bộ lao động của Nhà
nước ta.
Để hoàn thành bản luận án này, tôi đã nhận được sự giúp đỡ đóng góp ý

kiến quý báu của các thầy, cô giáo, ban chủ nhiệm khoa sau đại học trường
đại học luật Hà Nội, các bạn đồng nghiệp, nhất là của thầy Nguyên Hữu Viện
- Phó giáo sư, chủ nhiệm bộ môn luật trường Đại học Kinh Tế Quốc Dân đã
tận tình giúp đỡ tôi.
Trong phạm vi luận án, vấn đề việc làm và giải quyết việc làm được đưa
ra, mặc dù đã chú trọng nghiên cứu vẫn còn nhiều thiếu sót vì hiên nay trong
giới khoa học chưa có sự nghiên cứu tổng kết có tính hệ thống. Tôi rất mong

7


được sự giúp đỡ, đóng góp ý kiến quý báu củi các thầy, cổ giáo và các bạn
đồng nghiệp đối với bản luận án này.

8


CHƯƠNG I
QUAN NIỆM VỂ M Ậ T PHÁP LÝ CỦA VIỆC LÀM
VÀ Ý NGHĨA KINH TÊ VÀ XÃ HỘI CỦA VIỆC LÀM
ở hầu hết mọi quốc gia, giải quyết việc làm cho người lao động đã trở
thành thước đo để đánh giá nã ng lực lãnh đạo của bộ máy quản lý Nhà nước.
Sự thành công hay thất bại trong các nỗ lực phát triển kinh tế phụ thuộc rất
lớn vào các chính sách giải quyết việc làm. Do vậy việc phân tích và làm rõ
những khái niệm, quan niệm và phạm trù liên quan đến việc làm, như là cơ sở
lý luận và phương pháp luận là hết sức cần thiết.
Việc làm là một khái niệm thuộc phạm trù hoạt động của con người. Mọi
hoạt động của con người được biểu-hiện đa dạng và sinh động qua các dạng
của việc làm. Nói đến việc làm là nói đến một nơi làm việc, một đối tượng lao
động, một công cụ lao động, một quá tìn h đào tạo cụ thể.

Khi đề cập đến ván đề việc làm tín sức lao động có vai trò rất quan trọng.
Sức lao động là yếu tố cơ bản của mọi quá trình sản xuất (sản xuất ra của cải
vật chất và giá trị tinh thần).
Tùy thuộc vào mỗi giai đoạn phát triển của kinh tế xã hội, của hình thái
kinh tế xã hội, tùy thuộc vào mỗi quốc gia mà viộc làm có thể được hiểu theo
những nghĩa khác nhau. Để có thể đưa ra khai niệm việc làm phù hợp với Viột
Nam hiện nay, trước hết hãy xem xét một số quan niệm tương đối điển hình
về việc làm ở một số quốc gia trên tl^ế giới.
/- Quan niệm về việc làm của quốc tế và m ột số quốc gm trên thê giới.
1-

Tại hội nghị thống kê lao động Quốc tế lần thứ 8(1954) tại Giơ ne vơ,

có đưa ra định nghĩa về việc làm. Định nghĩa này cũng được ghi lại trong
khuyến nghị về thống kê lao động về Quốc tế năm 1975. Theo đó những
người có việc làm là những người thuộc một trong các loại sau:
-

Người đang làm một công việc cụ thể được trả lương, có thể là lương

ngày, lương tuần, lương tháng hoặc do hai bên thỏa thuận.

9


- Người có một chỗ làm việc ổn định nhưng có thời gian không đi làm,
tạm thời vắng mặt ưong một thời kỳ cụ thể do: Ôm đau, tai nạn lao động,
tranh chấp lao động .
Từ quan niêm về việc làm như trên một số quốc gia cũng đưa ra các quan
điểm về thất nghiệp và viộc làm khá cụ thể.

2-

Khái niệm thất nghiệp và có việc làm ở m ột số quốc gia.

ở Nhật Bản có khái niệm thất nghiệp như sau:
- Người thất nghiệp là người có khả năng làm việc, nhưng không có việc
làm, đang tích cực tìm việc làm hoặc đang chờ kết quả xin việc làm.
ở Pháp khái niộm thất nghiệp như sau:
- Người thất nghiệp là người đủ điều kiện để làm việc nhưng khồng có
việc làm, hoặc đang tìm việc.
ở Malaixia chia người thất nghiệp làm hai loại chủ yếu:
- Người thất nghiệp tích cực tìựi việc làm bằng cách đăng ký ở cơ quan
tìm việc làm, thông báo tìm việc làm, gửi đơn xin việc làm, điều tra khả năng
bắt đầu doanh nghiệp hoạt động cần người làm việc, hỏi bạn bè thân nhân về
viộc làm (người thất nghiệp tích cực).
- Người thất nghiệp tiêu cực: Là người không có viộc làm, nhưng không
đi tìm viộc làm vì không tin là có việc làm phù hợp vì không có nghề hoặc
khó tìm việc làm.
3 - Theo m ột số tác giả:2
Theo ngài Guy Hantơ (Viộn phát triển hải ngoại Luân Đôn) thì: Việc làm
theo nghĩa rộng là toàn bộ các hoạt động kinh tế của xã hội, nghĩa là tất cả
những gì quan hệ đến cách thức kiếm sống của con người kể cả các quan hệ
xã hội và các tiêu chuẩn, hành vi tạo thành khuôn khổ trong quá trình kinh tế.
- Ngài phó cố vấn kinh tế Giăng MuyTê (văn phòng lao động quốc tế)
quan niệm: “Việc làm có thể được dịnh nghĩa như một tình trạng trong đó có
sự trả công bằng tiền hoặc hiện vật, do có một sự tham gia tích cực có tính
chất cá nhân và trực tiếp vào nỗ lực sản xuất”.
(2) M ột số tài liệu pháp luật lao động nước ngoài (Tài liệu dự thảo BLLĐ 1993)

