MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU............................................................................................................. 2
CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÝ THUYẾT .......................................................................... 4
1.1.
Định nghĩa ....................................................................................................... 4
1.1.1. Kinh tế tuần hoàn là gì? ............................................................................ 4
1.1.2. Kinh tế tuyến tính là gì? ............................................................................ 4
1.2. Sự khác biệt giữa kinh tế tuyến tính và kinh tế tuần hoàn ................................ 5
1.3. Một số điều kiện để hình thành nên nền kinh tế tuần hoàn ............................... 6
1.4.
Vai trò của kinh tế tuần hoàn ........................................................................... 8
CHƯƠNG II.TỔNG QUAN VỀ KINH TẾ TUẦN HOÀN Ở ĐỨC ...................... 11
2.1. Nền Kinh tế Đức và điều kiện cần thiết để thực hiện kinh tế tuần hoàn .......... 11
2.2.
Các chính sách phát triển nền kinh tế tuần hoàn ở Đức .................................. 12
2.2.1. Chính sách giảm thiểu, thu hồi, tái chế rác thải ....................................... 12
2.2.2. Thực hiện nghiên cứu và đổi mới ........................................................... 16
2.2.3. Chiến lược và chính sách thúc đẩy giảm thiểu Carbon. ........................... 17
2.3.
Tổng kết thành tựu và khó khăn ..................................................................... 22
2.3.1. Các thành tựu và nguyên nhân ................................................................ 22
2.3.2. Một số khó khăn và nguyên nhân ........................................................... 28
CHƯƠNG III. NHÌN NHẬN THÀNH TỰU CỦA ĐỨC VÀ MỘT SỐ ĐỊNH
HƯỚNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ TUẦN HOÀN Ở VIỆT NAM......................... 36
3.1 Tính cấp thiết phải phát triển kinh tế tuần hoàn tại Việt Nam ........................ 36
3.1.1 Động lực cho phát triển kinh tế tuần hoàn ............................................... 36
3.1.2 Nguy cơ khi không nhanh chóng phát triển kinh tế tuần hoàn ................. 37
3.2 Thuận lợi và khó khăn khi phát triển kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam............... 38
3.2.1
Thuận lợi ................................................................................................ 38
3.2.2
Khó khăn ................................................................................................ 40
3.3 Một số bài học phát triển kinh tế tuần hoàn rút ra từ trường hợp của Đức ..........
.......................................................................................................................... 42
KẾT LUẬN............................................................................................................... 47
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................. 48
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 1: So sánh giữa Kinh tế tuyến tính và Kinh tế tuần hoàn....................................... 6
Bảng 2: Luật pháp, chính sách và các quy định của Đức hỗ trợ phát triển KTTH........14
Bảng 3: Lượng phát thải CO2 bình quân đầu người ở Đức giai đoạn 1990 - 2015.......23
Bảng 4: Giảm thải khí nhà kính ở Đức năm 2018 và mục tiêu giảm phát đến 2030.....29
DANH MỤC HÌNH ẢNH
Hình 1: Các điều kiện để hình thành nên nền kinh tế tuần hoàn..................................... 6
Hình 2: Phần trăm thay đổi “tổng giá trị gia tăng” và “lượng rác thải” trong một số
ngành ở khu vực châu Âu giai đoạn 2004 – 2012........................................................... 9
Hình 3: Phát triển kinh tế tuần hoàn ở Đức.................................................................. 11
Hình 4: Mục tiêu giảm phát khí CO2 trong giai đoạn 2020 -2030...............................24
Hình 5: Tỷ lệ ô tô điện trên tổng doanh số xe năm 2018, theo quốc gia.......................25
Hình 6: Top 10 Quốc gia có tỷ lệ tái chế tái chế rác thải (MSW) cao nhất..................26
Hình 7: Số lượng bao bì được sử dụng ở Đức giai đoạn 2000 - 2017...........................31
Hình 8: Phần trăm năng lượng nhập khẩu của Đức năm 2007.....................................32
Hình 9: Các thành phần năng lượng ở Đức năm 2007.................................................. 32
Hình 10: Các dòng FDI vào Việt Nam giai đoạn 1988-2016........................................ 39
Hình 11: Tỷ trọng đầu tư cho phát triển GDP ở một số thành viên ASEAN, Trung
Quốc và Ấn Độ giai đoạn 2000 - 2022......................................................................... 41
2
LỜI MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài
Sự phát triển kinh tế trong những thập kỷ qua giúp chất lượng cuộc sống của con
người được nâng cao, nhưng cũng đồng thời làm suy kiệt tài nguyên thiên nhiên, phá vỡ
cân bằng sinh thái, tổn hại đến môi trường. Theo thống kê của Chương trình Môi trường
Liên Hợp Quốc (UNEP), lượng tài nguyên mà con người khai thác trong năm 2017 tăng
gấp 3,4 lần so với 50 năm trước, và con số này vẫn tiếp tục tăng nhanh. Lượng rác thải trên
thế giới cũng tăng lên nhanh chóng. Chỉ tính riêng ở Việt Nam, theo thống kê của Bộ Xây
dựng, tổng lượng chất thải rắn sinh hoạt của cả nước gần 16 triệu tấn; rác thải nhựa thải ra
mỗi ngày ước tính 18 nghìn tấn và nằm trong 5 quốc gia xả rác hàng đầu ra biển, với khối
lượng 1,8 triệu tấn mỗi năm. Những vấn đề nêu trên đang gây ra áp lực rất lớn đối với các
nền kinh tế , đòi hỏi Việt Nam cũng như các quốc gia khác phải dần thay đổi quy mô phát
triển kinh tế, để đảm bảo sự phát triển bền vững
Trong bối cảnh đó, mô hình Kinh tế tuần hoàn nổi lên, được coi là giải pháp thúc
đẩy nền kinh tế, trong khi giảm khai thác tài nguyên và giảm thiểu chất thải ra môi
trường. Như vậy, Kinh tế tuần hoàn được coi là xu hướng chuyển dịch tất yếu ở nhiều
nơi trên thế giới, trong đó có Việt Nam.
Cùng với những thuận lợi có được, Việt Nam cũng phải đối mặt với nhiều khó
khăn và thách thức trong quá trình chuyển dịch sang nền kinh tế tuần hoàn. Do đó, đòi
hỏi Đảng cần đưa ra những phương án, chính sách phù hợp để thúc đẩy qua trình
chuyển dịch nền kinh tế, hướng đến phát triển bền vững.
Mục tiêu nghiên cứu
Với đề tài “Kinh tế tuần hoàn: Mô hình thực tiễn của Đức và bài học kinh
nghiệm cho Việt Nam”, nhóm nghiên cứu đưa ra một cái nhìn khách quan về tình hình
phát triển kinh tế tuần hoàn của Đức. Từ đó, rút ra bài học kinh nghiệm và đưa ra một
số chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam.
