BÒ (ĨIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ T ư PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
NGUYỄN VÃN HUYÊN
THẨM QUYỂN CỦA TÒA ÁN CÁC CẤP
THEO LUẬT TÔ TỤNG HÌNH sự VIỆT NAM
■
■
■
■
Chuyên ngành : Luật hình sự - tỗ tụng hình sự
M ã sô
: 5.05.14
LUẬN ÁN TIẾN Sĩ LUẬT HỌC
Ngưòi hướng dẫn khoa học:
1. TS. Trần Văn Độ
2. PGS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa
TRUNG TÂM THÔNG TIN THƯVìÊmỊ
TRƯỜNG ĐẠI h O C iụ Ậ T HÀ MÒ: ị
PHÒNG ĐỌC & ẦẨ Ù - .
HÀ NỘI - 2002
LỜI C AM Đ O A N
T ô i xin cam đoan đây là công trình
nghiên cứu của riêng tôi. C ác s ố liệu nêu
trong luận án ỉà trung thực. N hữ ng kết luận
khoa học của ỉuậti án chưa từng dược ai
công b ố trong bất kỳ công trình nào khác.
TÁC | I Ả LUẬN ÁN
Nguyễn Văn Huyên
MỤC LỤC
Trang
MỎ ĐẨU
1
Chương 1 : MỘT s ố VẤN ĐỂ CHUNG VỂ THẨM q u y ể n
củ a t ò a án
9
CÁC CẤP
1.1.
Khái niệm thẩm quyền của Tòa án
l .2.
Những căn cứ để quy định thẩm quyền của Tòa án
1.3.
Thẩm quyền của Tòa án các cấp trước khi ban hành Bộ luật tố
9
22
36
tung hình sự
Chương 2: THẨM QUYỂN CỦA TÒA ÁN CÁC CẤP THEO BỘ LUẬT
63
TỐ TỤNG HÌNH s ự VIỆT NAM VÀ THựC TIÊN ÁP DỤNG
2.1.
Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về thẩm quyền của Tòa
63
án cấp sơ thẩm và Ihực tiễn áp dụng
2.2.
Quy định của Bộ luật tố tụng hình sụ về thẩm quyền của Tòa
95
án cấp phúc thẩm và thực tiễn áp dụng
2.3.
Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về Ihẩm quyền giám đốc
117
thẩm, tái thẩm và thực tiễn áp dụng
Chương 3: VẤN ĐỂ HOÀN THIỆN VÀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN CÁC
134
QUY ĐỊNH C Ủ A BỘ LUẬT T ó TỤNG HÌNH s ự VỂ
THẨM QUYỂN CÚA TÒA ÁN CÁC CẤP
3.1.
Những giải pháp hoàn thiện các quy định của Bộ luật tố tụng
134
hình sự về thẩm quyền của Tòa án các cấp
3.2.
Các biện pháp bảo đảm để thực hiện thẩm quyền của Tòa án
185
các cáp
KẾT LUẬN
CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢĐÃ CỐNG B ố CÓ LIÊN QUAN ĐẼN
197
200
LUẬN ÁN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
201
PHỤ LỤC
208
BẢN G C H Ữ V IẾ T T Ắ T
BCHTW
Ban chấp hành Trung ương
BLHS
Bộ luật hình sự
BLTTHS
Bộ luật tố tụng hình sự
CQĐT
Cơ quan điều tra
GS.
Giáo sư
HĐTP
Hội đồng Thẩm phán
HĐXX
Hội đồng xét xử
Nxb
Nhà xuất bản
PGS.
Phó Giáo sư
TA
rp N
TAND
Tòa án nhân dân
TANDTC
Tòa án nhân dân tối cao
TAQS
Tòa án quân sư
TAQSTW
Tòa án quân sự trung ương
ThS.
Thạc sĩ
Tp.
Thành phố
tr.
Trang
TS.
Tiến sĩ
TSKH.
Tiến sĩ khoa học
TTHS
Tố tụng hình sự
UBTP
ủ y ban Thẩm phán
ƯBTVQH
ủ y ban Thường vụ Quốc hội
VKS
Viện kiểm sát
VKSND
Viện kiểm sát nhân dân
VKSQS
Viện kiểm sát quân sự
VKSQSTW
Viện kiểm sát quân sự Trung ươn
VKSNDTC
Viện kiểm sát nhân dân tối cao
XHCN
Xã hội chủ nghĩa
s
Tòa án
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong tố tụng hình sự (TTHS), thẩm quyền của Tòa án (TA) các cấp là
một chế định quan trọng. Thẩm quyền càng được phân định rõ ràng, khoa học,
sát với thực tế bao nhiêu càng bảo đảm cho việc xét xử khách quan, chính xác,
đúng người, đúng tội bấy nhiêu. Với tầm quan trọng đó, các quy phạm pháp luật
về thẩm quyền của TA luôn luôn được chú ý từ khi ban hành pháp luật. Bộ luật
Tố tụng hình sự (BLTTHS) của nước ta quy định tương đối đầy đủ các quy phạm
pháp luật về thẩm quyền của TA các cấp. Việc áp dụng chúng hơn 10 năm qua
tao điều kiện cho TA các cấp hoàn thành tốt nhiệm vụ xét xử các vụ án hình sự.
Tuy nhiên, do sự phát triển của tình hình kinh tế - xã hội, trước yêu cầu đổi mới
tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp, một số quy định về thẩm quyền
cúa TA các cấp bộc lộ nhiều điểm bất cập không còn phù hợp gây khó khăn cho
hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân (TAND). Đó là sự phân định thẩm quvền
xét xử giữa TA cấp huyện và TA cấp lỉnh không hợp lý, vẫn giao cho TA cấp
tỉnh xét xử sơ thẩm quá nhiều việc nên tình trạng tồn đọng án từ năm này sang
năm khác còn nhiều. Ngoài ra, một số quy định của BLTTHS không cụ thể, các
văn bản hướng dẫn chậm được ban hành nên việc nhận thức và áp dụng vào thực
tiễn xét xử vấn đề giới hạn xét xử sơ thẩm; phạm vi xét xử phúc thẩm; giám đốc
thẩm, tái thẩm; quyền hạn của TA cấp phúc thẩm và Hội đồng giám đốc thẩm,
tái thẩm chưa thống nhất.
Thực tiễn xét xử thời gian qua cho thấy có nhiều tội phạm ít nghiêm trọng,
người phạm tội bị bắt quả tang, chúng cứ rõ ràng rất cần thiết phải được giải
quyết theo thủ tục rút gọn, nhiều vụ án qua xét xử sơ thẩm bị cáo đã nhận tội,
không kháng cáo kêu oan chỉ xin giảm nhẹ, Viện kiểm sát (VKS) không kháng
nghị, người bị hại không kháng cáo theo hướng tăng nặng nên không cẩn triệu
tập người tham gia tố tụng đến phiên tòa mà chỉ cần xét xử dựa trên hồ sơ, giảm
2
bót một số thủ tục trong xét xử để vụ án được kết thúc nhanh, tiết kiệm công sức
ma vẫn đảm bảo tính công minh, chính xác, đúng pháp luật của bản án. Nhung
pháp luật tố tụng không quy định thủ tục rút gọn, thủ tục xét xử phúc thẩm dựa
trên hồ sơ vụ án nên những vụ án đó vãn được tiến hành theo thủ tục thông
thường dẫn đến kéo dài thời gian giải quyết vụ án một cách không cần thiết. Để
nhanh chóng phát hiện và xử lý kịp thời mọi hành vi phạm tội, tiết kiệm thời gian
và công sức cần nghiên cứu quy định thủ tục rút gọn và xét xử phúc thẩm theo
thủ tục bút lục trong pháp luật TTHS.
