Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

Quan hệ thượng mại giữa Nhật Bản và Việt Nam thời Châu Ấn thuyền

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (198.02 KB, 33 trang )

MỤC LỤC
Lời mở đầu....................................................................................................................................................2
Nội dung........................................................................................................................................................4
Chương 1: Giới thiệu khái quát về mậu dịch Châu Ấn thuyền...................................................................4
Chương 2: Bối cảnh lịch sử thời kỳ Châu Ấn thuyền.................................................................................6
2.1 Nguyên nhân Nhật Bản tăng cường giao lưu và quan hệ thương mại với Đông Nam Á.................6
2.2 Bối cảnh lịch sử Việt Nam thế kỷ XVI-XVII....................................................................................7
Chương 3: Quan hệ thượng mại giữa Nhật Bản và Việt Nam thời Châu Ấn thuyền...............................10
3.1 Quan hệ giữa Nhật Bản và Đàng Ngoài..........................................................................................10
3.2 Quan hệ giữa Nhật Bản và Đàng Trong..........................................................................................18
KẾT LUẬN................................................................................................................................................36
TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................................................................................39
Tài liệu sách.............................................................................................................................................39
Tài liệu Internet.......................................................................................................................................39

1


Lời mở đầu
Xu hướng quốc tế hóa, toàn cầu hóa đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ trên khắp thế giới
trong những năm gần đây đã thực sự thu hút sự quan tâm của các nhà nghiên cứu, các học
giả về quan hệ quốc tế giữa các quốc gia, khu vực trong quá khứ cũng như trong hiện tại
và tương lai. Vào thời cận thế, giao thương giữa các quốc gia khu vực Châu Á như: Trung
Hoa, Ấn Độ, Nhật Bản, và các quốc gia Đông Nam Á… đã diễn ra rất sôi động, thậm chí
đã thu hút được những thương nhân phương Tây đến đây để thăm dò và khai thác thị
trường mới mẻ và đầy tiềm năng này.
Nằm trên tuyến giao thông đường biển khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, Đông Á nói
chung và Nhật Bản nói riêng (vốn nổi tiếng là một “hòn đảo bạc”) thực sự có sức hút rất
lớn đối với các thương nhân nước ngoài, đặc biệt là sự quan tâm của người Châu Âu vốn
đang khao khát tìm kiếm một thị trường mới sau những cuộc đại phát kiến địa lý thế kỷ
XV – XVI.


Mở đầu cho việc thiết lập mạng lưới giao thương buôn bán giữa Châu Âu với Nhật Bản
và Đông Nam Á là các thương nhân và giáo sĩ người Bồ Đào Nha. Các thuyền Bồ Đào
Nha và tiếp đến là Tây Ban Nha đã vượt đại dương đến Châu Á, đưa cả thương nhân và
quân đội đến Nhật Bản, thiết lập mạng lưới thương quán ở Nhật Bản và các quốc gia khu
vực Đông Nam Á. Sau đó, muộn hơn một chút, người Anh và Hà Lan cũng đến Nhật Bản
lập ra thương quán, cạnh tranh buôn bán. Hệ thống thương mại mang tính quốc tế giữa
phương Đông và phương Tây sau khi được thiết lập đã làm thay đổi những mối quan hệ
kinh tế và văn hóa truyền thống vốn đã được xác lập giữa các dân tộc trong khu vực qua
nhiều thế kỷ, tạo điều kiện mới cho sự hội nhập của nền kinh tế Châu Á vào hệ thống
kinh tế thế giới, góp phần vào sự phát triển phồn thịnh của nhiều quốc gia.
Quan hệ thương mại Nhật Bản – Đông Nam Á thế kỷ XVI–XVII gắn liền mật thiết với
một giai đoạn lịch sử gọi là “thời đại Châu ấn thuyền”, và được xem là những viên đá đầu
tiên đặt nền móng cho quan hệ Nhật Bản – Đông Nam Á các giai đoạn sau này. “Chế độ
Châu ấn thuyền” hay “thời đại Châu ấn thuyền” có lẽ là điểm nhấn quan trọng nhất, một
2


số nhà nghiên cứu còn gọi đây là “điểm son”, là “thời đại hoàng kim”, trong lịch sử ngoại
thương Nhật Bản thời cận thế. Hiện nay, trong các bảo tàng, các tư liệu văn bản, di tích
lịch sử hay trong ký ức của nhiều dân tộc của quốc gia mà Nhật Bản thường xuyên giao
lưu buôn bán như Việt Nam (Đàng Trong và Đàng Ngoài), Philippines, Siam … vẫn còn
lưu lại những dấu ấn sâu đậm của những mối quan hệ kinh tế, văn hóa trước kia với Nhật
Bản.
Vốn quan tâm đến những vấn đề lịch sử Nhật Bản, Đông Nam Á, đặc biệt quan hệ ngoại
thương Nhật Bản thời kỳ Tokugawa, tác giả đã chọn đề tài “Quan hệ thương mại Nhật
Bản – Đông Nam Á thời Châu ấn thuyền” để làm Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Châu
Á học.
Qua công trình nghiên cứu này, tác giả mong muốn tìm hiểu chuyên sâu về toàn cảnh
“Châu ấn thuyền”, góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề lịch sử và khôi phục lại phần nào
bức tranh mối quan hệ thương mại Nhật Bản – Đông Nam Á trong lịch sử thế kỷ XVI–

XVII.
Nghiên cứu quan hệ Nhật Bản – Đông Nam Á thời kì Châu ấn thuyền còn giúp chúng ta
nhận thức sâu sắc toàn diện về vị trí của Nhật Bản và mối quan hệ Nhật Bản - Đông Nam
Á trong hiện tại và tương lai. Từ đó có thể lý giải nhiều vấn đề trong quan hệ giữa Nhật
Bản và Asean ngày nay.

3


Nội dung
Chương 1: Giới thiệu khái quát về mậu dịch Châu Ấn thuyền
Sau một thế kỷ rưỡi chiến tranh và bất ổn chính trị, vào cuối thế kỉ XVI, Nhật Bản thống
nhất sau thời kỳ này dưới quyền lực của Toyotomi Hideyoshi và sau đó là dòng họ
Tokugawa.
Ngôi vị thiên hoàng trong thời kỳ này chỉ mang tính hình thức, quyền hành đất nước thật
sự nằm trong tay các tướng quân (shogun).
Từ thế kỷ 13 đến thế kỷ 16, Nhật Bản trong thời kỳ này có đội thương thuyền hoạt động
rất mạnh. Nhằm tăng cuờng giao lưu đối với khu vực này, các tướng quân bắt buộc các
thuyền buôn của Nhật Bản khi buôn bán với nước ngoài nhất định phải mang theo giấy
phép có đóng dấu đỏ của Bakufu (Mạc Phủ = chính phủ) được gọi là châu ấn trạng và
bức thân thư có con dấu của Tướng Quân gửi cho vua chúa ở các nướcĐông Nam Á. Và
vào năm 1592 châu ấn trạng đầu tiên được phát hành cho các thuyền đến Manila,
Ayutthaya, Pattani,…
Các thuyền buôn mang theo Châu Ấn Trạng được gọi là Châu Ấn Thuyền. Châu Ấn
Thuyền (朱朱朱 Shuinsen) là loại thuyền buồm thương mại có trang bị vũ trang nhằm đi tới
các cảng Đông Nam Á, Việt Nam. Malaysia, Philippines, Thai Lan… . Khoảng từ năm
1600 đến 1635, hơn 350 Châu Ấn Thuyền đã vượt biển ra khơi dưới giấy phép thông
hành này. Thời kỳ mậu dịch của các Châu Ấn Thuyền thì gọi là thời kỳ mậu dịch Châu
Ấn Thuyền.
Với chế độ này, chỉ những thuyền có mang giấy phép đống dấu đỏ của Bakufu mới được

đi nước ngoài buôn bán. Ngược lại các thuyền buôn đến Nhật cũng phải có giấy phép của
Tokugawa Bakufu. Thông qua chế độ này, Bakufu muốn đảm bảo an toàn cho các thuyền
buôn của Nhật và nước ngoài tránh khỏi nạn cướp biển. Đồng thời cũng xác lập quyền uy
của mình trong quan hệ quốc tế.
4


5


Chương 2: Bối cảnh lịch sử thời kỳ Châu Ấn thuyền
2.1 Nguyên nhân Nhật Bản tăng cường giao lưu và quan hệ thương mại với Đông
Nam Á
Sau một thời gian dài nội chiến, cuối thế kỷ XVI, Nhật Bản thống nhất dưới quyền lực
của dòng họ Tokugawa. Các Shogun chủ trương ổn định tình hình trong nước, tăng cường
giao lưu và quan hệ thương mại với nước ngoài, trong đó đặc biệt coi trọng quan hệ
thương mại với các nước Đông Nam Á.
Tiến sĩ Nguyễn Tiến Lực trong bài nghiên cứu “Vị thế Nam Bộ trong quan hệ kinh tế thương mại Việt – Nhật” đã chỉ ra những nguyên nhân Nhật Bản coi trọng quan hệ
thương mại với các nước Đông Nam Á như sau:
Một là, sau một thời gian dài nội chiến, đất nước thống nhất, xã hội thái bình, nhu cầu
hưởng thụ tăng cao thôi thúc các thương nhân tăng cường buôn bán với nước ngoài để
đáp ứng nhu cầu mới của xã hội. Mặt khác, ở Nhật đã hình thành các thành phố thương
mại lớn như Edo, Kyoto, Sakai, Osaka, Hirado... tầng lớp thương nhân giàu có và cả các
daimyo tham gia hoạt động thương mại cũng xuất hiện ngày càng nhiều, có khả năng
tham gia vào các hoạt động thương mại quốc tế.
Hai là, lúc bấy giờ Nhật Bản là nước sản suất vàng, bạc, đồng nhiều nhất Đông Á. Theo
tính toán của Iwao, đương thời, ngoại trừ Nhật Bản, toàn thế giới chỉ sản xuất được 390
đến 420 tấn bạc, nhưng có lúc, Nhật Bản sản xuất được 30%-40 % lượng bạc của toàn thế
giới. Nhờ đó, Nhật Bản có tiền và cũng là hàng để trao đổi với các nước, có thể mua bán
được khối lượng hàng lớn và quý của các nước.