10



-

Phó giáo sư So Nin và phó tiến sĩ E Ji Nốp (Liên Xô cũ) quan niệm:

Việc làm là sự tham gia của người có khả năng lao động vào một hoạt động
xã hội có ích trong khu vực xã hội hóa của sản xuất, trong học tập, trong công
việc nội trợ, trong kinh tế phụ của nông trang viên.
Như vậy ở các quốc gia trên thế giới, nói chung thường không có sự phân
biệt giữa việc làm trong khu vực nhà nước, khu vực tư nhân, việc làm được
coi là một hoạt động lao động có ích, đem lại thu nhập và được xã hội thừa
nhận. Theo đó mọi người lao động ở trong độ tuổi lao động, có khả năng lao
động theo qui định của từng nước, đang làm một công việc cụ thể có thu nhập
từ công việc đó thì được coi là có việc làm.
Còn người thất nghiệp là người có khả năng lao động, họ mong muốn tìm
kiếm việc làm, hoặc việc làm không đủ đảm bảo cuộc sống cần thiết tối thiểu,
làm việc thấp dưới mức qui định cho phép.
II- Vấn đê giải quyết việc làm theo pháp luật quốc tế.
Trên thế giới giải quyết viộc làm được các quốc gia dù lớn hay nhỏ đặc
biệt quan tâm, hầu hết các nước trên thế giới, các cường quốc kinh tế như:
Mỹ, Nhật, Pháp, CHLB Đức ... đều coi việc giải quyết việc làm cho người lao
động là vấn đề có tính chiến lược có tầm quan trọng đặc biệt.
Chương trình giải quyết việc làm cho người lao động ở một số nước được
đạt trong cương lĩnh tranh cử của nhiều đảng phái chính trị trong các kỳ bầu
cử nhằm đưa người của mình vào nghị viện, vào các chức vụ đứng đầu quốc
gia... các tổng thống Mỹ muốn được bầu lại, bầu vào nhà trắng, ứng cử viên
bao giờ cũng phải đưa ra được biện pháp giải quyết việc làm, chính sách lao
động và hứa hẹn cải thiện chế độ tiền lương, điều kiện làm việc cho người lao
động...

Hội nghị toàn thể các tổ chức lao động quốc tế (ILO) họp tại Phi
LaĐenPhi a (Mỹ) kỳ họp 26 ngày 10/5/1994 hội nghị khẳng định: Mọi người
sinh ra không phân biệt nòi giống, tín ngưỡng hoặc giới tính đều có quyền
mưu cầu hạnh phúc, phúc lợi vật chất và phát triển tinh thần trong tự do và
nhân phẩm, trong điều kiện được an toàn về kinh tế và có cơ hội như nhau.


Hội nghị cũng khảng định nghĩa vụ của tổ chức lao động quốc tế là phải giúp
đỡ các nước trên thế giới thực hiện các chương trình nhằm cung cấp mọi
thuận lợi trong việc đào tạo và chuvển dịch lao động, ké cả di dân để có việc
làm.
Tổ chức lao động quốc tế ILO đã thông qua nhiều công ước và khuyến
nghị nhằm giải quyết việc làm cho người lao động.
Ví dụ: Công ước 88 và khuyến nghị 83 quy định về những tiêu chuẩn chức
năng và tổ chức của các trung tâm dịch vụ quốc gia về việc làm. Công ước
122 về chính sách làm việc. Công ước 149 về việc làm và các điều kiện của
việc làm và đời sống của nhân viên ỳ tế. Công ước 163 về súc tiến việc làm và
bảo vệ chống nạn thất nghiệp .
2.1- Chính sách việc làm trong công ước 122:
Công ước nêu 3 mục tiêu có tính nguyên tắc là:
* Việc làm đầy đủ.
* Có hiộu quả.
* Được tự do lựa chọn việc làm.
Chính sách việc làm phải dẫn tới bảo đảm việc làm cho tất cả những
người không có việc làm, giải quyết việc làm phải ngày càng có hiộu quả và
người lao động được tự do lựa chọn. Họ phải được trang bị những kiến thức,
trình độ nghề nghiệp cần thiết để có một việc làm thích hợp, ưong việc làm,
họ có điều kiện sử dụng trình độ nghề, năng khiếu của mình ưong việc đó.
Công ước yêu cầu xây dựng và áp dụng chính sách, tích cực như là một
mục tiêu cốt yếu nhằm khuyến khích sự phát triển và tăng trưởng kinh tế,

nâng cao mức sống, đáp ứng nhu cầu nhân công và giải quyết vấn đề thất
nghiệp.
Khuyến nghị: Mỗi quốc gia xây dựng chính sách của mình về việc làm
phải phù hợp với trình độ phát triển kinh tế đất nước với các mục tiêu kinh tế
xã hội trong từng giai đoạn, sự tăng tiến việc làm đầy đủ, có hiệu quả và được
tự do lựa chọn phải được coi là một phương tiện bảo đảm quyền lao động
trong thực tế, phải xếp thứ tự yêu ũên cho các chế độ, chính sách kế hoạch