Hiện nay, cùng với sự đổi mới toàn diện các mặt đời sống xã hội, các cơ
quan tư pháp cũng được đổi mới theo hướng tăng cường hiệu quả, chất lượng
hoạt động. Đối với TAND, Bộ ơ iín h trị Ban chấp hành Trung ương (BCHTW)
Đảng đã có chỉ thị cụ thể về việc nghiên cứu đổi mới tổ chức và hoạt động theo
bướng "từng bước mở rộng thẩm quyền xét xử sơ thẩm của TAND cấp huyện
tiên cơ sở kiện toàn tổ chức và cán bộ cho TA cấp này. Kiện toàn đến đâu, mở
rộng thẩm quyền xét xử đến đó" [1]. Các Nghị quyết hội nghị lần thứ 8 BCHTW
Đảng khóa VII, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ VIII,
Nsùiị quyết hội nghị lần 3 BCHTW Đảng khóa VIII đều chỉ rõ phương hướng
củng cố, kiện toàn bộ máy các cơ quan tư pháp, phân định lại thẩm quyền xét xử
của TAND, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Dáng một lẩn
nữa khẳng định phải "cải cách tổ chức, nâng cao chất lượng và hoạt động của các
cơ quan tư pháp... sắp xếp lại hệ thống TAND, phân định hợp lý thẩm quyền của
TA các cấp". Vì vậy, việc nghiên cứu cả về lý luận và thực tiễn áp dụng các quy
định của pháp luật về thẩm quyền của TA, đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện
thẩm quyền của TA các cấp để nâng cao chất lượng xét xử là một yêu cầu cấp bách.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về "cải cách tổ chức, nâng
cao chất lượng và hoạt động của các cơ quan tư pháp... sắp xếp lại hệ thống
TAND. phân định hợp lý thẩm quyền của Tòa án các cấp", đã có nhiều công
3
trình khoa học, nhiều nhà nghiên cứu lý luận và thực tiễn ở nhũng mức độ khác
nhau đề cập đến các vấn đề về tổ chức và hoạt động của TA, thủ tục tố tụng, thẩm
quyền của TA mỗi cấp... Trong số các công trình nghiên cứu khoa học phải kể đến
Đé tài khoa học cấp Bộ "Năng cao chất lượng hiệu qua côtìíỊ tác kiểm sát hìrứt sự
trong giai đoạn giám đổc thẩm" của Viện kiểm sát nhân dân tối cao (VKSNDTC)
năm 1997 đã đề cập nhiều về thực trạng xét xử giám đốc thẩm; đề án "Đổi mới công
tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ tư pháp' của Bộ Tư pháp về văn đề đào tạo Thẩm
phán. Các công trình khoa học: "Những vấn dề lý luận và thực tiễn cấp bách, của tố
tiuig ìùnh sự Việt Nam" của VKSNDTC năm 1995; "Tưpháp hìiỉh sự so sánh" của
Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý, 1999; 'lìm hiểu vê nhà nước pháp quyền" của
tập thể tác giả Viện Nhà nước và Pháp luật do PGS.TSKH Đào Trí ú c làm chủ biên.
Các bài viết của GS.TS Hoàng Văn Hảo "Tổ chức và hoạt động của hệ thôhíỊ cơ
quan quyền lực nhà nước"', PGS.TS Trần Ngọc Đường "Tòa án nhân dãn và Viện
kiểm sát nhân dân" trong cuốn "Tìm hiểu về đổi m ă tổ chức và hoạt động cùa bộ
máy nhà nước theo Hiến pháp năm 1992", Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội,
đã nêu bật cơ sở lý luận của việc tổ chức nhà nước, thẩm quyền của TA và
cơ quan tư pháp. Một số luận văn thạc sĩ luật chuyên ngành hình sự được công bố
trong thời gian qua đã nghiên cứu ở những góc độ khác nhau về thẩm quyền của TA
cá<; cấp. Đó là luận văn của ThS. Đàm Văn Dũng về ''Thẩm quyền xét xử của Tỏa
án quân sự' năm 1998, luận văn của ThS. Trần Văn Tín về "Giới hạn xét xử trong tố
lụng hình sứ' năm 1997, luận văn của IhS. Nguyễn Văn Tiến về "Thẩm quyền của
TA cấp phúc thẩm trong tố tụng hình sứ' năm 1998, luận văn của ThS. Nguyễn Văn
Trượng về "Giám đốc thẩm trong luật rồ tụng hình sự' năm 1996. Đối với thẩm
quyền xét xử sơ thẩm của TAND và TAQS các cấp, chúng tôi cũng có dịp nghiên
cứu và đã viết luận văn thạc sĩ về vấn đề này từ năm 1996.
Về những vấn đề liên quan đến đề tài đã có các bài viết của TS. Nguyễn
Đình Lộc: "Vấn đề đổi mới tổ chức và hoạt động nĩa các cơ quan tư pháp (ý nước
ta", Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số 6/1995; Phạm Hung: "Tiếp tục đổi mới tổ
4
chức và hoat dộng của ngành Tỏa án nhân clân", Tạp chí Cộng sản, số 16/1997;
TS. Nguyễn Văn Hiện: "Vê thực tiễn, lý híận và yêu cầu ỈÌOÙII thiện tìiám quyền
xét xử giám đốc thẩm các vụ án hìềầ sự của Tòa án các cấp", "Vấn để giới hạn
xét xứ của Tòa án nhăn cỉún", Tạp chí TAND, số 4/1997 và 8/1999; TS. Đặng
Quang Phương: "Tìnt hiểu các Cịiiv dịnìi cửa Bộ luật tô' tụng hỉnh sự về rút truy
tố", Tạp chí TAND, số 4/1992; TSKH. Lê Cảm: "Các dặc điểm của tội phạm và
týĩh quyết đinìì xã hội của cìumỳ', Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số 7/2000;
PGS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa: "Quyết định hừìh phạt trong Luật hình sư Việt Nam Một số vấn đê lý ỉìiậìi", Tạp chí TAND, số 1/1993; PGS.TS Kiều Đình Thụ: "Một
s ố vấn đẻ về phân loai tội phạm trong pìiần chung của ỉiiật ịủnh sự', Tạp chí
TAND, số 2/1992; TS. Võ Khánh Vinh: "Cân nhắc tính chất và mức độ nguy
hiểm cho xã hội cửa tội phạm khi quyết diììh hình phạt'', Tạp chí TAND, số
12/1990; TS. Trần Văn Độ: "Một s ố vấn để về tái tỉiam", "Vê các căn cư dổi mới
tổ chức và hoạt động của Tòa án các cấp", Tạp chí Luật học, số 3/1995 và
3/1997; TS. Phạm Hồng Hải: "Một s ố nét lịch sử và piiáí iriền của Luật tố tụng
htĩỉh sựViệt Nam troiiíỊ 50 năm qua", "Bàn về quyền công tố ', Tạp chí Nhà nước
và Pháp luật, số 3/1995 và 12/1999 và một số bài khác. Các công trình đã phân
tích ở nhiều khía cạnh khác nhau về tổ chức và hoạt động của TA, lịch sử phát
triển, thủ tục tố tụng trong xét xử, thẩm quyền xét xử.
