BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
ĐỀ TÀI KINH TẾ CÔNG CỘNG:
ĐỘC QUYỀN ĐIỆN Ở VIỆT NAM –
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
GIẢNG VIÊN: Lý Hoàng Phu
SINH VIÊN: Đỗ Huy Cường
Nguyễn Minh Quân
Lê Quốc Hùng
Hà Nội – 2011
1
LỜI MỞ ĐẦU
Công nghiệp năng lượng là một trong những ngành công nghiệp cốt lõi để
phát triển công nghiệp trong nước. Trong các dạng năng lượng chủ yếu phục vụ
cho sản xuất và tiêu dùng, năng lượng điện chiếm một tỷ trọng không nhỏ. Vì
thế, phát triển ngành điện luôn là mối quan tâm của toàn xã hội.Trong bối cảnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, ngành điện là ngành có vai trò chiến
lược hết sức quan trọng, phải đi trước một bước, là động lực của nền kinh tế.
Tuy vậy, ở Việt Nam hiện nay, việc sản xuất, phân phối điện năng vẫn do
Nhà nước mà trực tiếp là tập đoàn điện lực Việt nam độc quyền.Tình trạng độc
quyền này là một trong những nguyên nhân dẫn đến việc sản xuất không đủ cho
tiêu dùng, thiếu điện xảy ra liên miên. Phải chăng đây là một thất bại của thị
trường khi mà việc sản xuất, phân phối điện năng đã không được thực hiện theo
cơ chế thị trường mà lại chịu sự can thiệp quá sâu của Nhà nước. Để tìm hiểu
sâu sắc hơn về vấn đề này, nhóm nghiên cứu đã quyết định chọn đề tài “Độc
quyền điện ở Việt Nam- Thực trạng và giải pháp” cho bài tiểu luận của mình.
Ngoài phần lời mở đầu, kết luận, và danh mục tài liệu tham khảo, bài tiểu
luận gồm có 3 phần như sau:
I. Tổng quan về tập đoàn điện lực Việt Nam
II. Thực trạng độc quyền của tập đoàn điện lực Việt Nam
III.Giải pháp đề xuất
Trong phạm vi của một bài tiểu luận, chắc chắn có nhiều vấn đề nhóm
nghiên cứu chưa thể trình bày một cách thực sự thấu đáo. Nhóm mong nhận
được ý kiến đóng góp của thầy cô và các bạn để chúng tôi có thể làm tốt hơn
trong những lần sau.
Xin chân thành cám ơn!
2
I.
TỔNG QUAN VỀ TẬP ĐOÀN ĐIỆN LỰC VIỆT NAM
1. Lịch sử hình thành
Tổng Công ty Điện lực Việt Nam được chuyển đổi thành Tập đoàn Điện lực
Việt Nam – EVN từ năm 2006 theo Quyết định số 48/2006/QĐ-TTg của Thủ
tướng Chính phủ. EVN kinh doanh đa ngành. Trong đó, sản xuất, kinh doanh
điện năng, viễn thông công cộng và cơ khí điện lực là ngành nghề kinh doanh
chính; gắn kết chặt chẽ giữa sản xuất, kinh doanh với khoa học, công nghệ,
nghiên cứu triển khai, đào tạo.
Ngày 25/6/2010, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 975/QĐTTg về việc chuyển Công ty mẹ- Tập đoàn Điện lực Việt Nam thành công ty
trách nhiệm hữu hạn một thành viên thuộc sở hữu Nhà nước.
Mục tiêu hoạt động của EVN thể hiện rõ qua 3 tiêu chí: Kinh doanh có lãi,
bảo toàn và phát triển vốn chủ sở hữu nhà nước đầu tư tại EVN và vốn của EVN
đầu tư vào các doanh nghiệp khác; Giữ vai trò trung tâm để phát triển một Tập
đoàn Điện lực Quốc gia Việt Nam đa sở hữu, trong đó sở hữu nhà nước là chi
phối; Tối đa hóa hiệu quả hoạt động của Tập đoàn Điện lực Quốc gia Việt Nam.
2. Các lĩnh vực hoạt động
Tập đoàn điện lực Việt Nam là một doanh nghiệp nhà nước của Việt Nam
kinh doanh đa ngành,trong đó sản xuất và kinh doanh điện năng, viễn thông
công cộng, cơ khí điện lực là ngành kinh doanh chính; gắn kết chặt chẽ giữa sản
xuất, kinh doanh với khoa học, công nghệ, nghiên cứu triển khai, đào tạo; làm
nòng cốt để ngành công nghiệp điện lực Việt Nam phát triển nhanh và bền
vững, cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả.
Hiện nay, EVN có 5 Tổng Công ty điện lực kinh doanh điện năng đến khách
hàng là Tổng Công ty Điện lực Miền Bắc, Tổng Công ty Điện lực Miền Nam,
Tổng Công ty Điện lực Miền Trung, Tổng Công ty Điện lực TP. Hà Nội, Tổng
Công ty Điện lực TP. Hồ Chí Minh. Lĩnh vực truyền tải cũng đang có những
bước phát triển mạnh mẽ với sự ra đời của Tổng Công ty Truyền tải Việt Nam
3
trên cơ sở tổ chức lại 4 công ty Truyền tải (Công ty Truyền tải 1, 2, 3, 4) và 3
Ban Quản lý dự án (Ban Quản lý dự án miền Bắc, Trung, Nam).
Bên cạnh đó, lĩnh vực cơ khí điện lực và viễn thông công cộng ngày càng
chiếm vị trí quan trọng trên thị trường. Những cái tên như: Công ty CP Cơ khí
Điện lực, Công ty CP Chế tạo Thiết bị Điện Đông Anh… hay EVNTelecom đã
trở nên quen thuộc, đáp ứng một phần nhu cầu của khách hàng về các sản phẩm
cơ khí và dịch vụ viễn thông công cộng.