3
Kết cấu tiểu luận
Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo mục lục và danh
mục bảng biểu, đề tài được kết cấu thành ba chương như sau:
Chương 1: Cơ sở lý thuyết;
Chương 2: Tổng quan nền kinh tế tuần hoàn ở Đức;
Chương 3: Bài học kinh nghiệm phát triển kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam.
Do vốn kiến thức còn hạn chế và thời gian nghiên cứu hạn hẹp, bài tiểu luận của chúng
em còn nhiều thiếu sót. Chúng em rất mong nhận được sự nhận xét, đóng góp ý kiến
của thầy để bài tiểu luận của chúng em ngày một hoàn thiện hơn.
Chúng em xin chân thành cảm ơn!
4
CHƯƠNG I.
CƠ SỞ LÝ THUYẾT
1.1. Định nghĩa
1.1.1. Kinh tế tuần hoàn là gì?
Theo European Parliament, kinh tế tuần hoàn là một hệ thống kinh tế được tạo ra
để giảm lượng rác thải xuống mức tối thiểu. Khi một sản phẩm không còn sử dụng
được nữa, nó vẫn tiếp tục được giữ lại trong nền kinh tế thay vì bị vứt bỏ ra ngoài môi
trường. Bằng cách áp dụng các biện pháp như tái chế, tái sử dụng, sửa chữa, tân
trang…những gì thường bị coi là rác thải có thể trở thành nguồn tài nguyên giá trị.
Theo WTO, trái ngược với nền kinh tế tuyến tính, kinh tế tuần hoàn là một mô
hình kinh tế trong đó giá trị của hàng hóa cũng như của tài nguyên và nhiên vật liệu
được duy trì càng lâu càng tốt để tạo ra càng nhiều giá trị mới khác. Việc này giúp ngăn
ngừa nguy cơ cạn kiệt tài nguyên và giá cả thị trường bất ổn định, giảm thiểu việc phát
sinh rác thải và gia tăng việc sử dụng nguồn tài nguyên tái tạo bền vững.
Có khá nhiều định nghĩa khác nhau về “kinh tế tuần hoàn” nhưng tựu chung lại
đều mang cùng một lớp ý nghĩa. Nhóm nghiên cứu xin đưa ra định nghĩa đầy đủ nhất
dựa trên quá trình tự quan sát và tìm hiểu như sau:
Kinh tế tuần hoàn là một mô hình kinh tế (gần như) khép kín dựa trên cơ sở của
việc tiết kiệm, tái chế, tái sử dụng, chia sẻ, cho thuê hay sửa chữa nhằm kéo dài tuổi thọ
của hàng hóa, tận dụng tối đa giá trị của các nguồn nguyên nhiên vật liệu được khai
thác/thu thập, từ đó loại bỏ các tác động tiêu cực đến môi trường, nâng cao chất lượng
hệ sinh thái, kinh tế và xã hội về lâu dài.
1.1.2. Kinh tế tuyến tính là gì?
Kinh tế tuyến tính là mô hình kinh tế mà trong đó, vòng đời cơ bản của một hàng
hóa gồm 3 giai đoạn, đó là “take – make – dispose”. Ở giai đoạn 1, các nguyên liệu thô
cần thiết được khai thác/thu thập. Sang giai đoạn 2, nguyên liệu thô được chế biến
thành sản phẩm. Cuối cùng, ở giai đoạn 3, sau quá trình sử dụng, sản phẩm sẽ bị coi là
phế thải và thải ra môi trường. Trong mô hình này, giá trị kinh tế được tạo ra bằng cách
sản xuất và bán càng nhiều hàng hóa càng tốt.
5
1.2. Sự khác biệt giữa kinh tế tuyến tính và kinh tế tuần hoàn
Thứ nhất, kinh tế tuần hoàn và kinh tế tuyến tính khác nhau ở cách hàng hóa
được sản xuất và duy trì giá trị.
Trái ngược với với quy trình “take – make – dispose”, mô hình kinh tế tuần hoàn
được vận hành dựa trên tiêu chí 3R: reduce – reuse – recycle. Tức là: giảm thiểu việc
khai thác tài nguyên thiên nhiên, tích cực tái sử dụng sản phẩm, và tái chế rác thải
thành sản phẩm mới. Trong mô hình này, giá trị kinh tế được tạo ra bằng cách tập trung
vào việc bảo toàn và gìn giữ giá trị sản phẩm.
Thứ hai, kinh tế tuần hoàn và kinh tế tuyến tính khác nhau ở quan điểm về tính
bền vững.
Trong kinh tế tuyến tính, quan điểm về tính bền vững tập trung vào việc giảm bớt
các tác động tiêu cực đến hệ sinh thái. Các hoạt động này tuy dễ thực hiện nhưng chỉ
giải quyết được vấn đề trước mắt, không mang lại hiệu quả lâu dài do nó chỉ mang tính
chất kéo dãn thời điểm hệ sinh thái trở nên quá tải.
Còn trong kinh tế tuần hoàn, quan điểm về tính bền vững tập trung vào việc gia
tăng hiệu suất của hệ sinh thái. Tức là không chỉ các tác động xấu đến hệ sinh thái được
giảm thiểu mà hệ thống môi trường, kinh tế, xã hội cũng được cải thiện.
Sự khác biệt này có thể được minh họa qua việc sản xuất thịt bò. Việc nuôi bò lấy
thịt thải ra một lượng lớn khí metan rất có hại cho môi trường. Trong nền kinh tế tuyến
tính, để giảm bớt tác động xấu tới môi trường, bò sẽ được cho ăn ít đi để giảm lượng
phân thải hoặc thịt bò được thay thế bằng thịt các loài động vật khác (gia cầm, thủy hải
sản…). Còn trong kinh tế tuần hoàn, để đảm bảo sự phát triển bền vững, các nhà máy
tái chế chất thải tiên tiến sẽ được xây dựng, các thực phẩm như thịt bò chay (làm từ đậu
nành, lúa mì) được phổ biến rộng rãi hơn để dần thay thế cho thịt bò thật, cây cỏ được
trồng nhiều hơn để có chỗ chăn thả bò tự nhiên. Điều này tuy mất nhiều thời gian và
công sức nhưng sẽ tác động tích cực đến hệ sinh thái trong thời gian dài: môi trường
6
(thêm cây, giảm khí metan, giảm lượng nước tưới tiêu), kinh tế và xã hội (nhiều nhà
máy, công việc mới xuất hiện giúp thúc đẩy kinh tế, giảm tỷ lệ thất nghiệp).
Bảng 1: So sánh giữa Kinh tế tuyến tính và Kinh tế tuần hoàn
Kinh tế tuyến tính
Kinh tế tuần hoàn
Hình thức
take – make – dispose
reduce – reuse – recycle
Đặc điểm
ngắn hạn, đi thẳng từ sản xuất
đến thải bỏ
dài hạn, gồm nhiều vòng đời
nhằm duy trì giá trị sản phẩm
trong lâu dài
giảm bớt các tác động tiêu cực
đến hệ sinh thái
gia tăng hiệu suất của hệ sinh
thái
Tập trung vào
Tái chế
thành sản phẩm có giá trị thấp thành sản phẩm có giá trị cao
hơn sản phẩm gốc
hơn sản phẩm gốc
Nguồn : Tác giả tự tổng hợp
1.3. Một số điều kiện để hình thành nên nền kinh tế tuần hoàn
Hình 1: Các điều kiện để hình thành nên nền kinh tế tuần hoàn
Nguồn: themasites
7
Kinh tế tuần hoàn là một mô hình phức tạp và đòi hỏi nhiều máy móc công nghệ
cao, lực lượng lao động lành nghề.