Mặc dù đã có một số công trình, bài viết được công bố, nhung cho đến nay
chưa có một công trình khoa học nào nghiên
C iíu
toàn diện, hệ thống về thẩm quyền
của TA các cấp. Các công trình, bài viết mói dùng lại ở nhũng nội đung khác nhau,
phan tích theo từng góc độ nhất định về thẩm quyền của TA. Luận án là công
trìiih khoa học đầu tiên nghiên cứu toàn diện cả về cơ sở lý luận cũng như thực tiễn
vấn đề "Thẩm quyền của Tòa án các cấp theo Luật tô tụng hỉnh sự Việt Nam".
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của luận án
Trên cơ sở nghiên cứu các quy định của pháp luật TTHS, thực tiễn xét xử
cua TA, mục đích của luận án nhằm làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn, bản
5
chất, nội dung của chê định thẩm quyền của TA các cấp, chỉ ra nhũng điểm
không hợp lý, những vướng mắc khi áp dụng chúng, qưa đó đề xuất những giải
pháp hoàn thiên các quy định của BLTTHS về thẩm quyền của TA các cấp,
kiện toàn về tổ chức và cán bộ, tăng cường các biện pháp bảo đảm để thực hiện
thẩm quyền.
Để đạt được mục đích trên luận án có nhiệm vụ:
- Phân tích những vấn đề lý luận để làm rõ các
quan niệm,quan điểm
khoa học, nhận thức chung về thẩm quyền của TA trong TTHS; luận giải những
căn cứ để quy định thẩm quyền của TA. Đây là cơ sở khoa học để dựa vào đó
phân định thẩm quyền cho TA các cấp.
- Phân tích quá trình hình thành, phát triển các quy định của pháp luật
T lH S về thẩm quyền của TA các cấp trước khi ban hành BLTTHS làm tiền đề
cho việc nghiên cứu đánh giá các quy định của BƯÍTHS và các văn bản pháp
luật TTHS sau này.
- Phân tích các quv định của BLTTHS Việt Nam về thẩm quyền xét xử,
giới hạn, phạm vi xét xử, thẩm quyền quyết định của TA các cấp; làm rõ thực
tiễn áp dụng các quy định đó, chỉ ra nhũng vướng mắc trong quá trình thực hiện,
những bất cập của pháp luật cần bổ sung, sửa đổi.
- Đề xuất những giải pháp hoàn thiện và bảo đảm thực hiện các quy định
của BLTHS về thẩm quyền của TA các cấp.
4. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu của luận án
Thẩm quyền của TA là một chế định lớn trong luật TTHS. Tính phức tạp
và nhiều mặt về nội dung, về sự thể hiện của nó ở các giai đoạn xét xử không cho
phép trong phạm vi của một luận án tiến sĩ xem xét và giải quyết hết mọi vấn đề.
Do vậy, luận án chỉ dừng lại ở phạm vi nghiên cún nội dung thẩm quyền xét xử,
giới hạn và phạm vi xét xử, thẩm quyền quyết định của TA các cấp (riêns thẩm
quyền tái thám, luận án chỉ nghiên cứu nhũng nét khái quát nhất). Việc nghiên
6
cứu thẩm quyền: áp dụng biện pháp ngăn chặn; kháng nghị theo thủ tục giám
đốc thẩm, tái thẩm; xem xét chứng cứ và thẩm quyển xử lý hành chính của TA,
chúng tôi hy vọng được nghiên cứu tiếp về sau.
Với phạm vi trên, đối tượng nghiên cứu của đề tài là thẩm quyền xét xử,
giới hạn, phạm vi xét xử và thẩm quyền quyết định của TA các cấp, trong đó
luận án tập trung nghiên cứu nhiều hơn về thẩm quyền xét xử sơ thẩm vì nó là cơ
sở xác định thẩm quyền của TA các cấp.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu đề tài
Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cún của luận án là triết học Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, những quan điểm của
Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền về cải cách tư pháp và
cải cách nền hành chính quốc gia.
Việc nghiên cứu đề tài còn dựa vào thực tiễn xét xử của TA các cấp trên
cơ sở khảo sát nghiên cứu một số lượng lớn các vụ án do các TAND, Tòa án
Quân sự (TAQS) xét xử, các số liệu thống kê về xét xứ, về tổ chức cán bộ của các
cơ quan chức năng nhưTANDTC, VKSNDTC, Bộ Tư pháp v.v... để đánh giá, chỉ
rõ những bất cập trong các quy định của pháp luật để kiến nghị bổ sung, sửa đổi
cho phù hợp.
Phương pháp nghiên cứu đề tài cụ thể là đi từ cái chung đến cái riêng và
các phưưng pháp nghiên cứu khoa học pháp lý truyền thống khác như: Phương
pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, tiếp cận hệ thống, lịch sử, điều tra xã hội học
và phương pháp thống kê v.v...
6. Những vấn đề mới của luận án
Luận án là công trình chuyên khảo đầu tiên trong khoa học TTHS nghiên
cứu một cách toàn diện, hệ thống về thẩm quyền của TA các cấp. Luận án có
những điểm mới sau:
-
Luận án làm sáng tỏ cơ sở lý luận về thẩm quyền của TA; góp phan thống
nhất nhận íhức về nội dung, bản chất chế định thẩm quyền của TA. Luận án đã
7
luận giải những căn cứ khoa học làm cơ sở cho việc phân định thẩm quyền của
TA các cấp. Những căn cứ này giúp cho các nhà lập pháp có điều kiện lựa chọn,
cân nhắc để tìm ra phương án tối un khi quy định thẩm quyền cho TA các cấp.
- Luận án phân tích lịch sử hình thành và phát triển các quy định của pháp
luật TTHS về thẩm quyền của TA các cấp trước khi ban hành BLTTHS làm tiền
đề cho việc nghiên cứu đánh giá các quy định của BLTTHS và các văn bản pháp
luật TTHS sau này.
- Luận án phân tích các quy định của Bộ luật TTHS về thẩm quyền của TA
các cấp, đánh giá thực trạng áp dụng các quy định về thẩm quyền của TA khi xét
xử và chỉ ra những bất cập cần phải bổ sung, sửa đổi
Trên cơ sở nghiên cứu, luận án đề xuất những giải pháp hoàn thiện các
quy định của Bộ luật TTHS về thẩm quyền của TA, những biện pháp kiện toàn tổ
chức và cán bộ, bảo đảm cơ sở vật chất để các TA thực hiện thẩm quyền. Các
giải pháp mà luận án đưa ra góp phần quan trọng vào việc nâng cao năng lực của
TA các cấp và việc sửa đổi, bổ sung toàn diện BLTTHS trong thời gian tới.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Các kết quả nghiên cứu của luận án là những bổ sung quan trọng vào lý
luận về thẩm quyền của TA, góp phần thống nhất nhận thức về bản chất, nội
dung chế định thẩm quyền của TA. Trên cơ sở đó có cách nhìn nhận, đánh giá
khoa học thấy rõ những mặt được, những điểm còn tồn tại bất cập của các quy
định về thẩm quyền của TA trong pháp luật TTHS.