Ba là, đây là thời kỳ đại hàng hải, các thuyền buôn lớn của các nước phương Tây ồ ạt
sang châu Á buôn bán. Nhờ đó mà người Nhật đã nhanh chóng tiếp thu kỹ thuật đóng tàu,
kỹ thuật hàng hải và mua của người phương Tây các kỹ thuật phục vụ hàng hải. Điều này
cho phép thương nhân người Nhật có khả năng buôn bán lớn ở nước ngoài.

6


Bốn là, xưa nay, bạn hàng lớn nhất của Nhật Bản vẫn là Trung Quốc nhưng giữa thời nhà
Minh, triều đình đã ban hành chính sách hải cấm (Haijin), mậu dịch giữa Nhật Bản và
Trung Quốc bị đình trệ. Người Nhật phải tìm thị trường mới để mua các sản phẩm cùng
chủng loại và chất lượng với sản phẩm Trung Quốc, nhất là tơ lụa và đồ gốm sứ. Đương
thời chỉ có thị trường Đông Nam Á, đặc biệt là Việt Nam mới đáp ứng được điều đó.
Điều này giải thích tại sao vào thời kỳ này, Nhật tập trung buôn bán với khu vực Đông
Nam Á.
2.2 Bối cảnh lịch sử Việt Nam thế kỷ XVI-XVII
Cùng với sự biến động của tình hình thế giới, Việt Nam thời kỳ bất giờ đang xảy ra cuộc
chiến phân tranh giữa hai nhà Trịnh - Nguyễn ở Đàng Ngoài và Đàng Trong. Tổng hòa
các yếu tố, dẫn đến Nhật Bản có quan hệ buôn bán với cả 2 Đàng.
Cụ thể, sau nửa thế kỷ nội chiến Nam – Bắc triều giữa chính quyền Trịnh – Mạc, đến năm
1592 chính quyền nhà Trịnh đã chiếm được Thăng Long (Hà Nội), giành quyền kiểm soát
hầu hết xứ Bắc kỳ. Trong nhiều năm nhà Trịnh đã gửi thư yêu cầu triều đình nhà Minh
thừa nhận và phong vương vị cho hậu duệ nhà Lê, công nhận quốc gia này là chính thống
của nước Việt Nam. Tuy nhiên, năm 1597, triều đình nhà Minh chỉ phong cho vua Lê
chức “An Nam Đô Thống Sứ”, danh xưng chỉ người đứng đầu triều đại trị vì ở Việt Nam.
Vua Lê tuy ở vị trí cao nhất về hình thức trong việc ban bố các luật lệnh của chính phủ
nhưng chỉ là một ông vua bù nhìn, thực quyền nằm trong tay họ Trịnh. Đương thời, vùng
đất này được gọi là Tonkin (Đông Kinh).
Sau khi Nguyễn Kim mất, quyền bính giao cho con rể là Trịnh Kiểm. Sự phân hóa trong
nội bộ những người chủ chốt phò Lê đã làm cho Nguyễn Uông, con trai trưởng của

Nguyễn Kim lâm vào cái chết oan khốc. Trước tai họa của anh trai như vậy, Nguyễn
Hoàng đã xin chị là Ngọc Bảo thuyết phục Trịnh Kiểm cho vào trấn nhậm vùng Thuận
Hóa. Theo sách sử, năm 1558, được sự chấp thuận của Trịnh Kiểm, Nguyễn Hoàng vào
trấn thủ Thuận Hoá rồi năm 1570 kiêm trấn thủ phủ Quảng Nam. Chúa Tiên - vị chúa

7


Nguyễn đầu tiên đã thi hành nhiều biện pháp tích cực nhằm khai phá đất hoang, mở mang
xóm làng, phát triển công thương nghiệp.
Sử biên niên ghi nhận vào năm 1572: “Chúa ở trấn hơn 10 năm, chính sự rộng rãi, quân
lệnh nghiêm trang, nhân dân đều an cư lạc nghiệp, chợ không hai giá, không có trộm
cướp. Thuyền buôn các nước đến nhiều. Trấn trở nên một đô hội lớn”1.
Trong thời gian trấn thủ phủ Thuận Hóa, Quảng Nam, đến trước lúc mất, Nguyễn Hoàng
đã từng bước truyền đạt đường lối chính trị, đồng thời cho con trai Nguyễn Phúc Nguyên
tập sự cách trị nước, an dân. Năm 1558, Nguyễn Phúc Nguyên đã được giao chỉ huy 10
binh thuyền đánh tan đội thuyền ngoại quốc, năm 1602 được giao cho trấn thủ dinh
Quảng Nam. Hơn 10 năm trấn thủ dinh Quảng Nam, vùng đất này đã sôi nổi hẳn lên. Các
thương cảng Hội An, Nước Mặn, Thanh Hà trở nên sầm uất khác thường từ thập kỷ đầu
của thế kỷ XVII. Điều đó thể hiện rằng không thể thiếu chính sách phát triển ngoại
thương của vị trấn thủ xứ Quảng này được.
Sau khi kế nghiệp cha từ năm 1613, Chúa Sãi - Nguyễn Phúc Nguyên, càng đẩy mạnh
các chính sách phát triển kinh tế - xã hội, dần tách khỏi sự kiểm soát của chính quyền Lê
– Trịnh, đồng thời cũng nhằm củng cố nội lực, chuẩn bị đối phó với cuộc chiến tranh
Trịnh - Nguyễn. Chúa Nguyễn đã thực hiện một chính sách đối ngoại cởi mở, mời gọi
thương nhân nước ngoài đến đầu tư buôn bán.
Từ năm 1600 trở đi, khi vùng đất này trở thành một trong những trung tâm giao dịch
vùng biển Nam Trung Hoa thì chúa Nguyễn đã dần tiến đến mục tiêu dành độc lập. Năm
1627, Trịnh Tráng cử người mang sắc chỉ của vua Lê vào yêu cầu Chúa Nguyễn ở Quảng
Nam cho con ra chầu và nộp thuế cho chính quyền họ Trịnh nhưng đã bị từ chối thẳng

thừng. Do vậy, kể từ năm 1627, cuộc chiến tranh giữa hai chính quyền Trịnh – Nguyễn đã
xảy ra khốc liệt và kéo dài mấy mươi năm trong lịch sử và sông Gianh trở thành giới
tuyến chia cắt hai miền đất nước thành Đàng Trong và Đàng Ngoài.

1 Đại Nam thực lục tiền biên Q1 (1962), Viện Sử học Hà Nội, trang 36

8


Bối cảnh đó khiến không chỉ Đàng Ngoài mà cả Đàng Trong cũng phải tham gia vào thị
trường thế giới, mở rộng quan hệ với các nước trong khu vực, và trong đó có mối quan hệ
với Nhật Bản. Như đã đề cập ở trên, trong bối cảnh đất nước vừa được hòa bình thống
nhất sau cuộc nội chiến kéo dài, nhu cầu hưởng thụ của người dân Nhật Bản đã khuyến
khích phát triển nền kinh tế trong nước cũng như với nước ngoài. Là một đảo quốc nổi
tiếng về vàng bạc, sau chính sách hải cấm của Minh triều, Nhật Bản lao vào tìm kiếm một
thị trường mới. Đông Nam Á trong đó có Việt Nam là nơi mà Nhật Bản bắt đầu thăm dò
rồi đi đến thiết lập quan hệ ngoại giao, thương mại, giao lưu văn hóa…Đặc biệt mối quan
hệ đó đi đến đỉnh cao vào giai đoạn thế kỷ XVI-XVII với nhiều mối thông thương vô
cùng tốt đẹp.