Ở giai đoạn khai thác nguyên liệu đầu vào, năng lượng tái tạo được sử dụng để
thay thế cho năng lượng hóa thạch. Năng lượng tái tạo được hiểu là những nguồn năng
lượng hay những phương pháp khai thác năng lượng mà nếu đo bằng các chuẩn mực
của con người thì là vô hạn (năng lượng mặt trời, gió, nước, địa nhiệt…). Năng lượng
vô hạn có thể là năng lượng nhiều đến mức không thể cạn kiệt vì sự sử dụng của con
người hoặc là năng lượng có thể tự tái tạo trong thời gian ngắn và liên tục.
Bên cạnh đó, cần phải coi môi trường tự nhiên như các tài sản có giá trị. Quản lý,
định giá, hạch toán và xem xét đến những tác nhân có thể ảnh hưởng đến tài sản vốn tự
nhiên trong việc cung cấp các hàng hóa và dịch vụ trong tương lai. Vốn tự nhiên là tập
hợp các tài sản của hệ sinh thái (động thực vật, nước, khoáng sản…), kết hợp với các
các nguồn vốn khác (vốn xã hội, vốn con người) tạo ra các dịch vụ thiết yếu cho sự
phát triển kinh tế - xã hội và hỗ trợ phúc lợi của con người.
Tiếp theo, ở giai đoạn sản xuất, đầu tiên trong khâu thiết kế sản phẩm, cần giải
quyết được các vấn đề như: Thiết kế nào cần ít đa nguyên liệu cho đầu vào nhất? Thiết
kế tháo rời hay liền khối sẽ dễ dàng hơn cho khách hàng trong việc sửa chữa? Sản
phẩm có thể tái chế hay tái sử dụng cho mục đích khác không?
Thứ hai, nên tích cực áp dụng mô hình doanh thu mới như công ty cho thuê, tức
khách hàng chỉ cần trả tiền cho việc sử dụng sản phẩm, còn sản phẩm vẫn thuộc sở hữu
của công ty. Khách hàng vừa phải trả ít tiền hơn, mà năng suất của sản phẩm cũng được
tận dụng tối đa.
Thứ ba, các doanh nghiệp cần tăng cường hợp tác với nhau để tạo nên chuỗi cung
ứng hiệu quả, làm việc cùng nhau để tạo ra lợi ích chung. Có hai loại hợp tác chính
trong chuỗi cung ứng: hợp tác theo chiều dọc và theo chiều ngang.
Hợp tác theo chiều dọc là sự hợp tác giữa hai hoặc nhiều doanh nghiệp thuộc các
cấp hoặc giai đoạn khác nhau trong chuỗi cung ứng. Ví dụ: hợp tác giữa Apple à
Samsung, Samsung đóng vai trò trong khẩu sản xuất màn hình OLED.
8
Trong khi hợp tác theo chiều ngang là sự hợp tác giữa hai hoặc nhiều doanh nghiệp
ở cùng một cấp hoặc giai đoạn trong chuỗi cung ứng. Ví dụ: Boeing sáp nhập với
McDonnell Douglas để tạo ra công ty hàng không vũ trụ lớn nhất thế giới.
Việc hợp tác chuỗi cung ứng giúp các doanh nghiệp giảm chi phí cố định, cải thiện
hiệu suất, tiếp cận thị trường tốt hơn nhờ loại bỏ các công đoạn thừa thải, giảm số lượng
hàng tồn kho, kiểm soát nguồn cung và phân phối tốt hợp lý. Các thành viên trong chuỗi
có thể truy cập kết nối với các đối tác trong chuỗi để chia sẻ thông tin với nhau.
Sau quá trình sử dụng, gần như 100% sản phẩm phải được tái chế hoặc tái sử
dụng để gia tăng giá trị cũng như vòng đời của sản phẩm. Chỉ một số ít sẽ được xử lý
và tiêu hủy hợp lý để không gây hại khi thải ra ngoài môi trường.
1.4. Vai trò của kinh tế tuần hoàn
Thứ nhất, kinh tế tuần hoàn tác động tích cực đến môi trường sinh thái.
Theo SITRA, đến năm 2050, lượng khí thải nhà kính toàn cầu sẽ giảm 62% nếu
nền kinh tế tuần hoàn trở thành hiện thực.
Bên cạnh đó, nguồn tài nguyên thiên nhiên (đất, nước, nhiên liệu hóa thạch…) sẽ
được tiết kiệm đáng kể, không bị quá tải bởi các chất độc hại hay bị khai thác cạn kiệt
như trong nền kinh tế tuyến tính. Về lý thuyết, trong kinh tế tuần hoàn, 100% nguyên
liệu thô sẽ được tái chế hoàn toàn. Chúng ta gần như sẽ không phải khai thác thêm bất
kì tài nguyên nào cho việc sản xuất nữa.
Trong những năm gần đây, mô hình kinh tế tuần hoàn đang ngày càng nhận được
nhiều sự quan tâm, song năm 2019, chỉ có 9% tổng số nguyên liệu thô được tái chế
hoàn toàn.
Thứ hai, kinh tế tuần hoàn thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Một trong những nguyên tắc quan trọng của kinh tế tuần hoàn đó là tách rời tăng
trưởng kinh tế khỏi việc tiêu thụ nguyên liệu thô. Theo Chương trình Môi trường Liên
Hiệp Quốc (UNEP), đến năm 2050, nền kinh tế toàn cầu sẽ hưởng lợi khoảng hơn
2,000 tỷ đô/năm nhờ việc sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên.
9
Thứ ba, kinh tế tuần hoàn giúp cải thiện vấn đề việc làm.
Trong nền kinh tế tuần hoàn, giá trị người lao động được đánh giá cao hơn so với
nền kinh tế tuyến tính. Để tạo ra một vòng khép kín giữa hoạt động sản xuất - tiêu thụ
cũng như việc phát triển và kéo dài vòng đời sản phẩm đòi hỏi lực lượng lao động có
tay nghề cao hơn. Cùng với đó, nhu cầu khai thác và xử lý nguyên liệu thô cũng giảm
dẫn đến giảm bớt số lượng công việc ít chuyên môn.
Thứ tư, kinh tế tuần hoàn kích thích những đổi mới và cải tiến.
Việc chuyển đổi từ nền kinh tế tuyến tính sang kinh tế tuần hoàn là điều không hề
dễ dàng, đòi hỏi chúng ta phải liên tục tối ưu hóa toàn bộ hệ thống. Từ đó dẫn đến
những tư duy mới mẻ, các mô hình hợp tác hiệu quả giữa nhà sản xuất, nhà thiết kế và
nhà tái chế để tạo nên chuỗi cung ứng khép kín.