Dựa vào những căn cứ khoa học đề cập trong luận án, các nhà làm luật có
điều kiện cân nhắc để tìm ra một phương án tốt nhất khi sửa đổi, bổ sung các quy
định của BLTTHS về thẩm quyền của TA.
Bằng các kết quả nghiên cún, luận án góp phần khẳng định chủ trương,
quan điểm của Đảng về kiện toàn tổ chức, sắp xếp lại hệ thống TAND, phân định
hợp lý thẩm quyền của TA các cấp theo hướng từng bước mở rộng thẩm quyền
8
xét xử của TA cấp huyện trên cơ sở kiện toàn tổ chức và cán bộ để việc xét xử sơ
thẩm được thực hiện chủ yếu ở TA cấp này, TA cấp tỉnh chủ yếu xét xử phúc
thẩm, TANDTC chủ yếu xét xử giám đốc thẩm, tổng kết kinh nghiệm xét xử,
hướng dẫn các TA các địa phương áp dụng thống nhất pháp luật là hoàn toàn
đúng đắn, phù hợp với sự trưởng thành, phát triển của TA cấp huyện, phù hợp với
thực tiễn xét xử, yêu cầu của xã hội và pháp luật quốc tế.
Với những đề xuất, kiến nghị về sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp
luật, kiện toàn tổ chức và cán bộ, tăng cường các biện pháp bảo đảm thực hiện
thám quyền của TA, luận án có nhúng đóng góp nhất định vào cồng cuộc cải
cách tư pháp đang được thực hiện ở nước ta.
Luận án có thể được dùng làm tài liệu nghiên cứu, giảng dạy và học tập
trong các cơ sở đào tạo luật và nghề tư pháp.
8. Bõ cục của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận án được chia thành 3 chương, 8 mục.
9
Chươìig 1
MỘT SỐ VẤN ĐỂ CHUNG VỂ THAM QUYỀN
CỦA TÒA ÁN CÁC CẤP
1.1. KHÁI NIỆM THẨM QUYỂN CỬA TÒA ÁN
Từ thời kỳ cổ đại đã xuất hiện các quan niệm về Nhà nước pháp
quyền ở những nhà tư tưởng. Các quan niệm này được đưa ra để chống lại
sự mơ hồ ấu trĩ cho rằng sự công bằng, pháp luật là do trời định, lẽ phải bao
giờ cũng thuộc về kẻ mạnh... Họ mơ ước xây dựng một nhà nước gắn liền
với xã hội công dân mà ở đó bộ máy quyền lực được hình thành trên cơ sở
của luật, hoạt động trong khuôn khổ của pháp luật, các thành viên trong xã
hội hành động phù hợp với pháp luật; luật pháp là cơ sở cho việc phân công,
tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước. Để thực hiện được sự mơ ước đó,
các nhà tư tưởng kêu gọi mọi người phải đấu tranh loại bỏ chế độ nhà nước
độc đoán chuyên quyên, xây dựne Nhà nước có pháp luật. Nhà tư tưởng cổ
đại Hêraclit đã nói: "Nhân dân phải đấu tranh bảo vệ luật như bảo vệ chỗ
nư^ng thân của mình thể hiện sự tôn trọng luật" [90, tr. 6].
Cùng với việc tôn trọng tính tối cao của pháp luật, các nhà tư tưởng cổ đại
còn chú ý tới sự tổ chức hợp lý hệ thống quyền lực nhà nước, tổ chức các cơ quan
nha nước với sự phân định rõ ràng về thẩm quyền của các cơ quan đó. Theo họ
cẩn phải tổ chức nhà nước theo nguyên tắc phân quyền. Arixtôt cho rằng trong
bàì kỳ nhà nước nào cũng đều có ba vếu tố: lập pháp, hành pháp và tư pháp. Lập
phap là quyền của cơ quan làm ra luật, hành pháp là quyền thi hành pháp luật,
còn tư pháp chỉ thực hiện xét xử theo quy định của luật. Ông cho rằng ba yếu tố
trên tạo thành cơ sở của Nhà nước. Quan niệm của ông hoàn toàn đối lập với
cách tổ chức nhà nước mà quyền lực chỉ tập trung trong tay một người. Theo ông
cách tổ chức thực hiện quyền lực đó khó tránh khỏi sự lạm quyền và tùy tiện
trong quản lý và điều hành xã hội. Nhận xét về sự tùy tiện trong chế độ quân chủ
10
chuyên chế C.Mác đã viết: "Sự tùy tiện là quyền lực của nhà Vua" hay "quyền
lực của Vua là sự tùy tiện" [10, tr. 319]
Sau khi cuộc cách mạng tư sản nổ ra, giai cấp tư sản lên nắm chính quyền
thì một yêu cầu cấp bách đặt ra là tổ chức lại bộ máy nhà nước thay cho hình
thức quân chủ chuyên chế. Trước yêu cầu đó, nhà xã hội học ngưòi Pháp
Montesquieu thế kỷ XVIII đã nêu ra học thuyết "Tam quyền phân lập". Theo học
thuyết này thì quyền lực nhà nước phải được phân chia để quyền lực hạn chế
quyên lực. Mỗi một loại cơ quan nhà nước chỉ được thực hiện một loại quyền lực
(quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp) để chúng ràng buộc lãn nhau, không cho
phép cơ quan nào được lạm dụng quyền lực. Theo ông, "cũng không có gì là tự
do nếu quyền tư pháp không tách khỏi quyền lập pháp và quyền hành pháp. Nếu
quyền tư pháp nhập lại với quyền lập pháp thì người ta sẽ độc đoán với quyền
song và quyền tự do của công dân; tư pháp nhập với quyền hành pháp thì ông
quan tòa sẽ có cả sức mạnh của kẻ đàn áp" [44, tr. 101].
Học thuyết của Montesquieu về phân quyền có ảnh hưởng lón dẽn các
quan điểm về tổ chức nhà nước, quá trình lập hiến và thực tiễn pháp luật của
nhiểu nước tư sản. "Ảnh hưởng đó được thể hiện rõ nét trong Hiên pháp Mỹ năm
ỉ 787, trong tuyên ngôn của Pháp về quyền con người và của công dân năm 1789.
