BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ T ư PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
LƯU BÌNH NHƯỠNG
TÀI PHÁN LAO ĐỘNG
■
THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM
“
■
■
C huyên ngành : L u ật kinh tê
M ã sô
1
: 5 . 0 5 Ị l 5 '^ G -ph luật HÀ^ỌI
Ị t h ư v ỉ ệ n gỉắo
Ị
m
s ò ĐK
LUẬN ÁN TIẾN S ĩ LUẬ T H Ọ C
N gười huóng dẫn khoa học: 1. PGS. Nguyễn H ữu Viện
2.
TS. Bùi X uân Nhụ
HÀ NỘI - 2002
L Ờ I CAM Đ O A N
T ôi xin cam đoan đây ỉà công trình
nghiên cứu của riêng tôi. C ác s ố liệu nêu
trong luận án là trung thực. N hữ ng kết luận
khoa học của luận án chưa từng được ai
công b ố trong bất kỳ công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Lưu Bình Nhưỡng
M ỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẤU
1
Chương 1 : TỔNG QUAN VỀ TÀI PHÁN LAO ĐỘNG
7
1.1
Khái niệm tài phán lao động
7
1.2
Bán chất, vai trò của tài phán lao động
41
1.3
Vài nét về lịch sử phát triển của tài phán lao động Việt Nam
46
Chưong 2: PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỂ TÀI PHÁN LAO ĐỘNG
61
2.1
Pháp luật về trọng tài lao động
61
2.2
Pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động tại tòa án nhân dân
2.3.
Pháp luật về giải quyết các cuộc đình công
111
2.4.
Những quy định của pháp luật về công nhận thi hành tại
128
72
Việt Nam các bản án, quyết định của tòa án và trọng tài
nước ngoài
Chương 3: THỰC TRẠNG CỦA TÀI PHÁN LAO ĐỘNG VÀ MỘT
136
SỐ BIỆN PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG VAI TRÒ VÀ
HIỆU QUẢ CỦA TÀI PHÁN LAO ĐỘNG
3.1.
Thực trạng của tài phán lao động
136
3.2.
Những biện pháp tăng cường vai trò và hiệu quả của tài phán
170
lao động
KẾT LUẬN
190
NHỮNG CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG Bố LIÊN QUAN TỚI LUẬN ÁN
192
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
193
PHỤ LỤC
205
NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN
BCHCĐCS
: Ban chấp hành công đoàn cơ sở
BLLĐ
: Bộ luật lao động
HĐHG
: Hội đồng hòa giải lao động cơ sở
HĐXX
: Hội đổng xét xử
HĐTT
: Hội đổng trọng tài lao động (cấp tỉnh)
HGV
: Hòa giải viên lao động (do cơ quan Lao động cấp huyện cử ra)
LĐLĐ
: Liên đoàn lao động
LĐTBXH
: Lao động - Thương binh và Xã hội
PL
: Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động
TAND
: Tòa án nhân dân
TPLĐ
: Tài phán lao động
VKSND
: Viên kiểm sát nhân dân
M Ỏ ĐẦƯ
1. Tính Cấp thiết của đề tài
Tranh chấp lao động và đình công là nhũng hiện tượng kinh tế - xã
hội phát sinh trong quá trình xác lập, duy trì, chấm dứt mối quan hệ pháp luật
lao động.
Khi nước ta chuyển đổi nền kinh tế tập trung bao cấp sang nền kinh tế
thị trường, cùng với sự phát triển của thị trường lao động, các tranh chấp lao
động và đình công có chiều hướng gia tăng, phức tạp. Tính đến hết tháng 9
năm 2001 trong cả nước đã xảy ra trên 500 cuộc đình công và hàng nghìn vụ
tranh chấp lao động. Bên cạnh những ảnh hưởng có tính tích cực, tranh chấp
lao động và đình công có thể gây ra những hậu quả xấu đối với mối quan hệ
pháp luật lao động, thị trường lao động và đối với nền kinh tế - xã hội.
Để khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực đó, người ta có thể tiến hành
những biện pháp khác nhau, bao gồm các các biện pháp tự thân và các biện
pháp khác thông qua một chủ thể thứ ba, trong đó có các cơ cấu TPLĐ.
Trải qua hơn năm thập kỷ kể từ khi giành được độc lập đến nay, Nhà
nước Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản pháp luật quy định về TPLĐ như:
Sắc lệnh s ố 29/SL ngày 121311947, Quyết định s ố 10/HĐBT ngày 1411 /1985,
Pháp lệnh hợp đồng lao động ngày 30/8/1990, Bộ luật lao động ngày 23/6/1994,
Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động ngày 111411996 v.v.
Theo các quy định đó, các cơ quan TPLĐ đã tiến hành giải quyết hàng ngàn
vụ tranh chấp lao động góp phần ổn định mối quan hệ pháp luật lao động, bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tranh chấp.
Nhung nhìn chung việc giải quyết tranh chấp lao động và đình công
thông qua các hoạt động TPLĐ chưa được sử dụng một cách rộng rãi và chưa
2
đạt được hiệu quả cao. Vai trò của các cơ quan TPLĐ còn mờ nhạt, chưa thực
sự có ảnh hưởng sâu sắc đối với các bên trong quan hệ lao động và trong xã hội.
Trước tình hình đó, Nhà nước đã tiến hành những biện pháp khác nhau
như: tiến hành bồi dưỡng kiến thức pháp luật và kỹ năng cho các cán bộ trọng
tài lao động theo các chương trình thuộc dự án 97-003 VIE; sửa đổi, bổ sung
một số điều của BLLĐ, trong đó có các quy định về giải quyết tranh chấp lao
động và đinh công; ngành TAND và ngành tư pháp cũng đang triển khai các
biện pháp nhằm tăng cường vai trò và hiệu quả hoạt động, trong đó có việc
nâng cao vai trò và hiệu quả của TAND trong việc giải quyết các tranh chấp
lao động và đình công.
