BỘ GIÁO DỰC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ T ư PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
PH Ạ M QUỐC HƯNG
PHÒNG VỆ CHÍNH ĐÁNG
TRONG LUẬT HÌNH s ự VIỆT NAM
•
•
•
Chuyên ngành: Luật Hình sự
M ã số: 50514
LUẬN V Ă N THẠ C SỸ LUẬT HỌC
Người hướng dần khoa học: Tiến sỹ Võ Khánh Vinh
Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu
Nhà nước và Pháp luật
HÀ N Ộ I, NĂM 2 0 0 1 Ị
Ịm
Ỵ
èẸ
N ^
MỞ ĐẦU.
1 - Tính cấp thiết của đề tài.
Chế định phòng vệ chính đáng được Luật Hình sự quy định như là một cơ
sở để mọi người có thể tự bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, bảo vệ quyền,
lợi ích của người khác cũng như các lợi ích của Nhà nước trước những hành vi
xâm hại. Tuy nhiên, trong cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm hiện nay vấn đề
phòng vệ chính đáng đang đặt ra một số vướng mắc về mặt lý luận cũng như thực
tiễn áp dụng pháp luật cần phải nghiên cứu, xem xét.
Trong thực tiễn xét xử hiện nay, việc áp dụng chế định phòng vệ chính
đáng trong những trường hợp cụ thể còn rất nhiều vướng mắc, có nhiều ý kiến
khác nhau trong việc xác định mức độ thế nào là cần thiết để quyết định là có hay
không có phòng vệ chính đáng. Hơn nữa, việc áp dụng chế định phòng vệ chính
đáng đối với các trường hợp người có hành vi phòng vệ là người đang thi hành
cồng vụ mà có hành vi vượt quá thì trường hợp nào phải định tội là vượt quá giới
hạn phòng vệ chính đáng, trường hợp nào phải định tội là phạm tội trong khi thi
hành công vụ? Đó là những vấn đề mà thực tiễn xét xử đang đặt ra.
M ặt khác, các văn bản hướng dẫn về phòng vệ chính đáng hiện nay còn
chưa đầy đủ và chưa đổng bộ, chủ yếu các văn bản này đã ra đời từ rất lâu do đó
cần có sự nghiên cứu để sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với các quy định cũng như
những đòi hỏi hiện nay của nhiệm vụ đấu tranh phòng chống tội phạm.
Từ thực tiễn trên, cùng với một hiện tượng xã hội hiện nay là rất nhiều
người có thái độ thờ ơ trước những hành vi vi phạm xâm hại tới lợi ích của người
khác cũng như các lợi ích chung thì việc nghiên cứu và phổ biến rộng rãi quy
định của pháp luật về phòng vệ chính đáng có một ý nghĩa rất quan trọng nhằm
góp phần nâng cao nhận thức cho các cán bộ đang làm công tác pháp luật và
nâng cao nhận thức pháp luật về phòng vệ chính đáng trong nhân dân để mọi
người hiểu được quyền cũng như nghĩa vụ của mình khi đứng trước một hành vi
vi phạm từ đó khuyến khích họ tham gia tích cực vào phong trào đấu tranh phòng
chống tội phạm. Đây chính là lý do mà chúng tôi đã lựa chọn đề tài " Phòng vệ
chính đáng trong Luật Hình sự Việt Nam " để nghiên cứu.
2 - Tình hình nghiên cứu đề tài.
Chế định phòng vệ chính đáng là một chế định rất quan trọng trong Luật
Hình sự Việt Nam, do vậy cần có sự nghiên cứu phân tích về mặt lý luận cũng
như tổng kết thực tiễn xét xử về vấn đề này. Tuy nhiên, có thể nói chưa có nhiều
công trình nghiên cứu về chế định này.
Tại Việt Nam đã có một sô công trình nghiên cứu về phòng vệ chính đáng
như: " v ề vấn đề phòng vệ chính đáng" của tác giả Đặng Văn Doãn; " Vấn đề
hoàn thiện các quy định về những trường hợp loại trừ tính chất tội phạm của hành
vi" của tác giả Lê Cảm; " Phòng vệ chính đáng theo luật hình sự Việt Nam" cuả
tác giả Giang Sơn hay " Phòng vệ chính đáng theo quy định của Bộ luật Hình sự
năm 1999" của tác giả Nguyễn Đức Mai. Tuy nhiên, các công trình đó nghiên
cứu về phòng vệ chính đáng hoặc là theo các quy định cũ hoặc mới chỉ mới tập
trung phân tích về m ặt lý luận mà chưa nghiên cứu một cách đầy đủ và toàn diện
cả về lý luận lẫn thực tiễn áp dụng pháp luật về phòng vệ chính đáng trong giai
đoạn hiện nay.
3 - Phạm vi nghiên cứu, m ục đích và nhiệm vụ của luận văn.
Phòng vệ chính đáng là một trong những tình tiết loại trừ tính nguy hiểm
cho xã hội của hành vi, nó có mối liên hệ chặt chẽ với các tình tiết khác. Trong
phạm vi bản luận văn này, chúng tôi chỉ nghiên cứu những vấn đề về lý luận và
thực tiễn liên quan tới khái niệm, ý nghĩa, cơ sở lý luận của chế định phòng vệ
chính đáng; thực tiễn áp dụng chế định này hiện nay. Những nội dung này theo
chúng tôi là cơ bản, quan trọng và là những vấn đề cấp bách cần nghiên cứu.