Đặc biệt, tuyên ngôn 1789 nêu rõ ở Điều 16: Một xã hội trong đố không bảo đảm
việc sử dụng các quyên và kìtông tlỉực hiện sự phân quyền thì không cỏ Hiến
pluỉp" [90, tr. 37]. Học thuyết về phân quyền được nhiều nhà tư tưởng và xã hội
học của chế độ tư sản ủng hộ. Kant (1724-1804) là người đã lập luận về mặt triết
học cho lý luận về Nhà nước pháp quyền cũng triệt để tán thành áp dụng thuyết
phân quyền. Theo ông thì ở đâu có sự phân quyền thì ở đó có Nhà nước pháp
quyền còn nếu không thì là chuyên quyền. Hegel cũng cho rằng tư tưởng về tự do
tồn tại dưới chính thể quân chủ lập hiến dựa trên cơ sở của nguyên tắc phân
quyền. Ông cho rằng, "sự phân quyền trong Nhà nước là sự bảo đảm của tự do
cống cộng" [90, tr. 14]. J.Locke (1632-1704) thì đưa ra tư tưởng về khế ước xã
11
hội ủng hộ thuyết phân quyền và nói về vai írò chủ đạo của quyền hành pháp
trong Nhà nước.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin trong khi xây dựng học
thuyết của mình về Nhà nước kiểu mới đã kế thừa những hạt nhân hợp lý của
các học thuyết chính trị và trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm đấu tranh giai
cấp để đưa ra quan điểm về tổ chức quyền lực nhà nước. Đó là quyền lực nhà
nước thống nhất, không phân chia và thuộc về nhân dân. Nhân dân trao
quyôn lực ấy cho cơ quan đại diện cao nhất của minh là Quốc hội như
V.I. Lênin đã nói: "Đó không phải là một cơ quan đại nghị, mà là một cơ
quan hành động, vừa lập pháp, vừa hành pháp... các nghị sĩ tự mình cộng tác,
tự mình thực hiện những pháp luật của mình, tự mình kiểm tra lấy tác dụng
của những pháp luật ấy, tự mình phải chịu trách nhiệm trực tiếp trước cử tri
của mình" [83, tr. 33]. Nhưng cơ quan quyền lực cao nhất của Nhà nước
khõng trực tiếp làm tất cả mà phân công cho các cơ quan nhà nước khác, mỗi
cợ quan có thẩm quyền hoạt động trong một lĩnh vực nhất định. Toàn bộ hoạt
động của các cơ quan đó đều nhằm thực hiện mội chu trình quản lý nhà nước,
trong đó cơ quan quyền lực (Quốc hội) có thẩm quyền tối cao thực hiện chức
năng lập pháp và giám sát tối cao, còn các cơ quan khác (Chính phủ, TA,
VKS) thực hiện chức năng hành pháp và tư pháp. Theo GS.TS Hoàng Văn Hảo
thì "sự phân công nói trên thể hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức
và hoạt động của bộ máy nhà nước tập quyền xã hội chủ nghĩa. Tập quyền
kháng mâu thuẫn với sự phân công và sự phân biệt chức năng giữa các loại cơ
quan nhà nước" [72, tr. 16]. PGS.TSKH Đào Trí ú c khẳng định:
Sự thống nhất đó không phải là sự tập trung quyền lực cao độ vào
một "nhánh" quyền lực nào theo kiểu phân lập quyền lực mà là sự thống
nhất ở mục tiêu chung là phục vụ lợi ích của nhân dân, của đất nước, cua
dân tộc... sự thống nhất là nền tảng, sự phân công và phối họp là phương
thức để đạt được
sự
thống nhất của quyền lực nhà nước [81, tr. 4-5].
12
Trong nhà nước pháp quyền, mỗi một loại cơ quan nhà nước có chức năng
nhiệm vụ riêng. Phạm vi hoạt động và quyền năng pháp lý của các cơ quan nhà
nước do pháp luật quy định được hiểu là thẩm quyền của cơ quan nhà nước đó.
Ph.Ảngghen viết: "Phân quyền xét cho cùng không phải là cái gì đó khác hơn là
phân công lao động thiết thực, được áp dụng trong cơ chế nhà nước nhằm mục
đích giản đơn và kiểm tra hoạt động của các cơ quan nhà nước" [72, tr. 11].
Theo định nghĩa của Từ điển Luật học thì "thẩm quyền" được hiểu là
'tổng hợp các quyền và nghĩa vụ hành động, quyết định của các cơ quan, tổ chức
thuộc hệ thống bộ máy nhà nước do pháp luật quy định" [75, tr. 459]. Khái niệm
'ihẩm quyền" gồm hai nội dung chính là quyền hành động và quyền quyết định.
Ọuyền hành động là quyền được làm những công việc nhất định, còn quyền
quyết định là quyền hạn giải quyết công việc đó trong phạm vi pháp luật cho
phép. Giáo trình Luật tố tụng hành chính Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2001
cũng định nghĩa: "Thẩm quyền là quyền hạn theo pháp luật quy định, của cơ
quan công quyền và công chức giữ chức vụ nhà nước nhất định [79, tr. 29]. Từ sự
phân tích trên, ta có thể hiểu thẩm quyền là tổng hợp các quyển mà pháp luật quy
định cho một tổ chức hoặc một cán bộ, công chức nhà nước được thực hiện công
việc trong các lĩnh vực và phạm vi nhất định.
Bộ máy nhà nước ta được tổ chức theo nguyên tắc quyền lực nhà nước là
thống nhất không phân chia, nhưng có phân công rành mạch giữa ba quyến lập
pháp, hành pháp và tư pháp. Quyền Tư pháp theo nghĩa rộng bao gồm cả điều tra,
truy tố, xét xử, thi hành án và bổ trợ tư pháp được giao cho các CQĐT, VKS, TA
thực hiện. Trong đó "TA là biểu hiện tập trung của quyền tư pháp - nơi mà kết
quả của hoạt động điều tra, công tố, bào chữa v.v. được kiểm tra, xem xét một
cách công khai thông qua thủ tục tố tụng do luật định để đưa ra những phán
quyết cuối cùng mang tính chất quyền lực nhà nước; nơi phản ánh một cách đầy
đủ và sâu sắc nhất bản chất nền công lý của chế độ ta..." [29, tr. 1]. GS.TS Hoàng
V ăn Hảo cho rằng: "TA là cơ quan xét xử, là chức năng trung tâm cua quyền tư
13
pháp" [91, tr. 117]. TA là cơ quan được Quốc hội phân công trực tiếp thực hiện
quyén tư pháp có chức năng xét xử để bảo vệ pháp luật, bảo đảm lẽ phải và công
bằng xã hội. Bởi vậy, quyền tư pháp theo nghĩa hẹp còn được hiểu là quyền xét
xử của TA. Thực hiện chức năng này, TA có thẩm quyền xét xử và nhân danh
Nhà nước để ra bản án giải quyết vụ án. Như vậy hoạt động xét xử của TA có vai
trò hết sức to lớn trong việc bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ Nhà nước, tập thể và
công dân tránh những xâm hại của tội phạm. PGS.TS Trần Ngọc Đường nhận
xét: "Hơn bất kỳ một dạng hoạt động nào của Nhà nước, hoạt động xét xử phản
ánh trực tiếp và sâu sắc bản chất của Nhà nước. Sai lầm của TA trong việc giải
quyết vụ án chính là sai lầm của Nhà nước. Vì thế đòi hỏi xét xử phải chính xác
cổng minh, thể hiện đuợc ý chí nguyện vọng của nhân dân" [72, tr. 103].