Chính vì vậy, nghiên cứu một cách có hệ thống về TPLĐ là một trong
nhũng công việc có ý nghĩa thiết thực trong việc tăng cường vai trò và hiệu
quả của TPLĐ trong giai đoạn hiện nay và sau này. Đề tài: "Tài phán lao
động theo quy định của pháp luật Việt Nam" được thực hiện nhằm đáp ứng
những yêu cầu về mặt lý luận và thực tiễn đã và đang đặt ra.
2. T ình hình nghiên cứu đề tài
Từ trước đến nay, việc nghiên cứu về TPLĐ đã được tiến hành ở cả
trong nước và trên thế giới, đặc biệt là trong hệ thống các quốc gia thuộc tổ
chức Lao động quốc tế (ILO). Đã có những công trình, bài viết khoa học về
TPLĐ hoặc liên quan đến TPLĐ đã được công bố như: Giáo trình Luật lao
động Việt Nam do PGS Nguyễn Hữu Viện chủ biên, Trường Đại học Kinh tế
quốc dân, Hà Nội, 1972; Giáo trình Luật lao động và an ninh xã hội của tác
giả Nguyễn Quang Quýnh, Sài gòn, 1968; Giáo trình Luật lao động Việt Nam
của Trường Đại học Luật Hà Nội, 1998; Giáo trình Luật lao động Việt Nam
(chương trình trung cấp) của Trường Đại học Luật Hà Nội, 2001; Giáo trình
Luật Lao động Việt Nam của Khoa luật, Đại học Xã hội và Nhân văn quốc
gia, 2000; các bài: Giải quyết tranh chấp lao động tại Tỏa lao động và Nhìn
3
lợi m ột năm giải quyết tranh chấp lao động của tác giả Nguyễn Đắc Thắng,
Tcp chí Lao động - Xã hội, số 7/1998 và số 2/2000; Vài nét vềTP LĐ ở Cộng
hoa Liên bang Đức của tác giả Chu Thị Thanh Hưởng, Tạp chí Luật học,
Trường Đại học Luật Hà Nội số 1/1994; Đào tạo một số chức danh tư pháp ở
Cộng hòa Liên bang Đức của tác giả Đào Thị Hằng, Tạp chí Luật học, Trường
Đai học Luật Hà Nội, số 2/1998; Cách tháo gỡ một s ố vướng mắc khi giải
quyết tranh chấp lao động tại tòa án của tác giả Nguyễn Thị Kim Phụng đăng
trén Tạp chí Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, số 1/1999. Trong lĩnh
vực này, tác giả của luận án cũng có một số bài viết và công trình đã được
công bố như: M ấy ỷ kiến về cơ cấu của hội đồng xét xử sơ thẩm và phúc thẩm
án lao động, Báo Pháp luật, số ra ngày 7/3/1995; Cần chú trọng tới tính thực
tê của hợp đồng ìao động khi xét xử các tranh chấp lao động; Khởi kiện vụ án
lao động', V ề tranh chấp lao động tập th ể và giải quyết tranh chấp lao động
tập th ể đã được đăng trên Tạp chí Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội các
số: 6/1998, 4/1999, 2/2001; Luận văn thạc sĩ luật học với đề tài Tranh chấp lao
động và giải quyết tranh chấp lao động, Trường Đại học Luật Hà Nội, 1997.
Về tài liệu quốc tế, có cuốn Facing the challenge in the Paci/ic Region
Contemporary Them se and Issues ỉn Labour law, Uni of Melbourne,
Australia, 1997 cũng đề cập đến TPLĐ của Việt Nam.
Tuy nhiên, các bài viết và các công trình nói trên mới chỉ đề cập đến
từng vấn đề, từng khía cạnh hoạc tập trung giải quyết một số vấn đề riêng ]ẻ
có tính bức xúc mà chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách có hệ
thống tổng quát về TPLĐ. Do đó TPLĐ vẫn còn là một lĩnh vực mới mẻ trong
hoạt động nghiên cứu khoa học ở quy mô toàn diện và có ảnh hưởng rộng rãi
về mặt lý luận cũng như thực tiễn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
Mục đích nghiên cứu của luận án là nhằm phân tích và luận giải cơ sở
lý luận và thực tiễn về TPLĐ, một lĩnh vực tài phán thuộc hệ thống tài phán
4
của Việt Nam. Việc nghiên cứu sẽ chỉ ra và khẳng định về các loại hình tài
phin trong lĩnh vực lao động.
Thông qua việc phân tích, đánh giá hệ thống các quy định của pháp
luát về TPLĐ, thực trạng của TPLĐ, luận án có nhiệm vụ phân tích cơ sở lý
luán và cơ sở pháp lý của TPLĐ; những ưu điểm và tồn tại của các quy định
của pháp luật về TPLĐ cũng như ưu điểm và tồn tại của hoạt động TPLĐ từ
khi được xác lập đến nay nhằm đưa ra những kiến nghị khoa học hoàn thiện
pháp luật và tiến hành các biện pháp tăng cường TPLĐ ở Việt Nam, cụ thể,
luận án tập trung vào các việc:
- Nghiên cứu về các co' sở chính trị, xã hội, pháp lý và cơ sở thực tiễn
về kinh nghiệm tổ chức và vận hành các thể chế TPLĐ cũng như lược sử của
TPLĐ Việt Nam;
- Nghiên cứu các quy định về TPLĐ của pháp luật Việt Nam từ trước
đến nay, đặc biệt là các quy định về TPLĐ trong BLLĐ và các văn bản hướng
dẫn thi hành.
- Nghiên cứu pháp luật và thực tiễn về TPLĐ của một số quốc gia trên
thế giới.
- Từ sự nghiên cứu và phân tích đó, luận án đưa ra những kiến nghị
nhằm tăng cường vai trò và hiệu quả của TPLĐ của Việt Nam.
4.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của luận án là TPLĐ theo quy định của pháp
luật nước ta. TPLĐ ở đây được nghiên cứu ở cả hai khía cạnh căn bản: lý luận
pháp lý và thực tiễn.
- Phạm vi nghiên cứu của luận án là những vấn đề khác nhau thuộc
lĩnh vực TPLĐ bao gồm cả các vấn đề liên quan trong nước và quốc tế. Vì
mục (lích đã đặt ra, luận án nghiên cứu tổng thể những vấn đề về khái niệm,
5
bản chất, vai trò, lịch sử, hệ thống các quy định của pháp luật và thực trạng
của hoạt động TPLĐ ở Việt Nam và một số quốc gia trên thế giới.