Mục đích của luận văn là trên cơ sở của việc nghiên cứu lý luận, của việc
phân tích đánh giá các quy định của pháp luật hình sự, cũng như thực tiễn áp
dụng pháp luật về phòng vệ chính đáng sẽ đưa ra một số đề xuất nhằm hoàn thiện
các quy định về phòng vệ chính đáng cũng như nhằm nâng cao hiệu quả của
công tác áp dụng pháp luật về phòng vệ chính đáng trong thực tiễn.
Đổ đạt được mục đích nêu trên, luận vãn có các nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu khai niệm, ý nghĩa, cơ sở lý luận của phòng vệ chính đáng
thông qua các quy định của pháp luật hiện hành.
- Phân tích các quy định của pháp luật hình sự về phòng vệ chính đáng.
- Đánh giá thực tiễn áp dụng chế định phòng vệ chính đáng, rút ra những
vướng mắc mà thực tiễn áp dụng pháp luật đang đặt ra.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn Ihiện chế định phòng vệ chính đáng
cũng như nhằm nâng cao hiệu quả của công tác áp dụng pháp luật về phòng vệ
chính đáng trong thực tiễn.
4 - Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu.
Luận văn được thực hiện trên cơ sở áp dụng phương pháp luận của triết học
Mác- LêNin, các nguyên tắc của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy
vật lich sử. Bên cạnh đó tác giả còn sử dụng các phương pháp cụ thể như phân
tích, tổng hợp, quy nạp, diễn giải, phương pháp hệ thống, phương pháp lịch sử...
5 - Những đóng góp về mặt khoa học của luận văn.
Luận văn là một công trình nghiên cứu một cách tập trung những vấn đề lý
luận về phòng vệ chính đáng cũng như thực tiễn áp dụng chế định này trong hoạt
động xét xử với mục đích đưa ra những phương hướng hoàn thiện chế định này
về mặt lập pháp đổng thời đưa ra những biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả của
công tác áp dụng pháp luật về phòng vệ chính đáng trong thực tiễn.
6 - Cơ cấu của luận văn.
Luận văn gồm có: mở đầu, ba chương, kết luận và danh mục tài liệu tham
khảo.
CHƯƠNG1
NHỮNG VẤN ĐỂ CHUNG VỂ PHÒNG VỆ CHÍNH ĐÁNG
1.1. KHÁI NIỆM VÀ Ý NGHĨA CỦA PHÒNG VỆ CHÍNH ĐÁNG
1.1.1. Khái niệm
Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật
Hình sự, điều đó có nghĩa là một hành vi của một người nào đó thoả mãn các dấu
hiệu của một tội được Bộ luật Hình sự quy định thì hành vi đó bị coi là tội phạm
và bị trừng phạt. Ví dụ: hành vi cố ý tước đoạt tính mạng của người khác một
cách trái pháp luật sẽ cấu thành tội giết người theo Điều 93 của Bộ luật Hình sự
hay hành vi cố ý gây thương tích cho người khác sẽ cấu thành tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác theo Điều 104 Bộ luật Hình
sự.
Tuy nhiên, trong một số trường hợp, một hành vi tuy có các dấu hiệu của
một tội phạm, có nghĩa là xét về bề ngoài hành vi đó cũng có đầy đủ các dấu hiệu
của cấu thành tội phạm của một tội được quy định trong Bộ luật Hình sự nhưng
trong một số điều kiện cụ thể thì hành vi đó không bị coi là tội phạm mà thực tế
hành vi đó cần được khuyến khích, động viên vì nó phù hợp với đòi hỏi của xã
hội. Ví dụ: hành vi của một người để bảo vệ tính mạng cho một đứa trẻ đang bị
một người tâm thần tấn công, không còn cách nào khác buộc phải gây thương
tích cho kẻ tấn công thì không thể cho là người này phạm tội cố ý gây thương
tích hay hành vi của một người vì để tránh cho đám cháy không lan hết cả khu
vực nhà kho đã có hành vi phá một đoạn ở giữa dãy nhà kho thì không thể xử họ
về tội huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản
V..V...
Trong lý luận hình sự, trong pháp luật hình sự và trong thực tiễn xét xử,
khi nghiên cứu về những trường hợp không phải là tội phạm người ta thường
dùng các thuật ngữ như " những tình tiết loại trừ tính chất nguy hiểm của hành
v i" ," những trường hợp không phải là tội phạm " hay " các yếu tố loại trừ tính tội
phạm". Về thuật ngữ, có thể có nhiều cách diễn đạt khác nhau nhưng xét về bản
chất chúng ta thấy rằng chúng đều giống nhau ở chỗ là đều có tình tiết hoặc yếu
tố loại trừ tính tội phạm của hành vi. Luật hình sự Việt Nam quy định các yếu tố
hoặc tình tiết đó bao gồm: phòng vệ chính đáng ( Điều 15 Bộ luật Hình s ự ), tình
thế cấp thiết ( Điều 16 Bộ luật Hình sự ) và trong thực tiễn xét xử chúng ta còn
thừa nhận các tình tiết như bắt giữ người phạm tội, thi hành mệnh lệnh, rủi ro
nghề nghiệp. Ngoài ra, pháp luật hình sự nước ta còn quy định hai trường hợp
không phải chịu trách nhiệm hình sự là sự kiện bất ngờ ( Điều 11 Bộ luật Hình
sự) và tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự ( Điều 13 Bộ luật Hình
s ự ).
Phòng vệ chính đáng là một trong những điều kiện làm cho tính chất tội
phạm của hành vi không còn nữa mà trái lại nó được coi là có ích và được xã hội
khuyến khích. Để hiểu thế nào là phòng vệ chính đáng chúng ta sẽ nghiên cứu
quy định về phòng vệ chính đáng trong pháp luật hình sự của một số nước trên
thế giới và quy định của Luật Hình sự Việt nam về vấn đề này.