Việc nghiên cứu để đưa ra một khái niệm khoa học, chính xác về thẩm
quyền của TA có ý nghĩa quan trọng trong việc phân định quyền hạn thụ lý và giải
quyết từng vụ án cụ thể của TA các cấp. Khái niệm này cũng được đề cập trong
pháp luật của nhiều nước trên thế giới. Tuy cách hiểu có khác nhau nhung điểm
chung về thẩm quyền đều được các nước thừa nhận là quyền xét xử và quyền quyết
định của TA. Ở Pháp, thẩm quyền được hiểu là quyền của một cơ quan nhà nước,
một quan chức nhà nước hay tư pháp được làm nhũng việc và có quyền quyết
định về những vấn đề trong phạm vi được pháp luật cho phép. Theo Lemeunier,
tác giả cuốn từ điển pháp luật thì thẩm quyền của TA được hiểu là "khả năng của
một TA xem xét một vụ việc trong phạm vi pháp luật cho phép" [34, tr. 74].
Ở Anh, thuật ngữ Jurisdiction được dùng để chỉ thẩm quyền hoặc quyền
phán quyết về một vụ việc nào đó của TA trong phạm vi pháp luật cho phép.
Theo TS. Wolf Ruecliger Schenke, Giáo sư Trường Đại học Tổng hợp Mannheim Cộng hòa Liên bang Đức sau khi nghiên cún thẩm quyền của TA đã đặt vấn đề
là: "Đối với thẩm quyền của TA thì cần phân biệt sự khác nhau giữa thẩm quyền
vụ việc, địa điểm và thẩm quyền phẩm cấp" [20, tr. 227]. Ở nước ta thẩm quyền
của TA được hiểu theo những góc độ khác nhau tùy thuộc vào mục đích của việc
14
nghiên cứu. Chẳng hạn, trong tố tụng dân sự, thẩm quyền chung về dàn sự của
TA được hiểu là "tổng hợp các loại việc về dân sự mà TA có thẩm quyền thụ lý
giải quyết" [77, tr. 39]. Thẩm quyền chung về dân sự của TA phân biệt thẩm
quyền của TA với thẩm quyền của các cơ quan, tổ chức khác; phân biệt thẩm
quyền của TA trong việc giải quyết các loại việc về dân sự với thẩm quyền của
TA trong việc giải quyết các loại việc khác. Trong tố tụng kinh tế, thẩm quyền
giải quyết các vụ án kinh tế được hiểu là "quyền và nghĩa vụ của TA kinh tế
trong lĩnh vực giải quyết các tranh chấp kinh tế" [78, tr. 422]. Trong tố lụng hành
chính, thẩm quyền của TA là "phạm vi thực hiện quyền lực nhà nước của một
chủ thể (Tòa hành chính) để giải quyết những tranh chấp hành chính giũa một bên
là công dân và bên kia là cơ quan công quyền theo thủ tục tố tụng hành chính mà
pháp luật tố tụng hành chính đã quy định" [79, tr. 30]. Trong TTHS, ThS. Ngưyễn
Đức Mai cho rằng, thẩm quyền của TA là một thể thống nhất bao gồm hai yếu tố
co liên quan chặt chẽ với nhau đó là thẩm quyền về hình thức và thẩm quyền về
nọi dung. Thẩm quyền về hình thức được thể hiện ở quyền hạn xem xét và phạm
vi xem xét của TA (thẩm quyền xét xử và phạm vi xét xử), còn thẩm quyền về
nội dung thể hiện ở quyền hạn giải quyết, quyết định của TA đối với nhũng vấn
đề đã được xem xét [39, tr. 2]. ThS. Nguyễn Văn Tiến quan niệm phạm vi - giới
hạn hoạt động của TA và quyền năng pháp lý của TA có mối liên quan chặt chẽ
với nhau tạo thành thẩm quyền của TA. Thẩm quyền của TA bao gồm: thẩm quyền
xét xử, phạm vi - giới hạn xét xử và quyền hạn quyết định của TA [71, tr. 8]. Khi
nghiên cứu thẩm quyền giám đốc thẩm các vụ án hình sự, TS. Nguyễn Văn Hiện
đưa ra khái niệm thẩm quyền giám đốc thẩm là:
Tập hợp các quy phạm pháp luật TTHS liên quan đến việc giao
vụ án mà bản án có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị cho TA cấp nào
giải quyết, phạm vi các vấn đề cần giải quyết và quyền ra các quyết
định của TA cấp giám đốc thẩm trong quá trình giải quyết vụ án nhằm
đạt được yêu cầu và mục đích của giám đốc thẩm [27, tr. 1].
15
Dưới một góc độ chung hơn, Từ điển tiếng Việt định nghĩa thẩm quyền
của TA là "quyền xem xét để kết luận và định đoạt một vấn đề theo pháp
luật" [86, tr. 890]
Như vậy, thẩm quyền của TA là một khái niệm có nội dung rất rộng bao
gồm nhiều quyền của TA khi giải quyết vụ án. Đó là quyền xét xử đối với tùng
vụ án cụ thể, trong một phạm vi (giới hạn) do pháp luật quy định (gọi là thẩm
quycn xét xử), là quyền ra các quyết định khi xét xử vụ án (gọi là thẩm quyền
quyết định hay quyền hạn của TA). Thẩm quyền quyết định hay quyền hạn là
một nội dung quan trọng của thẩm quyền. Nói đến thẩm quyền của TA không
thể không đề cập đến quyền hạn. Thiếu nội dung quyền hạn thì quyền xél xử của
T a cũng trở thành vô nghĩa. TA xét xử nhưng không có quyền ra các quyết định
cụ thể thì vụ án chưa được giải quyết. Theo định nghĩa của Từ điển Tiếng Việt thì
quyền hạn là "quyền được xác định về nội dung, phạm vi, mức độ" [86, tr. 786]
Từ điển Pháp luật cũng định nghĩa, quyền hạn là "quyền được xác định lại trong
phạm vi không gian, thời gian, lĩnh vực hoạt động" [75, tr. 402]. Các đinh nghĩa
trên đều xác định nội dung quyền hạn của TA chỉ trong nhũng phạm vi, mức độ
do pháp luật quy định. Ớ các thủ tục xét xử khác nhau, phạm vi, mức độ quyền
hạn của TA cũng khác nhau và được gọi là phạm vi xét xử và giới hạn xét xử.
Theo Từ điển Tiếng Việt thì "giới hạn" là sự hạn chế trong một mức độ nhất
định, là ranh giới phải dừng lại không được phép vượt qua còn "phạm vi" là lĩnh
vực được giới hạn cho một hành động, sự việc [86, tr. 390-738]. Trong TTHS
khái niệm "phạm vi xét xử" được dùng khi xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái
thẩm để giới hạn TA cấp phúc thẩm, Hội đồng giám đốc thẩm, tái thẩm chỉ xét
xử những vấn đề đã được TA cấp dưới xét xử (có thể toàn bộ hoặc tùng phần của
vụ án); còn "giới hạn xét xử" dùng để hạn chế TA cấp sơ thẩm chỉ được xét xử
trong nội dung bản cáo trạng do VKS truy tố. Xác định đúng quyền xét xử của
TA Irong giới hạn và phạm vi pháp luật cho phép sẽ tạo điều kiện thuận lợi để
TA thực hiện quyền quyết định đối với các vấn đề cụ thể của vụ án. Thẩm quyền
16
xét xử và thẩm quyền quyết định của TA là hai nội dung quan trọng có mối liên
hệ mật thiết với nhau tạo thành thẩm quyền của TA. Có thể nghiên cứu thẩm
quyền của TA theo hai góc độ khác nhau: góc độ hành chính và góc độ tố tụng.