Ngoài các lĩnh vực chính kể trên, cũng không ngừng phát huy thế mạnh của
mình trên các lĩnh vực như:
- Giáo dục: Trường đại học Điện lực, Cao đẳng Điện lực TPHCM, Cao
đẳng điện lực Miền trung
- Viễn thông: Công ty Viễn thông Điện lực hoạt động trong lĩnh vực phát
triển mạng lưới dịch vụ điện thoại cố định nội tỉnh và đường dài trong nước,
cùng mạng điện thoại di động, dịch vụ internet
- Tài chính ngân hàng: tập đoàn là cổ đông thể chế của ngân hàng thương
mại cổ phần An Bình
- Viện Năng lượng Việt Nam: cơ quan nghiên cứu trong lĩnh vực điện năng
trực thuộc tập đoàn
3.
Thành tựu
Trong thời kỳ xây dựng và phát triển đất nước, ngoài việc khôi phục để bảo
đảm duy trì năng lực nguồn hiện có, ngành điện đã tập trung chuẩn bị các điều
kiện vật chất, kỹ thuật, con người để thực hiện việc xây dựng cũng như phát
triển điện lực theo quy hoạch dài hạn. Các nhà máy thủy điện Hòa Bình, nhiệt
điện Phả Lại và hệ thống lưới điện 220 kV được xây dựng.
Từ năm 1992, Chính phủ quyết định xây dựng hệ thống tải điện 500 kV bắc
- nam với chiều dài 1.487 km và bốn trạm biến áp 500 kV, tổng vốn đầu tư
5.300 tỷ đồng, hệ thống điện quốc gia được hình thành trên cơ sở liên kết lưới
điện các miền bắc – trung – nam thông qua trục xương sống là đường dây
4
500kV, giải quyết tình trạng thiếu điện ở miền trung và miền nam, tạo điều kiện
bảo đảm cung ứng điện an toàn, ổn định phục vụ phát triển kinh tế - xã hội.
Từ đó đến nay, tập đoàn điện lực Việt Nam đạt được một số thành tựu chính
như sau:
- Giữ vững, phát huy vai trò chủ đạo và đã đáp ứng một cách cơ bản nhu cầu
điện cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, góp phần duy trì tốc độ tăng
trưởng kinh tế ở mức cao trong nhiều năm liên tục. Tính chung giai đoạn từ
1995 - 2008, tốc độ tăng trưởng điện thương phẩm ở nước ta luôn ở mức cao
nhất trong khu vực và trên thế giới, bình quân đạt 15,06% (GDP tăng bình quân
7,49%).
- Thực hiện được khối lượng đầu tư lớn, quy mô nguồn và lưới điện không
ngừng được mở rộng. Tính chung giai đoạn 1995 - 2008, Tập đoàn Điện lực
Việt Nam đã đầu tư trên 233 ngàn tỉ đồng cho xây dựng nguồn và lưới điện.
Năm 1995, tổng công suất nguồn điện cả nước mới chỉ có 4.550 MW, sản lượng
14,6 tỉ kWh, nhưng đến cuối năm 2008, công suất nguồn điện đã đạt 15.763
MW (tăng 3,46 lần), điện năng sản xuất đạt 74,225 tỉ kWh (tăng 5,08 lần).
- Hiệu quả vận hành hệ thống điện được nâng cao, thể hiện qua tỷ lệ tổn thất
điện năng giảm từ 21,4% (năm 1995) xuống mức còn một con số 9,21% (năm
2008).
- Đầu tư điện cho nông thôn, vùng sâu, vùng xa có bước phát triển vượt bậc.
Đến cuối năm 2008, 100% số huyện, 97,24% số xã, 95,72% số hộ dân trên cả
nước và 94,49% số hộ dân ở nông thôn có điện. Từ đó, góp phần thay đổi căn
bản diện mạo kinh tế và xã hội ở nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa, đóng
góp to lớn trong công cuộc xóa đói, giảm nghèo của Đảng và Nhà nước.
- Sản xuất kinh doanh có hiệu quả, cân bằng được tài chính, bảo toàn và
phát triển vốn trong khi vẫn bảo đảm là công cụ điều tiết vĩ mô và thực hiện
chính sách an sinh xã hội của Chính phủ. Lợi nhuận của Tập đoàn giai đoạn
1995 - 2008 đạt 31.975 tỉ đồng, thu nộp ngân sách nhà nước đạt 38.134 tỉ đồng,
5
giá trị tài sản cố định đến cuối năm 2008 đạt 192.679 tỉ đồng, tăng gấp 6,9 lần
so với năm 1995.
Các hoạt động kinh doanh khác như ngân hàng, tài chính,... cũng được từng
bước phát triển, tạo thêm kênh huy động vốn hiệu quả cho các dự án đầu tư xây
dựng nguồn và lưới điện của Tập đoàn. Trong khuôn khổ Hiệp hội các nước
Đông Nam Á (ASEAN), các nước tiểu vùng sông Mê Kông (GMS), Tập đoàn
Điện lực Việt Nam là một doanh nghiệp đi đầu trong việc thực hiện liên kết lưới
điện liên quốc gia, góp phần tăng cường quan hệ hợp tác, hữu nghị giữa nước ta
và các nước trong khu vực. Tập đoàn đã thực hiện kết nối lưới điện ở cấp điện
áp 110 kV và 220 kV với Công ty lưới điện phương Nam (Trung Quốc), đang
cung cấp điện cho Thủ đô Phnôm Pênh (Cam-pu-chia) qua 2 đường dây 220 kV,
đồng thời bán điện cho nhiều địa phương khác của Cam-pu-chia và Lào ở nhiều
điểm dọc biên giới.