Chế định phòng vệ chính đáng được quy định trong luật hình sự của các
nước có sự khác nhau. Những nét đặc thù này phản ánh chế độ chính trị và xã
hội, tâm lý dân tộc, tình hình đấu tranh chống tội phạm ở mỗi nước và thậm chí
trong mỗi nước, tuỳ thuộc vào sự phát triển của xã hội trong từng giai đoạn, cách
vận dụng chế định này cũng có những thay đổi cho phù hợp với tình hình đấu
tranh phòng và chống tội phạm.
Trong Bộ luật Hình sự của Cộng hoà liên bang Nga, tại Điều 38 quy định
hành vi phòng vệ cần thiết như sau:
" Không phải là tội phạm việc gây thiệt hại cho người đang có hành vi xâm
hại thân thể và các quyền của người phòng vệ hoặc của người khác, xâm phạm
các lợi ích của xã hội hay nhà nước, nhằm bảo vệ các quyền và lợi ích nói trên,
nếu trong khi gây thiệt hại không vượt quá giới hạn phòng vệ cần thiết.
Mọi người đều có quyền phòng vệ cần thiết không tuỳ thuộc vào việc họ
có được đào tạo chuyên môn hay không và họ giữ cương vị công tác gì. Quyền
phòng vệ cần thiết không tuỳ thuộc vào khả năng thoát ra khỏi hành vi xâm hại
hoặc nhờ sự giúp đỡ của người khác hay của cơ quan chính quyền".
Như vậy, theo Bộ luật Hình sự của nước Cộng hoà liên bang Nga thì khái
niệm được dùng ở đây là quyền phòng vệ cần thiết. Pháp luật hình sự của Nga
quy định quyền này rất rộng cho người có hành vi phòng vệ để bảo vệ lợi ích
chính đáng của mình, của người khác hay của xã hội. Tuy nhiên , trong những
trường hợp cụ thể, nếu hành vi phòng vệ rõ ràng vượt quá giới hạn của phòng vệ
cần thiết thì người có hành vi phòng vệ vượt quá này sẽ phải chịu trách nhiệm
hình sự. Khoản 3 Điều 38 Bộ luật Hình sự Cộng hoà liên bang Nga quy định:"
Vượt quá giới hạn phòng vệ cần thiết là hành động cố ý rõ ràng không phù hợp
với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại".
Vấn đề phòng vệ chính đáng trong luật hình sự nước Cộng hoà nhân dân
Trung Hoa được quy định tại Điều 20 Bộ luật Hình sự. Theo quy định của Điều
20 t h ì " Người thực hiện hành vi trong tình trạng phòng vệ chính đáng nhằm ngăn
chặn hành vi bất hợp pháp xâm hại các lợi ích của nhà nước, xã hội, các quyền
nhân thân, tài sản, các quyền khác của mình hoặc của người khác gây thiệt hại
cho người có hành vi xâm hại bất hợp pháp, thì không phải chịu trách nhiệm hình
sự". Tuy nhiên, để tránh việc lạm dụng quyền phòng vệ chính đáng, khoản 2
Điều 20 Bộ luật Hình sự Cộng hoà nhân dân Trung Hoa quy định: " Nếu hành vi
phòng vệ chính đáng rõ ràng vượt quá giới hạn cần thiết và gây thiệt hại lớn thì
phải chịu trách nhiệm hình sự". Vì hành vi phòng vệ chính đáng là hành vi rất
đáng khuyên khích và trên thực tế thì ranh giới giữa phòng vệ chính đáng và vượt
quá giới hạn phòng vệ chính đáng rất khó xác định rõ ràng nên luật hình sự của
Trung Quốc quy định trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng
thì tuỳ theo tình tiết mà cân nhắc cho được hưởng hình phạt nhẹ hơn hoặc được
miễn hình phạt.
Để thể hiện sự quyết tâm đấu tranh đối với các tội về bạo lực như: giết
người, cướp của, gây thương tích, hiếp dâm, bắt cóc và các tội bạo lực, nhằm
khuyến khích mọi người dân tham gia tích cực vào việc phòng, chống các loại tội
này, Bộ luật Hình sự của nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa quy định: " Hành
vi phòng vệ đối phó với bọn tội phạm đang hành hung, giết người, cướp của, hiếp
dâm, bắt cóc hoặc các tội bạo lực khác, gây thương tích hoặc làm chết người
phạm tội, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự". Đây là một đặc trưng của Bộ
luật Hình sự nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa khi quy định về phòng vệ chính
đáng, nó thể hiện chính sách hình sự của nhà nước Trung Hoa tập trung đấu tranh
phòng, chống các tội phạm về bạo lực.
Khi nghiên cứu luật hình sự của Nhật Bản, chúng ta thấy rằng vấn đề
phòng vệ chính đáng được quy định trong Bộ luật Hình sự của Nhật Bản được
quy định hết sức ngắn gọn. Tuy nhiên, nội dung của chế định này vẫn được thể
hiện rõ ràng và qua đó cũng thể hiện rõ chính sách hình sự của nhà nước Nhật
Bản đối với trường hợp phòng vệ chính đáng cũng như trong trường hợp vượt quá
giới hạn phòng vệ chính đáng. Điều 36 Bộ luật Hình sự Nhật Bản quy định:
" Hành vi bất khả kháng được thực hiện nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi
của bản thân hay của người khác để chống lại sự xâm hại bất chính trong tình thế
cấp thiết thì không bị xử phạt.