12


phát triển kinh tế - xã hội của các quốc gia, nhằm thỏa mãn các nhu cầu cốt
yếu của nhân dãn.
2.2 - Vấn đê học nghê đói vôi việc giải quyết việc làm:
Để giải quyết việc làm, nhiều quốc gia rất chú trọng vấn đề học nghề,
quy định về học nghề đã dược ghi nhận trong các văn bản luật. Cùng với sự
phát triển của xã hội, nhất là ưong cạnh tranh thị trường lao động, trên thế
giới ngày càng coi trọng vấn đề đào tạo nghề nghiệp.
Nhiều nước coi đó là biện pháp chiến lược phát triển kinh tế quốc dân, là
một bộ phận của chế độ giáo dục hiện đại. Xu hướng chung hiện nay là đào
tạo nghề trước, xin việc làm sau, các quốc gia như: Anh, Pháp, Thụy sỹ...
Nhấn mạnh đào tạo nghề luôn hướng về thế giới lao động, chú trọng đến việc
tổ chức các trung tâm dạy nghề, xác định đó là hình thức tổ chức có tính linh
hoạt, thích ứng cao và hiộu quả hơn so với học tập ở trường chính quy.
Nhiều trung tâm dạy nghề như vậy đã xuất hiện rất sớm và phát triển
nhanh ở nhiều nước như Mỹ, Pháp, Đức...Các xí nghiệp lớn, các công ty ở các
quốc gia này, đều có trung tâm dạy nghề để đào tạo, nâng cao trình độ nghề
nghiệp cho công nhân, kỹ thuật viên và cán bộ quản lý xí nghiệp của mình.
Ngoài ra họ còn ký hợp đồng tạo nghề với các xí nghiệp, tổ chức, cá nhân có
nhu cầu.

Ở các quốc gia có bộ luật lao động thì trong bộ luật đều có chương về
đào tạo nghể. Nhật có luật đào tạo nghề từ năm 1946. Mỹ có đạo luật về việc
làm và đào tạo nghề từ năm 1973.
Hiến pháp Trung Quốc ghi nhận: Nhà nước tiến hành việc huấn luyện
việc làm , lao động cần thiết cho công dân trước khi đi làm. Bộ luật lao động
nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa (4/9/1985) quy định: Công tác đào tạo
nghề phải đặt dưới sự lãnh đạo của chính quyền nhân dân các cấp, do cơ quan
lao động các cấp thông qua, các công ty dịch vụ việc làm tiến hành quản lý
tổng hợp. Ngày 12/7/1986, quốc vụ viện Trung Quốc ra văn bản: Các công ty
dịch vụ việc làm, các cấp có trách nhiệm tổ chức đào tạo nghề, đỡ đầu, hướng

13


dẫn công nhân viên chức chờ việc tiến hành sản xuất kinh doanh tự tìm việc
làm.
2.3 - Vé các trung tám dịch vụ việc làm:
Năm 1948 tại San Fran xicô (Mỹ) hội nghị lao động quốc tế ILO kỳ họp
thứ 31 thông qua công ước 38 và khuyến nghị 83 trong đó nêu những tiêu
chuẩn về chức năng và tổ chức của các Trung tâm dịch vụ quốc gia về việc
làm. Loại tổ chức dịch vụ việc làm này đã có ở Mỹ từ rất sớm và ngày càng
phát triển. Năm 1931 các tổ chức tư nhân làm dịch vụ việc làm đã được hoàn
thiện. Từ năm 1936 các tư nhân muốn hành nghề dịch vụ việc làm phải có
giấy phép của cơ quan lao động cấp tửng năm một, công bố mức lệ phí giá và
đóng thuế, phải tuân theo thể thức kế toán và tài chính của Nhà nước. Những
nơi nào mà chính quyền địa phương đã có tổ chức dịch vụ việc làm đủ sức
phục vụ nhân dân thì các tổ chức tư nhân làm dịch vụ đó không được hành
nghề dịch vụ việc làm. Những kinhi nghiệm trên rất bổ ích, cần để chúng ta
xem xét tham khảo. Nghị định 80 - 82 năm 1980 của chính phủ Pháp về thi
hành bộ luật lao động cũng giao nhiệm vụ cho tổ chức dịch vụ việc làm: Vì

lợi ích quốc gia, tìm thị trường thích hợp, thông tin, hướng nghiệp, tư vấn
nghề, dạy nghề cho người tìm viộc, tham gia thu thập tài liộu, thống kê thị
trưòng lao động và tình hình biến động lao động, theo thể thức và thời hạn do
bộ trưởng phụ trách về lao động qui đinh...”
2.4- Vấn đề chống thất nghiệp và xú c tiến việc làm:
Công ước 168 năm 1988 về xúc tiến việc làm và bảo vệ chống lại nạn
thất nghiệp qui định: “Mọi nước thành viên sẽ thực hiện từng bước phù hợp
để phối hợp giữa hệ thống bảo vệ ichống lại thất nghiệp vì chính sách việc
làm, nhằm khuyến khích việc tự do lựa chọn việc làm và chống lại nạn thất
nghiệp. Tùy thực tế mỗi quốc gia thành viên sẽ thiết lập chương trình khuyến
khích các cơ hội có việc làm, trợ giúp tạo việc làm, khuyến khích tự do lựa
chọn việc làm có hiệu quả, nhất là đối với các đối tượng phụ nữ, người bị
khuyết tật, người lao động dôi ra do thay đổi cơ cấu”.

14


Mỗi quốc gia thành viên có những qui định nhằm ổn định cuộc sống cho
người lao động, tạo cơ hội cho họ tìm kiếm việc làm mỗi khi họ bị mất việc...
Bằng việc qui định các hình thức trợ cấp thất nghiệp, ượ cấp làm việc không
chọn giờ cho những người lao động đang có nhu cầu tìm kiếm việc làm đầy
đủ.
Hiộn nay nhiều quốc gia lập quĩ quốc gia về việc làm để chi dùng cho
những biện pháp tạm thời về đào tạo lại nghề nghiệp, cho vay vốn tự tạo viộc
làm, trợ cấp cho những người thất nghiệp từng phần hay toàn bộ.
2.5-

Kỉnh doanh nhỏ, giải quyết việc làm ở m ột s ố quốc gia đang phát

triển:

Từ những năm 1970 trở lại đây, kinh doanh nhỏ có một vị trí quan trọng
trong nền kinh tế của nhiều nước như: CHLB Đức, Hàn Quốc, Singapo, Đài
Loan, Nhật Bản... ở các quốc gia thuộc nhóm đang phát triển kinh doanh nhỏ
và vừa góp phần quan trọng vào quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Nhất là trong việc giải quyết những vấn đề mà nền kinh tế đang gặp phải như
dôi thừa lao động, thiếu vốn, kỹ thuật, cơ sở vật chất hạ tầng còn yếu kém.
Kinh doanh nhỏ có lợi thế là cẩn ít vốn đầu tư, không đòi hỏi mặt bằng
hạ tầng rộng, dễ thích ứng chuyển hướng trong kinh doanh, quản lí gọn nhẹ,
linh hoạt, tiết kiộm. Chính vậy việc phát triển kinh doanh nhỏ luôn mang lại
hiộu quả kinh tế cao, thu hút nhiều lao động làm việc, rất phù hợp với điều
kiện hoàn cảnh của các nước ở Đông Nam á. Theo thống kê ở Phi líppin số
lao động làm việc trong khu vực này so với tổng số lao động công nghiệp
chiếm 43,3%. Nhiều nước như Thái Lan, Đài Loan, Hàn Quốc đạt ưên 57%.
Kinh doanh nhỏ tạo việc làm có nghĩa là làm tăng thên nguồn thu nhập
cho người lao động, đặc biệt là số người lao động có thu nhập thấp, không ổn
định, không có nhiều vốn để kinh doanh lớn. Ở CHLB Đức, theo tính toán
hiệu suất khai thác một đồng vốn đầu tư cho kinh doanh nhỏ thường mang lại
giá trị lợi nhuận cao hom so với đầu tư kinh doanh ở các doanh nghiệp, công
ty lớn.

15


Đối với Việt Nam, kinh tế còn khó khăn, thiếu vốn. dư thừa lao động,
vận dụng kinh nghiêm thực tiễn của các quốc gia đi trước có tác dụng tích cực
giúp chúng ta xác định phương sách phát trién kinh tế và là biện pháp hữu
hiệu giải quyết vấn đề việc làm trước mắt cũng như lâu dài.
2.6 - Tình hình việc làm và thất nghiệp k é n nay ở các nước điển hình:
Mấy năm gần đây, mặc dù nền kinh tế cìa một số nước phát triển cao
như: Mỹ, Nhật, Tây Đức... đã có tăng trưởng m phát triển theo chiều hướng

thoát ra khỏi suy thoái, nhưng nạn thất nghiệp và thiếu việc làm vẫn là một
bài toán nan giải và làm đau đầu các nhà lãnh đạo nhiều quốc gia .
Hiện nay nạn thất nghiệp ở phần lớn các nước công nghiệp thuộc nhóm
G7 vẫn đang là vấn đề căng thẳng làm xói mòn sự đoàn kết xã hội, tiếp tục
làm phương hại đến nền kinh tế. Thất nghiệp không ngừng tăng trong những
nước thuộc tổ chức hợp tác và phát triển thuộc nhóm (OECD). Năm 1940 là
24 triệu người, đến nay gần 33 triệu ngưòi chiếm 8% lao động trong số 25
quốc gia thuộc tổ chức này.
Nhóm các nước G7 người thất nghiệp lên đến trên 20 triệu chiếm xấp xỉ
7% lao động. Nhật Bản một cường quốc kinh tế hiện nay có tỷ lệ thất nghiệp
thấp nhất 3,4%. Mỹ trong 3 năm trở lại đây nạn thất nghiệp đang có xu hướng
giảm, Canađa tỷ lệ thất nghiệp là 9,5%. Trong vòng 15 năm trở lại đây các
nước thuộc liên hiệp Âu Châu số người thất nghiệp đã tăng gấp đôi. Năm
1980 có 8,5 triệu, hiện nay là 19 triệu người. Anh quốc hiện tỷ lệ thất nghiệp
là 8,2%. Trong nhóm các nước phát triển, Italia tỷ lệ thất nghiệp ở mức cao
nhất là 11,6% ( Theo báo nước n g o ài).
Tại khu vực Đông Nam á, kết quả điều tra lao động việc làm của một số
nước trong khu vực cho thấy tỷ lệ dần số hoạt động kinh tế của Singapo là
65,3% (1993), Thái Lan 69,6%, Lào 60,5% (1994). Tỷ lệ thất nghiệp khu vực
thành thị của Singapo là 2,7% (1993), Thái Lan 5% (1988), và hiện nay
(1995) là 1,5%, Lào 6,3% (1994), Trung Quốc năm 1993 là 2,6%. Năm 1996
tỷ lệ thất nghiệp ở Thái Lan là 6%, còn Trung Quốc dưới 3%.