4.
Quy mô vốn
Tổng tài sản của EVN tính đến 31/12/2007 là 185.180 tỷ đồng, tương đương
11.492 triệu USD (tỷ giá USD/VNĐ: 16.114), trong đó Tổng tài sản (nguồn
vốn) của Công ty mẹ là 118.242 tỷ đồng. So với năm 2006, Công ty mẹ huy
động nguồn vốn vào hoạt động SXKD tăng thêm 37.442 tỷ đồng (31,71%), chủ
yếu là tăng vốn đầu tư của chủ sở hữu (21.352 tỷ đồng) do đó đã làm vốn chủ sở
hữu từ 42,60% năm 2006 tăng thành 46,07% tại thời điểm 31/12/2007. Xét toàn
bộ EVN, tổng số vốn huy động trong năm tăng lên 47.398 tỷ đồng (34,40%) do
cả 3 nguồn đều tăng: nợ phải trả tăng 23.737 tỷ đồng (28,48%), Vốn chủ sở hữu
tăng 22.017 tỷ đồng (42,02%), Lợi ích cổ đông thiểu số tăng 1.642 tỷ đồng
(80,20%).
Khả năng thanh toán nợ của EVN tại thời điểm 31/12/2007 cơ bản đảm bảo.
Khả năng thanh toán hiện hành (Tổng tài sản/Tổng nợ phải trả) của Công ty mẹ
là 1,85 lần, của EVN là 1,73 lần. Tỷ lệ nợ phải trả/vốn chủ sở hữu khá lành
mạnh, tại Công ty mẹ là 1,17 lần, EVN là 1,44 lần, cho thấy EVN và Công ty
mẹ hoạt động chủ yếu bằng vốn tự có. Khả năng thanh toán nợ ngắn hạn (Tài
6
sản lưu động và đầu tư ngắn hạn/Tổng nợ ngắn hạn) tại Công ty mẹ là 1,6 lần,
EVN là 1,94 lần.
Vật tư tồn kho tại một số đơn vị còn lớn, trong đó có vật tư chậm luân
chuyển gây ứ đọng vốn trong khi phải huy động vốn vay làm ảnh hưởng đến kết
quả kinh doanh (Công ty Điện lực 1 hơn 915 tỷ đồng bằng 17,31% vốn chủ sở
hữu; Công ty Điện lực TP Hồ Chí Minh hơn 902 tỷ đồng bằng 40,28% vốn chủ
sở hữu, trong đó có lượng điện kế điện tử tồn kho từ lâu 127,4 tỷ đồng là tang
vật của vụ án).
Quản lý tài sản cố định và đầu tư dài hạn: Tổng giá trị TSCĐ ròng là 80.861
tỷ đồng. Tuy vốn chủ sở hữu lớn như đã nêu ở trên nhưng chưa đủ tài trợ cho
TSCĐ.
7
II.
THỰC TRẠNG ĐỘC QUYỀN CỦA TẬP ĐOÀN ĐIỆN LỰC VIỆT
NAM
1. Thực trạng
Trải qua hơn 15 năm phát triển EVN đã có bước phát triển đáng kể so với
ngày đầu thành lập. Tuy nhiên sau 15 năm phát triển, cơ chế tập trung điều hành
cả ngành điện Việt Nam ở EVN lại là những cản trở lớn thách thức sự phát triển
theo nhịp nhu cầu phát triển của xã hội. Với cơ chế tập trung, EVN có thể dễ
dàng huy động được nguồn lực để phát triển các công nghiệp trọng điểm, nhưng
nó cũng tạo ra sự mất cân đối trong từng vùng miền và trong cả 3 khâu: phát
điện, truyền tải và phân phối.
1.1. Độc quyền trong sản xuất
EVN đang quản lý hệ thống nhà máy phát điện gồm cả thủy điện và nhiệt
điện. Một số nhà máy điện được tiến hành cổ phần hóa như Vũng Áng, Phả Lại,
Cát Bà… trong đó có một số nhà máy do PVN, TKV làm chủ đầu tư nhưng
những doanh nghiệp này mới chỉ có thể tham gia xây dựng tạo nguồn điện.
Chính vì việc độc quyền sản xuất mà EVN đã sử dụng nguồn vốn khổng lồ
vào việc đầu tư mất cân đối. Có thể minh họa điều này bằng sự ra đời rất nhanh
trung tâm nhiệt điện rất lớn ở Phú Mỹ (gần 4.000MW) trong giai đoạn 19982003 trong khi miền Bắc chẳng có thêm nguồn điện nào trong thời gian dài sau
khi NMNĐ Phả Lại 2 vào vận hành. Vì vậy mới có việc trong thời gian kỷ lục 2
năm, EVN đã phải gấp rút hoàn thành đường dây 500kV mạch 2 để tải điện từ
Nam ra Bắc, trong khi nếu đầu tư phát triển hài hòa thì có thể tránh khỏi việc
đầu tư tập trung quá nhiều vào lưới truyền tải lớn trong giai đoạn 2003-2006
như đã làm.
Một trong những nguyên nhân dẫn đền độc quyền trong sản xuất chính bởi
việc đàm phán với EVN hết sức khó khăn. Nhiều nhà đầu tư cũng muốn đầu tư
vào lĩnh vực điện, nhưng họ sợ khi xây xong nhà máy thì nhà phân phối điện
độc quyền là EVN không mua, hay mua điện với giá quá rẻ. Vì vậy mới nói,
8
khâu truyền tải và phân phối độc quyền của EVN tất yếu sẽ dẫn tới khâu độc
quyền sản xuất điện
1.2. Độc quyền trong truyền tải và phân phối
EVN còn nắm giữ chủ chốt khâu truyền tải và phân phối: vừa thực hiện
chức năng quản lý nhà nước về lĩnh vực điện, vừa thực hiện chức năng kinh
doanh công với chức năng phân phối điện. Mặc dù, khi nhận thấy khả năng
không thể tự đáp ứng cung cấp điện từ phía EVN cho nền kinh tế quốc dân,
chính phủ Việt Nam đã cho phép nhiều thành phần kinh tế tham gia đầu tư vào
ngành điện. Nhưng cũng chính bởi cơ chế độc quyền cả 3 khâu mà gây ra cản
trở lớn cho các nhà đầu tư bên ngoài EVN.
Đơn cử như công ty AES, một công ty năng lượng lớn của Mỹ, đã phải mất
5 năm đàm phán với EVN để có một bản hợp đồng mua bán điện tại nhà máy
nhiệt điện Mông Dương 2 (Quảng Ninh). Còn đối với các nhà đầu tư trong
nước, việc đàm phán mua bán điện với EVN rất khó khăn và thường bị EVN
yêu cầu cắt giảm chi phí và đưa ra giá thành một cách bất hợp lý.
Ngay cả khi các công trình nguồn điện của các chủ đầu tư bên ngoài như
Petro Vietnam, TKV hay các chủ đầu tư khác đã vào vận hành, với chính sách
"điều độ tập trung" hay "điều tiết hợp lý", các nguồn điện của chủ đầu tư bên
ngoài thường không được huy động hết khả năng cung cấp của mình so với
năng lực của các nhà máy hoặc so với các nhà máy điện tương tự của EVN.
1.3. Độc quyền trong định giá
Nếu như ở những lĩnh vực kinh doanh khác, có nhiều doanh nghiệp tham
gia, doanh nghiệp nào có chất lượng sản phẩm tốt, phục vụ chu đáo, giá cả hợp
lý sẽ được khách hàng lựa chọn. Tuy nhiên, ở ngành điện khi người dân và các
doanh nghiệp buộc phải mua điện với mức giá do EVN định sẵn trong khi chất
lượng dịch vụ, cung ứng còn rất nhiều tồn tại, bất cập.
Có thể so sánh ngành điện với dịch vụ viễn thông nhiều năm trước đây khi
xảy ra tình trạng độc quyền, cước phí đắt đỏ. Nhưng chỉ mấy năm trở lại đây,
9
khi có nhiều nhà mạng cạnh tranh độc lập với nhau và thiếu đi sự hậu thuẫn của
nhà nước, người dân được hưởng dịch vụ tốt hơn với giá thành rẻ hơn. Qua đó
có thể thấy, cũng nên duy trì một môi trường cạnh tranh giữa các doanh nghiệp,
để người dân có thể sử dụng nguồn điện đảm bảo hơn, giá cả hợp lý và hạn chế
tình trạng thiếu điện.
2. Tác động
Điện cũng giống như xăng dầu, là nguồn năng lượng thiết yếu để duy trì
cuộc sống sinh hoạt của người dân. Nó tác động trực tiếp đến cuộc sống của
người dân, vì vậy nếu tình trạng độc quyền điện kéo dài dẫn đến thiếu điện liên
tục xảy ra sẽ dẫn tới những hệ lụy ảnh hưởng tới cuộc sống con người, gây ra
các vấn đề tiêu cực trong xã hội
2.1. Ảnh hưởng đối với người dân
Cắt điện tràn lan
Mùa hè năm 2010, tình trạng cắt điện luân phiên kéo dài từ cuối tháng 3 cho
đến cuối tháng 6 và phạm vi ảnh hưởng lớn, trải rộng ra hầu hết các địa phương,
tỉnh thành trên cả nước.
Việc cắt điện tràn lan đã khiến cuộc sống sinh hoạt của người dân bị đảo
lộn, chất lượng cuộc sống bị giảm sút: cắt điện trong thời gian nắng nóng có khi
lên tới 400C làm ảnh hưởng tới sức khỏe của người dân, đặc biệt là người già và
trẻ nhỏ; cắt điện luân phiên cả ngày lẫn đêm ảnh hưởng tới việc thi cử của nhiều
học sinh, sinh viên, tình trạng cắt điện kéo dài khiến hoạt động tưới tiêu, giải
hạn đồng ruộng bị ngưng trệ, gây thất bát mùa màng đối với người nông dân…
2.2. Ảnh hưởng đối với xã hội
Tăng chi phí lớn cho doanh nghiệp
Tình trạng thiếu điện không những ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng
cuộc sống của người dân mà còn đe dọa hoạt động sản xuất kinh doanh, đặc biệt
là với những ngành hàng xuất khẩu. Lịch cắt điện làm ảnh hưởng đến tiến độ
sản xuất kinh doanh, thời gian sản xuất hàng hóa không đúng tiến độ ghi trong
10
hợp đồng, nhân công ngày làm ngày nghỉ và có khi phải tăng ca về đêm đã dẫn
đến thiệt hại vật chất lên tới hàng tỷ đồng.
Việc thiếu điện còn làm ảnh hưởng đến doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh
vực dịch vụ như du lịch, khách sạn. Hầu hết những doanh nghiệp này đều phải
mua máy phát điện hay các thiết bị tích điện khác làm ảnh hưởng đến hoạt động
của doanh nghiệp và ô nhiễm môi trường.