Tuy nhiên, trong khuôn khổ của một luận án tiến sĩ luật học, tác giả
của luận án không có điều kiện để trình bày một cách chi tiết, tỉ mỉ mọi vấn
đề liên quan mà chỉ tập trung trình bày một cách có hệ thống những vấn đề có
tính nguyên tắc, luận giải khoa học về các quy định của pháp luật, đồng thời
đánh giá những vấn đề cơ bản của thực tiễn hoạt động TPLĐ ở Việt Nam trong
thời gian qua để làm tiền đề cho những kiến nghị khoa học nhằm tăng cường
vai trò và hiệu quả của TPLĐ. Theo tác giả của luận án, những vấn đề chi tiết và
phức tạp về TPLĐ liên quan đến những quan điểm lớn về đường lối, chính sách
cần phải được tiếp tục bằng các công trình nghiên cứu tầm cỡ và quy mô hơn.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận án được thực hiện trên cơ sở vận dụng những quan điểm chính trị
của Đảng Cộng sản Việt Nam và tư tưởng Hồ Chí Minh về đổi mới và phát
triển nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã
hội chủ nghĩa và quan điểm về việc xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt
Nam nhằm xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, sống và làm
việc theo pháp luật.
Luận án vận dụng phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch
sử của chủ nghĩa Mác- Lênin vào việc đánh giá, luận giải các vấn đề thuộc đối
tượng và phạm vi nghiên cứu.
Luận án cũng sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh,
đối chiếu, diễn giải, quy nạp, điều tra xã hội v.v... để thực hiện những nội
dung đã đặt ra.
6. Những đóng góp mới về khoa học và ý nghĩa thực tiễn của luận án
Với mục đích nghiên cứu đã đề ra, luận án đưa ra những vấn đề mới
sau đày:
6
- Lần đầu tiên luận án nghiên cứu một cách có hệ thống ở bậc sau đại
học cả về mặt lý luận và thực tiễn vận hành của TPLĐ.
- Luận án chỉ ra những tồn tại của hệ thống các quy định và thực tiễn
hoạt động TPLĐ của Việt Nam trong thời gian qua.
- Luận án đưa ra kiến nghị về một số biện pháp nhằm hoàn thiện pháp
luật, tăng cường khâu tổ chức và hoạt động của TPLĐ của nước ta.
Với những vấn đề nêu trên, tác giả của luận án hy vọng đóng góp một
phần nhỏ bé vào việc hoàn thiện hệ thống và tổ chức vận hành có hiệu quả các
loại hình TPLĐ nhằm đảm bảo quyền, lợi ích của các bên trong mối quan hệ
pháp luật lao động, đảm bảo lợi ích Nhà nước và xã hội, thực hiện tốt mục tiêu
mà Đảng và Nhà nước đã đề ra.
7.Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
liiận án dược chia thành 3 chương, 9 mục.
7
Chương I
TỔ N G QUAN VỂ TÀ I PHÁN LA O ĐỘNG
1.1. KHÁI NIỆM TÀI PHÁN LAO ĐỘNG
1.1.1. Thuật ngữ "tài phán"
Tài phán là một từ Hán - Việt. Thông thường người ta có thể hình dung
một cách khá đầy đủ về ý nghĩa của nó. Tuy nhiên, đây lại là một từ ít được
dùng trong thực tế, kể cả trong các tài liệu liên quan đến các chuyên ngành
khoa học pháp lý. Trong một số tài liệu, từ "tài phán" được sử dụng với một
mức độ hạn chế. Sau đây là một số ví dụ:
- Từ điển tiếng Việt [46], tài phán được hiểu là sự phân định phải trái.
- Trong cuốn "Từ điển từ và ngữ Việt Nam" [44], Giáo sư Nguyễn Lân
cho rằng, "tài" tức là "phân xử" còn "phán" tức là "xét định" vì thế đã định
nghĩa "tài phán" là sự "xét hỏi và phân xử phải trái".
- Trong cuốn "Từ điển tiếng Việt" của tác giả Phan Canh [16], tài phán
được hiểu là "phân xử, xét xử".
- Từ điển pháp luật Anh - Việt [122] có ghi ba từ và tập hợp từ có đề
cập đến thuật ngữ " tài phán" như: "Judicial committee of Privy council" ("ủy
ban tư vấn tài phán cho Nữ Hoàng"); "Judicial discretion"("quyền thẩm định
tài phán"); "Jurisdiction"("thẩm quyền, phán quyền").
- Giáo trình luật Hành chính của Trường Đại học Luật Hà Nội, tại
Chương XII có tiêu đề: "Tài phán hành chính và luật tố tụng hành chính" cho
rằng tố tụng hành chính là hình thức tài phán hành chính, được sử dụng để giải
quyết các vụ kiện hành chính tại TAND [121]. Điều này cũng thống nhất với
nội dung khoa học của cuốn "Tài phán hành chính so sánh" của tác giả Đinh
Văn Minh, giảng viên Học viện Hành chính Quốc gia [45].
8
- Giáo trình Luật quốc tế của Trường Đại học Luật Hà Nội (1997) có
đề cập đến một "biện pháp tư pháp" là dùng Trọng tài để giải quyết các phàn
tranh quốc tế đồng thời cho rằng luật quốc tế đề cao và đòi hỏi tôn trọng nguyên
tắc "quyền tài phán của quốc gia" trong các mối quan hệ quốc tế [119].
- Giáo trình Tư pháp quốc tế của Trường Đại học Luật Hà Nội (1999)
cũng đề cập đến "quyền tài phán" như là một quyền năng trong việc quyết
định về các vụ tranh chấp [120].
- Báo Pháp luật của Bộ Tư pháp số 19 (1301) ngày 2/2/2001 có đăng
bài "Pháp luật và chính sách thương mại Hoa kỳ" của tác giả Xuân Hoa cũng
dành một phần nội dung đề cập đến "các thiết chế tài phán và nửa tài phán"
trong việc đưa ra các quyết định trong lĩnh vực thương mại như: Tòa án
thương mại Hoa kỳ, Tòa án thương mại quốc tế... [38].