9


Chương 3: Quan hệ thượng mại giữa Nhật Bản và Việt Nam thời Châu Ấn thuyền
3.1 Quan hệ giữa Nhật Bản và Đàng Ngoài
Thiết lập quan hệ ngoại giao
Mối quan hệ giữa Đàng Ngoài và Nhật Bản chỉ thực sự bắt đầu vào khoảng năm 1601.
Đối với Đàng Ngoài, các thương gia Nhật Bản tập trung chủ yếu tại Phố Hiến. Phố Hiến (Hưng Yên)
do nằm tại vị trí trục đầu mối giao thông thuận lợi trên sông Hồng, là một cảng biển nằm
sâu trong cửa sông, đồng thời cũng là tiền cảng của kinh thành Thăng Long thông ra biển,

lại nằm giữa vùng đồng bằng phía Nam châu thổ sông Hồng đông đúc dân cư và trù phú
về kinh tế nên cũng sớm phát triển thành một trung tâm thương mại của xứ Đàng Ngoài.
Hơn nữa, lúc này, nhà Trịnh ở Đàng Ngoài đang thi hành chính sách mở cửa nên cho
phép người nước ngoài đến đặt thương điếm ở Phố Hiến.
Mối quan hệ bang giao giữa hai nhà nước, nhà Trịnh và chính quyền Edo diễn ra khá
suôn sẻ. Không giống với những quan hệ sóng gió với các nước mà người Nhật giong
thuyền đến trong khu vực, mối quan hệ giữa Nhật Bản và Việt Nam nói chung, bao gồm
cả Đàng Ngoài và Đàng Trong diễn ra rất thuận lợi và hiếm khi xảy ra mâu thuẫn.
Năm 1603, với tư cách là một người được tướng quân Tokugawa Ieyasu giao nhiệm vụ về
vấn đề mậu dịch đối ngoại, Suminokura Ryoi (1554-1614) đã nhận đựơc giấy phép Châu
Ấn thuyền và quốc thư gửi “Chấp sự nước An Nam”, đồng thời ông đựơc trao quyền tổ
chức các chuyến đi đến Việt Nam. Bức thư viết: “Nay phụng mệnh của nước chúng tôi,
với tư cách là sứ giả mậu dịch, chúng tôi muốn bàn định với quí quốc về mối quan hệ
mậu dịch mà hai nước đều chính thức công nhận, đặc biệt nếu chúng ta trao đổi sứ giả
mậu dịch ngay từ năm nay nhằm tu chỉnh lại mối liên hệ hoà hiếu giữa hai nước lân bang,
đấy không phải là cái lợi lớn để ngàn đời hai nước chúng ta hay sao?” 2. Hai năm sau đó,
1605, Suminokura lại gửi một bức thư viết rằng: “Số lượng tàu bè đi lại quí quốc năm
nay có thể xem là biểu tượng cho tình hoà hiếu giữa hai nước chúng ta mà chúng tôi rất
cảm bội. Tháng 6 năm ngoái nhân thuyền chúng tôi chở về bình an, mang theo thư trả lời
2 Vĩnh Sính (2001), Việt Nam và Nhật Bản giao lưu văn hoá, NXB Văn nghệ TP.HCM & Trung tâm nghiên cứu
Quốc học, TP.HCM, trang 65

10


của ngài cùng với một số tặng phẩm quí (4 viên ngọc saphia, lụa trắng hạng tốt nhất 20
trượng, quạt ngà 2 cái, hương lạp 1 bình, linh lăng hương 1 bình). Chúng tôi không biết
nói gì để cảm ơn hậu ý của ngài” 3. Qua nội dung của hai bức thư trên, không chỉ mối
quan hệ giữa Đàng Ngoài và Nhật Bản là rất tốt mà mối quan hệ hoà hiếu, giao hảo giữa
hai chính quyền cũng rất tiến triển thông qua danh sách quà tặng mà Chúa Trịnh gửi cho

nhà Tokugawa, có thể nhận thấy Đàng Ngoài cũng rất coi trọng mối quan hệ này. Năm
1609, khi tàu của Suminokura đến đây buôn bán và gặp tai nạn, các quan chức của chính
quyền nhà Trịnh đã tận tình cứu giúp và chăm sóc chu đáo, bản thân Suminokura còn
được con rể của Chúa Trịnh Tùng nhận làm con nuôi.
Hoạt động của thương nhân Nhật Bản
Vào thời kì Châu Ấn thuyền, các thương gia Nhật Bản có khuynh hướng tập trung tại phố
Hiến hơn là tại các cảng Bắc Trung Bộ, câu ca dao “Thứ nhất Kinh Kỳ, thứ nhì Phố
Hiến” cũng phần nào thể hiện được sức sống của đô thị này. Theo ghi chép của Alexanre
de Rhodes trong mục Alexandre de Rhodes có ghi lại: “…đối với thương gia ngoại quốc thì thực ra có
người Nhật và người Tàu, họ vẫn tới buôn bán ở các bến An Nam họ buôn tơ lụa, buôn trầm hương…
Người Nhật xưa kia đem bạc rất nhiều tới đây buôn tơ lụa, đem nhiều gươm đao và đủ các thứ vũ khí để
bán”4

Trong 30 năm đầu của thế kỷ XVII, từ năm 1604 đến 1635, trong số 356 thuyền Châu Ấn
đên buôn bán ở Đông Nam Á, có 51 thuyền đến Đàng Ngoài, trong đó có thương cảng
quan trọng là phố Hiến. Hoạt động kinh tế của phố Hiến rất nhộn nhịp, hàng hoá lại
phong phú. Hàng hoá mà người Nhật rất thích mua tại đây là: lụa, lĩnh, đũi, sa, nhung, tơ,
bông vải, sa tanh, sơn, quế, nhãn, hoắc hương, lưu huỳnh, thiếc, cau, đồ sứ, đồ sơn, gạo,
hồ tiêu, vây cá, đường và cả vàng nữa... 5 Trong đó, mặt hàng nổi tiếng được thương nhân
Nhật Bản cũng như thương nhân các nước ưa chuộng nhất là tơ tằm vì nơi đây là vùng
đất nổi tiếng về lụa tơ tằm cao cấp.
Vốn là xứ sở nổi tiếng về mặt hàng tơ sống và lụa tơ tằm từ đầu thế kỷ XVI, nên Tonkin
cũng là một điểm đến rất có sức hấp dẫn đối với thuyền Châu ấn của Nhật Bản.
3 Vĩnh Sính (2001), Việt Nam và Nhật Bản giao lưu văn hoá, NXB Văn nghệ TP.HCM & Trung tâm nghiên cứu
Quốc học, TP.HCM, trang 73
4 PGS.TS Nguyễn Tiến Lực, Nhật Bản những bài học từ lịch sử, NXB. Thông tin và Truyền thông, tr.58
5 PGS.TS Nguyễn Tiến Lực, Nhật Bản những bài học từ lịch sử, NXB. Thông tin và Truyền thông, tr.59

11



Do sự cảnh giác với người nước ngoài của chính quyền nhà Trịnh nên trong quan hệ với
Đàng Ngoài vào thế kỷ XVI-XVII, các thương nhân Nhật Bản không lập cho mình một
khu phố Nhật tương tự như những phố Nhật Bản ở Manila (Philippines), Ayutthaya
(Siam), Phnompenh (Campuchia) hay gần nhất là ở Hội An (Đàng Trong). Họa chăng,
nơi đây chỉ còn lưu lại một vài khu mộ cổ có đề tên: Nhất Lang, Nhị Lang, Tam Lang…
Phố Hiến là nơi mà người Nhật thực hiện các giao dịch thương mại rất nhiều nhưng việc
xác định có hay không sự tồn tại của một khu phố Nhật ở phố Hiến là còn chưa chắc
chắn, vì theo một số nhà nghiên cứu thì khả năng này là rất ít. Thứ nhất là điều kiện tự
nhiên cũng như sự thay đổi của các dòng sông khiến cho thuyền buôn nước ngoài luôn
gặp khó khăn khi ra vào cảng. Hơn nữa vùng Bắc Bộ có hệ thống núi rất gần bờ với nhiều
dải đá ngầm, các cảng sông lại có lưu lượng nước rất lớn, đồng thời cũng có nhiều bãi cát
ngầm dễ làm cho tàu bị hư hại và mắc cạn. Về mặt chính trị, do luôn phải chịu áp lực từ
phương Bắc, lại lo sợ các thế lực nước ngoài sẽ can thiệp vào đời sống quyền lực, chính
quyền Lê - Trịnh luôn có thái độ nghi ngờ, kì thị với người nước ngoài, và hạn chế họ
thâm nhập vào vùng đất của mình. Chính sách này không những kiềm chế sự phát triển
của quan hệ thương mại mà còn tạo nên môi trường xã hội không thật thuận lợi cho sự
hình thành các khu định cư cho ngừơi nước ngoài. Tuy là một trung tâm thương mại lớn
nhưng các hoạt động thương mại tại Đàng Ngoài chủ yếu là hoạt động một chiều. Chính
Alexandre de Rhodes cũng đã nhận định: “Người Đàng Ngoài không đi buôn bán ở nước
ngoài vì ba lý do chính sau: Thứ nhất, họ không biết nghệ thuật địa bàn và nghề hàng hải,
không bao giờ xa bờ biển hay dãy núi của họ. Thứ hai, thuyền của họ không đủ sức
chống lại với sóng lớn biển cả và những cơn bão lớn thường nổi lên trong những cuộc
hành trình lâu dài: cột lại nên mỗi năm lại phải sửa chữa. Và thứ ba, Chúa không cho
phép họ ra nước ngoài, nơi ngành thương mại bắt các thương gia phải qua lại, vì sợ mất
thuế thân công dân nộp cho Chúa”6.
Sau chính sách toả quốc năm 1639, thuyền Châu ấn Nhật Bản đến Đàng Ngoài thưa thớt
hơn nhưng kim ngạch buôn bán giữa Nhật Bản với Đàng Ngoài nhiều hơn so với kim
6 Alexandre de Rhodes (1994), Lịch sử vương quốc Đàng Ngoài, Uỷ ban đoàn kết Công giáo, Tp. HCM,
trang 35 - 36

12


ngạch buôn bán với Đàng Trong. Từ năm 1637 đến cuối thế kỷ XVII, kim ngạch nhập
khẩu của Nhật Bản từ Đàng Ngoài hơn 700 kanme/năm, từ Đàng Trong gần 700
kanme/năm7. Hơn nữa, trong thời kỳ thực hiện chính sách bế quan tỏa cảng, thông qua
thương nhân Hà Lan việc nhập tơ lụa sản xuất tại Đàng Ngoài vẫn tiếp tục duy trì. Một số
thương nhân Nhật vẫn ở lại làm ăn tại Đàng Ngoài, như Wada Rizaemon, bởi ông là
người chuyên buôn bán giữa hai miền Đàng Trong – Đàng Ngoài và buôn bán với các
thương gia Bồ Đào Nha, tuy nhiên, do bị cắt đứt với chính quốc, các hoạt động của
thương nhân Nhật Bản ở đây cũng dần bị thương gia các nước lấn át. Mối quan hệ tốt đẹp
trực tiếp giữa người Nhật và Đàng Ngoài dần bị thay thế bởi hoạt động của các công ty
VOC Hà Lan và hoạt động của Hoa kiều.
3.2 Quan hệ giữa Nhật Bản và Đàng Trong
Thương nhân Nhật Bản buôn bán với cả Đàng Trong lẫn Đàng Ngoài nhưng, nhưng so
sánh giữa 2 Đàng thì Đàng Trong chiếm ưu thế hơn khá nhiều.
Thiết lập quan hệ ngoại giao
Bắt đầu từ cuối thế kỷ XVI, thuyền buôn Nhật Bản rời Macao đi Giao Chỉ, năm 1592, sự
kiện hai thương nhân Nhật Bản Suetsugu và Funamoto ghé thuyền vào Cửa Đại - Hội An
được xem là cột mốc quan trọng trong mối quan hệ mậu dịch đối ngoại giữa triều đình
Nhật Bản và Chúa Nguyễn ở Đàng Trong. Tuy nhiên, đây mới chỉ là sự khởi đầu cho một
quá trình ngoại thương rầm rộ của các thuyền buôn Nhật Bản đến Hội An vào đầu thế kỷ
XVII. Trong gần 40 năm đầu thế kỷ XVII, từ năm 1601 đến năm 1635, quan hệ Nhật Bản
với Việt Nam (Đàng Trong và Đàng Ngoài) từng bước được thiết lập và có nhiều bước
phát triển mới về cả hình thức lẫn nội dung. Chính quyền hai bên thường xuyên trao đổi
văn thư nhằm mở rộng quan hệ, khuyến khích phát triển ngoại thương cũng như mối
quan hệ bang giao giữa hai nước. Nguyễn Hoàng đã viết nhiều thư trao đổi, bàn bạc chuyện buôn
bán với chính quyền Tokugawa (chính quyền quân sự ở Nhật Bản). Lời lẽ trong các lá thư ngoại giao vừa
sang trọng, lịch lãm, vừa tha thiết, mềm mỏng, có những thư được gửi kèm theo các món quà tặng là
những vật phẩm quý như kỳ nam, lôi mộc, khổng tước… nội dung 1 số đoạn như sau:

"An Nam quốc Đại Đô Thống Đoan Quốc Công xin ngỏ lời đến Nhật Bản Quốc vương điện hạ!
Thời gian qua, tình hình kết giao của hai nước diễn ra tốt đẹp. Năm ngoái, Ngài đã tặng tôi bảo kiếm, nay
lại còn gửi tặng 10 trường đại đao quý, thật cảm kích vô cùng. Hy vọng thương thuyền của quý quốc làm
7 Kỷ yếu HTKH (1994), Phố Hiến, Sở VHTT – Thể Thao Hải Hưng, trang 50

13


ăn buôn bán ở nước tôi hanh thông thịnh vượng, có thể thấy đây là chốn an cư. Bản quốc sản vật quý
không nhiều nhưng cũng xin kính tặng Quốc Vương điện hạ một ít (có danh mục kèm theo) gọi là lễ mọn.
Từ năm nay trở đi, bản quốc sẽ chú trọng mậu dịch, buôn bán với quý quốc, lấy việc thông thương an
toàn làm chữ Nghĩa. Vạn vọng Quốc vương lấy việc kết giao để dựng xây sự phát triển như đã giao
ước…”8

Qua bức thư trên, có thể thấy rằng mối quan hệ ngoại giao giữa hai nước được xác lập
trên tinh thần hữu hảo đầy thiện ý, mong muốn cùng hợp tác có lợi của cả hai bên chính
quyền.
Ngoài những bức thư gửi cho chính quyền Tokygawa chúa Nguyễn Hoàng còn đích thân viết thư cho các
thương gia hớn bày tỏ thiện ý sẵn sàng đón tiếp thuyền buôn của họ đến Đàng Trong. Năm 1611, nhân
việc một thuyền buôn Nhật Bản bị bão dạt vào Đàng Trong, chúa Nguyễn Hoàng đã gửi cho Kato
Kiyamasa một bức thư, trong đó có đoạn: “Tôi nghe nói là Xiêm đang lộn xộn và tôi không thể để chiếc
tàu này gặp rắc rối, do đó, tôi đã mời họ ở lại đây buôn bán và tôi đã đối xử với họ một cách chân thành.
Và lúc này, tàu chuẩn bị rời bến, tôi xin gửi tới ngài một số tặng phẩm nhỏ. Nếu ngài cảm thấy có ý kiến
thiên về chúng tôi, xin ngài cho tàu trở lại xứ chúng tôi vào năm sau”. Đến 1635, chúa Nguyễn lại tiếp tục
đề nghị: “Nay có tàu Nhật Bản đến nước Nam, ta rất mừng có bức thư và các tín vật, để tỏ lòng thành,
thường năm cho tàu sang buôn bán để khai thông hòa hiếu hai nước và coi bốn biển cùng một nhà”.
Qua đó, chúng ta có thể nhận thấy những chính sách hết sức mềm dẻo của chúa Nguyễn Hoàng trong
việc thiết lập quan hệ thương mại với Nhật cũng như vai trò của các thương nhân Nhật Bản đối với hoạt
động kinh tế, xã hội của Đàng Trong. Không những thế, họ còn đóng vai trò là người đưa tin, người nói
sợi dây liên lạc giữa Đàng Trong với Mạc phủ Tokugawa.


Hoạt động của thương nhân Nhật Bản
Vị trí Cảng Hội An và vai trò của Chúa Nguyễn
Nói đến mối quan hệ giữa Nhật Bản và Đàng Trong, chúng ta không thể không nhắc đến
vai trò của chúa Nguyễn ở xứ Thuận Hoá và vị trí, vai trò của cảng thị Hội An trong mối
quan hệ quốc tế và bang giao vô cùng tố đẹp giữa hai nhà nước.
Trong khi thực thi chính sách khuyến khích ngoại thương, tạo cơ sở kinh tế vững chắc
nhằm cạnh tranh với chính quyền Đàng Ngoài, cũng như Chúa Trịnh, Chúa Nguyễn cũng
rất cẩn trọng trong việc lựa chọn thương cảng cho người nước ngoài đến buôn bán phải ở
những nơi xa thủ phủ của Chúa. Về điểm này Hội An hội đủ hai điều kiện để được chọn
8 PGS.TS Nguyễn Tiến Lực, Nhật Bản những bài học từ lịch sử, NXB. Thông tin và Truyền thông, tr

14


làm cảng giao dịch buôn bán với thương nhân ngoại quốc: 1)Hội An nằm phía tả ngạn
sông Thu Bồn, gần cửa biển Đại Chiêm (còn gọi là cửa Đại) khá sâu nên thuyền bè ra vô
dễ dàng suốt năm, lại là nơi lạch sâu kín gió, khá an toàn, có thể chứa được hàng trăm
thương thuyền cập bến trên một đoạn sông dài gần 3km. Đây là cửa biển tốt nhất của
Đàng Trong thời bấy giờ; 2) đường đi bộ từ Hội An tới Chính dinh của Chúa (trước ở Ái
Tử, sau ở Phú Xuân) phải vượt qua đèo Hải Vân rất cheo leo và còn xa hơn cả từ Phố
Hiến tới Thăng Long. Hội An cũng không quá gần với dinh Quảng Nam. Hai nơi cách
nhau khoảng mươi dặm bằng đường thủy cũng như đường bộ, vừa đủ cho một cự ly để
bảo vệ và quản lý thương cảng quan trọng.
Chính sách mở cửa của triều đình chúa Nguyễn cùng với sự phát triển của nền kinh tế
hàng hoá là cơ sở và là tác nhân bên trong rất quan trọng, dẫn đến sự xuất hiện hàng loạt
các đô thị và thương cảng. Trong những điều kiện thuận lợi như vậy, Hội An đã sớm trở
thành trung tâm kinh tế mậu dịch đối ngoại thịnh đạt nhất cuối thế kỷ XVI đầu thế kỷ
XVII. Nếu đem Hội An ra so sánh với những đô thị, thương cảng khác trong nước về tuổi
thọ, Hội An cũng không phải là dài lâu nhất. Thương cảng Vân Đồn tồn tại suốt thời Lý Trần – Lê trong khoảng 5 thế kỷ (thế kỷ XI-XV); hay Thăng Long – Đông Đô – Hà Nội

tồn tại gần 10 thế kỷ với tư cách là kinh đô, là một đô thị với chiều dài lịch sử đáng nể.
Về mặt qui mô, trong thời kì thịnh vượng của mình, Hội An cũng không phải là thành
phố to lớn nhất. Tuy nhiên, nếu xét về những phương diện khác, Hội An lại có vai trò và
vị trí cực kì quan trọng. Không những thế, Hội An còn mang những đặc điểm rất riêng,
rất lạ về những giá trị lịch sử không thể nhầm lẫn với bất kì vùng đất nào khác. Di tích đô
thị cổ Hội An còn sót lại cho đến ngày nay là minh chứng cho môt thời kì phát triển rực
rỡ, hưng thịnh về giao lưu thương mại mậu dịch giữa xứ Đàng Trong và các thương gia
trên thế giới. Trong số những đối tác buôn bán, trao đổi hàng hoá tại Hội An, người Nhật
Bản và người Trung Quốc là những người đã lưu lại đây trong môt thời gian khá dài.
Chính họ là những người đã góp phần tạo nên những dấu ấn đặc sắc trong đời sống văn
hoá Hội An.

15


Người xưa thường nói “đất lành chim đậu”, vậy Hội An có những điểm “lành” nào mà có
thể thu hút được bạn bè bốn phương đến vậy? Theo cái nhìn phong thuỷ tiền sinh thái
nhân văn của người xưa thì “ Hội nhân như hội thuỷ” (Đất tốt có sự tụ họp của người
cũng tốt như có sự hội tụ của nước). Lại có câu: “Nhất cận thị, nhị cận giang”. Hội An
hội tụ hết những điều “lành” đó : vừa hội nhân, vừa hội thuỷ, vừa cận thị lại vừa cận
giang. Hội An là nơi hội thuỷ của ba con sông Vu Gia, Thu Bồn, Chiên Đàn và con sông
Lộ Cảnh Giang (tức là sông Đế Võng hay sông Cổ Cò nối thông cửa Hàn và Cửa Đại).
Thế kỷ XVII, khoảng sông Cổ Cò với lưu vực rộng và Cửa Đại, một cửa biển có đủ độ
sâu để các tàu lớn cập bến chính là điều kiện địa lý có tính chất tiên quyết giúp Hội An
trở nên hưng thịnh. Ngày ấy, hải cảng Đà Nẵng tuy cũng là một hải cảng lớn nhưng nhờ
dòng sông Cổ Cò nối sông Hội An và Cửa Đại là một đường thuỷ an toàn nên các thương
gia đã chọn Hội An chứ không phải Đà Nẵng là bến đỗ cho mình. Nhiều nhà nghiên cứu
cho rằng đây là con đường mà thuyền của các thương gia Nhật Bản thuộc dòng họ Chaya
Shinroku ffđã đi từ Nagasaki đến Giao Chỉ được vẽ trên bức tranh “Chaya Shinroku Giao
chỉ quốc mậu dịch đồ”.

Như vậy, quan hệ mậu dịch giữa Nhật Bản và xứ Đàng Trong đã được bắt đầu từ thời
điểm nào? Như đã nói ở trên, thế kỷ XVI-XVII là thời kì mà Đông Nam Á và các nước
phương Đông chứng kiến nhiều chuyển biến quan trọng. Từ thế kỷ XIV đến giữa thế kỷ
XVI, lần đầu tiên triều đình Trung Quốc ban bố sắc lệnh “hải cấm” đối với Nhật Bản,
một chính sách của nhà Minh nhằm độc quyền ngành thương mại hàng hải vốn là thế
mạnh của những thương nhân người Hoa. Chính quyền cấm các thuyền bè tư nhân đi ra
nước ngoài và hoạt động ngoại thương chỉ dành cho các đội tàu của Hoàng đế và những
ai tới thăm Trung Quốc dưới hình thức các sứ bộ đến triều cống. Bên cạnh đó, nạn hải tặc
thường xuyên tiến hành cướp bóc dọc theo bờ biển Triều Tiên và Bắc Triều Tiên và một
số lý do khách quan khác đã khiến Hoàng đế nhà Minh nổi giận và ra lệnh “hải cấm”.
Nhưng sau đó, do những biến động chính trị trong nước, các sứ thần Nhật Bản không
được cử sang Trung Quốc nữa. Các thương nhân Trung Quốc đã phải thông thương với
Nhật bằng con đường bất hợp pháp qua các thương cảng thứ ba ven biển Đông Nam Á
16


như Hội An, Phnom Penh, Pinhalu ở Campuchia, Ayutthaya và Manila. Chính quyền Mạc
phủ cũng đã cấp giấy thông hành Shuinjo như một loại giấy thông hành an toàn cho các
tàu của nước mình khi đi qua các vùng nguy hiểm.
Do đó, có thể nói, mối quan hệ buôn bán thông thương giữa Nhật và Trung Quốc là
nguyên nhân khách quan tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy sự phát triển mậu dịch Nhật
Bản với chính quyền Đàng Trong tại thương cảng Hội An. Hay nói cách khác, Hội An
cũng như các cảng thị dọc vùng biển Đông Nam Á như Ayutthaya, Luzon, Manila…đóng
vai trò trung gian kép giữa vùng biển Đông Nam Á và Trung Hoa, cũng như giữa Nhật
Bản và Trung Hoa. Nhưng, cũng cần phải nói đến những nhận thức quốc tế tiến bộ của
các Chúa Nguyễn xứ Đàng Trong. Chính sách cởi mở của các Chúa Nguyễn ở Đàng
Trong và trào lưu “Châu Ấn” tích cực của Shogun Toyotomi Hideyoshi và Mạc phủ
Tokugawa là những điều kiện thuận lợi giúp cho các Nhật thương nhanh chóng thiết lập
mối quan hệ với nhà cầm quyền Hội An trên lĩnh vực giao thương hàng hải. Có thể nói
rằng Nguyễn Hoàng là người có con mắt tinh đời khi chọn Hội An là điểm trao đổi

thương mại chính của xứ Đàng Trong. Với vị trí vừa đảm bảo thuận lợi về mặt kinh tế,
vừa an toàn về chính trị Hội An nhanh chóng phát triển thành trung tâm kinh tế của Đàng
Trong. Với mục tiêu “quốc phú, binh cường, nội yên, ngoại tĩnh”, các triều đại Chúa
Nguyễn đã nỗ lực hợp tác với nước ngoài bằng nhiều hình thức. Có thể nói sự giao lưu
tiếp xúc văn hoá giữa Hội An với các nền văn hóa nước ngoài – tiêu biểu là hai nền văn
hoá Hoa, Nhật, được khởi đầu một cách chủ động và thiện chí, xét về nhiều khía cạnh.
Nhưng ta thấy rõ nhất vẫn là những nỗ lực nhằm phát triển kinh tế của triều đình nhà
Nguyễn, Các Chúa Nguyễn đã viết thư cho các vị tướng quân của triều đình Mạc phủ,
Chúa Nguyễn cho phép người Hà Lan, người Anh mở thương điếm, Chúa Nguyễn ban
hành những chính sách thuế khoán không nặng nề lắm, Chúa Nguyễn còn tạo điều kiện
cho những thương gia nước ngoài trú lại Hội An trong thời gian thuyền không thể ra
khơi…Có thể nói, những hoạt động trên của Chúa Nguyễn mang đầy tính tích cực, một
kinh nghiệm thúc đẩy kinh tế phát triển cực kì tiến bộ so với thời đại bấy giờ.
Các mặt hàng nổi tiếng của Đàng Trong
17


Bên cạnh yếu tố địa hình và chính sách ngoại giao cởi mở của chúa Nguyễn, những đặc
sản quí hiếm của xứ Đàng Trong tập trung tại Hội An chính là điều kiện thu hút các
thương gia quốc tế đến đây. Hội An vốn là cảng ngoại thương nên hoạt động xuất khẩu là
chính. Theo ghi chép của hầu hết các thương nhân phương Tây đương thời, đặc biệt là
của giáo sĩ Alexandre de Rhodes ghi lại rằng: “Tỉnh này không phải là tỉnh lớn nhất Đàng
Trong nhưng rất giàu có và rất thích thú. Đây là nới buôn bán sầm uất của người Bồ,
người Trung Hoa và người Nhật Bản. Họ đưa mọi thứ hàng hoá tới đây, vì có bến thuận
tiện, tỉnh nằm gần giữa đất nước, mua bán rất tiện”. Hay theo Lê Quí Đôn trong “ Phủ
biên tạp lục” cho biết, lúc bấy giờ hàng xuất chủ yếu là các loại tơ lụa, đường, vàng, yến
sào, quế, trầm hương, hồ tiêu, cau khô, gốm, gỗ, đồi mồi, tê giác…có đến 16 thứ. Có thể
lượt sơ qua về chất lượng và số lượng của hàng hoá thông qua những nhận xét của những
người thuộc thời kì bấy giờ. Trong “Phủ biên tạp lục”, Lê Quí Đôn đã viết rằng : “Người
phủ Thăng, phủ Điện dệt được các thứ the đoạn, lụa là hoa hoè, tinh xảo chẳng kém gì

Quảng Đông”. Nghề trồng dâu nuôi tằm, dệt lụa ở huyện Diên Phước, phủ Điện Bàn nổi
tiếng một thời còn được ghi lại dấu ấn qua câu chuyện tình giữa chúa Nguyễn Phước Lan
và cô gái trồng dâu Đoàn Thị Ngọc Phi. Không chỉ được những học giả trong nước thời
kì ấy nhận xét, những ghi chép của những nhận vật nổi tiếng như Pierre Poivre hay
Christoro Borri cũng đủ để chúng ta rút ra kết luận : dưới thời chúa Nguyễn, dinh Quảng
Nam là một vùng nghề tằm tơ phát triển và có sản lượng tơ lụa khá lớn đủ dùng trong nội
địa và xuất khẩu.
Bên cạnh các sản phẩm tơ lụa, rất nhiều mặt hàng khác được thương nhân các nước trong
đó có Nhật Bản rất ưa chuộng. Ví dụ, đường là một mặt hàng xuất khẩu quan trọng từ
Hội An. Yến sào, một đặc sản mà thời xưa chỉ dùng để tiến cống cho vua chúa cũng là
một mặt hàng cao cấp mà các thương gia Hoa, Nhật và phương Tây đều rất yêu thích. Xứ
Đàng Trong nổi tiếng có những vùng núi rừng xa xôi và cách trở. Nhưng đó cũng là một
nguồn tài nguyên cực kì quí giá gồm có kì nam, trầm hương và quế - những lâm sản này
đã lôi cuốn một bộ phận kinh tế miền núi vào guồng quay thương mại của cả vùng. Trong
một hội thảo gần đây, một vị tiến sĩ Nhật Bản đã cho biết trong những ghi chép cổ của
18


các thương gia Nhật ngày xưa còn lưu lại, quế không chỉ có mùi thơm đặc biệt, nó còn là
một phương thuốc chữa bệnh rất tốt. Mà quế tại các vùng Điện Bàn, Quảng Nam lại là
loại tốt nhất, vì vậy Quảng Nam là nơi sản xuất quế nhiều nhất, Trà My là nơi chuyên
trồng, các nguồn Thu Bồn, Chiên Đàn là nơi khai thác và thu mua nhiều nhất. Một mặt
hàng được ưa chuộng khác là trầm hương. Nhà buôn kiêm giáo sĩ Christoforo Borri đã
ghi lại rằng: “Một phần thưởng tốt nhất mà Chúa ban cho tàu trưởng Malacca là cho phép
buôn trầm hương. Những người theo Hồi giáo và Phật giáo ở Ấn Độ có tục hoả táng với
các thứ gỗ thơm, đó là nguyên nhân để họ mua với số lượng nhiều vô kể”. Và đó cũng là
một lý do khiến Hội An trở thành thương cảng mậu dịch quốc tế thời kì trung đại.
Vàng cũng là một sản phẩm xuất khẩu lớn của Đàng Trong tại Hội An. Các thương gia
đến Hội An đã không ngớt lời khen ngợi “Đàng Trong là xứ sở của vàng, vàng ở đây tốt
đẹp nhất, tinh khiết nhất thế giới”. Thời kì trung đại, Hội An đã thực sự trở thành cửa ngõ

thương mại quan trọng của Đàng Trong với thế giới. Không những vậy, những nguồn tiêu
thụ hàng hoá khổng lồ tại Hội An đã là những động lực thúc đẩy nền kinh tế xứ Đàng
Trong ngày càng phát triển. Hội An còn có vai trò quan trọng về trao đổi quốc tế các mặt
hàng gốm sứ tại những hội chợ quốc tế hằng năm, tại đây thường diễn ra việc mua bán
các loại gốm sứ là sản phẩm của Đàng Ngoài lẫn Đàng Trong của nước Việt Nam. Việc
phát hiện ra đồ gốm sứ Hizen của Nhật Bản tại một di chỉ khảo cổ thuộc phường Cẩm
Phô, thị xã Hội An những năm 1993-1994 hay việc phát hiện ra đồ gốm sứ Chu Đậu- Hải
Dương tại xác con tàu cổ đắm tại Cù Lao Chàm thực sự là những minh chứng rõ ràng cho
vai trò và vị trí của Hội An xưa kia trong mối quan hệ giữa Nhật Bản và Đàng Trong.
Hoạt động của thương nhân Nhật Bản ở Hội An
Nhắc đến một trong những thương nhân Nhật Bản nổi tiến trong thời kì Châu Ấn thuyền,
đó là những thương gia của dòng họ Chaya nổi tiếng. Dòng họ Chaya là một trong ba
dòng họ nổi tiếng giàu có, thế lực nhất ở Kyoto thuở xưa. Những ghi chép rất kĩ lưỡng
của dòng họ này về những lần sang tận Giao Chỉ, Việt Nam ngày xưa trong cuốn “Chaya
Shinroku Giao Chỉ quốc mậu dịch đồ” hiện được lưu giữ rất cẩn thận tại chùa Tình Diệu,
19


một ngôi chùa Nhật Liên giáo ở Nagoya. Trong cuốn sách này, tác giả không chỉ thuật lại
nội dung của những lần dòng họ này sang Giao Chỉ mà còn thuật lại những phong tục tập
quán cổ của người An Nam. Quyển sách này còn nhắc đến Hà Nội “đi từ Nagasaki đến
Hà Nội (Giao Chỉ) phải mất tới hơn 1800 hải lý”. Tác giả còn nhắc đến những dãy phố
Nhật Bản ở những nơi các thương nhân Nhật đã dừng chân. Lúc Shinrokurou đến Giao
Chỉ (Đàng Trong), lúc này chúa Nguyễn Phúc Nguyên là đời chúa thứ hai của triều đình
nhà Nguyễn đang nắm quyền cai trị. Với sự khôn khéo vốn có của một nhà buôn,
Shinrokurou đã dâng tặng chúa Nguyễn những món quà hết sức quí giá để thiết lập mối
quan hệ về sau. Theo tác giả Hideo Fukunaga, những món quà mà Shinrokurou đã tặng
cho chúa Nguyễn có những món như: bạc, đồng, lưu huỳnh, long não, quạt, kimono,
tranh, chiếu tatami, dù, đồ gốm, trướng để chắn muỗi, thiết, kiếm Nhật… Để đáp lại món
quà đó, chúa Nguyễn cũng đã ban tặng cho ông ta những món quà, hay chính xác hơn là

những đặc sản địa phương vốn là những hàng hoá rất có giá trên thị trường lúc bấy giờ
như ngà voi, hồ tiêu, hương liệu, da hổ, tơ lụa, thiết, kì nam… Đây là một bằng chứng
cho thấy chúa Nguyễn đã hết sức ưu ái đối với các thương gia Nhật Bản. Trước đó, một
nhà buôn nổi tiếng của Nhật Bản cũng đã dâng tặng những món quà rất quí giá cho Chúa
Trịnh ở Đàng Ngoài, nhưng khác với thái độ rộng mở của nhà Nguyễn ở Đàng Trong,
Chúa Trịnh lúc đầu không tỏ vẻ thân thiện với các thương nhân Nhật Bản đó, do đó, các
thuyền buôn Nhật Bản thời kì đó đa số cập cảng Hội An ở xứ Đàng Trong hơn là cập
cảng phố Hiến ở Đàng Ngoài. Đối với tình hình Việt Nam thời kì lúc bấy giờ, giữa Chúa
Trịnh Đàng Ngoài và chúa Nguyễn ở Đàng Trong đang xảy ra cuộc nội chiến dữ dội, do
đó, nhu cầu về nguyên liệu chế tạo vũ khí là vô cùng cấp thiết. Vì thế, những món hàng
của tàu Nhật đã đáp ứng được nhu cầu cấp thiết của cả hai miền. Sau cuộc chiến phân
tranh Trịnh - Nguyễn lần thứ nhất (1627), với tư cách là người đứng đầu nhà nước Đàng
Trong, ngày 25-4-1628, chúa Nguyễn Phúc Nguyên đã đề nghị với thương gia Chaya
Shinrokurou, nhờ ông ta tâu lên chính quyền Tokugawa là: “Từ năm nay trở đi, các
thuyền thông thương chỉ nên đến nước chúng tôi, tiện việc mua bán, còn các xứ Thanh
Hoá, Nghệ An, Đông Kinh với nước tôi là thù địch, mong rằng quốc vương đã có lòng

20


yêu nhau, thì nên cấm hẳn thuyền buôn qua lại với các xứ ấy” 9. Ngoài những bức thư viết
gửi cho chính quyền Tokugawa, chúa Nguyễn Hoàng còn đích thân viết thư cho các
thương gia lớn bày tỏ thiện ý sẵn sàng đón tiếp thuyền buôn của họ đến Đàng Trong.
Năm 1611, nhân việc một thuyền buôn Nhật Bản bị bão giạt vào Đàng Trong, chúa
Nguyễn Hoàng đã gửi cho Kato Kiyamasa một bức thư trong đó có đoạn: “Tôi nghe nói
là Xiêm đang lộn xộn và tôi không thể để chiếc tàu này gặp rắc rối, do đó, tôi đã mời họ ở
lại đây buôn bán và tôi đã đối xử với họ một cách chân thành. Và lúc này tàu chuẩn bị rời
bến, tôi xin gửi tới ngài một số tặng phẩm nhỏ. Nếu ngài cảm thấy có ý kiến thiên về
chúng tôi, xin ngài cho tàu trở lại xứ chúng tôi vào năm sau” 10. Đến năm 1635, chúa
Nguyễn lại tiếp tục đề nghị “Nay có tàu Nhật Bản đến nước Nam, ta rất mừng, có bức thư

và các tín vật, để tỏ lòng thành, thường năm cho tàu sang buôn bán để khai thông hoà
hiếu hai nước và coi bốn biển cùng một nhà. Từ nay về sau nếu có tàu đến Tonkin (Đông
Kinh), vì xứ ấy với nước tôi là thù địch, có quý vật đem sang buôn bán, hễ là lưu huỳnh,
đồ đồng và các thứ súng đạn, xin quan hai tàu ấy nghiêm cấm đừng cho chở đến. Nếu giữ
được điều đó, ta chịu ơn nhiều lắm” 11. Qua đó, ta có nhận thấy vai trò của các thương
nhân Nhật Bản đối với hoạt động kinh tế, xã hội của cả hai xứ Đàng Trong và Đàng
Ngoài. Không những thế, họ còn đóng vai trò là người đưa tin, người nối sợi dây liên lạc
giữa triều đình An Nam với triều đình Tokugawa Nhật Bản. Mối quan hệ bang giao giữa
các nhà nước lúc bấy giờ có đựơc chính là nhờ mối quan hệ thương mại ngày càng phát
đạt của các thương nhân hoạt động trên vùng biển châu Á, mà vùng biển Đông Nam Á
chính là thị trường sôi động nhất.
Đến Hội An, người Nhật bắt gặp sự có mặt của người Hoa với những dãy phố đơn giản
và những hoạt động buôn bán đều đặn của họ. Người Nhật đã thực sự gặp may khi được
Chúa Nguyễn dễ dàng cho phép xây dựng những cơ sở buôn bán bên cạnh các thương
nhân Trung Quốc tại Hội An. Tuy nhiên, phương thức hoạt động hàng hải bằng thuyền
buôn của họ cũng không tránh khỏi những qui luật của gió mùa mậu dịch. Hằng năm, cứ
9 Văn kiện ngoại giao giữa Nhật Bản với Việt Nam, Văn hoá Á Châu (1958), số 3&4, Nông Sơn (dịch), trang 24
10 Li Tana (1999), Xứ Đàng Trong - Lịch sử kinh tế- xã hội Việt Nam thế kỷ XVII và XVIII, NXB Trẻ, trang 93
11 Văn kiện ngoại giao giữa Nhật Bản với Việt Nam, Văn hoá Á Châu (1958), số 3&4, Nông Sơn (dịch), trang 24

21


vào kì gió Đông Bắc, họ chở đầy hàng hoá đến Hội An, sau khi buôn bán, trao đổi, đến kì
gió Tây Nam, họ lại giong buồm chở hàng hoá đã mua về chính quốc. Tính thất thường
trong mua bán buộc họ phải thực hiện phương pháp “lưu đông” như các thương gia Trung
Quốc đã làm. Từ những nhu cầu đáp ứng cho việc “lưu đông” và phục vụ cho quá trình
thương doanh mậu dịch, đầu thế kỷ XVII, theo ghi chép, phố Nhật Bản ở Hội An được
hình thành vào khoảng năm 1617 với các công trình riêng rẽ như nhà ở, thương quán, nhà
kho... Trong cuốn sách “Người Nhật Bản thời kì Shuinsen” của mình, học giả Ogura

Sadao đã miêu tả rất kĩ lưỡng về hình ảnh phốnNhật Bản tại Hội An như sau: “Phố Nhật
Bản kéo dài tới 3 ô đường, ở cả hai bên đường. Phố Nhật Bản ngay bên cạnh bờ sông. So
với phố người Đường thì phố Nhật Bản gồm cả những ngôi nhà hai tầng, có kiến trúc cầu
kì hơn, các ngôi nhà làm sát với nhau. Trong đó có ngôi nhà ba tầng làm rất cầu kì. Có
thể ngôi nhà đó là nới hội họp của người Nhật Bản trước kia. Ở những ngôi nhà nhìn ra
đường, thường có mái hiên để chống nóng. Không có chỗ nào là không giống dáng dấp
những căn nhà dòng họ Chaya ở Owari”12. Vị trí phố Nhật ngày xưa được xác định nắm ở
phía đông phố khách của người Hoa và gần như trùng với đường Trần Phú ngày nay.
Năm1618, thương nhân kiêm giáo sĩ Christoforo Borri đã đến Hội An, ông ghi nhận: “Tại
đây, người Việt có ít mà người Hoa, người Nhât lại đông hơn…thành đó gọi là Faifo lớn
lắm, đến nỗi người ta nói có hai thị trấn: một thị trấn của người Hoa, một thị trấn của
người Nhật. Mỗi bên có một khu phố riêng và người quản trị riêng, sống theo tập quán
của mình…”. Trong 30 năm (từ 1604 đến 1634) tướng quân Tokugawa đã mạnh dạn cấp
331 giấy phép cho các thương nhân đi buôn bán với nước ngoài. Trong số 19 cảng cuả
các nước châu Á mà các thương thuyền Nhật cập bến, họ đã đưa 130 chiếc đến Việt Nam
(chiếm 39,27%) mà chủ yếu là đến Hội An với 86 thương thuyền, chiếm đến 66,15%
tổng số thuyền đến Việt Nam lúc bấy giờ.
Rõ ràng, các thương buôn Nhật bản đã tìm thấy ở Hội An một hấp lực nào chăng? Và có
lẽ đó cũng là lý do khiến Hội An trở thành một trong bốn nơi thuộc châu Á là điểm dừng
chân và lưu lại của các thương gia Nhật Bản? Điều đặc biệt là cho đến bây giờ, chỉ có tại
12 Nguyễn Tiến Lực

22


Hội An, người ta mới tìm thấy những di vật còn sót lại của những vị khách Nhật đã đến
Hội An từ thuở xa xưa. Như đã giải thích ở trên, Hội An không chỉ hấp dẫn bạn hàng trên
thế giới bằng những sản phẩm quí hiếm mà còn bằng những chính sách cởi mở của triều
đình nhà Nguyễn, bằng thái độ thân thiện, hiền lành của người dân nơi đây. Chúa Nguyễn
đặc biệt coi trọng Hội An như một đặc khu kinh tế, thương mại đặc biệt quan trọng.

Những hoạt động buôn bán, sinh sống của người Nhật tuy diễn ra bình thường theo cung
cách Nhật nhưng nhìn chung vẫn nằm trong sự qui hoạch sẵn có của chúa Nguyễn, vẫn
nằm trong khuôn khổ pháp luật của nhà Nguyễn. Cũng đồng thời điểm này, người Nhật
cũng đã đến Siam và cũng lập nên những khu phố như thế, nhưng họ lại can thiệp quá sâu
vào hoạt động chính trị của chính quyền sở tại. Trong khi đó, tại Hội An, các thương gia
chủ yếu quan tâm đến công việc làm ăn, kinh doanh của mình và ít khi tham gia vào các
hoạt động chính trị của nhà cầm quyền. Do đó, họ dành được sự ưu ái của chính quyền
chúa Nguyễn Đàng Trong. Và vì có mối quan hệ tốt với chính quyền sở tại, lại đi sâu nắm
vững những nguồn hàng vốn có của địa phương, đồng thời, người Nhật nắm trong tay
đồng tiền mạnh (lúc đó, Nhật là nước sản xuất bạc, đồng lớn nhất, tiền bạc, tiền đồng của
họ được thợ thủ công, những người buôn bán và chúa Nguyễn rất ưa chuộng) nên họ
giành đựơc quyền chủ động trong các hoạt động kinh tế. Vị trí nổi bật đó khiến thương
gia các nước khác khó có thể thâm nhập và cạnh tranh với người Nhật. Vai trò của người
Nhật tại Hội An đã gây tiếng vang lớn trong giới thương nhân nước ngoài tại Hội An như
Bồ Đào Nha, Hà Lan,Trung Quốc… và người Nhật nhanh chóng trở thành đối tượng
cạnh tranh chính đối trọng với thương gia các nước. Đầu thế kỷ XVII, một thương nhân
Bồ Đào Nha than vãn: “Gần đây, tại xứ Đàng Trong đã bắt đầu một thứ mậu dịch rất bất
lợi đối với người Bồ, ta thấy thương nhân Trung Quốc đem rất nhiều tơ lụa tới đó rồi
người Nhật mua hết chở về nước họ”. Các Nhật thương còn làm môi giới mậu dịch giữa
người Việt và người châu Âu, họ nắm ưu thế về nguồn hàng bằng cách bao tay sản phẩm
mua từ người sản xuất quanh năm, sau đó bán lại cho các thương nhân ngoại quốc khác.
Những hoạt động trên tất nhiên phụ thuộc rất nhiều vào vị Tổng bang trưởng người Nhật
tại Hội An. Hoạt động kinh tế năng động của các thương gia Nhật Bản đã gây khó khăn
cho chủ trương “đa phương”, tranh thủ nhiều mối quan hệ của chúa Nguyễn. Năm 1634,
23


tàu buôn Hà Lan đã đem đến Hội An một số vốn lớn nhưng do sự lấn áp của các thương
gia Nhật Bản, nên họ chỉ có thể đâù tư vào việc mua bán hàng hoá là 37.403 trong tổng
số 57.827 florin bạc. Trong hoạt động buôn bán thương mại, có thể nói người Nhật đựơc

chúa Nguyễn ưu ái một cách đặc biệt qua các biểu thuế xuất, nhập của Ty tàu vụ được Lê
Quí Đôn chép lại trong sách “Phủ biên tạp lục” về việc quản lý thương thuyền ra vào phố
cảng Hội An như sau: “Tại các làng Minh Hương ở Hội An, Cù Lao Chiêm, Cẩm Phố,
Làng Câu thì có chức quan Sai ty thái bảo, hễ tàu nước ngoài đến xứ Quảng Nam, vào
cửa biển Đại Chiêm đến phố Hội An hay vào cửa biển Đà Nẵng đến xứ Lưu Câu mà buôn
bán thì phải nạp các hạng thổ vật và phải nạp thuế nhập xuất theo lệ định…”
Qua bảng thuế suất, có thể thấy tàu buôn Nhật Bản cũng bị đánh thuế ở mức khá cao,
nhưng thực ra thì không phải vậy, chúa Nguyễn thực sự đã dành rất nhiều ưu ái đối với
người Nhật. Vì sao lại có thể nói như vậy? Đối chiếu với số liệu về lượng hàng hoá mà
các tàu nước ngoài chở đến Hội An do nhà nghiên cứu Iwao Seiichi tính toán có thể thấy
mức thuế khác nhau giữa các tàu là do trọng lượng hàng hoá qui định. Theo ông, thuyền
Shuinsen trung bình chở 500 tấn hàng, tàu Hà Lan chỉ chở có 250 tấn, còn tàu Trung
Quốc chỉ chở được 110 tấn. Như vậy, tàu Nhật có lượng hàng gấp đôi tàu Hà Lan và gấp
4 lần tàu Trung Quốc. Trong khi tàu Hà Lan bị đánh thuế bằng tàu Nhật, tàu Trung Quốc
phải nộp bằng 75% mức thuế của tàu Nhật (3300 quan kể cả nhập lẫn xuất) trong khi
lượng hàng hoá họ chở chỉ bằng 25% lượng hàng hóa của tàu Nhật Bản.
Những năm 20-30 của thế kỷ XVII, Nhật thương đến Hội An ngày càng đông, không đơn
thuần chỉ vì lý do buôn bán, giao lưu kinh tế mà còn vì lý do tôn giáo. Năm 1614, Shogun
Daifusama ra lệnh trục xuất các giáo sĩ ra khỏi lãnh thổ của họ thì những người Nhật theo
đạo Thiên Chúa bắt đầu đến Đàng Trong ngày càng đông hơn. Alexandre de Rhodes cho
biết: “Họ đến từng toán lớn, nhất là vào tháng ăn chay, ngoài thời gian đó, họ còn đến ba
hay bốn lần để xưng tội với các cha biết tiếng Nhật và nhận lễ ban thánh thể. Họ đến mỗi
lần ba, bốn thuyền đầy”. Trái ngược với một số nước trong khu vực thời kì bấy giờ đôi
khi sợ hãi và ra sức cấm đoán đạo Thiên Chúa do người phương Tây du nhập vào đất
nước của họ, chính quyền nhà Nguyễn ở Quảng Nam lúc bấy giờ lại ra sức kêu gọi, thu
24


hút các thương thuyền nước ngoài đến đây làm ăn, buôn bán. Thậm chí, chính quyền
Đàng Trong còn chủ trương khoan dung tôn giáo, và thái độ của người dân nơi đây cũng

đóng một ý nghĩa quan trọng trong việc nhiều thương nhân và người nước ngoài đến đây.
Đến Đàng Trong năm 1621, Christophorro Borri viết: “Tất cả những nước phương Đông
đều cho người châu Âu là những kẻ xa lạ và dĩ nhiên họ căm ghét chúng tôi đến nỗi khi
chúng ta vào lãnh thổ họ thì tất cả đều bỏ trốn. Thế nhưng trái lại, ở xứ Đàng Trong, họ
đua nhau đến gần chúng tôi, trao đổi với chúng tôi trăm nghìn thứ, họ mời chúng tôi dùng
cơm với họ. Tóm lại họ rất xã giao, lịch sự và thân mật…người ta coi chúng tôi như
những người bạn rất thân và như thể người ta đã quen biết chúng tôi từ lâu. Đó là một
cánh cửa rất tốt đẹp mở ra cho các nhà truyền giáo của Chúa Kitô đến giảng Phúc Âm” 13.
Bởi thế, khi người Nhật dần trở thành những thương gia giàu có tại Hội An, những cư dân
bản địa ở đây không hề có xích mích gì với cộng đồng Nhật sống trên mảnh đất của họ.
Không những thế, người Nhật còn bắt đầu chiếm những vị trí xứng đáng trong cộng đồng
cư dân Hội An và trong cả chính quyền phong kiến nhà Nguyễn. Từ chỗ là một bộ phận
trong thị trấn, người Nhật dần chiếm đa số và có thế lực hơn cả người Hoa đã đến Hội An
trước đó. Có lúc, Tổng bang trưởng Hội An là người Nhật, những thương gia nước ngoài
khác đều phải chịu sự chi phối của vị tổng bang trưởng đó. Theo Iwao Seiichi thì trong
thời gian 1604-1622, vị tổng bang trưởng khu phố Nhật Bản ở Hội An là Funamoto
Yashichido đã 9 lần được Mạc phủ cấp giấy phép đến Đàng Trong. Nhằm khẳng định vai
trò của ông, trong bức thư gửi hai quan đại thần của chính quyền Edo là Honda
Matsuzumi và Doi Toshikasu, chúa Nguyễn Phúc Nguyên đã viết rằng: “Năm trước, quí
quốc ra lệnh đẻ Funamoto Yashichido tới đây để quản lý những người Nhật tôn trọng luật
pháp. Bây giờ, nhiều kẻ tiểu nhân không theo pháp lệnh trước mà nổi loạn, gây ra nhiều
trắc trở, các thương nhân khó quản lý. Tôi nhớ cái ân cũ bên Nhật, xin ra lệnh cho
Funamoto lấy giấy Shuinjo tự đến để thực hiện nguyện vọng của mình” 14. Trong thư trả
lời, hai vị đại thần cũng khẳng định: “Những thương nhân Nhật Bản sang Giao Chỉ phải
chịu sự quản lý của Funamoto Yashichido, nếu có kẻ nào làm trái pháp luật Giao Chỉ sẽ
13 Christophoro Borri (1998), Xứ Đàng Trong năm 1621, NXB TP.HCM, trang 49
14 Tập thể tác giả (2001), Những vấn đề lịch sử Việt Nam, Nguyệt san Xưa và nay, NXB Trẻ, trang 110 - 111

25



×