Ví dụ như công ty xuất nhập khẩu may mặc MSA-HAPRO có đăng trên
hãng thông tấn Đức DP, ít nhất mỗi tuần 1 lần công ty lại bị cắt điện. Công ty
phải mua một máy phát điện cũ với giá 21.000 đôla để duy trì sản xuất và mỗi
ngày công ty phải chi thêm 3000 đô la nhiên liệu chạy máy “Ít nhất mỗi tuần
một lần công ty tôi lại bị cắt điện”, bà Phạm Thị Liễu, Tổng giám đốc Công ty
xuất khẩu may mặc MSA-HAPRO nói với hãng thông tấn Đức DPA, cao gấp 6
lần so với giá điện mà nhà độc quyền EVN cung cấp.
An ninh xã hội
Khi cần phải đáp ứng tình trạng thiếu điện trên diện rộng, lãnh đạo EVN đã
mua điện dồn dập của Trung Quốc vào các năm 2005-2007 trong khi nguồn lực
đó có thể tập trung vào phát triển nguồn điện trong nước. Hệ quả của việc mua
điện này là bị ép giá mua điện từ Trung Quốc lên rất cao và EVN thực sự không
đảm bảo an ninh năng lượng cần thiết và chủ động cấp điện cho các tỉnh phía
Bắc.
3. Nguyên nhân
3.1. Chính sách của nhà nước
Trong nhiều năm qua, nước ta chưa có một kế hoạch phát triển điện nghiêm
chỉnh. Khi so sánh với các nước lân cận trong khu vực, chẳng hạn như Thái Lan
rất chú trọng về kĩ nghệ điện còn Việt Nam lại khác biệt hẳn. Chính vì chưa xây
dựng được kế hoạch, chiến lược ngắn và dài hạn mà việc đầu tư còn dàn trải,
thiếu tính cạnh tranh do độc quyền và thiếu minh bạch.
11
Cũng vì lý do chưa có kế hoạch cụ thể nên đặt giá điện như thế nào cũng là
một vấn đề gây nhức nhối. Giá điện ở Việt Nam thấp cũng khiến khích tiêu thụ
và lãng phí nguồn điện. Giá điện lẻ trung bình ở Việt-Nam vào năm 2006 là 5.4
xu Mỹ / KW giờ, khá thấp so với với phần đông các nước khác. Ngay cả giá
điện trung bình áp dụng cho công nghệ là 5.4 – 6.2 xu Mỹ cũng không cao so
với tiêu chuẩn quốc tế. Do giá điện rẻ tương đối nên một số công ty sản xuất
thép, xi măng và các ngành công nghiệp tiêu tốn nhiều năng lượng điện ở nước
ngoài đã mở cơ sở hoạt động tại Việt Nam nhằm tận dụng nguồn năng lượng giá
rẻ và xả thải bừa bãi, gây ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng đến đời sống của
nhân dân.
Gần đây, nhà nước đã điều chỉnh tăng giá điện cho phù hợp với thị trường.
Tuy nhiên, việc điều chỉnh còn thiếu công bằng và gây ra nhiều bất cập.
3.2. Nhà máy hoạt động chậm tiến độ
Tình trạng thiếu điện lẽ ra đã không đến mức trầm trọng như trong thời gian
qua nếu như nhiều nhà máy điện đi vào vận hành đúng tiến độ. Trong 5 năm
vừa qua, đã có hàng trăm nghìn tỷ đồng được bỏ ra để làm điện, nhưng hầu hết
các nhà máy phát điện đều mắc chung tình trạng hoặc chậm chạp, kéo dài tiến
độ; hoặc hoạt động hỏng hóc, không đáp ứng yêu cầu đảm bảo nguồn cung điện.
Giai đoạn 2010-2012, 42 nhà máy điện, gồm cả thủy điện và nhiệt điện được
đưa vào vận hành thì có tới 28 nhà máy thuộc diện bị chậm tiến độ 1-2 năm.
Nổi tiếng nhất trong việc chậm tiến độ phải kể đến là nhiệt điện Quảng Ninh 1
và Hải Phòng 1 do EVN làm chủ đầu tư, cả 2 nhà máy này đều chậm hơn 27
tháng. Qua đó có thể thấy được sự yếu kém trong việc quản lý tiến độ các nhà
máy điện của EVN đã dẫn đến việc điện không được cung cấp đầy đủ cho cả
nước. Ngoài ra, có tới 8 nhà máy tổng công suất 3.410MW, đáng lẽ phải phát
điện năm 2010-2011 thì giờ, đã phải hoãn sang năm 2012 - 2013 như nhà máy
Quảng Ninh 2 (2 x 300MW) Hải Phòng 2 (2 x300MW), như thủy điện Khe Bố
50MW, thủy điện A Lưới 2 x 85MW, nhiệt điện Mạo Khê (2 x 220MW), nhiệt
điện Vũng Áng (2 x 600MW).
12
Theo GS. Trần Đình Long, mỗi nhà máy thường chạy tối đa khoảng 6.000
giờ/năm, một nhà máy 300MW có sản lượng điện khoảng 1,8 tỷ kWh/năm. Như
vậy, khi một nhà máy 300MW chậm 1 năm thì năm đó, hệ thống điện quốc gia
đã bị mất cơ hội được cung ứng tới 1,8 tỷ kWh. Việc lùi lại 8 nhà máy điện có
tổng công suất 3.410 MW từ năm 2010-2011 sang năm 2012-2013, đã gây nên
thiệt hại cho nguồn cung ứng điện cả nước khoảng 20,46 tỷ kWh. Nếu so với
nhu cầu khoảng 115 tỷ kWh năm 2011, sản lượng điện thiếu hụt so với kế hoạch
đã chiếm khoảng 20%.