- Thuật ngữ "tài phán" được nhắc đến trong sắc lệnh số 13 ngày 24/1/1946
của Chính phủ nước Việt Nam dán chủ cộng hòa [22]. sắc lệnh đã được ban
hành nhằm quy định về "đặc quyền tài phán" của các Thẩm phán. Theo quy
định tại Điều 75 của Sắc lệnh, "không ai có thể bắt bớ, giam cầm một Thẩm
phán bất cứ vì lẽ gì, nếu không được Bộ trưởng Bộ Tư pháp thỏa thuận trước".
- Về vấn đề này, Thạc sĩ Nguyễn Văn Quang, Giảng viên trường Đại
học Luật Hà Nội cho rằng: "Tài phán là sự phán quyết của Nhà nước về tính
hựp pháp đúng đắn trong cách hành xử của các chủ thể trong xã hội, cũng như
các biện pháp xử lý thích hợp áp dụng đối với các chủ thể này nhằm đảm bảo
cho pháp luật được tôn trọng thực hiện" [57].
Mặc dù được các tài liệu khác nhau sử dụng trong những chuyên
ngành khác nhau nhưng nhìn chung, có thể hiểu "tài phán" ở một số khía cạnh
căn bản sau đây:
Thứ nhất, về mặt bản chất, tài phán là sự xét xử, phân định phải trái.
Cách hiểu này giúp ta hiểu được thực chất của các hoạt động tài phán diễn ra
trong xã hội.
9
Tliứ hai, xét về mặt xã hội, tài phán là một hiện tượng xã hội trong đó,
các chủ thể tài phán thực hiện quyền tài phán nhằm phân định về tính đúng
đắn trong hành vi của các bên tranh chấp. Hiện tượng này là một hiện tượng
phổ biến trong xã hội vì nó phát sinh trên cơ sở những nhu cầu của việc xác
lập và duy trì các quan hệ xã hội.
Thứ ba, xét về mặt hành vi, tài phán là hoạt động phán quyết theo
thẩm quyền luật định của một chủ thể nhất định nhằm phân định về tính đúng
đắn và hợp pháp của một vụ việc xảy ra trong xã hội theo yêu cầu của các bên.
Hành vi tài phán tạo ra hậu quả pháp lý ràng buộc đối với các bên liên quan.
Tuy nhiên, cần phải lun ý rằng, chủ thể thứ ba thực hiện hành vi tài phán nói
trên phải là một chủ thể có tính trung lập, độc lập với các bên trong vụ việc
được đưa ra giải quyết.
Thứ tư, xét về khía cạnh thể chế, tài phán được hiểu là tổng hợp các
quy định của pháp luật về tổ chức và hoạt động của các cơ quan, tổ chức, cá
nhân có thẩm quyền phán quyết các vụ tranh chấp hoặc các vụ việc khác
thuộc các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội.
Thứ năm, tài phán còn được nhìn nhận dưới góc độ là một loại quan hệ
pháp lý giữa một bên là các bên tranh chấp và một bên là các chủ thể thực
hiện quyền tài phán nhằm phân định tính hợp pháp và đúng đắn trong hành vi
của các bên tranh chấp. Việc phân định đó phải dựa trên các quy định của
pháp luật về tài phán. Và chính vì tài phán được thực hiện trên cơ sở các quy
định của pháp luật nên các phán quyết của các chủ thể tài phán luôn được Nhà
nước bảo hộ.
Trên cơ sở sự phân tích nói trên, có thể rút ra một định nghĩa về tài
phán như sau: Tài phán là tổng hợp các quy đinh của pháp luật, theo đố, các
chủ th ể cố thẩm quyền tiến hành các hoạt động đ ể phân định tính hợp pháp,
đúng đắn trong hành vi của các bên tranh chấp nhằm bảo vệ quyền, lợi ích
của các bên tranh chấp, của Nhà nước và xã hội.
10
1.1.2. Tài phán lao động
1.1.2.1. K hái niệm tài phán lao động
TPLĐ, như các loại tài phán khác, là một hình thức tài phán trong xã
hội, thuộc về lĩnh vực lao động xã hội. TPLĐ được hiểu là toàn bộ các hoạt
động của các chủ thể mang quyền lực pháp lý nhằm giải quyết các tranh chấp
lao động, các cuộc đình công và các việc khác phát sinh trong quá trình lao
động, mà theo đó, các chủ thể có thẩm quyền sẽ ra các phán quyết để phân
định tính hợp pháp và đúng đắn trong hành vi của các chủ thể.
Từ khi xuất hiện quan hệ lao động, nhất là từ khi nảy sinh các tranh
chấp lao động, người ta đã thiết kế nên những biện pháp khác nhau để giải
quyết chúng. TPLĐ, vì vậy, ra đời từ yêu cầu của việc giải quyết các vấn đề
lao động, trong đó, bên cạnh việc sử dụng tài phán để giải quyết các tranh
chấp lao động, người ta còn sử dụng tài phán như là một phương thức hữu hiệu
để giải quyết các cuộc đình công và bế xưởng trong lĩnh vực công nghiệp [59].
Theo luật sư Michael Schoden thuộc Liên hiệp các Công đoàn Đức,
"TPLĐ là một lĩnh vực của tài phán, gồm những tranh chấp nảy sinh từ luật
lao động thông qua luật TPLĐ" [61]. Theo quan điểm này, TPLĐ được khẳng
định là một hình thức tài phán, bên cạnh các hình thức tài phán khác trong xã
hội. Nhiệm vụ của TPLĐ là giải quyết các tranh chấp nảy sinh trong quá trình
áp dụng pháp luật lao động vào thực tiễn thông qua các quy định của pháp luật
về TPLĐ. Chính nhiệm vụ đó của TPLĐ đã giúp ta phần nào phân biệt được
TPLĐ và tố tụng lao động. Quá trình tố tụng lao động là quá trình diễn ra các
hoạt động của các chủ thể có tư cách pháp lý khác nhau tại TAND như:
HĐXX, thư ký toà án, VKSND, các đương sự, nhân chứng, người đại diện của
đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, người giám
định, người phiên dịch thì TPLĐ là quá trình diễn ra các hoạt động của các
chủ thể có thám quyền tài phán như: HĐTT và TAND, những chủ thể mang
thẩm quyền tài phán.