Dưới đây là ví dụ về vai trò của kinh tế tuần hoàn trong việc giảm bớt những tác
động tiêu cực đến môi trường và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thông qua chính sách
giảm thiểu rác thải của các nước châu Âu.
Hình 2: Phần trăm thay đổi “tổng giá trị gia tăng” và “lượng rác thải” trong một
số ngành ở khu vực châu Âu giai đoạn 2004 – 2012
Nguồn: Europa
10
Từ Hình 2, nhìn chung tổng giá trị gia tăng của các ngành có xu hướng tăng nhẹ
trong khi lượng rác thải giảm liên tục.
Cụ thể, trong ngành sản xuất, so với năm 2004, tổng giá trị gia tăng của ngành vào năm
2012 tăng 7% trong khi lượng rác thải vẫn giảm 25%. Tương tự với ngành dịch vụ là
tăng 13% và giảm 23%, chi tiêu hộ gia đình tại các đô thị tăng 7% nhưng lượng rác thải
vẫn giảm 2%.
Có thể kết luận được rằng, chính sách giảm thiểu rác thải của châu Âu không hề
kìm hãm sự tăng trưởng của nền kinh tế mà ngược lại, thúc đẩy nền kinh tế đi lên một
cách bền vững và toàn diện hơn.
11
CHƯƠNG II. TỔNG QUAN VỀ KINH TẾ TUẦN HOÀN Ở ĐỨC
2.1.
Nền Kinh tế Đức và điều kiện cần thiết để thực hiện kinh tế tuần hoàn
Trong tiến trình chuyển đổi sang nền kinh tế tuần hoàn, Đức đã đưa ra rất nhiều
chính sách, nỗ lực hành động để đạt được các mục tiêu về hiệu quả nền kinh tế xanh.
Các chính sách phát triển này được xây dựng dựa trên 04 nguyên tắc phát triển bền
vững: đảm bảo công bằng giữa các thế hệ, chất lượng cuộc sống, gắn kết xã hội, trách
nhiệm quốc tế. Mô hình sản xuất khép kín được xem “khung sườn” của kinh tế tuần
hoàn ở Đức và từ đó, xây dựng các chính sách phù hợp để phát triển nền kinh tế.
HìnhHình2.1: Phát3:Pháttri ểtriểnkinhkinhtế tutếầtuầnhoànhoànởĐứởĐức
Thiết kế
Phát triển
bền vững
Tăng cường trách của nhà sản xuất
Sản xuất
Kinh tế
tuần hoàn
ở Đức
Thu hồi chất thải
Tái chế chất thải
Quản lý chất
thải
Tiêu thụ
Thu hồi rác thải về hệ thống
Nguồn: Heck (2006)
12
Vào năm 1996, Quốc hội Đức thông qua luật về nền kinh tế tuần hoàn
(kreislaufwirtschaft), thay đổi trách nhiệm sản phẩm của các nhà sản xuất. Cụ thể ở giai
đoạn thiết kế, các sản phẩm phải được thiết kế phù hợp đáp ứng yêu cầu các yêu cầu
trong phát triển bền vững, giảm thiểu suy thoái môi trường. Vai trò của các nhà sản
xuất được mở rộng khi chính phủ yêu cầu nhà sản xuất phải chịu trách nhiệm thu hồi
bao bì, chất thải và tái sử dụng trong cả sản xuất và tiêu dùng. Một số luật, chính sách
và quy định đã được thực hiện để đảm bảo tính tuần hoàn của vật liệu. Ví dụ, tất cả các
thiết bị điện và điện tử cũ sẽ được trả lại và các nhà sản xuất có nghĩa vụ phải chấp
nhận chúng miễn phí bắt đầu từ tháng 3 năm 2006. Để tăng hiệu quả của quá trình thu
hồi, các nhà sản xuất đã liên kết nhà bán lẻ thực hiện chương trình thu hồi rác thải về
hệ thống từ người tiêu dùng. Sau khi thu hồi, đương nhiên không phải 100% rác thải có
thể tái chế, chính phủ Đức sẽ chịu trách nhiệm quản lý, xử lý chất thải này. Đồng thời,
đảm bảo trách nhiệm quản lý rác thải thông xây dựng thêm các quy định về xử lý rác
thải, nhằm hạn chế tối đa lượng rác thải ra môi trường.
2.2. Các chính sách phát triển nền kinh tế tuần hoàn ở Đức
2.2.1.
2.2.1.1.
Chính sách giảm thiểu, thu hồi, tái chế rác thải
Thông qua các đạo luật nhằm giảm thiếu rác thải
Đức khởi đầu khá sớm trên con đường hướng tới kinh tế tuần hoàn. Quốc gia này bắt
đầu thực hiện triển khai Kinh tế tuần hoàn vào năm 1996. Nền tảng của việc phát triển
kinh tế tuần hoàn ở quốc gia là chính sách tái chế gắn liền với Luật đóng gói
(Verpackungsverordnung) được thông qua vào năm 1991. Luật này được ban hành nhằm
tránh hoặc giảm tác động môi trường của chất thải bao bì thông qua hoạt động thu hồi bao
bì để tái chế sau quá trình vận chuyển và tiêu dùng sản phẩm. Nội dung của Luật đóng gói
có quy định “....tất cả các bao bì được đưa ra thị trường trong phạm vi của luật
Kinh tế Thông tư, bất kể nó được sản xuất trong công nghiệp, thương mại, hành chính,
thương mại, ngành dịch vụ, trong hộ gia đình…”; “...Các nhà sản xuất và nhà phân phối
13
có nghĩa vụ lấy lại bao bì vận chuyển sau khi sử dụng...” ; “Nhà phân phối cung cấp
hàng hóa trong bao bì bên ngoài có nghĩa vụ loại bỏ bao bì bên ngoài khi bàn giao
hàng hóa cho người tiêu dùng cuối hoặc cho người tiêu dùng cuối cơ hội gỡ bỏ và trả
lại bao bì bên ngoài miễn phí tại điểm bán hoặc tại cơ sở thuộc điểm bán…” Chính phủ
Đức hướng đến mục tiêu, đến năm 2009 ít nhất 65% khối lượng của tất cả chất thải bao
bì phải được tái chế. Khi chính sách này được áp dụng, đồng thời nền công nghiệp Đức
cũng phát triển một hệ thống thu gom vật liệu có thể tái chế cùng với hệ thống thu gom
rác thải thông thường. Hệ thống này, được có nhiệm vụ giúp cải thiện tỷ lệ tái chế từ
mức hiện tại là 62% chất thải đô thị (theo EEA,2013).