Hành vi vượt quá mức độ phòng vệ, tuỳ theo tình tiết, có thể được giảm
nhẹ hay miễn trừ hình phạt".
- Trong Bộ luật Hình sự của Thuỵ Điển thì vấn đề phòng vệ chính đáng
được quy định dưới khái niệm hành vi tự vệ. Tại Điều 1, Chương 24 Bộ luật Hình
sự Thuỵ Điển quy định:
" Người nào thực hiện một hành vi để tự vệ thì không bị xử phạt. Một
người hành động để tự vệ là người tìm cách:
- Ngăn chặn một số tấn công hiện thực hoặc ngay tức khắc của người phạm
tội đối với con người hoặc tài sản;
- Có hành động cưỡng ép đối với một người dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng
vũ lực hoặc có hành động khác cản trở việc thu hồi tài sản khi bị bắt quả tang;
- Ngăn chặn một người xâm nhập trái phép một căn phòng, ngôi nhà, tàu
thuyền;
- Đuổi khỏi căn phòng, ngôi nhà, tàu, thuyền, người đã xâm nhập trái phép
hoặc trong trường hợp người đó không chịu rời khỏi một nhà ở khi đã có lệnh
buộc phải rời khỏi;
- Quy định trên áp dụng trong trường hợp hành động tự vệ rõ ràng là có thể
biện hộ được ( tương xứng ) khi xét tính chất của sự tấn công và tầm quan trọng
của đối tượng bị tấn công".
Một trong những nước mà chế định phòng vệ chính đáng được quy định
khá rõ ràng và cụ thể trong Bộ luật Hình sự là Cộng hoà Pháp. Điều 122.5 và
Điều 122.6 Bộ luật Hình sự của Cộng hoà Pháp quy định như sau:
Điều 122.5: " Người đứng trước một sự tấn công không có căn cứ đối với
mình hoặc người khác, đã thực hiện cùng lúc ấy một hành vi cần thiết để bảo vệ
mình hoặc người khác, không phải ‘c hịu trách nhiệm hình sự, trừ khi có sự không
tương xứng giữa các biện pháp phòng vệ và tính nghiêm trọng của sự tấn công.
Người để ngăn chặn việc thực hiện một trọng tội hoặc khinh tội đối với tài
sản, đã có một hành vi phòng vệ, không phải là cố ý giết người, khi hành vi ấy
thật cần thiết để đạt mục đích phòng vệ và các biện pháp sử dụng tương xứng với
tính chất nghiêm trọng của sự tấn công, người ấy không phải chịu trách nhiệm
hình sự".
Điều 122.6: " Được coi là hành động trong tình thế phòng vệ chính đáng
người có hành vi:
1. Để đẩy lùi một sự xâm nhập ban đêm vào nơi ở bằng phá phách, bạo lực
hoặc gian trá;
2. Để chống cự lại những kẻ trộm cắp hoặc cướp có dùng vũ lực".
Như vậy, trong pháp luật hình sự của các nước đã phân tích ở trên, mặc dù
có quy định khác nhau nhưng tựu trung lại trong Bộ luật Hình sự của các nước
này đều tồn tại một điều luật quy định hành vi để bảo vệ lợi ích của nhà nước ,
xã hội, của mình hoặc của người khác mà chống trả lại người có hành vi xâm
phạm đến các lợi ích đó thì không phải chịu trách nhiệm hình sự nếu mức độ của
hành vi chống trả là tương xứng. Đây chính là bản chất của phòng vệ chính đáng.
Ở Việt Nam, chế định phòng vệ chính đáng được xây dựng trên cơ sở lý
luận và thực tiễn xét xử ở nước ta từ trước tới nay, có sự tham khảo luật hình sự
của các nước trên thế giới. Theo đó, mặc dù có đầy đủ các yếu tố cấu thành như
một tội phạm, nhưng thực chất phòng vệ chính đáng không phải là tội phạm bởi
vì nó đã hoàn toàn mất đi tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi.
Điều 15 Bộ luật Hình sự nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam đưa ra
định nghĩa về khái niệm phòng vệ chính đáng như sau: " Phòng vệ chính đáng là
hành vi của người vì bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, bảo vệ quyền, lợi
ích chính đáng của mình hoặc của người khác, mà chống trả lại một cách cần
thiết người đang có hành vi xâm hại các lợi ích nói trên.
Phòng vệ chính đáng không phải là tội phạm."
Vì sao pháp luật lại cho phép và hơn thế nữa, lại khuyến khích mọi người
tự mình chống trả lại hành vi trái pháp luật của người tấn công mình hoặc tấn
công người khác bằng cách gây thiệt hại cho chính người đó ? Để trả lời câu hỏi
này, chúng ta sẽ tìm hiểu ý nghĩa của chế định phòng vệ chính đáng.
1.1.2. Ý nghĩa của chê định phòng vệ chính đáng
Với việc cho phép người bị tấn công có quyền có hành vi chống trả lại và
gây thiệt hại cho người có hành vi tấn công, phải chăng pháp luật cho phép mọi
người có quyền tự xử lý các mối quan hệ của mình mà không cần tới các cơ quan
nhà nước như cơ quan công an, kiểm sát, toà án? Vấn đề không phải là như vậy.