16


Tham khảo tình trạng việc làm ở khu vực thành thị Trung Quốc:
Năm

Số người ■


Tỷ lệ người

không có việc làm (người)

không có việc làm (%)

1978

5.300.000

5,4%

1980

5.420.000

1,9%

1985

2.398.000

1,8%

1990

3.830.000

2,5%


1993

4.170.000

2,6%

Nhận xét tổng quát:
Từ những số liệu trên, tuy chưa đầy đủ, toàn diện nhưng có thể cho
chúng ta một số nhận xét sau:
Việc làm và giải quyết việc làm, luôn là một chính sách xã hội lớn, mà
nhiều quốc gia phải quan tâm giải quyết.
ở các quốc gia nào có được chính sách giải quyết việc làm đồng bộ, toàn
diện có trương trình quốc gia cụ thể, đầu tư nguồn vốn và nhân lực tốt, có tình
hình chính trị - kinh tế ổn định thì tình trạng thất nghiệp được giải quyết tốt.
Kinh tế phát triển khoa học và công nghộ mới được đưa vào áp dụng thì
sẽ xuất hiện thực trạng “ Vừa thừa, vừa thiếu” lao động. Thừa lao động không
có chuyên môn kỹ thuật cao, không đáp ứng được sự thay đổi của công nghệ,
kỹ thuật mới. Thiếu nhiều lao động cần chuyên môn tay nghề cao. Trong các
ngành công nghệ mũi nhọn tiên tiến.
Ở nhiều quốc gia đang phát triển, giải pháp giải quyết việc làm là xuất
khẩu lao động ra nước ngoài. Ví dụ: Philippin, Thái Lan, Malaixia... và phát
triển doanh nghiệp nhỏ trong nước như: Đài Loan, Singapo thực tế kết quả
của các quốc gia này cho chúng ta những kinh nghiệm cần vận dụng vào Việt
Nam.
I I I - Quan niệm pháp lý về việc làm trong thời gian trước năm 1986 ở
nước ta.
Sau khi Miền Bắc Việt nam được giải phóng (1954) Nhà nước Việt Nam
dân chủ cộng hòa chủ trương xây dựng CNXH ở M iền Bắc và xác lập quan hệ



sản xuất XHCN trẻn cơ sở chế độ cóng hữu về tư liệu sản xuất dưới hai hình
thức: Sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể.
Từ quan điểm bao trùm là đồng nhất mục tiêu xây dựng chủ nghiã xã hội
với việc thiết lập chế độ công hữu, đổng nhất khái niệm sở hữu toàn dân (sở
hữu Nhà nước) với sự hiển diện củâ các xí nghiệp quốc doanh là cơ bản chủ
đạo. Gộp tất cả mọi người lao động làm việc trong các xí nghiệp quốc doanh,
trong các hợp tác xã nống nghiệp, nông trường, lâm trường, trong các cơ quan
Nhà nước, đoàn thể, các đơn vị hành chính sự nghiệp đều được coi là có việc
làm.
Từ tư duy kinh tế đó và quan niệm đó Nhà nước không thừa nhận tính
hợp pháp của việc thuê mướn lao động. Trong xã hội không thừa nhận có hiện
tượng thất nghiệp. Ai thuê mướn, sử dụng sức lao động của người khác vào
mục đích sản xuất có tính chất kinh doanh đều coi là bóc lột. Nhà nước
nghiêm cấm cá nhân thuê mướn sử dụng lao động vào mục đích có tính chất
kinh doanh. Người lao động làm thu*ê được coi là bị bóc lột.
Trong các họp tác xã nông nghiệp, người xã viên làm việc với tư cách là
xã viên, chế độ áp dụng đói với họ liên quan đến chế độ tự quản của hợp tác
xã do hợp tác xã quyết định phù hợp vơí điều lệ hợp tác xã.
Trên tổng thể nền kinh tế đất nước được điều hành bằng một kế hoạch
tập chung của Nhà nước vận hành theo cơ chế chỉ huy hành chính bao cấp từ
trên xuống dưới.
Hoạt động sản xuất kinh doanh trong các xí nghiệp quốc doanh, hoạt
động quản lí trong cơ quan Nhà nước, hoạt động nghiệp vụ trong các đom vị
văn hóa sự nghiệp... Không có sự khác nhau về mặt pháp lí.
Tất cả họ làm viộc, ở các cơ quan, đơn vị này đều đứng trong thành phần
“biên chế Nhà nước” và được gọi chung là công nhân viên chức Nhà nước.
Quan hệ lao động của công nhân viên chức Nhà nước thực chất là quan hệ
giữa họ với Nhà nước, các quyền lợi của họ được đảm bảo thổng qua chế độ
bao cấp của Nhà nước.