Dưới góc độ hành chính nghiên cứu thẩm quyền của TA theo cách tổ chức hệ
thống TA bao gồm: Thẩm quyền của TANDTC, thẩm quyền của TAND cấp
tỉnh, thẩm quyền của TAND cấp huyện và thẩm quyền các TAQS. Dưới góc độ
tố tụng nghiên cứu thẩm quyền của TA theo cấp xét xử bao gồm: thẩm quyền
của TA cấp sơ thẩm, thẩm quyền của TA cấp phúc thẩm và thẩm quyền giám
đốc thẩm, tái thẩm. Theo góc độ hành chính, nếu chỉ nghiên cứu thẩm quyền
xél xử của TA các cấp sẽ rất thuận lợi, nhung nghiên cứu cả thẩm quyền quyết
định của TA khi xét xử lại khó khăn vì BLTTHS chỉ quy định quyền hạn của
HĐXX sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm mà không quy định quyền
hạn khi xét xử cho TAND cấp huyện, TAND cấp tỉnh, TANDTC hoặc TAQS.
Còn dưới góc độ tố tụng sẽ có điều kiện làm rõ cả thẩm quyền xét xử và thẩm
quyền quyết định của TA các cấp. Một mặt phân biệt được thẩm quyền xét xử
sơ thẩm giữa TAND cấp tỉnh với TAND cấp huyện, giữa TAQS cấp quân khu
với TAQS khu vực; phân biệt thẩm quyền xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái
thẩm giữa TAND cấp tỉnh với TANDTC, giữa TAQS cấp quân khu với Tòa án
qmìn sự trung ương (TAQSTW). Mặt khác, cũng làm rõ được thẩm quyền quyết
định của từng cấp xét xử, theo đó các TA khác nhau nhung xét xư một thủ tục
giống nhau đều có thẩm quyền quyết định như nhau. Như vậy, dưới góc độ tố
tụng thì sẽ có điều kiện nghiên cứu toàn diện cả thẩm quyền xét xử và thẩm
quyền quyết định của TA nên luận án nghiên cứu thẩm quyền của TA theo góc
độ này.
1.1.1. Thẩm quyền xét xử
Điều 127 Hiến pháp 1992 và Điều 1 Luật Tổ chức TA năm 1992 quy định
TANDTC, các TAND địa phương, các TAQS và các TA khác do luật định là
những cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Theo quy
17
định của pháp luật thì chỉ có TA mới có thẩm quyền xét xử các vụ án mà không
một cơ quan nhà nước nào có được quyền này. Để bảo đảm cho TA thực hiện tốt
chức năng xét xử, Nhà nước trao cho TA nhiều quyền năng pháp lý, theo đó giải
quyết các vụ án hình sự, dân sự, kinh tế, lao động, hành chính đều thuộc thẩm
quycn của TA.
Trong lĩnh vực hình sự, thẩm quyền xét xử của các TA ở mỗi quốc gia
cũng có sự quy định khác nhau tùy thuộc vào nhiều yếu tố như hệ thống pháp
luật nói chung và luật vật chất (luật hình sự) nói riêng, bộ máy tổ chức của các cơ
quan tư pháp, năng lực Thẩm phán, điều kiện kinh tế - xã hội. Qua tìm hiểu pháp
luật của một số nước thuộc hệ thống pháp luật châu Âu lục địa và hệ thống luật
án lệ thì thấy các TA được tổ chức theo cấp xét xử: TA cấp sơ thẩm, TA cấp phúc
thẩm và TA tối cao. Tương ứng với các cấp xét xử đó luật quy định thẩm quyền
xet xử cho từng cấp TA. Ví dụ: ở nước Pháp hệ thống TA được tổ chức thành TA
cfp sơ thẩm (Tòa vi cảnh) có thẩm quyền xét xử các vụ tiểu hình, TA cấp sơ
ihẩm (Tòa Hình sự hoặc Tòa cải tạo) có thẩm quyền xét xử các vụ án hình sự về
lội íl nghiêm trọng và có thể xử phạt mức án đen 5 năm tù, TA cấp sơ thẩm (Tòa
đại hình) có thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự về tội phạm nghiêm
trọng và tuyên hình phạt đến tù chung thân, TA cấp phúc thẩm (các Tòa phúc
thẩm) có thẩm quyền xét xử các vụ án của TA cấp dưới bị kháng cáo hoặc kháng
nghị, TA cấp phúc thẩm (Tòa Thượng thẩm - Tòa phúc thẩm tối cao) có thẩm quyền
làm vô hiệu bản án đã có hiệu lực pháp luật khi TA cấp dưới sai lầm trong việc áp
dụng pháp luật. Ở nước Anh hệ thống TA gồm có: TA cấp sơ thẩm (Tòa vi cảnh)
xét xử các tội phạm ít nghiêm trọng, TA cấp sơ thẩm (TA Hoàng gia) xét xử các
tội phạm nghiêm trọng, TA cấp phúc thẩm (TA phúc thẩm) xét xử phúc thẩm tất cả
các vụ án đã xét xử sơ thẩm nhưng bị kháng cáo, kháng nghị, TA cấp phúc thẩm
(TA tối cao) xét xử các vụ án bị kháng cáo vì có sai lầm trong việc áp dụng pháp
luật, ở Nigeria hệ thống TA bao gồm TA tối cao liên bang, TA liên bang khác và
hệ thống của TA bang. Thấm quyền xét xử cũng được phân định rõ cho các TA
tLfjng ứng: các Tòa vi cảnh, Tòa phúc thẩm liên bang và TA tối cao [89, tr. 207-217].
TRUNG TÂM THÔNG TIN THƯ V
TRƯỜNG ĐAI HỌC LUÂT HÀ f/V ị
PHÒNG D Ọ C -blỉù
18
ở nước ta các TA được tổ chức theo đơn vị hành chính lãnh thổ, các TAND cấp
huyện và TAQS khu vực (gọi chung là TA cấp huyện) chỉ có thẩm quyền xét xử
sơ thẩm còn các TAND cấp tỉnh và TAQS cấp quân khu (gọi chung là TA cấp tỉnh)
và TA tối cao vừa có thẩm quyền xét xử sơ thẩm vừa có thẩm quyền xét xử phúc
thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm. Theo Từ điển Luật học thì thẩm quyền xét xử là
"sự phân định thẩm quyền xét xử các vụ án giữa các TA với nhau" [75, tr. 459].