Chúng ta biết rằng trong lịch sử loài người, trước khi xã hội phân chia
thành giai cấp và xuất hiện bộ máy nhà nước, khi có các hành vi nguy hiểm như
giết người, gây thương tích, hiếp dâm, cướp của xảy ra, thì đó là việc giữa các cá
nhân, họ tự giải quyết với nhau; việc chống lại những hành vi nói trên là việc
riêng của cá nhân người bị hại hoặc của gia đình họ mà xã hội không hề can
thiệp. Cùng với sự xuất hiện của giai cấp, nhà nước ra đời, bằng bộ máy cưỡng
ch ế của mình, nhà nước điều chỉnh các quan hệ xã hội theo hướng có lợi cho giai
cấp thống trị, việc trừng trị những hành vi nguy hiểm cho xã hội lúc này không
còn là việc của các cá nhân nữa mà nó là việc thuộc chức năng của nhà nước. Cá
nhân người bị thiệt hại hoặc gia đình họ không có quyền tự xử lý, không có
quyền tự báo thù, trừng trị tội phạm, mặc dù tội phạm xảy ra đã gây thiệt hại cho
chính bản thân họ. Lúc này, người bị thiệt hại chỉ có thể yêu cầu các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền can thiệp để trừng trị kẻ phạm tội và buộc kẻ phạm tội phải
bồi thường thiệt hại đã gây ra cho người bị hại. Việc cá nhân tự ý trả thù, tự ý
trừng trị kẻ phạm tội mà không thông qua các cơ quan nhà nước có thẩm quyền
sẽ bị pháp luật cấm vì nếu để tình trạng như vậy xảy ra thì trật tự xã hội sẽ không
thể duy trì được.
Tuy nhiên, cũng có những trường hợp pháp luật cho phép các cá nhân tự
xử lý mà không cần có sự can thiệp của nhà nước do tính chất cấp thiết của nó để
bảo vệ các lợi ích xã hội mà sự bảo vệ của pháp luật cũng hướng tới. Phòng vệ
chính đáng là một trong những trường hợp như vậy. Để tránh một hậu quả bất lợi
xảy ra, pháp luật cho phép mỗi người, để bảo vệ lợi ích của xã hội, quyền, lợi ích
hợp pháp của mình hoặc của người khác, có hành vi chống trả một cách cần thiết
người có hành vi vi phạm tới các lợi ích nói trên, hành vi phòng vệ này là hợp
pháp và được pháp luật khuyến khích vì nó phù hợp với đòi hỏi của xã hội. Trên
thực tế, hành vi này hỗ trợ cho nhà nước trong việc duy trì trật tự xã hội. Việc ghi
nhận chế định phòng vệ chính đáng trong Bộ luật Hình sự có một ý nghĩa rất
quan trọng; việc quy định này nhằm khuyến khích mọi công dân tham gia đấu
tranh chống lại các hành vi nguy hiểm cho xã hội, ngăn chặn hoặc hạn chế những
thiệt hại do những hành vi đó đe doạ gây ra.
Cần phải khẳng định rằng phòng vệ chính đáng là quyền mà pháp luật quy
định cho mỗi công dân nhưng không phải là nghĩa vụ buộc họ phải thực hiện,
điều đó có nghĩa là mọi người có thể không sử dụng quyền đó của mình. Tuy
vậy, sống trong xã hội, mỗi người không thể thờ ơ, lãnh đạm trước các hành vi vi
phạm pháp luật mà cần phải có trách nhiệm tham gia đấu tranh chống mọi hành
vi vi phạm pháp luật, xâm hại đến tính mạng của bản thân hay người khác, xâm
hại đến lợi ích của nhà nước và xã hội. Những hành động đấu tranh dũng cảm đó
là sự tham gia tích cực vào cuộc đấu tranh chống tiêu cực trên các lĩnh vực hoạt
động kinh tế và đời sống xã hội. Đối với những người có chức vụ, những người
có trách nhiệm bảo vệ các lợi ích chung của xã hội thì việc bảo vệ lợi ích đó lại là
nghĩa vụ pháp lý và nếu họ không hành động theo quy định của pháp luật thì có
thể bị xử lý kỷ luật, xử lý về mặt hành chính và nếu hậu quả xảy ra nghiêm trọng
thì họ còn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hành vi thiếu tinh thần trách
nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng được quy định tại Điều 285 Bộ luật Hình sự.
Phòng vệ chính đáng là việc Nhà nước cho phép mọi công dân được quyền
tự bảo vệ lợi ích chính đáng của mình, của người khác hay lợi ích của xã hội
trước những hành vi trái pháp luật. Tuy nhiên, phòng vệ chính đáng không có
nghĩa là tự xử lý. ở đây, quyền xử lý các hành vi trái pháp luật thuộc về Nhà
nước. Chính vì vậy, phòng vệ chính đáng cũng có những giới hạn nhất định. Một
hành vi chỉ được coi là phòng vệ chính đáng khi có đủ các điều kiện để chứng
minh rằng sự phòng vệ là cần thiết, phù hợp với lợi ích của xã hội và phải tuân
theo những quy định của pháp luật hình sự.
Để tránh những trường hợp lợi dụng việc phòng vệ chính đáng trên thực tế
để thực hiện hành vi phạm tội, pháp luật hình sự nước ta cũng như pháp luật hình
sự của một số nước trên thế giới quy định khá chặt chẽ các điểu kiện của phòng
vệ chính đáng và đều khẳng định mọi hành vi rõ ràng là vượt quá giới hạn của
phòng vệ chính đáng sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự.
Với ý nghĩa hết sức quan trọng của phòng vệ chính đáng, việc quy định
chế định này trong Bộ luật Hình sự là hết sức cần thiết. Tuy nhiên, trước khi đi
vào phân tích các điều kiện của phòng vệ chính đáng, chúng ta cần phải phân tích
rõ cơ sở lý luận của phòng vệ chính đáng hay nói một cách khác là cần tìm hiểu
rõ lý do tồn tại của chế định này.