Việc làm trong các cơ quan Nhà nước, các cơ sở kinh tế quốc doanh,
kinh tế tập chung được tôn trọng và đề cao và khuyến khích phát triển.

18


Như vậv, chỉ những ai có công việc làm trong các thành phần kinh tê
quốc doanh, tập thể, mới được coi là có việc làm. Nhiều người lao động trong
các thành phần kinh tế khác, tiểu thương, hộ lao động cá thể không được coi
là có việc làm theo nghĩa đầy đủ, mặc dù thu nhập của họ có thể cao, họ vản
thường xuyên làm việc, lao động sáng tạo ra của cải vật chất cho xã hội
nhưng lao động của họ vẫn không được thừa nhận mà còn có thể bị ngăn cấm
hoặc hạn c h ế .
Trong các thành phần kinh tế XHCN, kinh tế quốc doanh được coi là
thành phần chủ đạo. Người lao động là xã viên hợp tác xã, tổ viên tổ hợp tác
xã sản xuất đã có việc làm ổn định, có thu nhập cao vẫn mong muốn trở thành
công nhân viên chức Nhà nước. Dù nếu được vào biên chế việc làm của họ có
thể bị chéo nghành, chéo nghề hoặc chịu thu nhập thấp hơn.
Giải quyết việc làm cho toàn xã hội, cho người lao động được coi là trách
nhiêm của Nhà nước, chỉ tiêu kế hoạch sản xuất là chỉ tiêu pháp lệnh Nhà
nước.
Thông qua các cơ quan quản lí lao động, Nhà nước cũng quyết định các
chỉ tiêu và phân bố lao động cho từng đơn vị sản xuất. Từ Trung ương đến cơ
sở. Nhà nước ban hành các qui chế, qui định, qui trình tuyển dụng lao động,
quyết định qui mô số lượng lao động cho từng loại hình xí nghiệp, cơ sở sản
xuất. Việc tuyển chọn, sát hạch và kiểm tra tay nghề của người lao động được
tiến hành định kỳ vào hàng năm do Nhà nước qui định. Bằng hệ thống quan
niệm như vậy, trên thực tế người lao động không có đủ điều kiện để tự tạo ra
và tìm kiếm việc làm. Trong tư tưởng người lao động tồn tại tâm lý phụ thuộc,
trông chờ vào Nhà nước sắp xếp việc làm. Đối với người lao động, thu nhập

chủ yếu của họ là lương tháng do Nhà nước cấp hoặc thu nhập do HTX phân
chia sản phẩm. Nhiều nhu cầu thiết yếu phục vụ cho sinh hoạt của người lao
động và gia đình họ được giải quyết qua chế độ tem phiếu. Tại các cơ sở sản
xuất bên sử dụng lao động là các giám đốc xí nghệp cũng không có quyền
chủ động tuyển người lao độns theo yêu cẫu sản xuất, họ thường thụ động
chờ Nhà nước phân bố chỉ tiêu cho biên chế lao động. Chính những quy định
đó chặt chẽ cứng nhắc đó, sức lao động của người lao động trên ihực tế không

19


được khai thác một cách có hiệu quả. Người lao động không tạo được tâm lý
thi đua phát triển tài năng sáng tạo, làm kìm hãm tính cạnh ưanh và thi đua
sáng tạo phát triển kinh tế xã hội. Nhiều nguồn lực lao động to lớn của đất
nước đã không tận dụng, huy động, làm lãng phí những tiềm năng hết sức
đáng qúi. Những qui định trên của thơi kỳ này chính là một trong những
nguyên nhân mà cả một thời gian dài kinh tế đất nước sa sút, chậm phát triển.
Người lao động không gắn bó thiết tha nhiều với nơi làm việc của mình. Năng
suất chất lượng làm việc không cao, không hiộu quả diễn ra phổ biến ở nhiều
nơi.
Tóm lại lý luận về luật lao động và khái niệm việc làm của chúng ta áp
dụng trước đây gắn liền với phạm trù “Công nhân viên chức Nhà nước “
được nhìn nhận qua lăng kính “ biên chế Nhà nưóc . Bản thân các khái niệm,
quan niộm trên được xây dựng trên cơ sở lấy việc xác lập chế độ công hữu
làm mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đổng nhất các hoạt động sản xuất
kinh doanh trong các xí nghiộp với các hoạt động quản lí Nhà nước.
IV -

Quan niệm về m ặt pháp tí và ý nghĩa của việc làm trong nền kinh


tế nhiều thành phần vận hành theo cơ c h ế thị trường có sự quản lí của N hà
nước.