11
Theo đánh giá của các học giả trên thế giới thì TPLĐ là một hình thức
tài phán đặc biệt. Tính chất đặc biệt đó thể hiện ở một số khía cạnh sau đây:
Thứ nhất: TPLĐ là hình thức tài phán gắn liền với một lĩnh vực đặc
biệt trong xã hội - lĩnh vực lao động. Đây là lĩnh vực diễn ra việc sử dụng lao
động sống của con người, trong đó hiện diện quyền điều khiển của người chủ
trên nền tảng kỷ luật lao động, cái mà trong quá trình thuê dịch vụ dân sự
không thể tồn tại.
Thứ liai: TPLĐ không chỉ liên quan đến các bên của mối quan hệ lao
động mà còn có sự tham gia của đại diện của các bên trong mối quan hệ lao
động đó như: tổ chức đại diện của những người sử dụng lao động và tổ chức
Công đoàn của những người lao động. Theo cấu trúc truyền thống được các
nước trên thế giới sử dụng thì TPLĐ là một thực thể ba bên [137] gồm các đại
diện: Nhà nước - giới lao động và giới sử dụng lao động. Việc tham gia của
các đại diện này vào quá trình giải quyết các vấn đề phát sinh trong quá trình
lao động trong các cơ cấu khác nhau, trong đó có các cơ cấu thuộc lĩnh vực
TPLĐ một mặt đảm bảo tính chất bình đẳng pháp lý, mặt khác làm tăng thêm
vai trò tự quyết định của các chủ thể và hơn nữa làm tăng thêm chất lượng của
các phán quyết, càng khẳng định tính khác biệt giữa TPLĐ với các hình thức
tài phán khác.
Thứ ba: Đối tượng mà TPLĐ chủ yếu giải quyết là những vấn đề đặc
biệt trong đời sống xã hội. Nó bao gồm các tranh chấp lao động, các cuộc
đình công của người lao động và bế xưởng, một hành vi của chủ sử dụng lao
động, như một số nước đang quy định và giải quyết hiện nay.
Các tranh chấp lao động có nhiều loại khác nhau (như tranh chấp về
việc làm, tiền lương, phụ cấp, điều kiện làm việc, bảo hiểm xã hội, kỷ luật lao
động); có cơ sở phát sinh khác nhau (có thể phát sinh từ hợp đồng lao động,
hợp đồng học nghề, thỏa ước lao động tập thể, từ các thỏa thuận khác hay từ
pháp luật); có quy mô khác nhau (tranh chấp cá nhân, tranh chấp tập thể) đều
12
có chung một đặc điểm là phát sinh trong quá trình sử dụng sức lao động, quá
trình Ihực hiện các nghĩa vụ lao động của người lao động.
Như trên đã đề cập, điểm đặc biệt của TPLĐ còn biểu hiện ở chỗ đối
tượng của nó không chỉ dừng lại ở việc giải quyết các tranh chấp lao động mà
còn bao gồm các các cuộc đình công và bế xưởng. Việc ra các phán quyết về
sự ngừng việc có tổ chức của những người lao động hay việc bế xưởng của chủ
sử dụng lao động không thể giống việc xử lý các cuộc biểu tình hay giải quyết
các tranh chấp dân sự khác.
T hứ tư: TPLĐ là một phương thức hoạt động có phán quyết. Điều này
đã được phần nào hình dung khi tiếp cận với khái niệm "tài phán". Tuy nhiên,
đây chỉ là một trong những đặc điểm giúp ta phân biệt TPLĐ với các phương
thức giải quyết khác như thương lượng, hòa giải. Bởi vì, trong quá trình
thương lượng, các bên sẽ bàn bạc với nhau về những vấn đề xung đột và trên
cơ sở những lợi ích chung và lợi ích xung đột các bên sẽ cùng nhau quyết định
về vấn đề về quyền và lợi ích của mình. Còn trong quá trình hòa giải, người
hòa giải là một người thứ ba trung lập sẽ giúp các bên cùng nhau xem xét về
vấn đề xung đột, tìm giải pháp cho xung đột đó. Người hòa giải không có
quyền quyết định về nội dung của vấn đề xung đột mà chỉ có quyền quyết
định về tiến trình đó và nêu ra ý kiến tư vấn cho các bên quyết định mà thôi.
Tuy nhiên, điều này sẽ hoàn toàn khác khi sử dụng các hình thức giải quyết
thuộc TPLĐ. Trong trường hợp các bên không tự quyết định được thì các chủ
thể đó sẽ nhận được một phán quyết đơn phương có tính áp đặt của một cá
nhân hay một tổ chức có thẩm quyền về vụ việc đó.
Một trong những đặc điểm của TPLĐ là sự mới mẻ và non trẻ của nó.
Sở dĩ có điều này là do TPLĐ là một bộ phận của hệ thống pháp luật lao động,
một ngành luật tuy là đặc biệt nhưng mới xuất hiện do có sự xuất hiện và phát
triển của việc sử dụng lao động làm thuê từ thời kỳ tiền tư bản đến ngày nay.
Chính vì vậy, có học giả cho rằng: "Luật lao động so với nhũng luật khác là
13
một lĩnh vực non trẻ, và chắc chắn rằng TPLĐ còn non trẻ hơn" [60]. Việt Nam
là một ví dụ điển hình về vấn đề này: nếu lấy ngày thành lập nước (2/9/1945)
làm mốc thì đến nay, sau hơn 55 năm nước ta mới có một hệ thống TPLĐ thực
sự. Từ đặc điểm này có thể thấy cần phải có nhiều nỗ lực hơn nữa mới có thể
tạo lập được một nền TPLĐ hoàn thiện và có hiệu quả.
Trên cơ sở các phân tích nối trên, có th ể hiểu: TPLĐ là tổng hợp các
quy định của pháp luật lao động, theo đó, các thiết chếTP LĐ gồm íoà án và
trọng tài lao động tiến hành các hoạt động cần thiết nhằm giải quyết các
tranh chấp lao động và các cuộc đình công.