1.2. C ơ SỞ LÝ LUẬN CỦA VÂN ĐỂ PHÒNG VỆ CHÍNH ĐÁNG
Xét về mặt hình thức, hành vi phòng vệ chính đáng cũng có đầy đủ các dấu
hiệu của một cấu thành tội phạm, tuy nhiên, hành vi này lại được coi là hợp pháp
mặc dù hành vi đó là cố ý gây thương tích hoặc thậm chí là cố ý tước đoạt sinh
mạng của kẻ có hành vi trái pháp luật, v ề vấn đề này cũng có nhiều quan điểm
giải thích khác nhau.
Có ý kiến cho rằng trong trường hợp phòng vệ chính đáng, hành vi phòng
vệ không bị coi là một tội phạm vì người phòng vệ chính đáng đã hành động
trong điều kiện bị cưỡng bức về tinh thần ( vì bị tấn cồng một cách trái phép và
bất ngờ, nên buộc phải hành động chống trả, trường hợp này người phòng vệ
hành động vì tình thế bức bách chứ không tự do quyết định và do đó không còn
có trách nhiệm hình sự). Khi xem xét quan điểm này, chúng ta thấy rằng quan
điểm này chưa toàn diện, chưa khái quát được hết tất cả các trường hợp phòng vệ
chính đáng vì theo họ thì chỉ có thể chấp nhận có phòng vệ chính đáng khi có sự
tấn công trái phép vào chính cá nhân người phòng vệ. Vì chỉ có trong trường hợp
đó mới có thể nói đến cưỡng bức về tinh thần.
Để tìm hiểu nguyên nhân loại trừ trách nhiệm hình sự trong trường hợp
phòng vệ chính đáng chúng ta sẽ xem xét lý luận về vấn đề tự do, trách nhiêm và
vấn đề lỗi trong luật hình sự.
Hoạt động của con người cũng như tất cả các hiện tượng của thực tại khách
quan đều được quy định bởi một hoặc nhiều hiện tượng khác. Điều đó có nghĩa
rằng hoạt động của con người cũng bị ràng buộc, bị quy định bởi những điều kiện
sinh hoạt vật chất, bởi trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất. Tuy nhiên, hoạt động của con người là hoạt động có ý thức, điều này lý giải
tại sao trong cùng một điều kiện, hoàn cảnh như nhau nhưng vẫn có những xử sự
khác nhau, thậm chí là trái ngược nhau. Mọi xử sự của con người đều chịu sự chi
phối của quy luật khách quan nhưng con người nhờ hoạt động có ý thức có khả
năng nhận thức được quy luật và lợi dụng quy luật để thực hiện mục đích. Đó là
sự tự do của con người
Tự do của con người là việc nhận thức được quy luật và hành động theo
quy luật.
Tất cả những xử sự của con người đều là kết quả của sự tác động qua lại
giữa điều kiện khách quan bên ngoài của cuộc sống xã hội và điều kiện chủ quan
bên trong của chủ thể. Các điều kiện kinh tế, xã hội quy định xử sự của con
người nhưng phải thông qua lăng kính chủ quan của lợi ích và nhu cầu, của kinh
nghiệm và tri thức, của phẩm chất tâm lý và thái độ. x ử sự của con người không
được quy định một cách trực tiếp bởi điều kiện bên ngoài mà là kết quả trực tiếp
của sự lựa chọn, quyết định và thực hiện một biện pháp xử sự trong số những
biện pháp xử sự khách quan đã nhận thức được. Con người có tự do đối với xử sự
của mình có nghĩa là có tự do lựa chọn, tự do quyết định và tự do thực hiện xử
sự. Mặc dầu vậy, việc lựa chọn, quyết định và thực hiện xử sự chỉ có thể là tự do
thực sự khi xử sự đã lựa chọn, đã quyết định , đã thực hiện phù hợp với quy luật.
Trái lại, nếu con người đã lựa chọn, quyết định và thực hiện một xử sự không phù
hợp với quy luật thì có nghĩa họ đã tự tước bỏ khả năng tự do của mình. Đối với
chủ nghĩa Mác -Lênin, không có thứ tự do tuyệt đối, chỉ có tự do trong sự nhận
thức và vận dụng đúng quy luật. Tự do không có nghĩa là tuỳ ý lựa chọn hoặc tuỳ
ý bác bỏ.
Xã hội khi đã đảm bảo cho mỗi cá nhân được tự do, thì đồng thời và cũng
chính vì Ihế xã hội cũng đòi hỏi cá nhân trên cơ sở của tự do phải đáp ứng những
đòi hỏi của xã hội. Đó chính là trách nhiệm của cá nhân trong xã hội. Ở đây,
trách nhiệm này hoàn toàn phù hợp với tự do. Những đòi hỏi của xã hội, của nhà
nước đặt ra cho mỗi công dân là nhằm thực hiện sự tiến bộ, sự phát triển của xã
hội theo tất yếu khách quan, là phù hợp với lợi ích của nhân dân lao động. Việc
thực hiện những đòi hỏi đó, do vậy, cũng chính là sự thực hiện tự do. Con người
có tự do để thực hiện trách nhiệm và ngược lại, việc thực hiện đầy đủ trách nhiệm
cũng là sự thực hiện quyền tự do.