Bên cạnh Luật đóng gói, Đức ban hành thêm về Luật quản lý chất thải theo chu
trình khép kín (1996) với ý tưởng tuần hoàn nhiên liệu. Chính phủ Đức ý thức được
rằng, nền kinh tế công nghiệp nặng của Đức luôn cần nhiên liệu đầu vào, do đó việc
tuần hoàn nhiên liệu sẽ giúp giảm phụ thuộc vào tài nguyên, đồng thời đảm bảo phát
triển bền vững lâu dài. Vì vậy, luật cung cấp các khuôn khổ khép kín và đảm bảo việc
xử lý chất thải tương thích với môi trường cũng như khả năng đồng hóa chất thải.
(Nguyễn Hoàng Nam, 2019)
Đức là thành viên của Liên minh châu Âu (EU). Do đó các định hướng phát triển
kinh tế xanh của quốc gia này cũng tuân theo một định hướng phát triển chung của các
nước EU. Trong những thập kỉ qua, liên minh châu Âu (EU) đã thông qua một số điều
luật để thúc đẩy kinh tế tuần hoàn, ví dụ như Chỉ thị về khuôn khổ chất thải (WFD),
Chỉ thị chôn lấp (The Landfill Directive), Chỉ thị về bao bì và rác thải bao bì (The
Packaging and Packaging Waste Directive). Mục đích chính của những chính sách và
biện pháp được ban hành trên là nhằm tái sử dụng, sửa chữa, tân trang và tái chế vật
liệu và sản phẩm được sản xuất trong 28 nước thành viên. Điều này phản ánh sự thay
đổi trong suy nghĩ về những gì từng bị gọi là “chất thải” và bây giờ được xem là tài
nguyên. Mục tiêu cốt lõi của phương pháp tiếp cận này chính là nhằm giảm đáng kể sự
phát triển kinh tế từ tiêu thụ tài nguyên.
14
Bảng 2: Luật pháp, chính sách và các quy định của Đức hỗ trợ phát triển KTTH
Luật pháp, chính sách và các quy định được ban hành
Năm
Luật đóng gói (Verpackungsverordnung)
1991
Chu trình quản lý chất thải khép kín
1996
Quy định về pin đã qua sử dụng
1997
Pháp lệnh về chất thải sinh học
1998
Luật đóng gói (sửa đổi)
1998
Đạo luật về năng lượng tái tạo
2000
Pháp lệnh về bãi chứa rác thải sinh hoạt không nguy hại đến môi
trường
2002
Quy định về tuổi thọ của phương tiện giao thông
2002
Pháp lệnh về quản lý gỗ thải
2002
Pháp lệnh về chôn lấp
2002
Pháp lệnh về bãi chứa chất thải
2005
Quy định về thiết bị điện tử
2006
Luật về kinh tế tuần hoàn (“kreislaufwirtschaftgesetz KrWG”)
2012
Luật về năng lượng tái tạo (sửa đổi)
2017
Nguồn : Heck (2006)
15
2.2.1.2.
Mô hình phân loại tái chế tại nguồn ở Đức
Hoàn Tiền khi trả lại vỏ chai
Theo luật bao bì đóng gói, tất cả bao bì được đưa ra thị trường đều cần được thu
hồi để tái chế, và vỏ chai cũng không phải ngoại lệ. Để thuận tiện cho qua trình thu hồi
vỏ chai đã sử dụng, thì các cửa hàng tạp hóa hay siêu thị sẵn sàng hoàn tiền khi người
dân mang vỏ chai đến đổi. Ở các cửa hàng tạp hóa bạn, người dân có thể đưa chai trực
tiếp cho nhân viên bán hàng để nhận tiền hoàn lại; còn ở các siêu thị, người dân sẽ chủ
động đến các máy Pfand để quét mã trên từng vỏ chai, sau đó nhận được một biên lai
số tiền được hoàn trả, số tiền này có thể được trừ khi thanh toán hóa đơn mua hàng ở
siêu thị, hoặc có thể đổi ra tiền mặt. Thông thường, người dân sẽ được nhận lại 8 cent
khi mang trả chai thủy tinh hoặc các loại lon, 25 cent khi mang trả chai nhựa.
“Sáng kiến Green Dot” – phân loại rác theo màu thùng rác
Để thuận tiện cho việc phân loại, tái sử dụng và xử lý rác thải, chính phủ Đức đã
cho áp dụng quy tắc phân loại rác này rộng rãi trên toàn nước Đức. Theo quy định sẽ
có năm màu sắc ứng với 5 loại rác khác nhau, cụ thể như sau:
Thùng rác màu nâu chứa các loại rác hữu cơ có thể phân hủy, như thức ăn thừa,
rau hoa quả, vỏ trứng, vỏ các loại hạt, bã cà phê và chè, lá cây rụng, cỏ
Thùng rác màu xám hoặc màu đen chứa rác thải, không có chất độc hại, nhưng
khó phân hủy, như: tàn thuốc lá, tro, đầu mẩu thuốc lá, mẩu cao su thừa, băng
gạc vệ sinh, bỉm trẻ em, sản phẩm làm từ da và đồ giả da
Thùng rác màu vàng đựng các loại chất dẻo như túi ni lông, đồ hộp/lon rỗng,
hộp đựng nước.
Thùng rác màu xanh dương chứa báo cũ, tạp chí cũ, tờ rơi, sách cũ, bao bì bằng
giấy, hoặc bìa cứng
Đặc biệt, thùng to tròn màu trắng cho chất liệu sáng, và màu xanh lá cây cho
thủy tinh màu.
16
Các thùng rác theo mã màu như vậy được đặt khắp mọi nơi, từ vỉa hè tới nhà ga
tàu điện ngầm, các quảng trường của thị trấn, hoặc công viên công cộng, trường học,
hay sân vận động... Trên thùng có hướng dẫn viết bằng tiếng Anh và tiếng Đức để giúp
người nước ngoài dễ nhận biết và bỏ rác vào thùng đúng quy định. Khi phân loại
không đúng, rác sẽ không được thu gom, nếu các công ty môi trường phát hiện ra
người nào vứt rác bừa bãi, có thể bị phạt tiền. Điểm mấu chốt của hệ thống “Green
Dot” là các nhà sản xuất và bán lẻ phải trả tiền để có được Green Dot (điểm xanh) in
trên bao bì sản phẩm. Nếu lượng bao bì càng lớn, doanh nghiệp càng phải trả nhiều chi
phí. Để tiết kiệm chi phí, doanh nghiệp buộc phải sử dụng ít giấy hơn, thủy tinh mỏng
hơn và hạn chế kim loại, nhờ vậy, lượng rác thải ra môi trường sẽ giảm đi rất nhiều.
(Nguyễn Viết Cường, 2018)
2.2.2.
Thực hiện nghiên cứu và đổi mới
Nhận ra cốt lõi của việc phát triển kinh tế tuần hoàn hiệu quả, là dựa trên các kết
quả của việc nghiên cứu lý thuyết, rồi đưa ra các chính sách áp dụng vào thực tiễn,
chính phủ Đức sẵn sàng “mạnh tay” đầu tư vào hoạt động nghiên cứu trong nước, cũng
như “năng nổ” tham gia vào các chương trình nghiên cứu mang tầm quốc tế.