Nghiên cứu về thẩm quyền xét xử của TA các cấp theo luật TTHS của nước ta và
một số nước trên thế giới thì thấy tuy có sự quy định khác nhau nhưng pháp luật
các nước đều có điểm chung là dựa vào một số dấu hiệu của vụ án để phân định
thẩm quyền xét xử. Đó ỉà dâu hiệu về tính nghiêm trọng, phức tạp của tội phạm,
đìa điểm phạm tội và người thực hiện tội phạm. Muốn xác định một vụ án xảy ra
có thuộc thẩm quyền xét xử của một TA hay không phải xem xét đến các dấu
hiệu này. Chỉ trên cơ sở xem xét từng dấu hiệu mới có thể xác định thẩm quyền
xét xử được chính xác.
Khi đã xác định chính xác thẩm quyền xét xử sơ thẩm thì có thể dễ dàng
xác định được thắm quyền xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm. Vì xét xử theo các
thủ tục này đều do các TA cấp trên của TA cấp sơ thẩm thực hiện. Xét ở một góc
độ khác, khi VKS đã truy tố bị cáo trước TA và xét thấy có đủ căn cứ để xét xử
thì vụ án được xét xử sơ thẩm, nhưng chưa hẳn vụ án này sẽ được xét xử theo thủ
tục phúc thẩm và giám đốc thẩm. Việc xét xử theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc
thẩm, tái thẩm chỉ đặt ra khi có kháng cáo, kháng nghị yêu cầu. Xét xử theo thủ
tục phúc thẩm, nhất là thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm gọn nhẹ hơn, một số thủ
tục ở cấp sơ thẩm được lược bỏ.
Vì vậy, muốn xác định thẩm quyền của TA các cấp, trước hết phải xác
định thẩm quyền xét xử sơ thẩm. Thẩm quyền xét xử sơ thẩm là cơ sở để xác
định thẩm quyền của TA các cấp.
Để thuận tiện cho việc nghiên cứu, trong khoa học luật TTHS thẩm quyền
xét xử thường được phân loại. Việc phân loại giúp cho người áp dụng pháp luật
19
xác định đúng thẩm quyền của TA. Có nhiều cách phân loại dựa trên những căn
cứ và mục đích nghiên cứu khác nhau. Đối với nhũng người áp dụng pháp luật thì
cách phân loại sau đây nhằm phân biệt rõ thẩm quyền xét xử của TA các cấp là
phổ biến nhất:
- Dựa vào tính chất nghiêm trọng, phức tạp của tội phạm để phân biệt
thẩm quyền của TA cấp huyện với TA cấp tỉnh, thẩm quyền của TAQS khu vực
với TAQS quân khu.
- Dựa vào địa điểm hoặc không gian thực hiện tội phạm, thực hiện hành vi
ĩố tụng để phân biệt thẩm quyền xét xử của các TA cùng cấp (TA huyện này với
huyện khác, tỉnh này với tỉnh khác). Trong trường hợp có bị cáo phạm iội ở nước
nịỊoài nếu xét xử ờ Việt Nam thì cách phân loại này cũng là căn cứ để phân biệt
thẩm quyền xét xử cua TA các cấp.
- Dựa vào người thực hiện tội phạm để phân biệt thẩm quyền xét xử giũa
TAQS và TAND, giữa TAQS các cấp với nhau và xác định thẩm quyền của
TA đặc biệt.
1.1.2. Thẩm quyền quyết định của Tòa án các cấp
Dựa vào những quy định của pháp luật về thẩm quyền xét xử, có thể xác
định một vụ án xảy ra thuộc thẩm quyền của TA nào; nếu có tranh chấp thì căn
cứ các dấu hiệu về sự việc, lãnh thổ và người thực hiện tội phạm để xác định
thẩm quyền xét xử. Nhưng chỉ có quy định về thẩm quyền xét xử, các TA sẽ gặp
khó khăn khi phải quyết định những vấn đề cụ thể trong quá trình giải quyết vụ
án. Cùng với việc quy định thẩm quyền xét xử, Nhà nước giao nhũng quyền năng
(quyền quyết định) cho TA các cấp. Các TA sử dụng nhũng quyền này để ra các
phán quyết khi xét xử. Nhưng thẩm quyền ra quyết định không phải là vô hạn,
các TA chỉ xem xét và quyết định nhũng vấn đề trong giới hạn, phạm vi pháp
luật cho phép. Thẩm quyền quyết định của TA bao gồm:
20
a) Thẩm quyền quyết đinh dối với lịliữniỊ vấn đê vê nội chiìtẹ vụ án
Thẩm quyền này được TA thực hiện sau khi xét xử vụ án. Ớ thủ tục xét xử
sơ thẩm, TA ra bản án giải quyết mọi vấn đề của vụ án như: Quyết định bị cáo
phạm tội hay không phạm tội (nếu bị cáo phạm tội thì phạm tội gì, theo điều
khoản nào của BLHS, nếu bị cáo không phạm tội thì ra bản án tuyên bố bị cáo vô
tội); quyết định miễn trách nhiệm hình sự hoặc hình phạt; quyết định áp dụng
hình phạt đối với bị cáo; quyết định xử lý vật chứng; quyết định bồi thường thiệt hại;
TA cũng có thể ra quyết định đình chỉ vụ án nếu có căn cứ do luật quy định.
ở thủ tục phúc thẩm, TA xét xử trên cơ sở kháng cáo, kháng nghị đối với
ban an sơ thẩm, chỉ trong những trường hợp cần thiết TA cấp phúc Ihẩm mới xem
xét những phần khác của bản án không bị kháng cáo, kháng nghị. Vì không phải
VI1 án nào cũng yêu cầu xem xét lại mọi vấn đề mà TA cấp sơ thẩm đã giải quyết
nên TA cấp phúc thẩm cũng không có quyền quyết định về mọi vấn đề của vụ án
nhir khi xét xử sơ thẩm. Khi xét xử, TA cấp phúc thẩm có quyền quyết định:
Không chấp nhận kháng cáo, kháng nghị và giữ nguyên bản án sơ thẩm; sửa bản
án sơ thẩm; hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại hoặc xét xử lại; hủy bản án sơ
thẩm và đình chỉ vụ án.
ở thủ tục giám đốc thẩm, Hội đồng giám đốc thẩm xét lại bản án và quyết
địrih đã có hiệu lực pháp luật nhung bị kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp
luật trong việc xử lý vụ án. Với mục đích bảo đảm cho việc xét xử được chính
xác, xét xử giám đốc thẩm kiểm tra tính hợp pháp của các bản án, quyết định đã
có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị. Do đó, Hội đồng giám đốc thẩm phải xem
xét và quyết định những vấn đề mà kháng nghị yêu cầu. Đối với nhũng phần của
vụ án không bị kháng nghị nhung có liên quan đến kháng nghị, Hội đổng giám
đốc ihẩm cũng phải xem xét vì xét xử giám đốc thẩm là một hoạt động của giám
đốc xét xử nên có trách nhiệm xem xét toàn bộ vụ án. Khi xét xử, Hội đông giám
đốc thẩm có quyền ra các quyết định: Không chấp nhận kháng nghị và giữ
nguyên bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật; hủy bản án hoặc quyết