Nguyên nhân của việc chậm tiến độ như vậy, một phần là do việc điều hành
các dự án điện còn quá yếu kém. EVN vẫn tự coi mình là đơn vị có nhiều kinh
nghiệm nhất trong việc điều hành các dự án điện nhưng trên thực tế cho thấy, để
đáp ứng nhu cầu tiêu thụ điện phục vụ phát triển kinh tế xã hội, hạn chế lượng
điện thiếu hụt, có rất nhiều nguồn điện đã cần phải đưa vào vận hành.
3.3. Mất cân bằng cung cầu
Nhu cầu tiêu thụ điện gia tăng quá nhanh (khoảng 15-17%) trong những
năm trở lại đây. Vào năm 1995, mức tiêu thụ điện của Việt-Nam trung bình vào
khoảng 156 KWh cho mỗi người hàng năm. Trong thời gian 1996-2004, mức
tiêu thụ tăng gấp ba lần, lên đến 484 KWh. Tuy nhiên so với mức tiêu thụ 1,265
KWh tại những nước có lợi tức thấp và trung bình trên thế giới, mức tiêu thụ
điện của Việt-Nam rất thấp. Các ngành công nghệ tiêu thụ điện rất nhiều, kể cả
những ngành công nghệ nhẹ Việt-Nam ngày càng kỹ nghệ hoá khiến cho nhu
cầu tiêu thụ điện càng tăng. Dân cư cũng dùng nhiều điện hơn vì chương trình
điện hóa nông thôn đã mang điện đến cho thêm 30 triệu người dân trong khoảng
thời gian 1995-2004 và kinh tế phát triển, lợi tức gia tăng khiến một số gia đình
có khả năng mua sắm máy móc gia dụng chạy điện.
Tuy nhiên, ngành điện mà cụ thể là EVN chưa có những biện pháp “đi trước
đón đầu” để cung ứng lượng điện theo nhu cầu xã hội. Cầu tăng cao trong khi
cung không đáp ứng được, không có công suất dự phòng để duy trì sự ổn định
13
về nguồn điện khi tiến hành duy tu, bảo dưỡng và đảm bảo cung ứng điện ngay
trong những tháng cao điểm mùa khô.
3.4. Phụ thuộc quá nhiều vào thủy điện
Hiện nay, EVN đang điều hành hệ thống điện Việt Nam đi theo tư duy lối
mòn được thành lập và duy trì từ giữa những năm 90 thế kỷ trước. Đó là việc
trông đợi quá nhiều khả năng đáp ứng của các nhà máy thủy điện ở miền Bắc và
miền Trung.
Dưới đây là hiện trạng các nhà máy điện năm 2007:
Thủy điện
Than
Khí
Dầu
Khác
Tổng cộng
Số nhà máy
14
6
4
3
NA
27
Cống suất (MW)
4487
1630
4746
575
832
12270
Tỉ lệ (%)
36.6
13.3
38.7
4.7
6.8
100.0%
Nguồn: Website của Triển lãm và diễn đàn ngành than và điện Việt Nam
2008
Qua bảng số liệu thống kê có thể nhận thấy Việt Nam lệ thuộc vào thủy điện
quá nhiều. Mức sản xuất thủy điện giảm vào mùa khô và nếu hạn hán xẩy ra lâu
nhà máy sẽ thiếu nước để sản xuất điện trong khi khả năng tăng cường sản xuất
điện của Việt Nam trong hoàn cảnh nguy ngập rất thấp. Vì vậy để duy trì sản
lượng điện ổn định, phải chú trọng những nguồn điện khác, thân thiện với môi
trường như năng lượng gió, mặt trời…
14
III. GIẢI PHÁP ĐỀ XUẤT
1.
Mục tiêu :
- Cung cấp đủ điện cho các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước
- Nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của ngành điện
- Khách hàng được sử dụng điện với giá cả hợp lý
- Thu hút mọi thành phần kinh tế tham gia hoạt động phát điện, phân phối
điện, bán buôn điện và bán lẻ điện
2. Giải pháp
2.1. Tính tất yếu phải xây dựng thị trường điện cạnh tranh ở Việt Nam
Mô hình liên kết dọc truyền thống của EVN – độc quyền trong cả ba khâu
phát điện – truyền tải – phân phối điện năng đã cản trở việc đáp ứng nhu cầu về
điện cho sản xuất, tiêu dùng ngày càng lớn của xã hội. Duy trì cơ chế độc quyền
tùy tiện về mặt quản lý nhà nước nhưng lại bất cập trong hoàn cảnh hiện nay khi
mà chỉ có một tổ chức lo mọi việc từ sản xuất cho đến bán lẻ, thậm chí cả quy
hoạch.
Hơn nữa, hiện nay chúng ta dựa vào thủy điện rất nhiều, dựa vào việc moi
than lên để chạy nhà máy nhiệt điện, dựa vào một số nhà máy điện chạy bằng
dầu, khí thiên nhiên, tất cả những nguồn năng lượng đó đều đã “chạm trần”.
Thậm chí một số nguồn năng lượng như than, thủy điện là nguyên nhân gây ô
nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu và những rắc rối khác mà chúng ta sẽ phải
đối mặt. Những nguồn năng lượng vô tận mà nước ta có nhiều lợi thế như năng
lượng gió, năng lượng mặt trời, năng lượng sinh học đều là những loại năng
lượng có thể tái tạo được, tuy nhiên những thứ đó hầu như chưa được khai thác
vì giá thành chưa cạnh tranh được. Một khi nước ta vẫn duy trì cơ chế độc
quyền của EVN thì sẽ không ai làm việc đó.
Do đó, tất yếu phải tái cơ cấu lại ngành điện, thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh
trong ngành điện, thu hút sự tham gia của các thành phần trong xã hội vì một
15
nguyên lý cơ bản trong kinh tế là cạnh tranh sẽ buộc các doanh nghiệp phải
nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh để đáp ứng nhu cầu, mang lại lợi ích cho
người tiêu dùng.