Phản biệt TPLĐ vói tố tụng lao động
Theo cách hiểu như trên, TPLĐ chỉ bao gồm các hoạt động của các
chủ thể tài phán mà không bao gồm tất cả các hoạt động của những người liên
quan đến quá trình tài phán đó.
Theo ý nghĩa trực tiếp được mọi người sử dụng thì tố tụng lao động là
hoạt động của các cơ quan, cá nhân, trên cơ sở các quy định của pháp luật
nhằm giải quyết tốt một vụ án lao động hoặc cuộc đình công tại TAND. Tố
tụng lao động, vì vậy, bao gồm các hoạt động của các chủ thể tiến hành tố
lụng và những người tham gia tố tụng như: TAND, VKSND, các đương sự,
người đại diện của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự, người làm chứng, người giám định, người phiên dịch. Trên cơ sở
các quy định của pháp luật tố tụng lao động, các chủ thể có những quyền và
nghĩa vụ nhất định khi tham gia quá trình tố tụng ấy như: quyền quyết định về
vụ việc của TAND; quyền kiểm sát của VKSND; quyền bình đẳng trước pháp
luật giữa các đương sự; nghĩa vụ chứng minh của đương sự; nghĩa vụ tham dự
và khai báo trrung thực của người làm chứng...
Khác với tố tụng lao động, TPLĐ có phạm vi rộng hơn. TPLĐ bao
gồm không chí quá trình tố tụng lao động tại TAND mà còn bao gồm cả các
14
quá trình trọng tài lao động. Tuy nhiên, về phương diện hành vi, TPLĐ chỉ bao
gồm các hoạt động của các chủ thể có thẩm quyền tài phán mà không bao
gồm tất cả các hành vi của nhũng người liên quan khác như VKSND, các
đương sự, người đại diện của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích họp
pháp của đương sự, người làm chứng, người giám định, người phiên dịch. Các
chủ thể này được tham gia vào quá trình tài phán với những tư cách khác nhau
nhưng họ không có thẩm quyền tài phán.
Như vậy, nếu nhìn một cách tổng quát hai lĩnh vực này chúng ta có thể
rút ra được một số điểm dị biệt giữa tố tụng lao động và TPLĐ như sau:
Về mặt phạm vi, tố tụng lao động là lĩnh vực hẹp hơn TPLĐ vì TPLĐ
bao gồm nhiều quá trình, đó là quá trình trọng tài lao động và quá trình giải
quyêì tranh chấp lao động, quá trình giải quyết đình công và quá trình tiến
hành các hoạt động công nhận, cho thi hành tại Việt Nam các bản án, quyết
định của tòa án và trọng tài nước ngoài do TAND thực hiện. Còn tố tụng lao
dộng được bó hẹp trong một quá trình giải quyết tranh chấp lao động và đình
công tại TAND.
Về mặt hành vi, tố tụng lao động rộng hơn TPLĐ. Nếu tố tụng lao
động gồm tất cả các hoạt động của các chủ thể tài phán và các chủ thể liên
quan thì TPLĐ chỉ bao gồm các hoạt động của các chủ thể mang quyền lực
trong việc tổ chức, đánh giá và quyết định về tính hợp pháp, đúng đắn trong
hành vi của các bên liên quan. Một trong nhưng ví dụ để minh họa cho vấn đề
này là: quá trình tố tụng lao động bắt đẩu từ việc khởi kiện, khởi tố vụ án lao
động nhưng quá trình TPLĐ lại bắt đầu muộn hơn, tức là từ khi thụ lý vụ án
lao động đó.
Về hậu quả pháp lý, TPLĐ tạo nên những hậu quả pháp lý khác nhau
tuỳ thuộc vào từng vụ việc và hậu quả đó có giá trị pháp lý bắt buộc đối với
những người tham gia. Những hậu quả pháp lý của TPLĐ có thể tạo ra là: thụ
lý hoặc không thụ lý; tạm đình chỉ hoặc đình chỉ việc giải quyết; quyết định
15
cho một bên thắng hoặc thua kiện; công nhận hoặc không công nhận một bản
án hoặc quyết định của toà án nước ngoài về lao động; xử phạt một chủ thể vi
phạm nội quy phiên tòa lao động... Ngược lại, hậu quả pháp lý có thể xảy ra
trong quá trình tố tụng là kiện hoặc không kiện; khởi tố hoặc rút quyết định
khởi tố; thoả thuận hoặc không thoả thuận; hoà giải hoặc từ chối hoà giải;
đổng ý hoặc không đồng ý với phán quyết của cơ quan tài p h án ...
1.1.2.2. N hữ ng cơ sở của TPLĐ
+ C ơ sở chính trị:
Tài phán nói chung và TPLĐ nói riêng là một lĩnh vực đặc biệt, thuộc
thượng tầng kiến trúc, có mối quan hệ chặt chẽ với các quan điểm, đường lối
của giai cấp lãnh đạo.
Nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân và vì dân, nhưng hoạt động
dưới sự lãnh đạo của đảng cầm quyền - Đảng Cộng sản Việt Nam - do đó tổ
chức, hoạt động của Nhà nước, trong đó có tài phán, phải tuyệt đối tuân thủ
đường lối của Đảng.
Khác với TPLĐ ở hầu hết các nước trên thế giới ở chỗ nó ra đời là do
kết quả đấu tranh của các Công đoàn [60], TPLĐ của Việt Nam có cơ sở chính
trị là đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam. Ngay từ những
ngày đầu thành lập, chế độ TPLĐ đã thể hiện rõ quan điểm của Đảng lúc bấy
giờ là xuất phát từ quan điểm bảo vệ giới cần lao và giai cấp công nhân trong
nước, do đó việc giải quyết tranh chấp lao động phải được thực hiện thông qua
các cơ cấu có quốc tịch Việt Nam [24], [26]. Trong giai đoạn đất nước tiến
hành đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển nền kinh tế nhiều
thành phần và thừa nhận sự tồn tại lâu dài của các hình thức thuê mướn lao
động nhưng không để biến thành quan hệ thống trị, dẫn tới sự phân hóa xã
hội thành hai cực đối lập [32, tr. 26; 92]. Do đó, Đảng ta xác định cần phải
giải quyết tốt mối quan hệ giữa người lao động và người sử dụng lao động
theo pháp luật, bảo vệ lợi ích chính đáng của người lao động. Từ quan điểm
16
trên, Đảng ta xác định cần tiến hành cải cách tổ chức và hoạt động tư pháp,
củng cố, kiện toàn bộ máy các cơ quan tư pháp, phân định lại thẩm quyền xét
xử của TAND, tùng bước mở rộng thẩm quyền xét xử sơ thẩm cho TAND
huyện [32, tr. 45; 99; 132].