Mọi người trong xã hội đều có khả năng thực tế để tự do nhưng điều đó
không có nghĩa là tất cả mọi người trong xã hội đều đã sử dụng khả năng thực tế
của xã hội dành cho để tự do. Trong xã hội vẫn có những hành vi đi ngược lại
những đòi hỏi của xã hội, của nhà nước và người ta gọi những xử sự này là những
xử sự mù quáng. Đó là những hành vi phạm tội, những hành vi vi phạm và những
hành vi trái đạo đức. Đối với những người đã có những hành vi như vậy, xã hội và
nhà nước có quyền phản ứng, có quyền lên án và có quyền buộc họ phải gánh
chịu trách nhiệm ( trách nhiệm vì đã không thực hiện đầy đủ những nghĩa vụ trên
cơ sở quyền hạn đã có, trên cơ sở của tự do). Con người phải gánh chịu trách
nhiệm về những hành vi mù quáng xã hội của mình vì con người có khả năng lựa
chọn, khả năng đánh giá xử sự của mình và vì họ có đủ điều kiện để thoả mãn
những đòi hỏi của xã hội, của nhà nước hay nói một cách khác là vì họ có tự do
thực sự.
Tự do là cơ sở của trách nhiệm và trách nhiệm chỉ đặt ra cho một người khi
họ có tự do. Con người tự tước bỏ tự do của mình, xử sự trái với đòi hỏi của xã
hội, của nhà nước có nghĩa là họ có lỗi. Trách nhiệm chỉ đặt ra khi có lỗi.
Lỗi là dấu hiệu bắt buộc của tất cả các cấu thành tội phạm; lỗi đòi hỏi phải
được xác định trong mọi trường hợp khi áp dụng luật hình sự. v ề mặt hình thức
cấu trúc tâm lý, lỗi được hiểu là trạng thái tâm lý bên trong của kẻ phạm tội khi
thực hiện tội phạm. Xét về mặt nội dung thì một người bị coi là có lỗi khi thực
hiện hành vi phạm tội nếu họ đã thực hiện hành vi đó trong khi có đủ điều kiện
lựa chọn thực hiện hành vi khác không gây thiệt hại cho xã hội.
Theo cách hiểu này, một người chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về hành
vi gây thiệt hại cho xã hội của mình trong trường hợp người đó đã lựa chọn hành
vi này khi có đủ điều kiện lựa chọn hành vi khác không gây thiệt hại cho xã hội.
Đó là những trường hợp có lỗi.
Theo định nghĩa lỗi về mặt nội dung, chúng ta cũng có thể hiểu rằng một
người mặc dù có hành vi gây thiệt hại cho xã hội nhưng sự lựa chọn hành vi gây
thiệt hại đó của chủ thể phù hợp với lợi ích của xã hội ( được xã hội chấp nhận)
thì người đó không phải chịu trách nhiệm hình sự vì trong trường hợp này chủ thể
đã thực hiện đúng tự do của mình. Đây chính là lý do lý giải tại sao người có
hành vi phòng vệ chính đáng mặc dù gây thiệt hại cho kẻ tấn công nhưng không
bị coi là thực hiện tội phạm và không phải chịu trách nhiệm hình sự vì họ không
có lỗi.
Như Hêghen, nhà triết học Đức nổi tiếng đã nhận định: " Tấn công là phủ
nhận pháp luật, phòng vệ là sự phủ nhận sự phủ nhận ấy, tức là áp dụng pháp
luật", ở đây, người phòng vệ mặc dù gây thiệt hại cho kẻ tấn công nhưng họ đã
sử dụng một quyền mà pháp luật cho phép. Trước hành động tấn công, xâm hại
hay đe doạ xâm hại lợi ích của xã hội, người phòng vệ không nên và không thể
chờ sự can thiệp của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền mà cần phải phản ứng
kịp thời mới bảo vệ được trật tự xã hội, bảo vệ được tính mạng, sức khỏe hay tài
sản của mình hoặc của người khác. Người phòng vệ đã hành động nhân danh xã
hội, thực hiện một quyền mà pháp luật cho phép, đó chính là quyền phòng vệ.
Chính vì vậy, hành vi chống trả của người phòng vệ mặc dù có thể gây thương
tích hoặc thậm chí dù làm chết kẻ tấn công nhưng hành vi đó đã góp phần lập lại
trật tự xã hội bị hành vi tấn công làm xáo trộn. Do hành động phù hợp với lợi ích
của xã hội nên hành động đó là hợp pháp, hơn nữa là đáng khuyến khích, vì vậy
không thể coi là tội phạm và cũng không thể nói là tha miễn tội phạm vì người
phòng vệ đã hành động mà không có lỗi, họ hành động để bảo vệ lợi ích xã hội,
bảo vệ lợi ích của mình hay của người khác. Hành vi phòng vệ chống trả lại một
cách dũng cảm hành vi tấn công trái pháp luật chứng tỏ người phòng vệ thiết tha
bảo vệ lợi ích chung của xã hội. Đạo đức xã hội chủ nghĩa phê phán thái độ thờ ơ,
lãnh đạm trước cảnh lợi ích xã hội bị xâm phạm, đồng thời cổ vũ, khuyến khích
những hành động dũng cảm bảo vệ lợi ích đó, ngăn ngừa sự xâm hại của kẻ có
hành vi trái pháp luật. Khuyến khích hành vi phòng vệ sẽ có tác dụng tích cực
trong việc phòng ngừa tội phạm và làm giảm hành vi hung hãn của kẻ xâm hại.
Đổng thời, đông đảo quần chúng khi hiểu rõ thế nào là phòng vệ chính đáng,
thấy rằng việc chống trả một cách hợp lý, tương xứng với hành vi xâm hại dù có
gây thiệt hại cho sức khoẻ, tính mạng của những tên lưu manh, côn đồ thì hành vi
đó vẫn được dư luận ủng hộ và pháp luật cho phép, từ đó họ sẽ tích cực hơn trong
việc tham gia đấu tranh chống tội phạm.