Năm 2010, Đức lần đầu tiên đưa ra một chương trình nghiên cứu được thiết kế để
mở đường cho sự thay đổi hướng tới một ngành công nghiệp và xã hội dựa trên sinh
học. Chương trình Nghiên cứu bền vững của Đức (Forschung für Nachhaltigkeit;
BMBF 2015), gồm các dự án đang thực hiện trong lĩnh vực nghiên cứu sinh thái xã hội,
những bước đầu tiên đã được thực hiện. Điều đó thể hiện một nền tảng mà trên đó tầm
quan trọng của nghiên cứu kinh tế tuần hoàn có thể được củng cố hơn nữa. Vào cuối
năm 2016, 2,4 tỷ euro đã được đầu tư vào các dự án nghiên cứu kinh tế sinh học. Nội
dung của dự án nghiên cứu này hướng đến: Xây dựng nguồn cung thực phẩm sẽ trở
nên lành mạnh hơn nhờ một hệ thống nông nghiệp bền vững; Dầu mỏ sẽ được thay thế
bằng các vật liệu thông minh và các nguồn năng lượng mới trong mọi tình huống mà
mặt trời và gió không có sẵn như là sự thay thế.
17
Ở cấp khu vực, liên quan đến đổi mới trong các lĩnh vực biến đổi khí hậu, hiệu
quả tài nguyên và phát triển bền vững, Đức đóng một vai trò lớn, tham gia vào Chương
trình khung nghiên cứu và đổi mới của EU (Horizon 2020). Đây là chương trình nghiên
cứu lớn nhất thế giới với gần 80 tỷ euro tài trợ có sẵn trên 7 năm (2014 - 2020), sẽ
được đầu tư vào các thách thức xã hội, lãnh đạo công nghiệp và khoa học xuất sắc. Một
yếu tố quan trọng của chương trình là thúc đẩy nền kinh tế tuần hoàn hơn.
2.2.3.
Chiến lược và chính sách thúc đẩy giảm thiểu Carbon.
Đức cam kết giảm 40% lượng khí thải GHG nếu các quốc gia thành viên EU khác
đồng ý với mục tiêu giảm 30% lượng khí thải của EU cho năm 2020. Mục tiêu toàn nền
kinh tế này dựa trên Chương trình Năng lượng và Khí hậu Tích hợp của Đức. Hai
chương trình này đưa ra các biện pháp chính sách cho ngành năng lượng. Nhìn chung,
Đức và EU đã cho thấy một số tiến bộ hợp lý trong việc giảm phát thải GHG. Một số
chính sách để thực hiện các mục tiêu này bao gồm các biện pháp chính như Đạo luật
Năng lượng tái tạo (Erneuerbare-Energiene-Gesetz, EEG) và cải cách thuế sinh thái.
Đạo luật Năng lượng tái tạo không chỉ thúc đẩy thế hệ năng lượng tái tạo, năng
lượng gió và quang điện trong nước, đặc biệt, mà còn thúc đẩy sự đổi mới trong các
ngành năng lượng tái tạo ở Đức. Nó cung cấp các ưu đãi cho các doanh nghiệp và cá
nhân để tạo ra năng lượng tái tạo mà họ sẽ nhận được mức thuế ưu đãi, cao hơn giá
trung bình và nhằm thu hẹp khoảng cách về giá năng lượng tái tạo điện năng hiện tại và
cung cấp lâu dài các ưu đãi cho nhà đầu tư. Cải cách thuế sinh thái đóng một vai trò
quan trọng trong việc khu yến khích tăng hiệu quả sử dụng năng lượng và giảm thiểu
các hoạt động tiêu thụ nhiều năng lượng
2.2.3.1.
Chính sách quốc gia về giảm phát thải GHG từ vận tải đường bộ ở Đức
Đức đề ra các biện pháp vận tải nhằm giảm 30 triệu tấn khí thải GHG mỗi năm vào
năm 2020 so với năm 2005 (ITF, 2010). Do mức giảm trong các lĩnh vực khác có thể
18
nhỏ hơn như ước tính ban đầu, lượng khí thải CO2 từ giao thông cần phải giảm 40 triệu
tấn mỗi năm vào năm 2020 để đảm bảo đạt được mục tiêu bảo vệ khí hậu của Đức
Hiện tại, chính phủ liên bang cùng với các bên liên quan trong các lĩnh vực khoa
học, công nghiệp, chính trị và xã hội dân sự đang phát triển một chiến lược liên quan
đến vận tải và nhiên liệu. Chiến lược này nhằm xác định các lĩnh vực hành động và tích
hợp các biện pháp vận chuyển carbon thấp để đạt được các mục tiêu cắt giảm khí thải
(BMVBS, 2012).
2.2.3.2.
Thuế và chuẩn thải cho phương tiện giao thông
Đức đã thực hiện các biện pháp có liên quan trong những năm gần đây kết hợp
thuế nhiên liệu và phương tiện giao thông để cải thiện hiệu quả sử dụng nhiên liệu cho
các phương tiện vận tải và giảm thiểu chất thải từ các loại phương tiện này.
Thuế nhiên liệu là một phần của Cải cách Thuế sinh thái của Đức ('Ökosteuer'),
giá xăng và dầu diesel tăng 3,07 cent mỗi lít và năm (tổng cộng tăng 15,34 cent mỗi lít
vào năm 2003) từ năm 1999 đến 2003. Điều này nhằm mục đích nội bộ hóa một phần
chi phí bên ngoài và tăng hiệu quả năng lượng trong lĩnh vực giao thông. Vào năm
2012, thuế năng lượng đối với nhiên liệu vận tải là 65,45 cent mỗi lít xăng, 47,04 cent
mỗi lít dầu diesel và 18 cent mỗi kg CNG1 hoặc LNG2 (BMF, 2012).