Trải qua mấy chục năm, đường lối của Đảng về phát huy sức mạnh
toàn dân, về sự bảo vệ người lao động, bảo vệ lợi ích của Nhà nước và xã hội,
lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển
nhanh và bền vững [32, tr. 15] trong cơ chế thị trường đều được thể hiện trong
các quy định về TPLĐ trong các văn bản pháp luật, đặc biệt là trong các quy
định của BLLĐ và PL.
+ C ơ sở kinh tế- xã hội:
Như đã trình bày, TPLĐ ra đời do đòi hỏi của nền kinh tế - xã hội, do
nhu cầu thiết thực của việc dàn xếp những bất đồng giữa các chủ thể trong quá
trinh lao động.
Sự phát triển của nền kinh tế- xã hội quyết định các hoạt động xã hội
khác, kể cả hoạt động của các nhà nước. TPLĐ là hoạt động do Nhà nước đặt
ra hoặc thừa nhận, được đặt trong khuôn khổ pháp luật, chắc chắn chịu sự chi
phối có tính quyết định của các quan hệ kinh tế - xã hội. Đó là vấn đề có tính
lý luận và thực tiễn đã được thừa nhận.
Về khía cạnh trực tiếp, TPLĐ xuất hiện do sự phát triển của thị trường
lao động. Thị trường lao động là nơi diễn ra hoạt động trao đổi, mua bán sức
lao động của những người làm thuê cho các chủ sử dụng lao động. Trong quá
trình sử dụng lao động, giữa các bên nảy sinh những bất đồng, nhũng tranh
chấp, từ đó xuất hiện nhu cầu giải quyết các tranh chấp đó. Một trong những
phương thức để dàn xếp vụ tranh chấp là đưa vụ việc đó ra trước một bên thứ
ba độc lập để quyết định. Dần dần, hệ thống TPLĐ được hình thành dưới sự tổ
chức của Nhà nước và hoạt động trong khuôn khổ pháp luật của Nhà nước.
Cũng từ nhũng bước sơ khai ban đầu, trải qua thực tiễn giải quyết các tranh
17
chấp lao động, hệ thống TPLĐ dần dần phát triển và hoàn thiện. Điều này có
thê nhận thấy một cách rõ nét trong quá trình hình thành và phát triển của hệ
thống TPLĐ ở Việt Nam từ khi thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa
(1945) đến nay.
Về mặt xã hội, TPLĐ ra đời đã phản ánh một trong những nhu cầu
thiết yếu của xã hội nói chung và nguyện vọng của các bên trong quan hệ lao
động, đặc biệt là từ phía người lao động, nói riêng, v ề khía cạnh đạo đức xã
hội, TPLĐ là một trong những biểu tượng về sự công bằng, một trong những
tiêu chuẩn đạo đức xã hội trong lĩnh vực lao động. Trên cơ sở của những
nguyện vọng và tiêu chuẩn đạo đức xã hội ấy, TPLĐ như đã được xác lập và
phát triển để trở thành một lĩnh vực tài phán riêng cho lĩnh vực lao động xã
hội, lĩnh vực hoạt động quan trọng nhất của con người.
+ Cơ sở pháp lý:
Pháp luật chính là nền tảng pháp lý quan trọng cho các hoạt động giải
quyết tranh chấp lao động nói chung và cho hoạt động TPLĐ nói riêng. Pháp
luật không chỉ mang lại cho TPLĐ cơ sở để phán quyết mà còn là cơ sở để
kiểm soát sự phán quyết đó. Xét trên bình diện chung nhất, cơ sở pháp lý của
TPLĐ được quy định, đồng thời bị chi phối bởi Hiến pháp của quốc gia. Bên
cạnh đó, các đạo luật và các văn bản quy phạm pháp luật khác cũng có vai trò
hết sức quan trọng, thậm chí có ảnh hưởng trực tiếp tới nội dung của TPLĐ.
Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng, cơ sở của TPLĐ không chỉ gồm cơ sở để
chuyển hoá (như: Hiến pháp, các công ước Việt Nam đã tham gia...) mà còn
gồm cả cơ sở tham khảo (như: công ước quốc tế chưa phát huy hiệu lực tai
Việt Nam, pháp luật của các quốc gia khác trên thế giới).
Sau đây là một số nguồn luật quan trọng có ảnh hưởng trực tiếp hoặc
gián tiếp tới quá trình xác lập và vận hành TPLĐ ở nước ta:
Hiến pháp là đạo luật cơ bản quy định những vấn đề quan trọng nhất
của quốc gia. Các bản Hiến pháp của Việt NạnTtgồm: H iếa pháp 1946, 1959,
18
1980 và 1992) đều đặt vấn đề thiết lập và vận hành cơ chế tài phán nói chung
nhưng chư yếu đề cập tới các hình thức tố tụng hình sự, tố tụng dân sự. Tại
Điều 63 và 67 Chương VI của Hiến pháp Việt Nam dân chủ cộng hòa được
Ihông qua 9/11/1946 có quy định về cơ quan tư pháp và quy định: "Các phiên
tòa án đều phải công khai, trừ những trường hợp đặc biệt". Bản Hiến pháp thứ
hai của nước ta được Quốc hội thông qua 31/12/1959 dành Chương VIII (từ
Điều 97 đến 104) quy định về TAND với tư cách là cơ quan xét xử của nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa. Bản Hiến pháp thứ ba được Quốc hội thông qua
18/12/1980 dành 10 điều (từ Điều 128 đến Điều 137 - Chương X) quy định về
TAND với tư cách là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam. Hiến pháp 1992 (được Quốc hội thông qua 15/4/1992) dành 10 điều của
Chương X (từ Điều 127 đến 136) quy định về TAND, trong đó Điều 127 quy
định: "Tòa án nhân dân tối cao, các tòa án nhân dân địa phương, các tòa án
quân sự và các tòa án khác do luật định là những cơ quan xét xử của nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam". Trải qua bốn bản Hiến pháp, Nhà nước
ta đã xác định tòa án là cơ quan tài phán chủ yếu trong xã hội. Điểm khác biệt
của Hiến pháp 1992 so với các bản Hiến pháp 1946, 1959, 1980 là bên cạnh
việc quy định các loại tòa án hiện có, Hiến pháp còn quy định "các tòa án
khác" do luật định cũng là cơ quan xét xử của Nhà nước. Tuy nhiên, cho đến
nay ở nước ta chưa có một "tòa án khác" nào được thành lập. Việc thành lập
các Tòa kinh tế, lao động, hành chính vẫn được đặt trong hệ thống tòa án
thường mà klìông được xác định là các tòa án đặc biệt (nguyên văn: Court of
special jurisdiction) như là các nước khác trên thế giới đang sử dụng [138].
