Chun đề tốt nghiệp đại học
GVHD: ThS. Quản Bá Chính
Để hoàn thành được bài chuyên đề tốt
nghiệp này, ngoài sự cố gắng, nỗ lực của bản
thân, tôi đã nhận được rất nhiều sự quan tâm
giúp đỡ của trường, của quý thầy cô, đơn vò thực
tập, người thân và bạn bè.
Tôi xin phép gửi lời biết ơn sâu sắc đến quý
thầy cô Khoa Du Lòch - Đại học Huế đã hết lòng
giảng dạy, trang bò kiến thức cho tôi trong suốt quá
trình học tập tại trường, đặc biệt là thầy giáo Th.S
Quản Bá Chính người đã trực tiếp hướng dẫn,
nhiệt tình giúp đỡ, dìu dắt tôi trong suốt quá trình
làm bài chuyên đề này.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn Ban lãnh đạo,
các cô chú, anh chò làm việc tại Công ty Du lòch
Con Voi đã tạo điều kiện cho tôi thực tập, tiếp cận
thực tế, vận dụng những kiến thức đã học để
hoàn thiện kó năng bản thân.
Xin chân thành cảm ơn UBND xã Phong Hòa và
toàn thể bà con dân làng Phước Tích đã cho tôi
nhiều tư liệu quý báu để hoàn thành bài chuyên đề
tốt nghiệp.
Mặc dù tôi đã cố gắng hoàn thành bài
chuyên đề trong phạm vi cho phép nhưng chắc chắn
sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong
nhận được sự thông cảm và tận tình chỉ bảo của
quý thầy cô giáo để bài được hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
1
SVTH: Trương Thị Thu
1
Lớp: K50 - HDDL1
Chun đề tốt nghiệp đại học
GVHD: ThS. Quản Bá Chính
Huế, tháng 06
năm 2020
Sinh viên thực
hiện
Trương Thò Thu
LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tơi và được sự
hướng dẫn của Th.S Quản Bá Chính. Các nội dung nghiên cứu, kết quả trong đề
tài này là trung thực và chưa cơng bố dưới bất kỳ hình thức nào trước đây. Những
số liệu trong các bảng biểu phục vụ cho việc phân tích, nhận xét, đánh giá được
chính tác giả thu thập từ các nguồn khác nhau có ghi rõ trong phần tài liệu tham
khảo.
Huế, tháng 6 năm 2020
Sinh viên thực hiện
Trương Thị Thu
2
SVTH: Trương Thị Thu
2
Lớp: K50 - HDDL1
Chuyên đề tốt nghiệp đại học
GVHD: ThS. Quản Bá Chính
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN.......................................................................................................
3
SVTH: Trương Thị Thu
3
Lớp: K50 - HDDL1
Chuyên đề tốt nghiệp đại học
GVHD: ThS. Quản Bá Chính
DANH MỤC VIẾT TẮT
BQL
:
Ban quản lý
CĐĐP
:
Cộng đồng địa phương
DLCĐ
:
Du lịch cộng đồng
JICA
: Cơ quan Hợp tác Quốc tế Nhật Bản
LHQ
:
Liên hợp quốc
UBND
:
Uỷ ban nhân dân
SNV
:
Tổ chức phát triển Hà Lan tại Việt Nam
4
SVTH: Trương Thị Thu
4
Lớp: K50 - HDDL1
Chuyên đề tốt nghiệp đại học
GVHD: ThS. Quản Bá Chính
DANH MỤC BẢNG BIỂU
DANH MỤC HÌNH
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
5
SVTH: Trương Thị Thu
5
Lớp: K50 - HDDL1
Chuyên đề tốt nghiệp đại học
GVHD: ThS. Quản Bá Chính
PHẦN 1: ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lý do chọn đề tài
Ngành du lịch, hay còn gọi là ngành công nghiệp không khói, là ngành công
nghiệp quan trọng của nền kinh tế thế giới, nó còn có vai trò đặc biệt quan trọng đối
với nền kinh tế của các nước đang phát triển. Cùng với sự phát triển mạnh của
ngành du lịch thế giới, du lịch Việt Nam trong những năm qua cũng có sự phát triển
vượt bậc, thể hiện qua lượng khách quốc tế, cũng như khách du lịch nội địa chọn
Việt Nam là điểm đến du lịch. Du lịch Việt Nam đã có những tiến bộ tích cực và đạt
được những thành tựu đáng ghi nhận đồng thời có nhiều tiềm năng, triển vọng tiến
xa hơn. Trong đó tỉnh Thừa Thiên – Huế cũng là một địa phương đóng góp không
nhỏ trong ngành công nghiệp dịch vụ này, từng bước khẳng định mình là một trung
tâm du lịch lớn của khu vực miền trung. Với bề dày lịch sử của mình, nơi đây còn
lưu giữ nhiều nhiều giá trị văn hoá có giá trị mà không nơi nào trên đất nước Việt
Nam có được. Đó là các di tích văn hóa, các công trình kiến trúc độc đáo, quần thể
di tích triều Nguyễn bao gồm các cung điện, đền đài, miếu vũ, thành quách, lăng
tẩm, các kiến trúc chùa chiền, nhà thờ...vẫn giữ nguyên nét uy nghi, cổ kính, trang
nghiêm. Các lễ hội dân gian truyền thống, lễ hội tôn giáo tín ngưỡng như Lễ tế trời
Đàn Nam Giao, lễ hội Điện Hòn Chén… Các thể loại mỹ thuật, nghệ thuật cổ
truyền dân gian và cung đình đều được lưu truyền... Đây là những tiềm năng, những
lợi thế để du lịch Huế ngày càng phát triển.