Căn cứ vào khái niệm lỗi về mặt nội dung chúng ta cũng hoàn toàn có thể
lý giải được vì sao trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng,
người có hành vi phòng vệ vượt quá lại phải chịu trách nhiệm hình sự.
Trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, người phòng vệ
đã lựa chọn một cách chống trả rõ ràng là không tương xứng với hành vi tấn công
trong khi họ hoàn toàn có thể lựa chọn và có điều kiện để thực hiện một cách
chống trả khác có thể gây ra một thiệt hại nhỏ hơn.
Ví dụ: một người bị một kẻ tâm thần tấn công bằng tay không, trong khi
người này hoàn toàn có thể chạy tháo thân, và nếu anh ta chạy thì kẻ tâm thần sẽ
không tiếp tục tấn công được nữa; nhưng anh ta đã không chạy mà lại dùng gậy
đê chống trả lại kẻ tâm thần và hậu quả là đã gây ra cái chết cho kẻ tâm thần.
Trong trường hợp này, người này sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội giết
người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng.
Như vậy, nhà nước và xã hội tạo điều kiện cho mọi công dân thực hiện các
quyền và nghĩa vụ hợp pháp của mình. Nếu một người nào đó không thực hiện
hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ của mình thì nhà nước và xã
hội có những biện pháp buộc họ phải làm tròn nghĩa vụ đó. Nói một cách khác,
người đó phải chịu trách nhiệm về việc đã không thực hiện đúng các quy định mà
pháp luật đòi hỏi.
Tóm lại, cơ sở lý luận để một người không phải chịu trách nhiệm hình sự
trong trường hợp phòng vệ chính đáng là vì trong trường hợp này họ đã thực hiện
một hành vi mà pháp luật cho phép và khuyến khích. Mặc dù hành vi phòng vệ
có thể gây ra những thiệt hại cho kẻ tấn công nhưng ở đây, người phòng vệ chính
đáng hoàn toàn không có lỗi. Chính vì vậy, hành vi phòng vệ chính đáng không
bị coi là tội phạm và người thực hiện hành vi phòng vệ chính đáng không phải
chịu trách nhiệm hình sự.
CHƯƠNG 2
ĐIỂU KIỆN CỦA PHÒNG VỆ CHÍNH ĐÁNG
Để đề phòng những trường hợp lợi dụng việc phòng vệ chính đáng để
phạm tội, đồng thời để khuyến khích cũng như hướng dẫn công dân thực hiện
quyền phòng vệ chính đáng và qua đó phát huy được tính tích cực của chế định
phòng vệ chính đáng, Điều 15 Bộ luật Hình sự năm 1999 của nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam không chỉ quy định phòng vệ chính đáng không phải là
tội phạm mà còn quy định cụ thể cơ sở, nội dung và phạm vi của quyền phòng vệ
chính đáng như sau:
"Phòng vệ chính đáng là hành vi của một người vì bảo vệ lợi ích của Nhà
nước , của tổ chức, bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của mình hoặc của người
khác mà chống trả lại một cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm các
lợi ích nói trên".
Hành vi đã thoả mãn đầy đủ những dấu hiệu về cơ sở, nội dung và phạm vi
của quyền phòng vệ chính đáng là hành vi hoàn toàn phù hợp với lợi ích xã hội,
là hành vi thực sự nhằm ngăn chặn sự tấn công bất hợp pháp, hạn chế những thiệt
hại do sự tấn công này gây ra hoặc đe dọa gây ra. Đó là trường hợp phòng vệ
chính đáng thực sự.
Căn cứ vào nội dung quy định tại Điều 15 Bộ luật Hình sự năm 1999 và
Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 5/1/1986 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân
dân Tối cao, các điều kiện của phòng vệ chính đáng có thể được chia làm hai
loại, đó là:
- Những điều kiện thuộc về tính chất của sự xâm hại;
- Những điều kiện thuộc về tính chất của hành vi bảo vệ.
2.1. NHŨNG ĐIỂU KIỆN THUỘC VỂ TÍNH CHÂT CỦA s ự XÂM
HẠI
Theo quy định của Điều 15 Bộ luật Hình sự, cơ sở làm phát sinh quyền
phòng vệ chính đáng là sự tấn công đang hiện hữu, xâm phạm đến lợi ích của
Nhà nước, lợi ích của tập thể, quyền hoặc lợi ích chính đáng của công dân. Như
vậy, chỉ có thể nói đến phòng vệ chính đáng khi có hành vi của con người đang
gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại cho xã hội. Những điều kiện thuộc về tính
chất của sự xâm hại cụ thể là:
2.1.1. Hành vi xâm hại phải là hành vi trái pháp luật và là hành vi nguy
hiểm cho xã hội ở một mức độ đáng kể.
Trong thực tế quyền phòng vệ chính đáng được đặt ra khi một người đứng
trước một hành vi trái pháp luật đang đe dọa lợi ích của xã hội, lợi ích chính đáng
của chính họ hay của người khác. Hành vi này có thể xâm phạm đến lợi ích của
Nhà nước, lợi ích của tập thể, quyền hoặc lợi ích hợp pháp của người phòng vệ.
Quyền hoặc lợi ích chính đáng bị xâm phạm có thể là quyền nhân thân, quyền sở
hữu,
.V ..V ..
Những quyền hoặc lợi ích hợp pháp này chủ yếu bị xâm phạm thông
qua những hành động tấn công của con người ( đâm, chém, hiếp dâm,...); trong