2.2. Lộ trình hình thành và phát triển thị trường điện ở Việt Nam
Chính phủ đã đề ra chủ trương đa dạng hóa sở hữu và xây dựng một thị
trường điện cạnh tranh ở Việt Nam. Theo đó, thị trường điện lực sẽ được xây
dựng và phát triển theo nguyên tắc công khai, bình đẳng, cạnh tranh lành mạnh,
có sự điều tiết của nhà nước, hướng đến mục tiêu nâng cao hiệu quả trong hoạt
động điện lực; thu hút mọi thành phần kinh tế tham gia hoạt động phát điện,
phân phối điện, bán buôn điện và bán lẻ điện.
Thị trường điện lực Việt Nam sẽ hình thành và phát triển theo lộ trình gồm 3
cấp độ, trong đó mỗi cấp độ có một bước thí điểm và một bước hoàn chỉnh:
•
Cấp độ 1 (2005 - 2014): thị trường phát điện cạnh tranh.
•
Cấp độ 2 (2015 - 2022): thị trường bán buôn điện cạnh tranh.
•
Cấp độ 3 (từ sau 2024): thị trường bán lẻ điện cạnh tranh.
2.3. Giải pháp hiện tại: giai đoạn thí điểm thị trường phát điện cạnh
tranh
2.3.1. Mô hình
Mô hình được lựa chọn để kiến nghị thực hiện cho giai đoạn thị trường phát
điện cạnh tranh chính thức tại Việt Nam là mô hình thị trường chào giá theo
chi phí - Cost-based pool (CBP).
• Các nhà máy điện có công suất từ 30MW trở lên đấu nối vào lưới
điện quốc gia (trừ các nhà máy điện gió, điện địa nhiệt), trực tiếp chào giá
phát điện hoặc gián tiếp giao dịch.
Nhà máy nào có tổng chi phí bán điện thấp nhất sẽ được đơn vị vận
hành hệ thống điện ưu tiên huy động trước.
16
• Với các nhà máy thuỷ điện chiến lược đa mục tiêu, sẽ không phải
chào giá trên thị trường phát điện mà do Trung tâm điều độ chủ động lập
lịch huy động để đảm bảo tối ưu hệ thống và các ràng buộc về tưới tiêu,
chống lũ.
2.3.2. Phương án tái cơ cấu ngành điện cho phát triển thị trường phát điện
cạnh tranh để đảm bảo phát triển đúng với mô hình chào giá theo chi phí.
Tách các khâu Phát điện - Truyền tải - Phân phối (SMO) ra khỏi EVN để
trở thành một đơn vị độc lập.
Công ty Truyền tải điện quốc gia được tách khỏi EVN thành một công ty
trách nhiệm hữu hạn nhà nước một thành viên (TNO) thuộc Bộ Công Thương.
Các nhà máy điện của EVN sẽ được nhóm lại để hình thành ba công ty phát
điện mới (GENCO) và tách độc lập nhằm thu hút các nhà đầu tư ngoài EVN đầu
tư vào các dự án nguồn điện. Các nhà máy thủy điện lớn đa mục tiêu sẽ được
nhóm lại để hình thành công ty nguồn chiến lược dưới hình thức Công ty trách
nhiệm hữu hạn nhà nước một thành viên.
Tổng công ty Kinh doanh và phân phối điện được thành lập hoạt động theo
mô hình công ty mẹ - con với các thành viên là Công ty TNHH MTV nguồn
chiến lược, Công ty mua bán điện và các công ty điện lực.
• Việc tái cơ cấu ngành điện cho phát triển thị trường điện sẽ được
tiến hành theo 3 bước:
Bước 1 (trước 31/12/2008):
- Thành lập các công ty phát điện (Gencos) và công ty thủy điện chiến lược
đa mục tiêu và điện hạt nhân (CLĐMT), trước mắt trực thuộc EVN.
Bước 2 (trước 30/06/2009):
- Tách SMO khỏi EVN, thành lập Công ty Vận hành hệ thống điện và thị
trường điện, là công ty TNHH NN MTV thuộc Bộ Công Thương. Tách Tổng
17
công ty Truyền tải điện quốc gia thành công ty TNHH NN MTV thuộc Bộ Công
Thương.
Bước 3 (trước 31/12/2009):
- Tách các công ty Genco và các công ty phát điện đã CPH ra thành các
công ty phát điện độc lập, hoạt động dưới dạng công ty TNHH NN MTV hoặc
công ty cổ phần do Bộ Công Thương là đại diện sở hữu vốn nhà nước.
Thành lập Tổng công ty Kinh doanh và phân phối điện bao gồm các đơn vị:
SB, PCs và công ty phát điện CLĐMT.
Nhà nước khuyến khích các thành phần kinh tế trong nước, các nhà đầu tư
nước ngoài tham gia xây dựng các dự án nguồn điện, các dự án lưới điện phân
phối theo các hình thức đầu tư được pháp luật nhà nước quy định.
Các nhà đầu tư trong nước có đủ năng lực được huy động mọi nguồn vốn để
đầu tư cho các công trình nguồn và lưới điện theo cơ chế tự vay, tự trả.
3.
Đánh giá
Việc tách các khâu phát điện – truyền tải – phân phối điện năng ra khỏi
EVN là cơ sở dẫn đến giá điện từng khâu phản ánh đúng chi phí của khâu đó,
đồng nghĩa với việc thu hút đầu tư vào ngành điện.
Nguyên tắc của đề án là tạo ra một thị trường điện cạnh tranh nhưng nhưng
nếu không có những bước đi đúng đắn về vấn đề thể chế, cơ quan quản lý,
chức năng nhiệm vụ thì rất dễ trở thành độc quyền và độc quyền nhà nước.