Bộ luật lao động và các văn bản hướng dẫn thi hành:
Là BLLĐ đầu tiên của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
BLLĐ có một vị trí quan trọng trong hệ thống các nguồn luật của Việt Nam.
Ngoài nhiệm vụ chủ yếu là điều chỉnh các quan hệ lao động, BLLĐ còn quy
định về việc giải quyết các vấn đề phát sinh trong quá trình lao động, bao gồm
19
cả tranh chấp lao động và các cuộc đình công. Các quy định lừ Điều 162 đến
Điều 179 BLLĐ về giải quyết tranh chấp lao động, PL là những quy định quan
trọng về khía cạnh lập pháp là những cơ sở pháp lý quan trọng của TPLĐ.
Luật tổ chức TAND:
Mặc dù không phải là văn bản quy định về nội dung hay cách giải quyết
các tranh chấp lao động, các cuộc đình công nhưng luật tổ chức TAND là văn
bản pháp lý quan trọng xác lập nên một trong những cơ cấu TPLĐ, đó là Tòa
lao động trong hệ thống TAND. Điều 1 của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều
của luật tổ chức TAND được Quốc hội khóa IX, kỳ họp thứ VIII thông qua
ngày 28/10/1995 quy định: "Tòa án nhân dân tối cao, các tòa án nhân dân địa
phương, các tòa án quân sự và các tòa án khác do luật định là các cơ quan xét
xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tòa án xét xử những vụ án
hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, kinh tế, hành chính và giải
quyết những việc khác theo quy định của pháp luật". Điều 17 của luật này quy
định cơ cấu tổ chức của TAND tối cao gồm: "Tòa án quân sự trung ương, Tòa
hình sự, Tòa dân sự, Tòa kinh tế, Tòa lao động, Tòa hành chính và các Tòa
phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao". Ngoài ra, các Điều 23, 24, 27, 30 cũng
quy định về cơ cấu, nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa lao động và hệ thống TAND
trong việc giải quyết tranh chấp lao động và đình công.
Bộ luật dân sự:
Mặc dù không phải là văn bản pháp luật điều chỉnh các quan hệ lao
động - xã hội nhưng Bộ luật dân sự là cơ sở pháp lý cho các hành vi có tính
chất dân sự như lao động, hoạt động dịch vụ và xác định những vấn đề pháp lý
liên quan. Một trong những vấn đề quan trọng được vận dụng vào lĩnh vực
TPLĐ là các quy định về khởi kiện. Xác định thời điểm, thời gian có hiệu lực,
việc khôi phục thời hiệu khởi kiện một vụ án dân sự có thể được áp dụng để
tính thời hiệu và xác định hiệu lực của quyền khởi kiện.
20
Các công ước liên quan của tổ chức Lao động quốc tế(ILO ):
Trong hệ thống các công ước của ILO có một số Công ước đề cập tới
vấn đề giải quyết tranh chấp lao động như:
Cồng ước số 84 về quyền liên kết và giải quyết tranh chấp lao động ở
những lãnh thổ phi chính quốc, được hội nghị toàn thể của tổ chức Lao động
quốc tế thông qua ngày 11 tháng 7 năm 1947, có hiệu lực từ ngày 1 tháng 7
năm 1953. Tại Điều 7.1 của công ước quy định: "Các tổ chức phải được thiết
lập càng nhanh càng tốt để giải quyết tranh chấp giữa người lao động và người
sử dụng lao động" [6].
Công ước số 100 về trả công bình đẳng giữa lao động nam và lao động
nữ cho một công việc có giá trị ngang nhau được ILO thông qua 6/6/1951, có
hiệu lực 23/5/1953 (Việt Nam đã phê chuẩn bằng Quyết định 796-QĐ/CTN
ngày 26/8/1997 của Chủ tịch nước) có quy định trong Điều 2 là:
1. Mỗi nước thành viên, bằng những biện pháp thích hợp với
các phương pháp hiện hành trong việc ấn định mức trả công, phải
khuyến khích, và trong chừng mực phù hợp với các phương pháp ấy,
bản đảm việc áp dụng cho mọi người lao động nguyên tắc trả công
bình đẳng giữa lao động nam và lao động nữ đối với một công việc
có giá trị ngang nhau. 2. Nguyên tắc này có thể được áp dụng: a) bằng
pháp luật hay bằng pháp quy; b) hoặc bằng mọi cơ chế ấn định việc
trả công đã được thiết lập, hay công nhận theo pháp luật [7].
Như vậy, ILO cho phép các quốc gia được áp dụng mọi biện pháp, kể
cả biện pháp tài phán để xác định tiền lương một cách bình đẳng giữa nam và
nữ trong các công việc có giá trị ngang nhau.
Công ước số 151 về bảo vệ quyền tổ chức và những thủ tục xác định
điều kiện làm việc trong ngành công vụ được ILO thông qua 7/6/1978, có hiệu
lực 28/2/1981, tại Phần V quy định: