Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

tl LỊCH sử TRIẾT học TRUNG QUỐC về quan điểm”dân vi quý, quân vi khinh” của mạnh tử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (209.23 KB, 18 trang )

Chuyên đề số 3:
Về quan điểm”dân vi quý, quân vi khinh” của Mạnh Tử
MỞ ĐẦU
Lí do chon đề tài
Dưới ách đô hộ của thực dân Pháp dân ta vô cùng lầm than , cực khổ .
Biết bao phong trào yêu nước đã diễn ra : ‘ phong trào Cần Vương , phong trào
của cụ Phan Châu Chinh , Phan Bội Châu … tất cả đều thất bại và bị dìm trong
bể máu . Đến năm 1911 một ánh sáng đã loé lên cho dân tộc ta , người con đất
Nghệ đã từ cảng Sài Gòn ra đi tìm đường cứu nước với cái tên là Nguyễn Tất
Thành . Sau bao nhiêu năm buôn ba khắp năm châu bốn bể người đã về nước
triệu tập hội nghị thành lập đảng ( 6-1 đến 7 -2 năm 1930 ) Dẫn đến sự ra đời
của đảng cộng sản Việt Nam một bước ngoặt cho toàn thể dân tộc Việt Nam .
Đảng ra đời kết hợp với phong trào công nhân và phong trao yêu nước đã đưa
chúng ta qua hai cuôc kháng chiến chống Pháp và Mỹ đến với nước ta với thắng
lợi hoàn toàn . Với một nước mà bọn thực dân Pháp coi là anamít đó ngoài có
đảng cộng sản cầm quyền và và với phong trào công nhân như các nước phe xã
hội chủ nghĩa khác thì Việt Nam có thêm phong trào yêu nước ,biết kết hợp sức
mạnh của toàn dân hay còn gọi là chiến tranh nhân dân đó đã sử dụng sức mạnh
toàn dân đi đánh giặc . Đây là một thứ vũ khí bất khả chiến bại của nhân dân ta
để đánh tan hai đế quốc lớn đó là : Pháp và Mỹ . Ấy thế mà thời gian vừa qua
một số kẻ đã lợi dụng chức quyền để uy hiếp để hại dân , vụ của ông Đoàn Văn
Vươn ở Tiên Lãng - Hải Phòng là một ví dụ điển hinh hay gần đây nhất là vụ
quán ca fê quán “Xin Chào ” tại huyện Bình Tránh – Thành Phố Hồ Chí Minh
và còn nhiều vụ khác nữa như án oan sai ,bắt nhầm hay chạy chức chạy quyền ,
tham ô tham nhũng …vẫn biết chỉ là con sâu làm sầu nồi canh nếu cơ quan
chức năng không can thiệp kịp thời thì sẽ ra sao cho người dân , mất lòng tin
trong nhân dân là khó tránh khỏi . Dân là cái gốc là cái cốt của mọi thành công
mọi thắng lợi ấy thế mà một vài con sâu phần tử xấu đã lợi dụng chức vụ quyền
hạn của mình để làm điều mình muốn mà không cần biết đúng hay sai .

1




Phần I: Giới thiệu tác giả Mạnh Tử
Quay lại mốc thời gian hơn 2000 năm trước chúng ta đã bắt gặp một tư
tưởng lớn lấy dân làm gốc “ dân vi quý , xã tắc thứ chi , quân vi khinh ” đó là tư
tưởng của Mạnh Tử thời bấy giờ vẫn còn nguyên giá chị cho chúng ta ngày nay
nhất là thời đại đất nươc ta đang trên con đường đất nước tiến lên xã hội chủ
nghĩa một đất nước : “ của dân ,do dân và vì dân ” . Chúng ta hãy cùng tìm hiểu
sâu xa hơn về tư tưởng “dân vi quý , quân vi khinh ” của Mạnh Tử nhé !
Mạnh Tử được coi là những đại biểu xuất sắc của phái Nho Gia - thời
xuân thu chiến quốc . Thời chiến quốc đã xuất hiên nhiều trường phái triết học
đại diện cho lợi ích của giai cấp là khác nhau trong xã hội , đấu tranh với nhau
không kém phần găy gắt và quyết liệt . Mạnh Tử là một trong những triết gia lớn
thời đó , chủ trương chống lại kiêm ái của Mặc Gia và chủ nghĩa tự nhiên vô vi ,
vị ngã của đạo gia , phát triển tư tưởng triết học đạo đức của Khổng Tử theo
khuynh hướng duy tâm chủ nghĩa
Mạnh Tử ( người đời sau tôn xưng là Mạnh Tử ) tên khai sinh là Mạnh
Kha ,tự là Tự Dư người dòng dõi Lỗi Công người ấp Ấp Châu . Ông sống vào
khoảng năm 370 đến 390 trước công nguyên , từ nhỏ nhỏ ông đã được giáo dục
theo lễ giáo phong kiến rất chặt chẽ . Lớn lên Mạnh Tử theo Tư Tử - cháu nội
của Khổng Tử , là hoc trò của trò của Tăng Sâm . Tăng Sâm lại là học là học trò
của Khổng Tử , khi còn sống Khổng Tử đã nhiều lần chửi Tăng Sâm là ngu đần
và ông không được yêu mến . Khi Khổng Tử mất uy tín của Tăng Sâm ngày
càng được nâng cao và càng nhiều người theo . Tăng Sâm và Tử Tư cùng học
trò của mình là Mạnh Tử trên danh nghĩa là bảo vệ Nho Gia ,bảo vệ học thuyết
của Khổng Tử nhưng thực chất là khuyếch đại những điểm hạn chế của Khổng
Tử , giả thích sai lệch biến học thuyết của ông thành học thuyết mang tính chất
duy tâm thần bí . Nếu như trước diễn biến phức tạp của xã hội Khổng Tử đã tích
cực cho rằng “ hành ” , cho rằng “có thể làm được” đi các nơi thuyết khách để
thực hiện chủ trương của mình cải lương của mình thì Tăng Sâm lại lảng tránh

việc thực hiện , tìm con đường nội tỉnh ,tự suy xét , tự kiểm điểm mình về đạo
đức hiếu thảo , coi đó là niềm vui duy nhất . Là người có tài hùng biện , Mạnh
Tử lớn lên đi các nước truyền đạo để bảo vệ và phát triển tư tưởng Khổng Tử .
Lúc về già Mạnh Tử quay về quê hương để dạy học , đồng thời ông cùng các đệ
tử của mình làm lên “ Vạn Chương ” , “ Công Tôn Sơn ” … lấy lí tưởng và hoài
bão của mình viết thành bảy chương của Mạnh Tử . Mục lục của các thiên này
2


gồm : Lương Hệu Vương , Công Tôn Sửu , Đằng Văn Công , Li Lâu , Vạn
Chương , Cáo Tử và cuối cùng là Tận Tâm . Môĩ thiên có hai phần trước và sau ,
tổng công có 14 chương ghi lại những lời nói và tích của Mạnh Tử để giáo dục
và giúp người đời sau có thể hiểu rõ tư tưởng chu yếu của ông và bày tỏ thái độ
của ông với vua các nước chư hầu . Lúc xã hội đương thời có nhiều học thuyết
chống lại hoc thuyết của Khổng Tử chỉ có Mạnh Tử và Tuân Tử vẫn tiếp tục
nghiên cứu nho giáo bảo vệ hoc bảo vệ học thuyết của Khổng Tử và nâng nó lên
thành tầm cao mới .

3


Phần II : Người có ảnh hưởng lớn tới tư tưởng Mạnh Tử
Ông đã kế thừa rất nhiều tư tưởng của Khổng Tử - Là người đã có tư
tưởng anh hưởng trược tiếp tới Mạnh Tử , là nguồn gốc cho sự phát triển của
Nho Gia . Khổng Tử tên là Khâu , tự là Trọng Ni sinh năm 551 trước công
nguyên trong một gia đình quan võ của triều đình nươc Lỗ . Lớn lên trong cảnh
xã hội Trung Hoa loạn lạc triền miên , các vua chúa chuyên tâm hưởng thụ hoặc
chém giết lẫn nhau để xưng hùng xưng hùng xưng bá , dạo lí nhân luân xáo
trộn ,vinh nhục không rõ ràng , ác thiện khó phân biệt . Được gia đình dạy bảo
chu đáo Khổng Tử muốn đem tài sức của mình để giúp thế lực cầm quyền bình

định thiên hạ . Ông đã chu du nhiều nước nhưng không được trọng dụng . Cuối
đời ông thấy thật bất lực việc làm chính trị , ông về quê dạy học ,san định Dịch ,
Thi , Thư ,Ngũ , Nhạc của cổ nhân ; viết sách xuân thu để bộc lộ quan điểm của
mình . Nhiều quan điểm của ông được thể hiện qua các buổi toạ đàm mà nội
dung của nó được trình bày trong “ luân ngữ ” do học trò của ông chép lại . Sau
khi Khổng Tử mất nhất là khi chính sách đốt sách chôn nho của Tần Thuỷ
Hoàng thì Sách của Khổng Tử chẳng còn là bao . Sau khi đạo nho được khôi
phục thời Hán Vũ Đế , sách Nhạc chỉ còn lại một thiên và được cho vào bộ Lễ
gọi là thiên “ nhạc ký” . Những sách khác được người đời sau siêu tầm bổ sung
tạo thành năm kinh là : Kinh Dịch , Kinh Thư , Kinh Lễ , Kinh Thi và Kinh
Xuân Thu . Ông chịu rất nhiều các quan niêm của người Trung Quốc cổ và
những quan điểm trong nhân gian . Các tư tưởng của ông qua học thuyết nhân ,
lễ , chính danh . Qua đó chính danh là quan trọng nhất , trong đó ông xác định
5 mối quan hệ chính là vua tôi , cha con ,chồng vợ ,anh em ,bạn bè . Trong đó
ông nhấn mạnh đến mối quan hệ Vua tôi và cha con Khổng Tử cho rằng : con
người ta sinh ra có tính bản thiện . chủ cương dùng đạo đức để trị vì thiên hại
được điều nhân của mình qua học thuyết tính thiện “nhân chi sơ tính bản thiện”
ông đã thể hiện rõ điều đó ông đã thể hiện phát triển tư tưởng của ông Mạnh
phát triển tư tưởng của ông .

4


Phần III: Nho gia ảnh hưởng tới Việt Nam
Ở Việt Namkỷ thứ I người ta đã tìm thấy những giấu tích từ Nho Giáo
nhưng còn rất hạn chế . băts đầu phát triển mạnh từ năm 1938 - chiến thắng
Bạch Đằng Ngô Quyền Đánh bại quân Nam Hán nó đã được phát triển lên thành
quốc sách để từ đó xây dựng nên nhà nước trung ương tập quyền ,tuy nhiên các
nhà nước trung ương tập quyền đầu tiên vẫn chưa có gì gọi là nổi trội cả . Mãi
đên năm 1010 Lý Công Uổn rời đô về thành Thăng Long , năm 1070 cho xây

dựng văn miếu Quốc Tử Giám - trường đại học đầu tiên của Việt Nam , nơi đây
thờ Khổng Tử ông tổ của đạo nho . Năm 1075 nhà Lý đã cho xây dựng khoa thi
đầu tiên không phải là dòn dõi quý tộc mà là chọn người hiền tài trên cả nước ,
đây không chi coi là bước ngoặt về giáo dục mà nó còn được coi là bước ngoặt
về chính trị mạnh lần đầu tiên con em dân thường mà có tài có thể lam quan và
được trọng dụng . Đến năm 1156 nhà Lý cho lập văn miếu riêng thờ Khổng Tử ,
Khổng Tử từ một vị thầy đã trở thành một vị thánh điều này cho thấy nhà Lý đã
muốn xây dựng nho giáo thành một đạo lý động lập . Nhà lý là một trong những
triều đai phát triển nhấtv ở Việt Nam và cả trong khu vực bằng cách trọng dụng
người tài qua các khoa thi và mở rộng giao lưu buôn bán trong cả nước và nước
ngoài . Sang đến đời Trần tuy có ảnh hưởng mạnh mẽ bởi Phật giáo nhưng nho
giáo vẫn tiếp tục phát triển do yêu cầu tuyển chon người tài để tổ chức quản lí
hành chính xã hội và tổ chức bộ máy hành chính nhà nước , sự phát triển của
nho giáo còn gắn liền với sự phát triển văn hoá , giáo dục . Nhà Trần còn cho lập
Quốc Học Viên , đắp tượng Khổng Tử Chu Tử và Mạnh Tử và vẽ 72 người
hiền tài còn xuống chiếu với nho sỹ trong nước đến giảng QuôcTử Viên để
giảng tứ Thư ngu kinh. Thời kỳ này do ảnh hưởng mạnh của phật giáo nhiều nhà
chùa đền thờ đã mọc lên tăng lữ ngày càng nhiều có ảnh hưởng rất lớn đến
nguồn phát triển của đất nước , các nho sĩ thời này đã lên tiếng đấu tranh chống
lại sự phát triển nở rộ của đạo phật - đạo mà nhà vua tôn sùng tiêu biểu là Lê
Quát đã lên tiếng : “ nhà chùa lấy điều hoạ phúc để mê chuộc lòng người , Lê
Văn Hưu ông coi nho giao là một cơ sở lý luận để chống lại tầng lớp quý tộc và
tôn giáo . Đến cuối thế kỷ XIV đạo phật suy yếu dần và nho giao vẫn trên đà
phát triển vì chế độ quân chủ chuyên chế . Các đời nhà vua Lê rất sùng bái đạo
nho ,coi đó là dương lối đẻ trị vì quốc gia . Sang thời Lê Thánh Tông nho giáo
đạt tới đỉnh cao của sự thịnh vượng , ông cho làm lễ cúng Khổng Tử ở Văn
Miếu , 1442 khoa thi tiến sỹ đã diễn ra và đây là dấu mốc quan trọng đánh dấu
5



bước động lập của nho giáo . Đến thời nhà Nguyễn nho giao vẫn tiếp tục phát
triển tuy nhiên từ khi thực dân Pháp sang sâm lược nước ta thì nho giáo bị đả
kích và bị loại ra khoải trương trình giáo dục tuy nhiên nó vẫn ảnh hưởng rất lớn
đến các cụ Phan Bộ Châu , Phan Châu Trinh , Nguyễn Thái Học và Hồ Chí
Minh …

6


Phần IV : Nội dung chính
Ông Trong việc chính trị , ngoài việc lấy nhân nghĩa làm gốc. “ dân là
quý , xã tắc là thứ , vua là thường” , trước tiên là lấy dân làm gốc sau đó mới
đến xã tắc cuối cùng là vua .thì đòi hỏi các thế lực cầm quyền phải dành tâm
dành lực cho nhân dân . Ông thường nói với các bậc vua chúa thời bấy giờ : ưa
sắc đẹp không hại ; ưa của cải ,không hại ưa diền thổ không hại ; ưa săn bắn
không hại .Nhưng phải nhớ khi đang ưa sắc đẹp đang còn cảnh vợ chồng phân li
; trong lúc ưa của cải phải nhớ trong nước có cảnh lầm than đói khát ; trong lúc
xua quân đi săn bắn phải nhớ cảnh anh em vợ chồng cha con đang khổ . Nếu
người biết vui cái vui của dân thì dân cũng biết vui cái vui của mình . Vì thiên
hạ mà vui , vì thiên hạ , vì thiên hạ mà no những người như thế mà làm đế
vương thì xưa nay chưa có . cũng vì dân Mạnh Tử đã đưa ra chính sách bảo dân
mà theo ông có thể áp dụng với mọi thế lực cầm quyền , Nội dung chính sách
này ông nói phải đưa ra chế độ điềm địa và chế độ giáo hoá dân.
Mạnh Tử chủ trương giáo hoá dân . Đó cũng là nhiệm vụ rất chủ yếu
của phép trị nước . Ông viết : “ Muốn trị nước , vua lên thi hanh một cải cách
nhân hệu chế độ điềm địa và chế độ điềm địa và chế độ giáo hoá dân , dẫu sau
này bậc thiên hạ ra đời mà gồm thâu thiên hạ , Ắt cũng giữ theo hai phép ấy”
(Mạnh Tử , Đằng văn công thượng ) .
Để giáo hoá dân , nhà nước cần lập nên những trường từ làng xã
đến kinh đô để dạy dân về tri thức , đạo lí , phong tục võ nghệ gọi là tường

,tự ,hiệu ,học . Tường là trường dạy cho người dân biết được sự kính nhường và
phụng sự người già cả. Tự là trường dạy cho người dân biết bắn cung . Hiệu là
trường dạy người dân về phong hoá đạo đức . Đó là những trường làng mà nhà
hạ gọi là hiệu , nhà Ân gọi là tự , nhà Chu gọi là tường . Còn trường quốc học
tưc là trường kinh đo cả ba triều đại Hạ , Thương , Chu đều gọi là học . Trong
tất cả các trường đều dạy cho người ta những đạo lí nhân luận . Như một sự tổng
quát về phương pháp trị nước , Mạnh Từ đã rút ra kết luận : “ chính trị hay thì
dân sợ mà tuân theo , giáo hoá hay thì dân yêu mà kính phục. Chính trị hay thì
được của dân giáo hoá hay thì được lòng dân” ( Mạnh Tử , Tận tâm thượng ) .
Như vậy cái cốt yếu nhất trong đạo trị nước là lấy nhân nghĩa xuất phát
từ lòng chẳng nỡ của bậc vương giả làm cơ sở . Chính Mạnh Tử đã nói : mọi
người đều có lòng chẳng lỡ . Các vua trước có lòng chẳng nỡ lên có lòng chẳng
lỡ đối với người ( Mạnh Tử , Công Tôn sửu thượng )
7


Về điềm địa Mạnh Tử ông hết sức coi trọng ruộng đất phục vụ dân
sinh . Với ông ,làm “nhân chính” trước hết là phải phân lại địa thổ để ruộng đất
được phân phát công bằng thế khoá rõ ràng để khuyến khích nhà nhà trồng trọt ,
chăn nuôi trên mảnh đất được chia . Mạnh Tử cho rằng chế độ hợp lí nhất là chế
độ “tỉnh điền” . Theo chế đọ này mỗi vuông được chia thàng chín mảnh . Phần
giữa là công điền còn 8 phần xung quanh chia cho 8 gia đình , Ngoài việc dùng
mảnh đất của mình thì phải cùng nhau cày cuốc công điền để nộp hoa lợi cho
nhà nước .
Nếu so với cương lĩnh chính trị đầu tiên của đảng ta thì ruộng đất sẽ
được chia cho dân cày nghèo . Để từ đấy họ có thể làm ăn , một sự quan tâm dân
thực sự là cần thiên . trong 8 phần chia cho các gia đình còn một phần thì vào
hoa lợi của nhà nươc – thời nay gọi đó là thếu , mọi công dân đều phải thưc hiên
quyền và nghĩa vụ của mình để xây dưng tổ quốc và phát triển đươc gia đình .
Thật phù hợp với thời nay – một thời đại tiên tiến .

Bất kỳ một bậc thiên hạ nào mà muốn trị vì thiên hạ tốt thì cũng phải
giữ hai phép ấy.
Quan niệm về thiên hạ : Mạnh Tử thiên hạ là của chung chứ không
phải là của riêng ai , của riêng ông vua nào cả . Quyền cai trị của vua là do trời
ban , tức là do nông dân ứng thuận mới được làm vua . Quan điểm của ông hơi
có phần duy tâm , nhưng thay vào mệnh trời bằng ý trí của nhân dân thì điều đó
thật đúng với thời đại ngày nay . Loại trừ một số nhà nước thời nay theo chính
sách quân chủ lập hiến còn tất cả những nước theo chế đô tam quyền phân lâp
( nước theo đường nối chế độ tư bản và theo chế độ vô sản ) thì là hoàn toàn
đúng . Nhà nước đều dựa trên sự nhất trí và bình bầu của nhân dân .
Mạnh Tử chủ trương duy dân bởi vậy trong đường lối trị nước ông
coi trọng ,phép công phú vận sức mạnh của quyền thế mà nêu cao vai trò của
người dân trong điều hành xã hội . Ông cho rằng phép công quy định thì là vua
và quan dân đều phải tôn theo vô điều kiện . Thời nay đây chính là pháp luật bắt
buộc đối với mọi công dân không kể địa vị xã hội là ai cho dù họ có là ai đi
chăng nữa vẫn phải tôn theo pháp luật .
Mạnh Tử nhấn mạnh vai trò của vua trong mối quan hệ với dân , vai trò
đấy thể hiện người làm vua phải luôn quan trọng đến hạnh phúc của dân cùng
với dân hưởng vinh hoa phú quý cũng như chia sẻ khó khăn hoạn nạn . Mạnh Tử
nói : “ người vui cái vui của dân thì dân cũng vui cái vui của mình , người lo cái
8


lo của dân thì dân lo cái no của vua . Vì thiên hạ mà vui , vì thiên hạ mà lo
không làm vương thì chưa có vậy . Quan điểm nay rất phù hợp với xu thế ngày
nay , Hồ Chí Minh của nước Việt Nam đấy đã nhịn mỗi bữa một bát cơm vào
hũ gạo cứu đói của cả nước- Người đã đau cái đau của cả nước, thương cho
nhân dân . Một cuộc sống thật giản dị mà lại thanh cao . Người đã thực sự chăm
no cuôc sống nhân dân và đáp lại tình cảm đó cả dân tộc Việt Nam cho dù là
già, trẻ, gái, trai đều gọi người với cái tên thân mật vị cha già dân tộc .

Với Mạnh Tử ,người làm vua phải chỉ cho dân ,dạy dỗ cho dân khiến
cho dân sung túc đó mới đích thực là việc làm của bậc quân vương . Làm vua
không phải chờ dân làm sai với quy định ra trừng phạt . Mạnh Tử nói : nếu làm
như vậy là lừa dân chứ không phải là chăm dân . Nếu như áp dụng vào tình hình
luật giao thông đường bộ hiên nay của ta thì đôi luật không phù hợp với thực tế
cho lắm “ cảnh sát giao thông có quyền chưng dụng tài sản của người tham gia
giao thông , xe ngày le thì đi vào ngày lẻ còn xe ngày chẵn thì đi vào ngày chẵn
…” May mà những quy định đó đã được sửa kịp thời phù hợp với ý chí và
nguyện vọng của nhân dân .
Nếu ông vua nào không lấy nhân nghĩa là gốc không có lòng với mọi
người , chỉ vui thú hưởng lợi lộc riêng , sống tà dâm bạo ngược , để dân lầm
thân đói khổ , thì đó là ông vua bất nhân nhĩa là gốc không có lòng chăng nỡ
đối với mọi người , chỉ vui thú hưởng lợi lộc riêng , sống tà dâm bạo ngược , để
dân lầm than đói khổ , thì đó là ông vua bất nhân , là ‘bá đạo’ chứ không phải là
‘vương đạo” những người ấy không phải là vua là tặc là một tên. Ông nói người
hại dân nghĩa là tặc , người làm hại nghĩalà tàn . Người tàn tặc là một tên không
ra gì .Ta nghe nói giết tên vua Trụ chứ không ai nói là giết vua Trụ ( Mạnh Tử ,
Lương Hệu Vương Thượng ) . Chủ trương chính trị của Mạnh Tử còn thể hiện ở
chỗ nếu bậc làm vua bao ngược , không chăm lo đời sống nhân dân thì có thể bị
phế bỏ để lâp vua mới- (đây là một xu hướng rất phù hợp với tiến bộ đương thời
xuất thân bình dân lên mới có địa vị ngang hàng ) bởi vậy ông quan niệm làm
chính trị có hai đường : nhân và bất nhân . Dùng nhân mà trị thiên hạ là phải đạo
, dùng bất nhân mà trị thiên hạ là trái đạo . Ông nói : “thiên hạ có đạo thì đức
nhờ thời đức lớn , người hiền nhỏ làm tôi tớ người hiền lớn . Thiên hạ mà không
có đạo kẻ có đạo làm kẻ tôi tớ của kẻ lớn , kẻ yếu làm tôi tớ cho kẻ mạnh . Vậy
thuận đạo trời thì còn trái đạo trời thì mất . Theo dòng lịch sử Việt Nam Trần
9


Phế Đế vua quỷ (1361 – 1388) , Lê Uy Mục-“ vua hèn’’ (1488 –1509) , Lê

Tương Dực – “Vua lợn” tất cả những tên vua đó đều bạo ngược hại dân , không
đươc lòng dân lên bọn chúng cuối cùng đã nhận được cái kết sứng đáng đó là cái
chết và cái tiếng muôn đời .
Mạnh Tử quan niệm chế độ mệnh trời trên dưới rõ ràng . Trật tự trên
dưới phải dựa vào lễ , vào sự đối đáp thuận theo đạo đức mà thi hành . Ông nói
“vua xem bè tôi như tay chân thì bề tôi xem vua như gan ruột . Vua xem bề tôi
như chó ngựa thì bề tôi xem vua như người lạ , trong nước vua xem bề tôi như
cỏ như đất thì bề tôi xem vua như thù”.
Xuất phát từ quan điểm nhân chính và quan điểm dân vi quý ’ cùng với
việc tận mắt chứng kiến cảnh chiến tranh tàn khốc giưã các nước chư hầu thôn
tính lẫn nhau , Mạnh Tử tỏ thái độ căm ghét chiến tranh và phê phán kịch liệt
chiến tranh sâm lược cũng như những kẻ đã gây lên cuộc chiến tranh và những
kẻ đã gây lên cuộc chiến tranh này . Ông nói : Vua làm nhân chính mà làm giàu
cho mình , Khổn Tử đã cho là bậy , huống chi là gây chiến đánh nhau để tranh
đất , giết người thây chất đầy đống ; đánh nhau mà tranh giành đánh nhau mà
thay chất đầy thành , như thế gọi là đất ăn thịt người , đem xử tử còn chưa hết
tội . Cho nên kẻ thiên chiến chịu tội nặng nhất , kẻ liên hiệp chư hầu đánh nhau
chịu tội nhẹ hơn , kẻ bắt dân đi phá rừng còn chịu tội nhẹ hơn nữa ( Mạnh Tử ,
ly lâu , thượng 14 ) . Mong ước ca ngợi chế độ chính trị lí tưởng là ngôi thiên
tử phải là người có tài đức phải thuộc về người có tài đức của các bậc thánh
nhân trị nươc theo mệnh trời . Mạnh tử cương quyết chủ trương phế bỏ những
ông vua hại nước , hại dân . Nếu vua là một kẻ bạo chúa thì cóa thể giết để đổi
mệnh vua . Trong điều kiên lúc bấy giờ mà mạnh tử đòi chuất ngôi vua đạo thể
hiện lòng dũng cảm ý chí khẳng khái và lòng nhân bản cuả ông . Ông nói ‘vua
chư hâù nào xã tắc đều bị thay thế , vua khác được lập nên’’(Mạnh Tử tam hạ )
việc đổi mệnh vua theo mạnh tử là có 3 trường hợp .
Một là chốt ngôi vua khi Tề tiên vương hỏi về đạo nghĩa quan
khanh ,ngoài dòng họ với vua Phải can gián . Can gián nhiều lần mà vua không
nghe thì họ lên trả trức tước cho vua mà đi .còn quan khanh trong dòng họ vua
thấy vua có lỗi lớn cũng phải hết lòng can dán mà can gián không được thì dong

tộc họp lại để để mà chuốt vua thay ngưới khác lên ( Mạnh Tử Vạn Chương
Hạ )
10


Trường hợp thứ 2 , hiền thần dù không phải trong tôn thất nếu thấy vua
tàn bạo xa hoa , dâm đẵng cũng có thể phế cũng có thể chế xuất vua . Như
trường hợp y doãn nhiếp chính nhà thương đã dời ngôi vua Thái Giáp - hạng
người không tôn thận nghĩa lí ra đất đồng mà sống dân mừng rỡ ( Mạnh Tử ,vạn
chương hạ ) . cao hơn nữa bậc hiền thần nếu thấy vua hung bạo , tàn ác có thể
giết vua mà lên ngôi u. Như vua Thang . Giết vua Kiệt nha Hạ , vua vũ giết vua
Trụ nhà Thương , hai ông đã thay ý trời mà trừ bạo chúa .
Cách nhận ngôi thứ 3 này nếu có đủ ba điều kiện mới coi là hợp lí :
Điều kiện thứ nhất là giết vua lên ngôi phải theo ý dân . Dânphải tỏ lòng oán
thán chính sách bạo ngược của vua chúa và mong thượng hiền lên thay . Điều
kiệm thứ 2 là giết vua lên ngôi phải thuân theo ý trời . Như vua Thang giết vua
kiệt có nói : “ trời giáng tai Ương cho kiệt để tỏ rõ tội lỗi của hắn…ta theo mệnh
trời mà tỏ rõ uy của trời , nên không dám tha hắn” ( kinh thư , thang cáo ) . Điều
kiên quan trong nhất để giết vua là người lên ngôi thật sự là hiền tài , được dân
chú trong tin tưởng như vua Thang nhà Thương , vua Vũ nhà Chu trước kia .
Tổng kết lại toàn bộ lịch sử , Mạnh tử đã chia đạo trị nước của vua chúa
ra làm hai loại , hai phương pháp đối lập nhau . Đó là vương chính và bá chính .
Vương chính là đạo trị nước của vua tài ba , đức độ lấy nhân nghĩa làm gốc của
việc chính trị . Trái lại bá chính là cai trị bằng bạo lực , đem binh hùng tướng đi
chinh phục các nước , lại mượn tiếng mình làm là nhân chính ,vị vua ấy người
ta gọi là bá . Làm bá là cần có một nước lớn … dùng nhân đức mà thâu phục
người , thì người ta vui lòng phục tùng mình một cách thành thật như bảy mươi
hai vị Khổng Tử phục đức Khổng vậy ( Mạnh Tử , công tôn sưu thượng ) .
xuất phát từ đạo nhân chính , “với lòng chẳng nỡ” đối với dân tận mắt
chứng kiến cảnh chiến tranh tàn sát khốc liệt giữa các nưóc chư hầu diễn ra

trong thời chiến qốc , Mạnh tử đã bày tỏ thái độ căm ghét chiến tranh và kịch
liệt lên án chiến tranh sâm lược , thôn tính lẫn nhau giữa các tập đoàn quý tôc
đương thời . Ông thất vọng than rằng bất nhẫn thay vua Hêu Vương nước
lương … vì cố tranh giành đất đai mà làm hại dân , đem quân đi chinh chiến đã
thu to lai toan chinh chiến nữa sợ đánh không thắng mang cả nhưng người thân
của mình đi đánh nữa để mà chết thay vào đó … ( Mạnh Tử , Tận tâm thượng )
“ hiện nay trong thiên hạ chẳng có vị vua nào chẳng ham giết người nổi lên thì
mọi người trong thiên hạ sẽ quay ngẩng cổ trông vè vị ấy tràn trề hi vọng
( Mạnh Tử , Lương Hệu Vương Thượng ) . Vua đã thế, còn những kẻ bề tôi
11


cũng không hướng vua theo con đường nhân nghĩa , chỉ no sửa soạn binh đao đi
chiến nứơc khác , Mạnh Tử kết tội : “ hù theo tội ác của vua mà không can
ngăn là tội nhỏ , súi giụp tội ác của vua là tội lớn . Những quan đại phu thời nay
đèu súi dục điều áccủa vua là tội lớn …”( Mạnh Tử cáo tử hạ ) . “ vua không àm
nhân chính mà chỉ no làm giàu cho vua , Khổng Tử đã cho là tội lỗi huống chi là
vua đi gâychiến . Đánh nhau giành đất thây chết đầy đồng ; đánh nhau tranh
thành giết người thây chết đầy thành . Như thế gọi là cho đ ât ăn thịt người ,
đem xử tọi còn chưa hết tội vậy ( Mạnh Tử , Ly lâu thượng )
Từ đó ông chủ trương khi thiên hạ có đạo thì đem đạo theo thân mà ra
làm quan . khi thiên hạ không có đạo thì dem đạo theo thân về ở ẩn”( Mạnh Tử
Tận Tâm hạ ) . Ông cũng thẳng thắn nói thà ở bậc dưới là dân , không chịu
đem mình là hiền đem thờ ông vua vô đạo” ( Mạnh Tử cáo tự hạ ) . Mạnh Tử đã
nêu ra ba trường hợp lên làm quan và ba trường hợp không lên làm quan ( Sở
tựu tam , sở khứ tam ) như sau : “ được vua nghênh tiếp cẩn và có lễ , tuyên
bố là sẽ làm theo những lời của mình , thì đến làm quan , tuy lễ mạo chưa sút
kém , những lời của mình không thi hành thì bỏ đi” Thế gọi là kiến hành khả
chi sĩ ( tức làm quan vì thấy có thể hành đạo được ) .
Trường hợp thú hai , tuy chưa thi hành lời của mình , nhưng nghênh tiếp

vẫn kính cẩn và có lễ , thì đến làm quan . Lễ mạo xút kém thì bỏ đi . thế goi là
tế khả chi sĩ ( tức là làm quan vì giao tế có lễ )
“ dưới nữa sớm không có gì ăn , tối không có gì ăn , đến lỗi đói quá
không thể ra khỏi cửa , vua nghe biết nói rằng : “ việc lớn ta đã không thi hành
được đạo lý của ngươi , lại không biết nghe theo lời ngươi , khiến người đói khổ
ở đất nước , ta lấy làm xấu hổ lắm” . Rồi vua đem bổng lộc chu cấp cho thì cũng
lên nhận , nhưng cũng nhận để đủ khỏi chết mà thôi . thế gọi là công dưỡng tri
sĩ ( tức là làm quan vì vua biết nuôi dưỡng ) .
Những quan điểm tử tưởng trên của mạnh tử mặc dù ít nhiều đều bị chi
phối lợi ích giai cấp của bọn quý tộc đương thời , nhưng nó cũng là tấm gương
phản ánh rõ nét thực trạng xã hội , xu thế thời đại , cuộc sống khắc khoả và ước
vọng sâu xa của quần chúng nhân dân lao động trung hoa trong thời Xuân thu
chiến quốc .

12


Phần V : Ảnh hưởng của tư tưởng “dân vi quý ,quân vi khinh”
tới chính trị
Có thể thấy tử tưởng lấy dân làm gốc rễ của ông đến nay vẫn còn nguyên
giá trị lịch sử nhất là đối với các quốc gia theo chế độ xã hội chủ nghĩa hay chủ
nghĩa cộng sản tì điều đó càng đúng hơn . Một chế độ của một gia cấp thống trị
là lực lượng đông đảo trong xã hội , là những người dân lao động chân chính ,
là tầng lớp công nhân đại diên những người áp bức bóc lột đứng lên cầm quyền .
Bằng sự đoàn kết của toàn dân dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân họ đã
đứng lên đập tan xiềng sích đập tan chế độ áp bước bóc lột . để khi bước vào
xây dưng đất nước họ vẫn lấy dân là gốc . Các vị lãnh tụ ấy họ luôn sống mãi
trong tim người dân “ Lê nin , Tôn Trung Sơn , Hồ Chí Minh …
Hồ Chí Minh cũng đã kế thừa những tư tưởng của ông , khi lấy tinh
thần đoàn kết là trên hết “đoàn kết là sức mạnh” hay “đoàn kết đại đoàn kết” ,

người đãi biết đoàn kết sức mạnh của toàn nhân dân . Bằng việc đưa chiến tranh
nhân dân là mũi nhọn chính chủ lực vào trong sự nghiệp giả phóng dân tộc Việt
Nam . giặc ( Già trẻ , gái trai , lớn bé hễ là người Việt Nam là đứng lên đánh
giặc ) . Xưa kia việc đánh giặc là của đàn ông ấy thế mà với nghệ thuật chiến
tranh của dân tộc Việt “ Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh” , Từ những cậu bé liên
lạc với nhưng chú bé loắt cái chân thoăn thoắt đó cũng tham gia vào cuộc kháng
chiến . Nhờ công lao to lớn vĩ đại của người đã biết đoàn kết sức mạnh của
toàn dân tộc , nâng cao ý chí của toàn thể nhân dân tham gia đánh giặc nhờ đó
dân tộc Việt Nam đã đến thắng lợi cuối cùng , dẫn đến sự ra đời của nước Việt
Nam dân chủ cộng hoà . Sau đó vẫn tiếp tục sự nghiệp lấy dân làm gốc và hoàn
toàn sự nghiệp giả phóng miền Nam thống nhất đất nước , sau năm 1975 tại kỳ
họp Quốc hội khóa VI đổi tên nước là cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam .
Mục tiêu của nhà nước xã hội chủ nghĩa là “nhà nước của dân , do dân, vì dân”
tức là lấy dân làm nguồn gốc mọi sự phát triển .
Tôi xin kể ra đây một câu truyện , tại quyê hương tôi (Giao phong –
Giao thủy – Nam Định ) . Gần nhà tôi có một ngôi chùa tên gọi là chùa Bình
An . Được rất nhiều bà con tin ,sùng bái ,rồi một ngày nọ chủ trì chùa mất thay
vào đó là một sư cụ khác nên , tuy mang tính thầy tu nhưng không tôn trọng dân
cho lắm muốn lấy mọi người phục tùng mình , đén một lúc sư chú bị bệnh người
chủ chì này đối sử bất công chỉ vì một lỗi nhỏ phạt sư chú không cho ăn 10 ngày
“sư chú đang bị bệnh” nhưng vân đi xin cơm khắp dân chúng . Dân chúng thấy
13


bất công đề nghị lên chính quyền nhưng chính quyền không giả quyết, thế là dân
chúng đứng lên hô hào đuổi chủ trì chùa đi .Lúc này chính quyền địa phương
dính tay vào nhưng tất cả phải theo ý kiến của dân . Kết quả cuối cung chủ trì
kia phải đi chuà khác , sư chú đó lên làm chủ chỉ được mọi người yêu mến .
Ở đây mình muốn nói rằng : Cho dù là chính trị , tôn giáo ,pháp luật ,
đạo đức …. Nếu không lấy dân làm gốc thì cuối cùng cũng bị thay thế để phục

vụ lợi ích nhân dan lên hết. Nếu phục vụ quyền lợi của nhân dân thì nó sẽ giúp
kiến thức hạ tầng vươn lên và phát triển mạnh mẽ và ngươc lại nếu không tốt
trong mối quan hệ đó .

14


Phần VI: Đánh giá
Tóm lại , đường nối chính trị của Mạnh Tử là lấy sự hòa bình và ổn định
của duy dân làm tư tưởng . Ông được coi là người có tư tưởng duy dân , muốn
đem đạo lớn của thánh hiền thực hiện vào trong xã hội để đạt được ấm no hạnh
phúc cho người dân . Tuy nhiên với xu hướng không gặp thời đi ngược lại sự
phát triển của xã hội nên nhưng tư tưởng đó không thực hiện được .
Theo em những tư tưởng của ông chỉ hợp với xu thế thời kỳ có của ăn
của để , phải phù hợp với ông vua phải biết khổ là gì , nhưng ông vua có cái tâm
cái tài thật sự , những ông vua đó thì phài thường xuyên vi hành với cuộc sống
dân chúng để hiểu được họ .
Những tư tưởng duy dân đó sẽ là tiền đề cho các nhà tư tưởng mãi về sau
nó sẽ là nguồn gốc của mọi sự phát triển tư tưởng coi trọng dân sau này . Không
chỉ có thế nó cũng là cơ sở lis luận để từ đó cho người dân đấu tranh chống lại
cái xấu hoành hoành .
Có thể thấy chưa có một nhà tư tưởng thời cổ đại nào lại đề cập cuộc
sống của dân lại nhiều như Mạnh Tử . Tuy nhiên với với cách nhìn bản chất của
các sự vật không đồng đều có vật đánh giá gấp 5 gấp 3 lần vật khác ; có vật
đáng giá gấp trăm gấp nghàn lần vật khác . Muốn cho mọi vật đồng giá tức là
loaạn thiên hạ . Mạnh Từ thừa nhận dân vi quý đến nay vẫn còn nguyên giá trị .
Tuy nhiên ông vẫn còn một số điểm hạn chế :Thừa nhận phân chia đẳng
cấp trong xã hội . Đẳng cấp thứ nhất quân tử là những người lao tâm cai tri dân
và đẳng cấp thứ hai là những người lao lực , lao động và phục tùng . “ người cai
trị phải phục dưỡng người bi cai trị phải cung cấp bề trên lẽ thông thường” .

Chính quyền của những người cai trị Mạnh Tử viết tiếp là của trời .
Vua chúa đang thực hiện ý trời . Trời đã sinh ra vạn vật làm chủ vạn vật nhưg
không thể chăm sóc riêng vạn vật . Đặc biệt là những người mới trao quyền cho
vua , chúa vì thay đỡ . Vậy những người cai trị và những người bị cai trị là
những người mệnh trời . Tư tưởng chính trị của mạnh tử vẫn khoác áo duy tâm
truyền bá truyền bá đường lối chính trị đẳng cấp thần quyền phục vụ cho giới
thượng lưu quý tộc song chưa có một triết gia Trung Quốc cổ đại nào lại đề cập
các biện pháp cải cách như Mạnh Tử và có lẽ chưa một pháp gia nào lại phát
triển thành công vai trò đức trị như của Mạnh Tử . Không phải là người đầu
tiên đến với nho giáo thời cổ nhưng công lao là thật sự sứng đáng để hậu thế
phong ông là á thánh .
15


Phần VIII : Nguồn thông tin lấy từ đâu ?
:Tài liệu này em dựa trên sách sơ lược lịch sử triết học trung quốc của Doãn
chính ,Mạnh Tử tinh hoa trí tệu qua danh ngôn của Giang bội Trân và bài giảng
của TS Nguyễn Ngọc Toàn và các trang mạng xã hội khác .

16


MỤC LỤC

Trang

MỞ ĐẦU .
1
Phần I : Giới thiệu tác giả Mạnh tử
2

Phần II : Người có ảnh hưởng lớn tới tư tưởng của Mạnh Tử
4
Phần III : Nho gia ảnh hưởng tới Viêt Nam và các nước
5
Phần IV : Nội dung chính
7
Phần V: Ảnh hưởng của tư tưởng “dân vi quý ,quân vi khinh” tới chính trị
13
Phần VI: Đánh giá
15
Phần
16

VIII:

Nguồn

thông

tin

17

đó

lấy

từ

đâu



v

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
KHOA TRIẾT HỌC

------

TIỂU LUẬN
MÔN:LỊCH SỬ TRIẾT HỌC TRUNG QUỐC
Đề tài :

DÂN VI QUÝ, QUÂN VI KHINH – MẠNH TỬ

trạng và c phục vấn đềtham
Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Ngọc Toàn
Học viên

: Giang Thanh

Lớp

: Triết K34

Hà Nội - 2017
18




×