Vấn đề khó khăn hiện nay là cạnh tranh trong khâu truyền tải điện. Ai sẽ
nắm đường dây truyền tải điện? Ai sẽ đầu tư cho nó? Nếu để tư nhân làm rất dễ
xảy ra vấn đề mạnh ai nấy làm. Nếu nhà nước đứng ra làm và cho thuê lại
đường dây truyền tải thì ai sẽ đứng ra quản lý đường truyền tải đó. Nếu không
giải quyết thỏa đáng có thể dẫn đến cơ chế độc quyền mới.
18
Quá trình cải tổ ngành điện cần có sự minh bạch, với lộ trình chi tiết được
công khai, để người dân và các cơ quan có trách nhiệm như Quốc hội cùng
tham gia, phản biện và giám sát.
19
TÀI LIỆU THAM KHẢO
• Quyết định 110/2007 QĐ-TTg Quyết định phê duyệt quy hoạch phát triển
điện lực quốc gia giai đoạn 2006 – 2015, có xét đến năm 2025.
• Đề án xây dựng thị trường phát điện cạnh tranh của Bộ Công Thương.
• Luật điện lực Việt Nam 2004.
• Trang thông tin điện tử Cục điều tiết điện lực – Bộ công thương:
www.erav.vn
20
KẾT LUẬN
Ngành điện có vai trò rất lớn đối với sự phát triển của quốc gia chính vì vậy
mà nhà nước phải lựa chọn về cách thức quản lý ngành này. Từ thời điểm khởi
đầu đến hiện nay nó vẫn được cung cấp độc quyền bởi công ty điện lực EVN.
Các thực trạng tiêu cực trong độc quyền cũng xuất hiện từ đó như vấn đề thiếu
điện thường xuyên dẫn đến tình trạng cắt điện ảnh hưởng đến sản xuất, rồi tình
trạng thiếu minh bạch về tài chính… Tất cả những điều đó cần được nhìn nhận
là xuất phát từ có chế quản lý không hiệu quả, độc quyền không có cạnh tranh
thì có yếu kém là dễ hiểu. Nguyên nhân sâu xa thì có thể nhìn nhận được
nhưng chúng ta đều biết rằng đã là cơ chế thì không thể xóa bỏ trong chốc lát
mà chỉ có thể tác động vào nó để góp phần thay đổi thực trạng.
Với vai trò điều tiết vĩ mô của mình, chính phủ đang từng bước thực hiện lộ
trình tái cơ cấu ngành điện nhằm thu hút đầu tư vào ngành điện, xây dựng một
thị trường điện cạnh tranh. Hiện tại, chính phủ đang đặt mục tiêu đưa vào vận
hành thị trường phát điện cạnh tranh thí điểm ngày 1/7/2011, mô hình chào giá
cạnh tranh theo chi phí.
Thị trường cạnh tranh chắc chắn luôn đem lại nhiều lợi ích trong phúc lợi
xã hội thế nhưng không biết khi nào ngành điện nước ta mới chuyển sang cơ
chế đó, và liệu sự chuyển giao cơ sở hạ tầng to lớn của tập đoàn EVN sẽ có thể
diễn ra thuận lơi hay không còn là câu hỏi chưa có câu trả lời. Tất cả điều đó
đều phụ thuộc vào những chính sách của Chính phủ cũng như cách thức thực
thi các chính sách đó.
Ngành điện nói riêng cũng như kinh tế nhà nước nói chung là một đề tài rất
rộng lớn. Mặc dù tập thể nhóm làm tiểu luận đã hết sức cẩn thận trong chọn lọc
thông tin nhưng chắc chắn vẫn có những thiếu sót nhất định. Các thành viên
nhóm mong tiểu luận có được những đánh giá nhận xét để được hoàn chỉnh và
chính xác hơn. Xin chân thành cảm ơn!
21
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
I.
2
TỔNG QUAN VỀ TẬP ĐOÀN ĐIỆN LỰC VIỆT NAM
3
1. Lịch sử hình thành
3
2. Các lĩnh vực hoạt động
3
3. Thành tựu
4
4. Quy mô vốn
6
THỰC TRẠNG ĐỘC QUYỀN CỦA TẬP ĐOÀN ĐIỆN LỰC VIỆT
II.
NAM
8
1. Thực trạng
8
1.1.
Độc quyền trong sản xuất
8
1.2.
Độc quyền trong truyền tải và phân phối
9
1.3.
Độc quyền trong định giá
9
2. Tác động
10
2.1.
Ảnh hưởng đối với người dân
10
2.2.
Ảnh hưởng đối với xã hội
10
3. Nguyên nhân
11
3.1.
Chính sách của nhà nước
11
3.2.
Nhà máy hoạt động chậm tiến độ
12
3.3.
Mất cân bằng cung cầu
13
3.4.
Phụ thuộc quá nhiều vào thủy điện
14
III.
GIÁP PHÁP ĐỀ XUẤT
15
1. Mục tiêu
15
2. Giải pháp
15
2.1.
15
Tính tất yếu phải xây dựng thị trường điện cạnh tranh ở Việt Nam
2.2. Lộ trình hình thành và phát triển thị trường điện ở Việt Nam
16
2.3. Giải pháp hiện tại: giai đoạn thí điểm thị trường phát điện cạnh tranh
16
2.3.1. Mô hình
17
2.3.2. Phương án tái cơ cấu ngành điện cho phát triển thị trường phát điện
cạnh tranh để đảm bảo phát triển đúng với mô hình chào giá theo chi phí.
17
3. Đánh giá
18
TÀI LIỆU THAM KHẢO
20
22
KẾT LUẬN
21
23