Đức áp dụng thuế đối với các loại phương tiện giao thông, kể từ tháng 1 năm 2009,
thuế xe cơ giới (thuế lưu thông hàng năm) đã bao gồm một tính toán dựa trên CO2. Hệ
thống mới chỉ áp dụng cho ô tô mới đăng ký. Thuế này tính đến lượng khí thải CO2 điển
hình của xe cộ và có mức thuế thấp hơn đối với các phương tiện có lượng khí thải đặc biệt
thấp. Loại thuế này đã thay thế cho lợi thế thuế khoáng sản dầu mỏ ưa chuộng động cơ
diesel. Ngoài việc đánh thuế dựa trên kích thước động cơ, thuế CO2 quy định 2 euro
1 Compressed Natural Gas : Khí nén thiên nhiên, là nguyên liệu sạch, thân thiện với môi trường
2Liquefied Petrolium Gas : Khí đốt hóa lỏng
19
mỗi gram CO2, cao hơn mức 110 gram trong năm 2012 - 2013 và trên 95 gram vào năm
2014. Việc thực hiện đánh thuế xe cơ giới dựa trên CO2 được ước tính sẽ giảm khoảng
3 triệu tấn CO2 mỗi năm vào năm 2020. Đối với các phương tiện phục vụ vào ngày 31
tháng 12 năm 2008, thuế xe cơ giới không liên quan trực tiếp đến lượng khí thải CO2
mà là về kích thước động cơ và tiêu chuẩn khí thải châu Âu. Thuế suất đã tăng đối với
các loại phát thải Euro 2, Euro 3 và Euro 4 3 liên quan đến thuế phụ thuộc khí thải của
các phương tiện khác và đối với các phương tiện cũ trong loại Euro 1 trở xuống, mức
thuế cao hơn được giữ lại (ITF, 2010)
Ngoài ra, Châu Âu đề ra chiến lược định hương CO2 cho ô tô, chính vì thế, tại
Đức các mục tiêu phát thải CO2 đã được ban hành. Trung bình, ô tô chở khách được
yêu cầu phải đạt được mức trung bình, mức phát thải là 130gCO2 / km vào năm 2015
và mức thắt chặt là 95gCO2/km vào năm 2020. Vì yêu cầu yêu cầu lượng carbon trung
bình của đội tàu, nhà sản xuất có thể có một số phương tiện phát ra cao hơn trong đội
tàu vì phương tiện phát ra ít carbon hơn mức trung bình. Với tỷ lệ tương đối cao của
những chiếc xe nặng hơn ở Đức, giới hạn châu Âu dự kiến sẽ dẫn đến mức phát thải
CO2 trung bình là 143gCO2 / km vào năm 2015 và 105gCO2/km vào năm 2020 cho tất
cả các xe ô tô mới đăng ký tại Đức. Ngoài những mức giảm sẽ đạt được thông qua cải
tiến động cơ hoặc nhà máy điện này, việc cắt giảm lượng khí thải 10gCO2/ km dự kiến
sẽ được thực hiện từ việc không sử dụng động cơ.
2.2.3.3. Đặt ra tiêu chuẩn sử dụng năng lượng hiệu quả
“Dán nhãn phát thải” dựa trên mức tiêu thụ nhiên liệu và lượng khí thải CO2 cho
ô tô mới được chính phủ Đức ban hành vào tháng 1/2008. Mức tiêu chuẩn năng lượng hiệu
quả được xác định dựa trên lượng khí thải CO2 và trọng lượng xe. Việc phân loại hiệu quả,
từ A + (tốt nhất) đến G (tệ nhất), phụ thuộc vào mứcc độ lệch của một mẫu xe cụ thể so với
giá trị tham chiếu cho loại xe tương ứng. Việc phân loại hiệu quả cho phép
3
Mức tiêu chuẩn khí thải : giới hạn tối đa của khí thải xe cơ giới được phép thải ra môi trường
20
ít hơn 111,5 g CO2 / km đối với ô tô có 1000 kg trọng lượng không tải với mức năng
lượng hiệu quả loại A và tăng lên 171,5 g CO2 / km đối với ô tô có trọng lượng không
tải là 2000 kg. Tuy nhiên, UBA (2012) cho thấy rằng biện pháp này tự nó chỉ có tác
dụng hạn chế trong việc giảm thiểu CO2.
2.2.3.4.
Phát triển nguồn năng lượng thay thế
Phát triển nguồn năng lượng thay thế là một phần của Gói kích thích kinh tế thứ
hai, chính phủ Đức đã đầu tư rất nhiều vào việc phát triển và thương mại hóa phương
tiện di chuyển bằng điện (Electric Mobility). Một phần của chương trình này là việc
thiết lập các khu vực thí điểm cho các loại phương tiện điện này, bao gồm việc thiết lập
các địa điểm thử nghiệm và cơ sở hạ tầng cơ bản cùng với các chương trình nghiên cứu
để đánh giá hiệu quả của các dự án. Tuy nhiên, một nghiên cứu của Viện Wuppertal về
các khu vực mô hình điện từ cho thấy rằng lợi ích khí hậu đáng kể có thể không đạt
được trước năm 2030. Điều này rút ra rằng Đức cần phải nỗ lực không ngừng nghỉ để
có thể cho ra được kết quả trong tương lai gần.
Ngoài ra, khí tự nhiên được hỗ trợ làm nhiên liệu vận chuyển thông qua việc áp dụng
mức thuế suất thấp hơn đối với khí đốt tự nhiên cho với xe khách hoặc xe chở hàng. Một
mức thuế thấp cũng được áp dụng cho khí dầu mỏ hóa lỏng. Mặc dù mức thuế giảm có
hiệu lực đến cuối năm 2018 và một phần mở rộng của chương trình này đến năm 2030
đang được thảo luận, tuy nhiên, Cơ quan Môi trường Liên bang đã tuyên bố rằng khí đốt tự
nhiên có tiềm năng rất hạn chế khi có liên quan đến giảm thiểu GHG trong lĩnh vực giao
thông vì việc khai thác và vận chuyển loại khí này có liên quan đến rò rỉ khí Mê-tan do
khoảng cách cung cấp khí đốt tự nhiên rất xa (chủ yếu từ Nga) nên tỷ lệ rò rỉ cao.
Mặc dù nhiên liệu sinh học từ lâu đã được coi là một phần quan trọng trong chính
sách giảm thiểu lượng carbon của Đức, nhưng quan điểm này đã phần nào thay đổi trong
những năm gần đây. Chính phủ liên bang đã trợ cấp dầu diesel sinh học bằng cách áp thuế
thấp hơn so với các loại nhiên liệu khác. Mức thuế giảm khiến Đức trở thành nhà sản xuất
dầu diesel sinh học lớn nhất ở EU với hơn 3 tỷ lít được sản xuất trong năm 2007,
21
chủ yếu từ hạt cải dầu. Tuy nhiên, việc sản xuất dầu diesel sinh học ở Đức đã giảm nhẹ
xuống còn 2,7 tỷ lít vào năm 2011. Một yếu tố gây ra sự suy giảm này là giai đoạn
miễn thuế đối với dầu diesel sinh học, dẫn đến việc tăng thuế lên 45,03 cent mỗi lít chỉ
từ 18,6 cent trước năm 2011.
Một số quy định pha trộn được áp dụng cho xăng (10%) và dầu diesel (7 %). Tuy
nhiên, nhiên liệu sinh học ngày càng được xem xét thận trọng hơn đối với lợi ích phát
thải trong vòng đời của chúng và cũng được công chúng nhìn nhận ít tích cực hơn Năm
2009, chính phủ đã ban hành một quy định để đảm bảo tính bền vững của nhiên liệu
sinh học khi xem xét phát thải vòng đời. Quy định nêu rõ rằng nhiên liệu sinh học chỉ
có thể được tuyên bố là bền vững nếu chúng dẫn đến việc giảm phát thải ít nhất 35% so
với chuỗi sản xuất và cung ứng so với nhiên liệu hóa thạch. Nhiên liệu sinh học không
đáp ứng các tiêu chuẩn này sẽ không đủ điều kiện để giảm thuế và hạn ngạch nhiên liệu
sinh học.
