Tải bản đầy đủ (.pdf) (202 trang)

Sự hình thành và phát triển của luật đầu tư nước ngoài trong hệ thống pháp luật việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (20.91 MB, 202 trang )

ar*


B ộ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ T ư PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

Đ ỗ NHẤT HOÀNG

Sự HỈNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
CỦA LUẬT ĐẦU Tư NƯỚC NGOÀI
TRONG HỆ THỐNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM
m

■a

m

Chuyên ngành : Lý luận Nhà nước và Pháp luật

Mã số

: 5.05.01

1

:

I T 3 ƯƠNG Í.-.H



T

l i .'.át

-

H/VNỌI

ĩhưvíện; giỊ d v



'ị___o < ^ 6
LUẬN ÁN TIẾN S ĩ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Hà Hùng Cường
TS. Trần Ngọc Dũng

HÀ NỘI - 2002


LỜI CAM Đ O A N

T ôi xin cam đoan đây là công trình
nghiên cứii của riêng tôi. Các sô' liệu nêu
trong luận án là trung thực. N hững kết luận
khoa học của luận án chưa từng được ai
công b ố trong bất kỳ công trình nào khác.


TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Đỗ Nhất Hoàng


MỤC LỤC
Trangõ
MỞ ĐẦU

1

Chương 1: MỘT s ố VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỂ s ự HÌNH THÀNH VÀ

7

PHÁT TRIỂN PHÁP LUẬT ĐẦU T ư NƯỚC NGOÀI TẠI
VIỆT NAM

1.1.

Sự cần thiết phải có pháp luật đầu tư nước ngoài trong hộ

7

thống pháp luật Việt Nam
1.2.

Khái niệm và đặc trưng cơ bản của pháp luật đầu tư nước ngoài

13


tại Việt Nam
1.3.

Vai trò của pháp luật đầu tư nước ngoài

39

1.4.

Mối quan hệ của pháp luật đầu tư nước ngoài với các đạo luật

54

thuộc những ngành luật khác trong hệ thống pháp luật Việt Nam
Chương 2: s ự HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA PHÁP LUẬT

67

ĐẰU TƯ NUỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM

2.1. \ Sự hình thành và phát triển của pháp luật đầu tư nước ngoài tại

67

Việt Nam qua các giai đoạn lịch sử
2.2.

Sự hình thành và phát triển của một số .chế định pháp lý chủ yếu


93

của pháp luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
2.3. . Đánh giá, nhận xét về sự hình thành và phát triển của pháp

127

luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam

Chương 3: x u HƯỚNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP

137

LUẬT ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM

3.1.

Các nguyên tắc tiếp tục hoàn thiện pháp luật đầu tư nước ngoài

137

tại Việt Nam
3.2.

Xu hướng và các giải pháp tiếp tục hoàn thiện pháp luật đầu tư

151

nước ngoài tại Việt Nam
KẾT LUẬN


185

NHỮNG CÔNG TRÌNH LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ĐÃ ĐƯỢC CÔNG Bố

188

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

189


NHỮNG T ừ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN

1.

APEC

: Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương

2.

AFTA

: Khu vực mậu dịch tự do ASEAN

3.

AIA


: Hiệp định về khu vực đầu tư ASEAN

4.

AICO

: Chương trình hợp tác công nghiệp ASEAN

5.

ASEAN

: Hiệp hội các nước Đông Nam Á

6.

ASEM

: Diễn đàn hợp tác kinh tế Á - Â u

7.

CNH, HĐH

: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

8.

XHCN


: Xã hội chủ nghĩa

9.

UBND

: ủ y ban nhân dân

10. WTO

: Tổ chức thương mại thế giới


1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, sự nghiệp đổi
mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã giành được những thắng lợi quan
trọng trên nhiều lĩnh vực. Đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của đất
nước đã có nhiều khởi sắc, được nhân dân ta và quốc tế đánh giá cao.
Chủ trương hợp tác đầu tư với nước ngoài nhầm tranh thủ vốn, công
nghệ, kinh nghiệm quản lý và thị trường thế giới phục vụ sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) đã được xác định và cụ thể hóa trong
các văn kiện của Đảng. Thể chế hóa chủ trương của Đảng, Luật Đầu tư nước
ngoài tại Việt Nam được ban hành năm 1987, mở đầu cho việc thu hút có
hiệu quả và sử dụng nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài theo phương châm
đa dạng hóa, đa phương hóa các quan hệ kinh tế đối ngoại, góp phần thực
hiện chủ trương phát huy nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế.

Trong gần mười lăm năm qua, đầu tư trực tiếp nước ngoài đã đạt được
những thành tựu quan trọng, đóng góp ngày càng lớn vào tăng trưởng kinh tế,
thúc đẩy việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH, mở rộng thị
trường xuất khẩu, tạo việc làm và tăng nguồn thu cho ngân sách Nhà nước.
Khu vực các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước neoài là một bộ phận của nền
kinh tế đang kinh doanh năng động, hiệu quả, tạo ra nhiều sản phẩm có hàm
lượng trí tuệ và chất lượng cao, tạo thêm thế và lực cho Việt Nam chủ động
hội nhập với kinh tế khu vực và thế giới.
Trong các thành tựu nói trèn, pháp luật đầu tư nước ngoài có sự đóng
góp to lớn. Pháp luật đầu tư nước ngoài đã tạo dựng được khung pháp lý cơ
bản, điều chỉnh hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài phù hợp với đường lối,
chính sách của Đảng về mở cừa và hội nhập kinh tế quốc tế, đáp ứng về cơ