4.1Nhà nước khảng định đường lối đổi mới trong chính sách phát
triển kinh tế.
Đại hội Đảng toàn quốc Đảng cộng sản Việt nam lần thứ VI (1986) Đã
khởi xướng công cuộc đổi mới toàn diện trên mọi lĩnh vực. Đặc biệt là vê lĩnh
vực kinh tế. Qua thời kì trì trệ kéo dài với nhiều vướng mắc và những sai lầm,
Đảng xác định chuyển đổi cơ chế quản lí, xác định lại cơ cấu kinh t ế . Từ một
nền kinh tế có hai thành phần chủ yếu là quốc doanh và tập thể, chuyển sang
nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lí
của Nhà nước theo định hướng XHCN, thông qua hệ thống chính sách pháp
luật do Nhà nước ban hành.
Đối mới tư duy kinh tế, Nhà nựớc thừa nhận sự tốn tại và phát triển bình
đảng của các thành phđn kinh tế trong khi nhà nước ta vẫn chú trọng và khánc

20


định các thành phần kinh tế quốc doanh có vai trò, vị trí chủ đạo. Theo đó
nhiểu lĩnh vực sản xuất, ngành kinh'tế then chốt quan trọng do Nhà nước nắm
giữ, vẫn đảm bảo chi phối, khống chế, điều tiết toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Các quy luật kinh tế như quy luật giá trị, quy luật cung cầu được đánh giá
đúng mức và vận dụng theo đúng quy luật khách quan trong quá trình vận
hành nền kinh tế đất nước nhằm phát huy hiệu quả tối ưu.
Chủ chương lớn trên là sự chuyển đổi cán bản có tính chiến lược lâu dài
từng bước được Nhà nước thể chế hóa thành pháp luật.
Từ sau đại hội VI, Nhà nước ban hành nhiểu văn bản nhằm củng cố chấn
chỉnh các tổ chức sản xuất kinh doanh thuộc các doanh nghiệp Nhà nước
đồng thời Nhà nước cho phép công dân được quyền tự do kinh doanh trong

khuôn khổ pháp luật các ngành nghẹ được phép sản xuất. Nhà nước cho phép
và thu hút nhiều nguồn vốn đầu tư nước ngoài từ nhiều quốc gia và tổ chức
quốc tế, những biện pháp đó đã tạo thêm nhiều và thu hút nhiều việc làm cho
người lao động, từng bước nâng cao đời sống của người lao động tạo đà ổn
định kinh tế đất nước.
Nhờ các chủ trương trên nển kinh tế nước ta đã hồi phục dần và thoát ra
khỏi khủng hoảng, bước đầu có tích lũy và đi vào thế phát triển với tiềm năng
đầy khả quan.
Trên lĩnh vực pháp luật Nhà nước thừa nhận sự tổn taị song song bình
đẳng của các thành phần kinh tế trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần,
vận hành theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước.
4.2

- Sự hình thành từng bước thị trường lao động và các quan hệ lao

động theo cơ chế thị trường:
Quan hệ về viộc làm trong thời kỳ này đã có sự thay đổi cơ bản. Nếu như
trước đây trong nền kinh tế quản lý theo cơ chế kế hoạch hóa tập chung, việc
làm chỉ được thừa nhận ở trong hai thành phần kinh tế là kinh tế quốc doanh
và kinh tế tập thể, thì đến nay một n^ười được coi là có việc làm khi họ tham
°ia làm việc tạo ra sản phẩm và hưởnẹ lưcmạ, tiên cônẹ từ cỏnẹ việc cùa
mình. Việc thuè mướn sử dụng lao động đã từns bước được thừa nhận trên

21


thực tế cũng như trong sách báo lý luận. Người lao động có khả năng lao
động có thể làm việc trong cơ sở sản xuất tư nhân, hộ cá thể... hay ở đơn vị
kinh tế quốc doanh đều được coi là có việc làm, và thu nhập của họ được thừa
nhận.

Như vậy quan hệ việc làm có thể đứợc tóm tắt là: Nhữnạ dạnạ hoạt độnạ
có ích, nhằm đem lai thu nhập, không bị pháp luật nẹăn cấm. Bằng việc ban
hành các văn bản pháp luật về chính sách thuế, đất đai Nhà nước đã từng bước
tạo ra môi trường pháp lý để người lao động chủ động tạo ra và tìm kiếm việc
làm, xóa bỏ dần chế độ bao cấp vể việc làm.
Giải quyết việc làm đi kèm với các chính sách đổng bộ về kinh tế, xã hội,
văn hóa, là trách nhiệm chung của Nhà nước, xã hội và người có khả năng lao
động. Tuy vẫn còn nhiều chế độ pháp luật qui đinh về ván đề lao động, việc
làm của người lao động theo cơ chế cũ vẫn còn hiệu lực pháp luật đã trở nên
ngày càng không phù hợp vói tình hình thực tế trong khi các văn bản pháp
luật mới về lao động, việc làm chừả kịp ban hành, tình trạng này đã gây nên
nhiều bất cập trong vận dụng thực hiện. Thực tiễn cuộc sống đòi hỏi Nhà
nước phải có chính sách cụ thể sớm ban hành các văn bản pháp luật mới cho
phù hợp, vói thực tế của nển kinh tế, nhất là các qui đinh trong bản hiến pháp
1980 chưa được sửa đổi.
Từ sau đại hội VII của Đảng Cộng Sản Viột Nam (1991) Nhà nước đã
xây dựng các trương trình, kế hoạch xây dựng pháp luật nhằm đổi mới đồng
bộ, toàn diện trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị - pháp pháp luật nhất.
Trong đó văn kiện pháp lý có tính quan trọng nhất ỉà Nhà nước ta ban
hành bản hiến pháp mới (hiến pháp 1992) thay thế cho hiến pháp năm 1980
cho phù hợp tình hình kinh tế - chính trị - xã hội của đất nước đã có sự phát
triển và thay đổi sâu sắc.
Điều 15 hiến pháp 1992 xác định: “ Nhà nước phát triển nên kinh tế
hàn ạ hóa nhiều thành phần theo cơ ch ế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước ...”