Một phương tiện chính cho các hoạt động trong tương lai của chính phủ liên bang
đối với các nhà cung cấp năng lượng thay thế và các lựa chọn cho việc di chuyển là
Chiến lược di chuyển và nhiên liệu (The Mobility and Fuel Strategy). Chiến lược này
hiện đang được chính phủ liên bang phát triển, xây dựng trên quy trình đối thoại trên
diện rộng với khoảng 400 doanh nghiệp, các hiệp hội và các chuyên gia từ xã hội,
ngành công nghiệp, chính trị và cộng đồng khoa học (BMVBS, 2012). Trong 18 hội
thảo và thảo luận chuyên gia vào năm 2012, các bên liên quan bày tỏ quan điểm của họ
về những thách thức hiện tại và nhu cầu tương lai cho hành động chính trị trong các
lĩnh vực khác nhau của ngành giao thông, tập trung vào nhiên liệu.
2.2.3.5.
Phát triển ngành ô tô điện.
Ngành công nghiệp ô tô Đức cam kết thúc đẩy sự phát triển của các phương tiện
di chuyển bằng điện vì bảo vệ khí hậu, sự khan hiếm ngày càng tăng của nhiên liệu hóa
thạch và nhu cầu di chuyển ngày càng tăng do dân số tăng đòi hỏi các giải pháp mới và
hệ thống đẩy thay thế. Xe điện có thể đóng góp đáng kể để bảo vệ môi trường và tránh
22
khí thải. Do đó, xe điện là một thành phần quan trọng trong chiến lược đa dạng của các
nhà sản xuất và nhà cung cấp Đức.
Thông qua bước nhảy vọt gần đây trong công nghệ pin di động điện trở thành một
lựa chọn cho di động trong tương lai. Các kỹ sư đã tập trung vào việc sử dụng những
lợi thế hiện có của động cơ điện so với động cơ đốt trong. Đó là ví dụ mức độ hiệu quả
cao của động cơ điện. Trong khi động cơ đốt trong chỉ sử dụng tối đa 50 phần trăm
năng lượng nhiên liệu, một động cơ điện có thể khai thác từ 80 đến gần 100 phần trăm
năng lượng có sẵn. Do đó, động cơ điện có thể bao phủ khoảng cách xa hơn với cùng
một năng lượng và đồng thời yêu cầu bảo trì thấp. Bộ ly hợp và hộp số đã lỗi thời cộng
với động cơ có ít bộ phận hơn, điều này tạo thuận lợi cho việc bảo trì đáng kể.
Việc điện khí hóa các phương tiện trong tương lai đang trở nên quan trọng hơn và
thúc đẩy sự phát triển của toàn bộ hệ thống di động điện. Hệ thống này kết nối các
phương tiện điện - từ xe hybrid cắm điện (PHEV) và phương tiện mở rộng phạm vi
(REEV) đến phương tiện chạy bằng pin (BEV) và phương tiện pin nhiên liệu (FCEV) với hệ thống điện và hệ thống giao thông, do đó cải tiến việc di chuyển trong tương lai
và thêm vào đó là hệ thống điện.
2.3. Tổng kết thành tựu và khó khăn
2.3.1.
2.3.1.1.
Các thành tựu và nguyên nhân
Giảm thiểu GHG
Đến năm 1985 hoặc 12 năm sau cú sốc giá dầu đầu tiên, tổng năng lượng sơ cấp
tiêu dùng gần bằng năm 1973. Trong khi nền kinh tế tăng trưởng gần một phần tư so với
cùng kỳ, số lượng xe được cấp phép tăng thêm 8,8 triệu lên 25,8 triệu và số lượng nhà ở
được sưởi ấm tập trung tăng khoảng 3 triệu đơn vị lên khoảng 25 triệu (Schiffer, 1986).
Con số không chỉ tăng lên, mà ô tô còn đạt được động cơ lớn hơn và ngôi nhà trở nên rộng
hơn và thoải mái hơn. Mặc dù có sự gia tăng đáng kể này, tổng năng lượng tiêu dùng thực
tế không đổi. Tất nhiên từ cú sốc giá dầu đầu tiên thông qua sự sụt giảm của
23
giá dầu vào giữa những năm 1980, Trường hợp của Đức cho thấy một bức tranh về sự
kết hợp giữa thay thế dầu và bảo tồn năng lượng (Hohensee, 1996). Trong những năm
này (1973 và 1984), mức tiêu thụ năng lượng chính của xăng dầu giảm từ 208,9 triệu
tấn than tương đương (MTCE) xuống còn khoảng 161 MTCE, sự suy giảm gần một
phần tư (Statistisches-Bundesamt, 2006).
Đức đã đạt được mức giảm 385,4 triệu tấn CO2, tương đương 30,8% so với mức
phát thải năm 1990 vào năm 2018. So với năm 2017, số liệu sơ bộ năm 2018 cho thấy
lượng phát thải giảm 4,5%, sau giai đoạn đình trệ giữa năm 2014 và Năm 2017.
Năm 2019, Agora Energiewende ước tính rằng lượng khí thải giảm xuống khoảng 811
triệu tấn CO2, hoặc giảm 35% so với năm 1990, do sử dụng than giảm và sản xuất
năng lượng tái tạo cao hơn.
Bảng 3: Lượng phát thải CO2 bình quân đầu người ở Đức giai đoạn 1990 - 2015
Năm
Dân số
Lượng CO2
Lượng CO2 bình
quân đầu người
1990
79,053,984
1,003,148,970
12.69
1995
81,138,659
904,449,520
11.15
2000
81,400,882
856,420,800
10.52
2005
81,602,741
823,601,590
10.09
2010
80,827,002
799,376,520
9.89
2015
81,787,411
765,922,900
9.36
Nguồn: Worldometer
Từ số liệu được thể hiện ở bảng 2.2 có thể thấy, từ năm 1990 tổng lượng khí CO2
và lượng khí thải bình quân đầu người của Đức đều có xu hướng giảm, cụ thể năm
1990 lượng khí thải bình quân đầu người là 12,69 tấn/ người thì đến năm 2015 giảm
xuống chỉ còn 9,36 tấn/ người. Đây là dấu hiệu đáng mừng cho thấy chính sách giảm
khí thải của Đức bước đầu có hiệu quả, làm bước đệm để Đức tiếp tục thực hiện các dự
án giảm lượng khí thải trong thời gian tới.
24
Hình 4: Mục tiêu giảm phát khí CO2 trong giai đoạn 2020 -2030
Đơn vị : triệu tấn
Nguồn: Kerstine Appunn (2018)
2.3.1.2.
Về việc sử dụng ô tô điện
Tính đến năm 2018, Đức đứng thứ 17 thế giới về tỷ lệ ô tô điện trên tổng doanh
số xe nhưng đứng thứ 3 thế giới về số lượng trạm sạc, cho thấy sự khuyến khích của
chính phủ trong việc sản xuất và sử dụng xe ô tô điện để giảm thiểu khí thải ra môi
trường.