2

bản yêu cầu của thực tiễn, ngày càng phù hợp hơn với thôns lệ quốc tế và có
sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài.
Tuy nhiên, nhu cầu tiếp tục đổi mới toàn diện nền kinh tế, đẩy mạnh
CNH, HĐH, chủ động hội nhập quốc tế trong giai đoạn mới đã và đang đặt ra
nhiệm vụ phải tiếp tục hoàn thiện pháp luật đầu tư nước nsoài hiện hành. Bên
cạnh đó, chính sách nhất quán thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt
Nam đã được khẳng định lại tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của
Đảng: "Tiếp tục chính sách mở cửa và chủ động hội nhập kinh tế để phát
triển" [27, tr. 330].
Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài "Sự hình thành và phát triển của Luật
Đầu tư nước ngoài trong hệ thống pháp luật Việt N a m " hiện nay mang tính
cấp thiết, không những về lý luận, mà còn là đòi hỏi của thực tiễn nhằm nâng
cao hiệu quả hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam. Thuật ngữ
"Luật Đầu tư nước ngoài" trong luận án này được hiểu là pháp luật đầu tư

nước ngoài, trong đó đạo luật về đầu tư nước ngoài (năm 1987 và năm 1996)
là vãn bản pháp lý quan trọng nhất.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong thời gian qua, một số tác giả đã có các công trình nghiên cứu về
Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, như: tác giả Hoàng Phước Hiệp có
Luận án Tiến sĩ luật học năm 1996 về "Cơ c h ế điều chỉnh pháp luật trong
lĩnh vực đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt N am 4, tác giả Lê Mạnh Tuấn có
Luận án Tiến sĩ luật học năm 1996 về "Cơ sở khoa học của việc hoàn thiện
khung pháp luật đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam; tác giả Nguyễn
Hải Hà có Luận án Tiến sĩ luật học năm 2000 tại Pháp về "Luật Đầu tư nước
ngoài tại Việt Nam; Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho in tập bài giảng năm 2000:
Những vấn đề cơ bản về quản lý đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam; Bộ
Tư pháp có Dự án VIE/94-03 năm 1998 - Tập II - Phần I: Pháp luật về các
loại hình doanh nghiệp, trong đó có doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài;


3

Bộ Kế hoạch và Đầu tư có Dự án VIE/97-016 năm 1997: Tăng cường môi
trường pháp lý cho hoạt động kinh doanh, trong đó có đề tài nhánh về doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài...
Tuy nhiên, các công trình nói trên chỉ đề cập đến khía cạnh cơ chế
điều chỉnh pháp luật đầu tư nước ngoài, pháp luật đầu tư nước ngoài hoặc
quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt
Nam... Chưa có công trình nào nghiên cứu một cách có hệ thống, toàn diện về
sự hình thành và phát triển của Luật Đầu tư nước ngoài trong hệ thống pháp
luật Việt Nam.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
Mục đích nghiên cứu của luận án
Mục đích của luận án là trên cơ sở nghiên cứu một cách có hệ thống

sự hình thành và phát triển của pháp luật đầu tư nước ngoài, đánh giá đúng
thực trạng, dự báo xu hướng phát triển và kiến nghị phương hướng, nội dung
hoàn thiện pháp luật đầu tư nước ngoài trong hệ thống pháp luật Việt Nam
thời gian tới.
Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
Để đạt được mục đích trên, việc nghiên cứu luận án có các nhiệm vụ sau:
- Làm sáng tỏ các khái niệm: Đầu tư nước ngoài, pháp luật đầu tư
nước ngoài tại Việt Nam; đặc điểm của pháp luật đầu tư nước ngoài và vai trò,
vị trí của nó trong hệ thống pháp luật Việt Nam.
- Phàn tích, làm rõ sự hình thành và phát triển của pháp luật đầu tư
nước ngoài qua từng thời kỳ lịch sử; đánh giá thực trạng của pháp luật đầu tư
nước ngoài về cả ưu điểm và hạn chế.
- Dự báo xu hướng phát triển của pháp luật đầu tư nước ngoài và từ đó,
kiến nghị các giải pháp hoàn thiện pháp luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.


4

Đòi tượng nghiên cứu của luận án
Luận án nghiên cứu sự hình thành và phát triển của pháp luật đầu tư
nước ngoài trong hệ thống pháp luật Việt Nam.
Phạm vỉ nghiên cứu của luận án
-

Đề tài được nghiên cứu dưới góc độ lý luận chung về Nhà nước và

pháp luật. Thuật ngữ "Luật Đầu tư nước ngoài" được hiểu theo nghĩa rộng
gồm ba bộ phận: thứ nhất, đạo luật về đầu tư trực tiếp nước ngoài (được Quốc
hội ban hành năm 1987 và 1996 cũng như các đạo luật sửa đổi, bổ sung hai
đạo luật này) và các vãn bản trực tiếp hướng dẫn thi hành; thứ hai, các chế

định điều chỉnh hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài được quy định trong
các đạo luật khác như chế định phá sản trong Luật Phá sản doanh nghiệp, chế
định lao động trong Bộ luật Lao động...; thứ ba, các điều ước quốc tế mà Việt
nam ký kết hoặc gia nhập điều chỉnh hoạt động đầu tư trực tiếp nước nsoài tại
Việt Nam.
Về thời gian, luận án nghièn cứu những vấn đề về đầu tư trực tiếp
nước ngoài từ năm 1975 đến nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của luận án là quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng ta về xây dựng Nhà nước và pháp luật,
đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về mở cửa, hội nhập kinh tế
quốc tế trong nền kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định
hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở nước ta; những thành tựu của các khoa
học: triết học, kinh tế học, luật học và đặc biệt của khoa học quan hệ kinh tế
quốc tế...
Luận án được trình bày dựa trên cơ sờ nghiên cứu các Chỉ thị, Nghị
quyết của Đảng về đầu tư nước ngoài, các văn bản pháp luật đầu tư nước
ngoài của Nhà nước, các báo cáo tổng kết về tình hình đầu tư trực tiếp nước


5

ngoài tại Việt Nam của Chính phủ và các cơ quan của Chính phủ; các công
trình nghiên cứu về pháp luật đầu tư nước ngoài của các nước trong khu vực
và trên thế giới.
Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
của triết học Mác - Lênin, luận án sử dụng các phương pháp phân tích, tổng
hợp, hệ thống, so sánh pháp luật, dự báo để nghiên cứu những vấn đề đầu tư
trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam trong thời gian qua.
5. Những đóng góp mới của luận án

Đây là luận án Tiến sĩ luật học đầu tiên ở Việt Nam nghiên cứu một
cách toàn diện và có hệ thống về sự hình thành và phát triển của pháp luật đầu
tư nước ngoài trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Trên cơ sở đó, tác giả dự
báo xu hướng phát triển và kiến nghị phương hướng, nội dung hoàn thiện
pháp luật đầu tư nước ngoài hiện hành. Có thể xem những nội dung sau đây là
những đóng góp mới của luận án:
1. Làm sáng tỏ khái niệm, đặc điểm của pháp luật đầu tư nước ngoài ở
Việt Nam và vai trò, vị trí của nó trong hệ thống pháp luật Việt Nam.
2. Trình bày quá trình hình thành và phát triển của pháp luật đầu tư
nước ngoài tại Việt Nam qua các giai đoạn lịch sử từ năm 1975 đến nay.
3. Đánh giá thực trạng của pháp luật đầu tư nước ngoài hiện hành xét
trong tổng thể hệ thống pháp luật Việt Nam, phân tích những ưu điểm và hạn
chế của nó và dự báo xu hướng phát triển của pháp luật đầu tư nước ngoài.
4. Đề cập các nguyên tắc hoàn thiện pháp luật đầu tư nước ngoài,
đồng thời dự báo lộ trình và nội dung hoàn thiện pháp luật đầu tư nước ngoài
trong thời gian tới.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Thông qua những kết quả nghiên cứu và kiến nghị của luận án, tác giả
mong muốn đóng góp phần nhỏ bé của mình vào sự phát triển của kho tàng lý


6

luận và thực tiễn về hoạt độns đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam nói
chung và pháp luật đầu tư nước ngoài nói riêng. Với việc dự báo xu hướng và
đề xuất các giải pháp phát triển pháp luật đầu tư nước ngoài hiện hành, tác giả
hy vọng sẽ góp phần làm sáng tỏ cơ sở khoa học cho việc đổi mới pháp luật
đầu tư nước ngoài trong khuôn khổ đổi mới hệ thống pháp luật nói chung của
Việt Nam, theo hướng tạo môi trường đầu tư thông thoáng, hấp dẫn hơn đối
với các nhà đầu tư nước ngoài, tạo sức cạnh tranh cao hơn trong việc thu hút

đầu tư trực tiếp nước ngoài so với các nước trong khu vực. Vì vậy, luận án có
thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong việc nghiên cứu, giảng dạy về
lý luận pháp luật đầu tư nước ngoài cũng như đào tạo cán bộ chuyên ngành về
pháp luật đầu tư nước ngoài thuộc các ngành Kế hoạch và Đầu tư, Tư pháp,
Tài chính, Địa chính, Hải quan, Thương mại...
7. Kết cấu của luận án
Luận án gồm 187 trang. Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài
liệu tham khảo, luận án có 3 chương, 9 mục.


7

Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỂ LÝ LUẬN VỂ s ự HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
PHÁP LUẬT ĐẦU T ư NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM

1.1. S ự CẦN THIẾT PHẢI CÓ PHÁP LUẬT ĐẦU T ư NƯỚC NGOÀI
TRONG HỆ THỐNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM

1.1.1. Tính tất yếu khách quan của việc thu hút đầu tư nước ngoài
Trong lịch sử thế giới, đầu tư trực tiếp nước ngoài đã xuất hiện từ thế
kỷ thứ XVI. Các nước tư bản phát triển nhất thời kỳ đó như Anh, Hà Lan, Tây
Ban Nha, Bồ Đào Nha đã đầu tư vốn vào các nước châu Á, châu Phi... để mở
đồn điền, lchai thác khoáng sản, cung cấp nguyên liệu cho các ngành công
nghiệp ở chính quốc. Chủ nghĩa tư bản càng phát triển thì hoạt động đầu tư
trực tiếp nước ngoài của các nước công nghiệp phát triển ngày càng có phạm
vi, quy mô lớn hơn với những hình thức ngày càng phong phú hơn.
Trong thế kỷ thứ XIX, các nước tư bản phát triển đã tích lũy được
những khoản tư bản khổng lổ. Đó là tiền đề quan trọng cho việc xuất khẩu tư
bản. Theo nhận định của V.I. Lênin trong tác phẩm "Chủ nghĩa đế quốc - Giai

đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản", thì xuất khẩu tư bản là một trong nãm
đặc điểm kinh tế của chủ nghĩa tư bản hiện đại, tức chủ nghĩa tư bản độc
quyền. V.I. Lênin cho rằng, "chủ nghĩa tư bản tăng thêm lợi nhuận bằng cách
xuất khẩu tư bản ra nước ngoài vào những nước lạc hậu. Trong các nước lạc
hậu này, lợi nhuận thường cao, vì tư bản hãy còn ít, giá đất đai tương đối thấp,
tiền công hạ, nguyên liệu rẻ" [45, tr. 456].
Khoa học kinh tế đã chỉ ra rằng, đó là một hiện tượng kinh tế mang
tính tất yếu khách quan. Khi quá trình tích tụ và tập truns tư bản đạt đến một
mức độ nhất định, sẽ xuất hiện nhu cầu đầu tư ra nước ngoài. Đây chính là
quá trình phát triển của sức sản xuất xã hội, đến độ vượt ra khỏi khuôn khổ


8

chật hẹp của một quốc gia, theo quy luật sẽ hình thành quy mô sản xuất
xuyên quốc gia. Để tãng thêm lợi nhuận, các nhà tư bản ờ các nước phát triển
phải thực hiện đầu tư ra nước ngoài, thời gian đầu thường là vào các nước lạc
hậu hơn, vì ở đó các yếu tố đầu vào của sản xuất còn rẻ, lợi nhuận thu được
thường cao hơn.
Khi đưa ra "Chính sách kinh tế mới" V.I. Lênin đã cho rằng, những
người cộng sản phải biết lợi dụng những thành tựu kinh tế và khoa học kỹ
thuật của chủ nghĩa tư bản thông qua hình thức "tư bản nhà nước". Theo quan
điểm này, nhiều nước đã "chấp nhận" phần nào sự bóc lột của chủ nghĩa tư
bản để phát triển kinh tế, vì như thế có thể đi nhanh hơn là tự thân vận động
hay đi vay vốn để mua lại kỹ thuật của các nước công nghiệp phát triển. Mặt
khác, mức độ "bóc lột" của các nước tư bản cũng còn tùy thuộc vào điều kiện
kinh tế, chính trị, xã hội của các nước tiếp nhận tư bản. Nếu như trước đây,
hoạt động xuất khẩu tư bản của các nước đế quốc chỉ phải tuân theo pháp luật
của chính họ, thì ngày nay, các nước nhận đầu tư đã là các quốc gia độc lập
có chủ quyền, hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài phải tuân theo pháp luật,

sự quản lý của chính phủ nước sở tại và thông lệ quốc tế.
Một khó khăn lớn của hầu hết các nước đang phát triển trong đó có
nước ta là thiếu vốn đầu tư. Có thể nói, vốn đầu tư là yếu tố quyết định để các
nước này đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế, cải thiện đời sống vật chất của
nhàn dân. Ở các nước đang phát triển, nguồn lao động và tài nguyên thiên
nhiên thường chưa được sử dụng hết hoặc không được sử dụng vì thiếu các
điều kiện vật chất cho quá trình lao động, sản xuất. Bản thân các nước đang
phái triển lại ít có khả năng tự tích lũy vì năng suất lao động thấp, sản xuất
hầu như không đủ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước. Trong hoàn cảnh
như vậy, nguồn vốn từ bên ngoài sẽ có ý nghĩa quan trọng đối với bước phát
triển ban đầu của các nước này. Đặc biệt, trong xu thế quốc tế hóa đời sống
kinh tế thế giới hiện nay, các nước đang phát triển bị đặt vào tình huống phải
tạo được tốc độ phát triển nhanh để đuối kịp các nước phát triển và từng bước


9

hội nhập với nền kinh tế thế giới. Nguv cơ tụt hậu không cho phép các nước
đang phát triển được chậm trễ hay có cách lựa chọn nào khác. Trong điều
kiện thè giới và khu vực có nhiều quốc gia có nhu cầu đầu tư ra nước ngoài,
thì các nước đang phát triển có cơ cơ hội tranh thủ nguồn vốn và kỹ thuật của
nước ngoài để phát triển kinh tế.
Ngoài các đặc điểm chung của một quốc gia đang phát triển, Việt
Nam còn có những đặc thù riêng của một đất nước đã phải trải qua nhiều năm
chiến tranh ác liệt. Nền kinh tế sau chiến tranh đã bị tàn phá nặng nề, lại vấp
phải những sai lầm nghiêm trọng trong quản lý và điều hành cả trên tầm vĩ
mỏ và vi mô của thời kỳ tập trung, quan liêu, bao cấp, nên đã rơi vào khủng
hoảng nghiêm trọng. Trong thời gian dài trước năm 1990, Việt Nam không có
tích lũy từ trong nội bộ nền kinh tế. Một phần lớn tích lũy phải dựa vào vay
nợ và viện trợ chủ yếu của Liên Xô, các nước XHCN Đông Âu trước đây, sau

này là từ nhiều chính phủ và các tổ chức trên thế giới.
Để đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế, Việt Nam phải tranh thủ vốn, kỹ
thuật, kinh nghiệm quản lý tiên tiến của nước ngoài. Đây là điểm nút để nước
ta thoát ra khỏi cái vòng luẩn quẩn của sự nghèo đói. Thực tiễn và kinh
nghiệm của nhiều nước cho thấy, quốc gia nào thực hiện chiến lược kinh tế
m ờ cửa với bên ngoài, biết tranh thủ và phát huy tác dụng của nhân tố bên
ngoài, biến nó thành nhân tố bên trong, thì quốc gia đó tạo được tốc độ tăng
trưởng kinh tế cao. Có thể nói rằng, ở đâu và nước nào thu hút được nhiều vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài, thì ở nước đó, nền kinh tế đạt được tốc độ phát
triển nhanh chóng. Vì vậy, trên thế giới đang diễn ra một cuộc cạnh tranh gay
gất nhằm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Trong điều kiện cụ thể của nước ta, nơi có những tiềm năng to lớn về
lao động, tài nguyên... nhưng không có điều kiện khai thác và sử dụng, thì
việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài lại càng mang tính tất yếu khách quan
và có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Muốn đạt được mục đích thu hút nhiều vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài, kinh nghiệm quý báu của nhiều nước cho thấy,


10

Việt Nam cần phải tạo lập môi trường đầu tư hấp dẫn. tạo điều kiện thuận lợi
cho các nhà đầu tư nước ngoài, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, ổn định chính
trị và thực hiện cải cách nền kinh tế để từng bước hội nhập vào quỹ đạo phát
triển kinh tế thế giới.
1.1.2.

Sự cần thiết phải điều chỉnh hoạt động đầu tư nước ngoài

bằng pháp luật
Trong xã hội, pháp luật là một phương tiện quan trọng bậc nhất không

thể thay thế để điều chỉnh các quan hệ xã hội, tổ chức, quản lý đời sống xã hội,
bảo đảm cho xã hội ổn định, phát triển, phù hợp với những mục đích mà Nhà
nước và xã hội đặt ra. Nghị quyết số 51/2001/QH10 ngày 25/12/2001 của
Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa X, kỳ họp thứ 10
về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam năm 1992, tại Điều 2 quy định: "Nhà nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân" và Điều 12 Hiến pháp năm 1992 quy định: "Nhà nước
quản lý xã hội bằng pháp luật và không ngừng tăns cường pháp chế XHCN
Quản lý kinh tế nói chung, quản lý hoạt động đầu tư trực tiếp nước
ngoài nói riêng, là chức năng cơ bản hàng đầu của Nhà nước trong điều kiện
lịch sử hiện nay. Để thực hiện chức năng này, Nhà nước phải nhận thức đúng đắn
các quy luật khách quan của sự vận động kinh tế - xã hội, xây dựng chiến lược
thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, khai thác có hiệu quả các nguồn lực của
đất nước và các điều kiện quốc tế, sử dụng đồng bộ và hợp lý các công cụ kế
hoạch, chính sách và các đòn bẩy kinh tế. Trons hệ thống các công cụ và biện
pháp để Nhà nước điều chính hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài, pháp luật
có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Sự cần thiết phải điểu chỉnh hoạt động đầu tư
trực tiếp nước ngoài bằng pháp luật được thế hiện ở một số nội dung sau đây:
Thứ nhất, pháp luật là công cụ quản lý của Nhà nước, luôn luôn gấn
liền với Nhà nước và chỉ Nhà nước mới sử dụng công cụ pháp luật. Nhà nước


11

điều chỉnh các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người, trong đó
có hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài bằng quyền lực nhà nước. Quyền lực
nhà nước khác với các quyền lực khác ờ chỗ, nó được thực hiện bằng một cơ
chế thực thi pháp luật. Nhờ có quyền lực nhà nước, giai cấp thống trị thực
hiện những lợi ích của mình, buộc cả xã hội phải tuân theo và phục tùng ý

chí của mình bằng cách đề ra pháp luật và thực hiện pháp luật trên thực tế.
V.I. Lènin cho rằng: "Ý chí, nếu nó là ý chí của Nhà nước, thì phải được biểu
hiện dưới hình thức một đạo luật do chính quyền đặt ra, nếu không thì hai
tiếng ý chí chỉ là một sự rung động không khí do những âm thanh rỗng tuếch
gây nên" [112, tr. 429]. Trong hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài, điều đó
có nghĩa, chỉ có điều chỉnh hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài bằng pháp
luật, thì quyền lực nhà nước mới có ý nghĩa và mới đem lại hiệu quả thiết thực.
Tuv nhiên, ý chí của Nhà nước thể hiện trong pháp luật, xét đến cùng,
không phải do ý chí chủ quan của một người nào, mà chính nó được hình
thành một cách khách quan đo các quan hệ kinh tế khách quan quy định. Nói
pháp luật là sự thể hiện quyền lực và ý chí của Nhà nước cũng có nghĩa là
khẳng định tính bị quy định một cách khách quan của pháp luật. Ph. Ảngghen
cho rằng, ý chí được đề lên thành luật là ý chí có nội dung do những điều kiện
sinh hoạt vật chất của giai cấp quyết định [59, tr. 42].
Qua việc phân tích sự cần thiết phải điều chỉnh hoạt động đầu tư trực
tiếp nước ngoài bằng pháp luật cũng có thể khẳng định, pháp luật đầu tư nước
ngoài ra đời từ nhu cầu bảo vệ lợi ích của nhân dân, trước hết là lợi ích kinh tế
và lợi ích chính trị. Ph. Ảngghen cho rằng: "Tất cả hiện tượng pháp lý đều lấy
bản chất chính trị làm cơ sở" [59, tr. 635]. V.I. Lênin khẳng định: "Một đạo
luật là một biện pháp chính trị, là chính trị” [111, tr. 129]. Nội dung và mục
ticu của biện pháp chính trị đó là kinh tế, lợi ích kinh tế và địa vị thống trị của
nhân dân lao động nước ta.
Thứ hai, để điều chỉnh hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài, Nhà nước
có thể và cần phải sử dụng nhiều công cụ, biện pháp và hình thức khác nhau.


12

Đó là các chính sách, kế hoạch đầu tư trực tiếp nước ngoài, đòn bẩy kinh tế, pháp
luật đầu tư nước ngoài... Tuy nhiên, trong số các công cụ, biên pháp đó, việc

điều chỉnh hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài bằng pháp luật đã trờ thành thiết
yếu và cấp bách hiện nay, bởi lẽ với những đặc điểm riêng của mình, pháp luật
có khả năng triển khai những chủ trương, chính sách của Nhà nước một cách
nhanh nhất, đồng bộ và có hiệu quả nhất trên quy mô toàn xã hội. Chính vì
vậy, chúng tôi hoàn toàn tán thành ý kiến của GS.TSKH Đào Trí úc: "Nhà
nước chỉ có thể thể hiện được ý chí phổ biến và uy quyền công khai của mình
qua một loại đại lượng có tính phổ biến, có tính bắt buộc chung. Đó là pháp
luật" [84, tr. 205].
Thứ ba, trong nền kinh tế thị trường, sự tồn tại của pháp luật là một
nhu cầu khách quan bất nguồn từ những đòi hỏi của các quan hệ kinh tế. Đây
là điểm khác biệt so với thời kỳ quan liêu, bao cấp. ở thời kỳ này, sự tồn tại
của pháp luật như quan điểm của PGS.TS Chu Hồng Thanh, là: "một nhu cầu
chủ quan bắt nguồn từ những đòi hỏi của Nhà nước, là một phương tiện trong
tay Nhà nước để kìm hãm, xóa bỏ những quan hệ kinh tế nào đó một cách
duy ý chí" [79, tr. 29].
Đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài, pháp luật đầu tư nước
ngoài được hình thành trên cơ sở những đòi hỏi của quan hệ đầu tư trực tiếp
nước ngoài, tồn tại như một quan hệ nội tại của sự vận động, phát triển kinh tế
đối ngoại. Pháp luật đầu tư nước ngoài là hệ thống các quy phạm, chuẩn mực,
mà dựa vào đó các nhà đầu tư nước ngoài tìm được "sân chơi", các nhà quản
lý có phương tiện để điều khiển "cuộc chơi". Pháp luật đầu tư nước ngoài là
mực thước để phân định đúng, sai, kiểm nghiệm và điều chỉnh hoạt động đầu
tư trực tiếp nước ngoài cho phù hợp với nhu cầu xã hội.
Sự điều chỉnh hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài bàng pháp luật
phải bảo đảm cho hoạt động đầu tư vận động theo đúng những quy luật khách
quan, không thể áp đặt và thay thế các quy luật khách quan ấy. Bằng pháp
luật, Nhà nước tạo môi trường và hành lang pháp lý để chủ thể quan hệ đầu tư


13


nước ngoài có thể tự chủ sản xuất kinh doanh, tự bảo vệ lợi ích của mình,
đồng thời không làm tổn hại đến lợi ích của các chủ thể khác và toàn xã hội.
Bằng pháp luật, Nhà nước xác định địa vị pháp lý của các doanh nghiệp có
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, thẩm quyền của các cơ quan quản lý nhà nước về
đầu tư trực tiếp nước ngoài và thẩm qúyền của các cơ quan có chức năng giải
quyết các tranh chấp phát sinh trong hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Thứ tư, trong việc điều chỉnh quan hệ đầu tư trực tiếp nước ngoài,
pháp luật quy định cho các bên tham gia các quan hệ đó có một số quyền và
nghĩa vụ pháp lý nhất định, đồng thời thiết lập cả những điều kiện để đảm bảo
cho các quyền và nghĩa vụ pháp lý đó được thực hiện. Vì vậy, khi tham gia
vào các quan hệ đầu tư trực tiếp nước ngoài do pháp luật điều chỉnh, các chủ
thể phải có hành vi phù hợp với các yêu cầu của pháp luật. Tuy nhiên, việc
điều chỉnh hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài bằng pháp luật, không chỉ
tác động tới các hành vi của các chủ thể tham gia quan hệ đầu tư trực tiếp
nước ngoài, mà còn tác động về tư tưởng đối với toàn xã hội nói chung.
Thứ năm, dối với sự điều chỉnh hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài
bằng pháp luật, sự tồn tại của pháp luật đầu tư nước ngoài phụ thuộc vào nhận
thức và ý chí của Nhà nước. Tuy nhiên, sau khi pháp luật đầu tư nước ngoài
đã được ban hành, các cơ quan nhà nước phải triệt để tuân thủ trong quá trình
thực hiện chức năng quản lý đầu tư trực tiếp nước ngoài. Đây cũng là một
trong những nội dung cơ bản của quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN Việt Nam hiện nay.
1.2.

KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC TRƯNG c ơ BẢN CỦA PHÁP LUẬT ĐẦU TƯ

NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM

1.2.1. Khái niệm pháp luật đầu tư nước ngoài

Để có thể làm sáng tỏ khái niệm pháp luật đầu tư nước ngoài, trước
hết cần làm rõ khái niệm đầu tư nước ngoài, các hình thức, phương thức của
đầu tư nước ngoài.


14

Việc nghiên cứu các tài liệu ở một số nước trên thế giới cho thấy,
thuật ngữ "đầu tư" được hiểu khác nhau, phụ thuộc vào các điều kiện kinh tế xã hội nhất định. Trước đây, Hội đồng tương trợ kinh tế (SEV) đã đưa ra khái
niệm đầu tư nước ngoài như sau: "đầu tư nước ngoài được hiểu là tất cả những
loại giá trị vật chất mà nhà đầu tư đưa từ nước ký kết này sang nước ký kết
hữu quan theo pháp luật của nước sử dụnơ đầu tư" [110, tr. 19]. ở khái niệm
này, đầu tư nước ngoài được hiểu với nghĩa rất hẹp chỉ bao gồm các giá trị vật
chất, còn các loại tài sản vô hình thì lại chưa được đề cập đến. Trong tài liệu
Hội thảo về thương mại và phát triển của Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế
(OECD), khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài được hiểu rộng hơn khái niệm
trên: "Đầu tư với mục đích thiết lập các quan hệ kinh tế bền vững với một
công việc kinh doanh, đem lại khả năng thực hiện một ảnh hưởng có hiệu quả
đối với quản lý của việc đầu tư ấy" [106, tr. 17]. Trong báo cáo của Ngân
hàng thế giới năm 1996: "Đầu tư thương mại và các thỏa thuận chính sách
quốc tế", không đưa ra khái niệm đầu tư, nhưng có đưa ra định nghĩa pháp lý
của khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài: "là một khoản đầu tư liên quan đến
các quan hệ dài hạn và phản ánh một lợi ích lâu dài và sự kiểm soát một thực
thể trong một nền kinh tế (nhà đầu tư nước ngoài hay công ty mẹ) thông qua
một doanh nghiệp thuộc về một nền kinh tế khác, nền kinh tế của nước có nhà
đầu tư trực tiếp nước ngoài" [108, tr. 219-220].
Dưới góc độ khoa học, khái niệm đầu tư được hiểu trong mối quan hệ
với các khái niệm khác thuộc phạm trù kinh tế thị trường. Cuốn Từ điển kinh
doanh xuất bản bằng tiếng Anh tại Luân Đôn năm 1982 đã đưa ra các khái
niệm khác nhau về đầu tư (investment) như: "đó là việc dùng tiền để nhận

được thu nhập hoặc lợi nhuận; đó là tiền được đầu tư..." [105, tr. 255].
ở nước ta, ngay từ nãm 1977, khái niệm đầu tư nước ngoài đã chính
thức được ghi nhận trong Điều lệ Đầu tư của nước ngoài ở nước Cộng hòa
XHCN Việt Nam được ban hành kèm theo Nghị định số 115/CP ngày 18/4/1977
(sau đây gọi tắt là Điều lộ Đầu tư nước ngoài năm 1977):


15

Được coi là đầu tư của nước ngoài ở Việt Nam việc đưa vào
sử dụng ở Việt Nam những tài sản và vốn sau đây, nhằm xây dựng
những cơ sở mới hoặc đổi mới trang bị kỹ thuật, mở rộng các cơ sở
hiện có:
- Các loại thiết bị, máy móc, dụng cụ (gồm cả những thứ
dùng cho việc thí nghiệm), phương tiện vận tải, vật tư kỹ thuật...
cần thiết cho mục đích nói trẽn;
- Các quyền sở hữu công nghiệp, bằng sáng chế, phát minh,
phương pháp công nghệ, bí mật kỹ thuật (know - how), nhãn hiệu
chế tạo...
- Vốn bằng ngoại tệ hoặc vật tư có giá trị ngoại tệ, nếu phía
Việt Nam thấy cần thiết;
- Vốn bằng ngoại tệ để chi lương cho nhân viên và công
nhân làm việc ở các cơ sở hoặc tiến hành những dịch vụ theo quy
định của Điều lệ này [18, tr. 66].
Như vậy, trong khái niệm trên, không phải bất cứ sự vận động vốn (tư
bản) nào từ nước ngoài vào Việt Nam đều là đầu tư nước ngoài, mà chỉ việc
đưa vào sử dụng ở Việt Nam những tài sản và vốn đã được quy định tại Điều 2
Điều lệ đầu tư nước ngoài ở Việt Nam mới được coi là đầu tư nước ngoài.
Trong Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được ban hành năm 1987,
khái niệm đầu tư nước ngoài đã được ghi nhận tại khoản 3 Điều 2 như sau:

"Đầu tư nước ngoài là việc các tổ chức, cá nhân nước ngoài trực tiếp đưa vào
Việt Nam vốn bằng tiền nước ngoài hoặc bất kỳ tài sản nào được Chính phủ
Việt Nam chấp thuận để hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hoặc thành
lập xí nghiệp liên doanh hoặc xí nghiệp 100% vốn nước ngoài theo quy định
của luật này". Có thể nói, với quy định mới này, khái niệm đầu tư nước ngoài
đã được mờ rộng hơn so với khái niệm đầu tư nước ngoài trong Điều lệ đầu tư
nước ngoài năm 1977.


16

Trong Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, khái niệm đầu tư
được hiểu một cách rộng hơn: "là mọi hình thức đầu tư trên lãnh thổ của một
Bên do các công dân hoặc công ty của Bên kia sở hữu hoặc kiểm soát trực tiếp
hay gián tiếp, bao gồm các hình thức: một công ty hoặc một doanh nghiệp; cổ
phần, cổ phiếu và các hình thức góp vốn khác, trái phiếu, giấy ghi nợ và các
quyền lợi đối với các khoản nợ dưới các hình thức khác trong công ty; các
quyền theo hợp đồng như quyền theo các hợp đổng chìa khóa trao tay, hợp đổng
xây dựng hoặc hợp đổng quản lý, các hợp đổng sản xuất hoặc hợp đổng phân
chia doanh thu, tô nhượng hoặc các hợp đồng tương tự khác; tài sản hữu hình,
gồm cả bất động sản và tài sản vô hình, gồm cả các quyền như giao dịch thuê,
thế chấp, cầm cố và quyền lưu giữ tài sản; quyền sở hữu trí tuệ, gồm quyền
tác giả và các quyền có liên quan, nhãn hiệu hàng hóa, sáng chế, thiết kế bố
trí, mạch tích hợp, tín hiệu vệ tinh mang chương trình đã được mã hóa, thông tin
bí mật (bí mật thương mại, kiểu dáns công nghiệp và quyền với giống cây trổng
và các quyền theo quy định của pháp luật như các giấy phép và sự cho phép".
Dưới góc độ khoa học, theo quan điểm của chúng tôi, đầu tư (investment)
là việc sử dụng vốn vào quá trình tái sản xuất xã hội nhằm tạo ra nãng lực sản
xuất lớn hơn. Dưới góc độ của doanh nhân hoặc doanh nghiệp, đầu tư là việc
đưa vốn vào một hoạt động nào đó nhằm mục đích thu lợi nhuận. Vốn đầu tư

bao gồm tiền và các tài sản khác như động sản, bất động sản, tài sản hữu
hình, tài sản vô hình...
Như vậy, ngoài những khái niệm về đầu tư nước ngoài đã được trình
bày ở trên, về mặt lý luận, có thể đưa ra khái niệm đầu tư nước ngoài như sau:
đầu tư nước ngoài là việc nhà đầu tư của nước này đưa vốn bằng tiền hoặc tài
sản khác vào nước khác đ ể thực hiện các hoạt động sản xuất, kinh doanh,
dịch vụ nhằm thu lợi nhuận.
Trong khái niệm này, yếu tố nước ngoài trong đầu tư nước ngoài được
thể hiện ở hai dấu hiệu đặc trưng chính, một là: có sự tham gia của chủ thể
nước ngoài và hai là: có sự di chuyển vốn từ nước này sang nước khác.


17

Đầu tư nước ngoài được phân làm hai loại: đầu tư nước ngoài trực tiếp
và đầu tư nước ngoài gián tiếp. Đầu tư trực tiếp nước ngoài là loại hình kinh
doanh, trong đó nhà đầu tư nước ngoài tự bỏ vốn thiết lập ra cơ sở sản xuất,
kinh doanh cho riêng mình, tự đứng ra làm chủ sở hữu, tự quản lý hoặc thuê
người quản lý cơ sở này (đầu tư 100% vốn), hoặc hợp tác với một hay nhiều
doanh nghiệp của nước sở tại thành lập một doanh nghiệp liên doanh hoặc
hợp đổng hợp tác kinh doanh, cùng làm chủ sở hữu, cùng quản lý cơ sở sản
xuất, kinh doanh này. Đầu tư gián tiếp nước ngoài là loại hình đầu tư, trong
đó nhà đầu tư nước ngoài bỏ vốn vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của cơ
sở kinh tế, nhưng không tham gia điều hành cơ sở kinh tế đó.
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) chỉ là một trong bốn nguồn tài
chính nước ngoài đổ vào một quốc gia, đó là: 1) Viện trợ phát triển chính thức
(ODA) và phi chính phủ (NGO); 2) Tín dụng thương mại; 3) Tín phiếu, trái
phiếu, cổ phiếu; 4) Vốn đầu tư trực tiếp. Viện trợ phát triển chính thức thường
do các Chính phủ cấp không hoặc cho vay ưu đãi nhằm tạo dựng kết cấu hạ
tầng kinh tế - xã hội cần thiết cho hoạt động thương mại, đầu tư. Tín dụng

thương mại là nguồn vốn chủ yếu nhằm hỗ trợ cho các hoạt động thương mại,
xuất nhập khẩu và xét đến cùng cũng là hỗ trợ cho đầu tư. Tín phiếu là nguồn
vốn mà Chính phủ các nước muốn thu về bằng cách bán cổ phiếu, trái phiếu,
công trái cho người nước ngoài. Vốn đầu tư trực tiếp chủ yếu là nguồn vốn tư
nhân đầu tư vào quốc gia khác nhằm tìm kiếm lợi nhuận. Bốn nguồn vốn này
có mối quan hệ hữu cơ, tác độns qua lại lẫn nhau. Nếu một nước kém phát
triển không nhận được vốn ODA đủ mức cần thiết để hiện đại hóa kết cấu hạ
tầng kinh tế - xã hội, thì khó có thể thu hút được nguồn vốn FDI và các nguồn
vốn tín dụng khác. Nhưng nếu chỉ chú trọng nguồn vốn ODA, mà không tìm
cách thu hút nguồn vốn FDI và các nguồn
sẽ không thể có thu nhập để trả nợ cho vốn

phủ


18

Hình thức đầu tư
Trên thế giới, các hình thức đầu tư rất đa dạng từ hình thức doanh
nghiệp 100% vốn nước ngoài, hình thức liên doanh, hình thức công ty cổ
phần, công ty quản lý vốn, chi nhánh công ty nước ngoài, đến hình thức gia
công, lắp ráp... Còn ở nước ta, theo pháp luật đầu tư nước ngoài hiện hành,
đầu tư trực tiếp nước ngoài bao gồm ba hình thức:
- Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là loại hình đầu tư, trong đó
nhà đầu tư nước ngoài tự bỏ vốn thành lập cơ sở sản xuất, kinh doanh ở nước
sở tại và có tư cách pháp nhân của nước sở tại.
- Doanh nghiệp liên doanh là loại hình đầu tư, trong đó nhà đầu tư
nước ngoài và nhà đầu tư trong nước cùng góp vốn thành lập cơ sở sản xuất,
kinh doanh có tư cách pháp nhân theo pháp luật Việt Nam.
- Hợp đồng hợp tác kinh doanh là loại hình đầu tư, trong đó nhà đầu

tư nước ngoài và nhà đầu tư trong nước cùng bỏ vốn kinh doanh theo một hợp
đồng, mỗi bên giữ tư cách pháp nhân riêng, không thành lập pháp nhân mới.
Phương thức đầu tư
Ngoài khái niệm các hình thức đầu tư, còn có khái niệm phương thức
đầu tư. Phương thức đầu tư là cách tổ chức đưa vốn vào kinh doanh của nhà
đầu tư nước ngoài. Hiện nay, theo pháp luật đầu tư nước naoài tại Việt Nam
có các phương thức sau:
- BOT (Hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao) là phương
thức nhà đầu tư nước ngoài ký kết với cơ quan nhà nước có thẩm quyền của
Việt Nam để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng, tự kinh doanh để thu hồi
vốn, lợi nhuận trong thời hạn nhất định, sau thời hạn đó chuyển giao công
trình đó cho Nhà nước Việt Nam [5, tr. 4].
- BTO (Hợp đổng xây dựng - chuyển giao - kinh doanh) là phương
thức nhà đầu tư nước naoài ký kết với cơ quan nhà nước có thẩm quyền của
Việt Nam để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng; sau khi xây dựng xong,


19
V
nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao công trình đó cho Nhà nước Việt Nam.
Nhà nước Việt Nam dành cho nhà đầu tư quyền kinh doanh công trình đó
trong một thời gian nhất định để thu hồi vốn và lợi nhuận [5, tr. 4].
- BT (Hợp đồng xây dựng - chuyển giao) là phương thức nhà đầu tư ký
kết với cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam để xây dựng công
trình kết cấu hạ tầng; sau khi xây dựng xong, nhà đầu tư nước ngoài chuyển
giao công trình đó cho Nhà nước Việt Nam. Nhà nước Việt Nam tạo điều kiện
cho nhà đầu tư nước ngoài thực hiện dự án khác để thu hồi vốn đầu tư và lợi
nhuận [5, tr. 4].
- Khu chế xuất là khu công nghiệp chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thực
hiện các dịch vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu, có ranh

giới địa lý xác định do Chính phủ thành lập hoặc cho phép thành lập [5, tr. 4].
- Khu cồng nghiệp là khu chuyên sản xuất hàng cồng nghiệp và thực
hiộn các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp do Chính phủ thành lập hoặc cho
phép thành lập [5, tr. 4].
Trên cơ sở khái niệm đầu tư nước ngoài, các hình thức đầu tư, phương
thức đầu tư nước ngoài, cần làm sáng tỏ khái niệm pháp luật đầu tư nước
ngoài ở Việt Nam.
Hiện nay, khoa học pháp lý của nước ta thống nhất nhận thức rằng,
pháp luật đầu tư nước ngoài là một bộ phận trong hệ thống pháp luật Việt
Nam. Tuy nhiên, xung quanh khái niệm pháp luật đầu tư nước ngoài còn có
các quan điểm trái ngược nhau sau đây:
Quan điểm thứ nhất cho rằng, pháp luật đầu tư nước ngoài là một
ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật Việt Nam, vì nó có đối tượng,
phương pháp, điều chỉnh riêng.
Quan điểm thứ hai cho rằng, pháp luật đầu tư nước ngoài là một bộ
phận của ngành Tư pháp quốc tế, bời lẽ quan hộ đầu tư nước ngoài là một loại
quan hệ có yếu tố nước ngoài. Đây là quan điểm được thừa nhận ở Liên bang


20

Nga và Luật Đầu tư nước naoài được viết thành một chương trong Giáo trình
Luật Tư pháp quốc tế.
Quan điểm thứ ba cho rằng, pháp luật đầu tư nước ngoài là một bộ
phận của Luật Kinh tế. Đây là quan điểm phổ biến được thừa nhận trong các
giáo trình Luật Kinh tế của Trường Đại học Luật Hà Nội, Khoa Luật trực
thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Luật thành phố Hổ Chí Minh. Vấn
đề địa vị pháp lý của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được viết thành
một chương trong các giáo trình đó.
Quan điểm thứ tư cho rằng, pháp luật đầu tư nước ngoài không thuộc

một ngành luật nào. Việc điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt
độns đầu tư nước ngoài có sự tham gia của nhiều ngành luật, trong đó các
ngành luật như Luật Kinh tế, Luật Tư pháp quốc tế, Luật Dân sự, Luật Lao
động, Luật Đất đai... đóng vai trò rất quan trọng. Nói cách khác, pháp luật
đầu tư nước ngoài là nơi giao thoa của nhiều ngành luật khác nhau như Luật
Kinh tế, Luật Tư pháp quốc tế, Luật Dân sự, Luật Lao động, Luật Đất đai...
Chúng tôi đồng tình với quan điểm thứ tư, bởi lẽ:
Thứ nhất, quan điểm thứ nhất thiếu tính thuyết phục, bởi lẽ nếu giả
định pháp luật đầu tư nước ngoài là một ngành luật độc lập, thì nó phải có đối
tượng, phương pháp, điều chỉnh đặc thù và phải tồn tại trong một thời gian
dài. Tuy nhiên, phương pháp điều chỉnh của pháp luật đầu tư nước ngoài thực
chất cũng là phương pháp điều chỉnh của Luật Kinh tế hoặc Tư pháp quốc tế...
mặc dù việc sử dụng có khác nhau về cấp độ, cho nên không thể nói có đặc
thù hoàn toàn riêng. Mặt khác, pháp luật đầu tư nước ngoài không thể tổn tại
lâu dài, bởi lẽ trong xu thế của tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, đầu tư nước
ngoài và đầu tư troQg nước ngày càng xích lại gần nhau và sẽ có mặt bằng
pháp lý chung. Nói cách khác, trong tương lai gần, ở nước ta có thể sẽ không
tổn tại pháp luật đầu tư nước ngoài mà chỉ có pháp luật khuyến khích đầu tư
nước ngoài hoặc pháp luật đầu tư chung cho cả đầu tư trong nước và đầu tư


×