22


Điều 20 qui định: ‘ Các cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc mọi thành phần

kinh tế... đều bình đẳng trước pháp luật, vốn và tài sản hợp pháp do Nhà
nước bảo hộ”.
Điều 55 qui định: “Lao động là quyền và nọỳũa vụ của công dân Nhà
nước và xã hội có k ế hoạch tạo ngày càng nhiều việc làm cho người lao
động"
Điều 57: “Công dân có quyền tự do kinh doanh theo qui định của pháp
luật”.
Những qui định trong điều luật của hiến pháp mói đã chỉ ra rằng: Mọi
hoạy động lao động không bị pháp luật cấm tạo ra thu nhập đều coi là việc
làm. Nhiều công việc trước đây bị ngăn cấín đến giai đoạn này đã được thừa
nhận và khuyên khích phát triển.
Ở Việt Nam : Trong nền kinh tế nhiểu thành phần, quyèn tự do kinh
doanh được hiến pháp ghi nhận là một trong các quyền cơ bản của công dân.
Trong quyền tự do kinh doanh đó, có bao gồm quyền tự do thuê mướn, sử
dụng lao động, đã tạo tiền để tất yếu, hình thành thị truờng hàng hóa sức lao
động, vói tư cách là một bộ phận của nền kinh tế thị truờng thống nhất.
Theo lý luận kinh tế chính trị học Mác - Lê Nin, muốn có thị trường sức
lao động, thì sức lao động phải đưọc coi là hàng hóa.
Trong tập tư bản của mình Mác đã nêu hai điều kiện cơ bản để sức lao
động trở thành hàng hóa:
M ôt là: Người có sức lao động hoàn toàn tự do về mặt thân thể, tức là họ
phải có quyền sở hữu sức lao động của mình và có quyền đem bán nó như
một hàng hóa.
H ai là: Người có sức lao động không có tư liệu sản xuất để mưu sinh, do
đó họ buộc phải bán sức lao động của mình. Tuy hai điều kiộn trên chỉ xuất
hiện ở giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản. Khi nên kinh tế hàng hóa phát
triển hơn thì điều kiện thứ hai có nhung thay đổi nhất định.
Ở nước ta,trong điều kiện của một nền sản xuất nhỏ, kinh tế thị truờng
chưa ổn định thì kinh doanh theo qui mô nhỏ được chấp nhận như một mô
hình phù hợp bởi nó dễ thav đổi với sự biến động của thị trường nhiều người


23


lao động không hoàn toàn là vô sản, nhưng lại chưa có đầy đủ kiến thức kinh
doanh nguồn vốn, năng lực tổ chức sản xuất kinh doanh còn hạn chế, kinh
doanh không có lợi và chắc ăn bằng đi làm thuê cho các chủ sử dụng lao động
có khả năng tổ chức sản xuất kinh doanh. N ên họ đã chọn cách sử dụng sức
lao động của mình bằng việc đi làm thuê.
Nếu xét về các yếu tố hình thành thị trường sức lao động thì: Người "bán
sức lao động" trong thị truờng lao động là người lao động. Điều 16 (BLLĐ)
qui định: “Người lao động có quyền làm việc cho bất cứ người sử dụng lao
độnọ, nào mà pháp luật không cấm '. Người "mua" trên thị trường lao động là


người sử dụng lao động. Đó là tất cả các doanh nghiệp, công ty, hợp tác xã,
hộ gia đình, cá nhân... cần thuê mướn lao động vào mục đích sản xuất kinh
doanh hợp pháp.
Điều 8 - Bộ luật lao động cũng cụ thể hóa: “Người sử dụng lao động có
quyền tuyển chọn lao động, b ố trí điều hành lao động theo nhu cầu sản xuất
kinh doanh
Có thể nói thị trường lao động là toàn bộ những quan hệ kinh tế hình
thành trong lĩnh vực "mua - bán" một thứ hàng hóa đặc biột: Sức lao động giữa các bên. Người lao động cần có việc làm để có thu nhập, người sử dụng
lao động cần thuê nhân công bằng cách trả công để tiến hành sản xuất kinh
doanh nhằm thu lợi nhuận.
Trên thực tế “Chợ lao động“ đã xuất hiện ở các thành phố lớn ở Việt
Nam. ở đây đã diễn ra quá trình trao đổi mua bán sức lao động, giữa người
"cần m ua”- bên sử dụng lao động và người “cần b án ”- người cần việc làm để
lấy tiền công kiến sống. Theo qui luật cung- cầu ở nước ta các luồng nhân
công lao động đã bắt đầu chuyển dịch giữa các vùng, các địa phương trong cả

nước, không bị hạn chế về mặt không gian. Một điều đã thấy là vào mùa nông
nhàn, nông dân đã đi ra các thành phố, thị trấn, trung tâm công nghiệp tìm
việc làm, người cần việc làm đã đến các cơ sở sản xuất kinh tế không hạn chế
ở thành phđn kinh tế nào (quốc doanh, tập thể...) để tìm nơi làm việc. Người
lao độns đã được tự do hành nghề, tự do tìm việc làm, nsười sử dụng lao động
(các chù cơ sở kinh tế thuộc mọi thành phần kinh tê") đã được quyển tự do

24


×