Một trong những giá trị văn hoá đặc sắc mà Huế còn lưu giữ cho đến ngày nay đó
là Làng Cổ Phước Tích. Phước Tích là một trong hai ngôi làng cổ nhất Việt Nam và
được công nhận là di sản quốc gia năm 2009. Với hơn 500 năm tồn tại và phát triển,
Phước Tích vẫn gìn giữ được những giá trị di sản văn hoá quí giá của một làng quê nổi
tiếng với nghề làm gốm. Đặc biệt là quần thể di tích nghệ thuật kiến trúc dân gian độc
đáo với 36 ngôi nhà rường cổ còn khá nguyên vẹn, gồm 12 ngôi nhà thờ họ, phái; 24
nhà ở của dân. Tất cả những ngôi nhà rường này đều trên 100 năm tuổi và đều được
chạm khắc những họa tiết, hoa văn cực kỳ tinh xão. Bên cạnh đó là hệ thống các di tích
tín ngưỡng, tôn giáo như đình, chùa, miếu, nhà thờ của các họ tộc; các di tích của nền
6
SVTH: Trương Thị Thu
Lớp: K50 - HDDL1
Chuyên đề tốt nghiệp đại học
GVHD: ThS. Quản Bá Chính
văn hoá Champa; những cây cổ thụ có tuổi thọ hàng trăm năm; những bến nước, sân
đình; phế tích của những lò nung gốm; đường làng, ngõ xóm, những lối đi với lớp lớp
những mảnh gốm sành ghi dấu thời vàng son của làng nghề sản xuất gốm...
Với sự phát triển và các tác động đồng thời của nó, du lịch Tỉnh Thừa Thiên
Huế đã và đang hướng tới việc phát triển “du lịch bền vững” nhằm hạn chế những
tác động tiêu cực mà du lịch gây ra, đảm bảo cho sự phát triển bền vững về kinh tế môi trường - xã hội. Từ chính những nhu cầu đó mà nhiều loại hình du lịch bền
vững ra đời, trong đó có du lịch cộng đồng. Du lịch cộng đồng không chỉ làm đa
dạng, phong phú những sản phẩm du lịch phục vụ du khách mà còn là một hướng đi
đúng đắn, bền vững và hiệu quả để giữ gìn, bảo tồn và phát huy những giá trị,
những bản sắc văn hoá truyền thống đặc sắc của địa phương. Loại hình du lịch cộng
đồng cũng đã và đang góp phần bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá đặc sắc của
Làng Cổ Phước Tích. Tuy nhiên, để tác động của du lịch đến Làng cổ Phước Tích
thực sự thành công và lâu dài thì còn cần phải nghiên cứu chuyên sâu hơn nữa để có
thể đầu tư và phát triển du lịch một cách cụ thể và hiệu quả. Đặc biệt là phải chú
trọng đến một nhân tố quan trọng, đóng vai trò cốt yếu trong loại hình du lịch cộng
đồng đó chính là người dân địa phương. Chính vì lý do này, đề tài “Đánh giá sự
tham gia của người dân địa phương vào hoạt động du lịch cộng đồng tại Làng
cổ Phước Tích” đã được thực hiện.
Đề tài này cung cấp những đánh giá một cách khách quan về thực trạng tham
gia và lợi ích đạt được của cộng đồng địa phương tại Làng cổ Phước Tích. Nghiên
cứu này được thực hiện với mong muốn đưa du lịch cộng đồng trở thành một hướng
đi mới mang lại hiệu quả kinh tế cao nhất, bền vững và góp phần bảo tồn và phát
huy những giá trị của Làng cổ Phước Tích.
2. Mục tiêu nghiên cứu
− Nghiên cứu cơ sở lý luận về du lịch và du lịch cộng đồng, các tiêu chí đánh
giá về sự tham gia, vai trò của việc tham gia và lợi ích của người dân địa phương
đối với hoạt động du lịch cộng đồng tại Làng cổ Phước Tích.
− Đánh giá mức độ tham gia của người dân vào hoạt động du lịch thông qua việc
khảo sát, tìm hiểu và nghiên cứu các hoạt động mà người dân tham gia vào.
7
SVTH: Trương Thị Thu
Lớp: K50 - HDDL1
Chuyên đề tốt nghiệp đại học
GVHD: ThS. Quản Bá Chính
− Đưa ra một số giải pháp để thu hút sự tham gia của cộng đồng địa phương
trong hoạt động du lịch tại Làng Cổ Phước Tích.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Sự tham gia của người dân địa phương vào hoạt động
du lịch cộng đồng tại Làng cổ Phước Tích
Khách thể nghiên cứu: Các người dân hiện đang sinh sống tại Làng Phước
Tích thôn Phước Phú, xã Phong Hòa, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
−
Phạm vi thời gian: Đề tài thu thập các số liệu qua điều tra trực tiếp người
dân địa phương trong thời gian thực tập từ ngày 01/04/2020 đến 01/06/ 2020.
−
Phạm vi không gian: Đề tài được tiến hành tại khu vực Làng cổ Phước
Tích thôn Phước Phú, xã Phong Hoà, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế.
4. Phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp thu thập số liệu
4.1.1. Số liệu thứ cấp
−
Tài liệu liên quan đến tài nguyên, văn hoá và dân cư ở Làng cổ Phước
Tích do UBND Xã Phong Hoà cung cấp, đồng thời tham khảo thông tin trên
Internet, sách, báo…
−
Các số liệu thống kê du lịch về lượng khách giai đoạn 2017 - 2019 do
Ban quản lý Làng Cổ Phước Tích cung cấp.
4.1.2. Số liệu sơ cấp
− Phương pháp chọn mẫu: Chọn mẫu ngẫu nhiên (ngẫu nhiên đơn giản) thông
qua việc phát bảng hỏi ngẫu nhiên cho người dân tại Làng cổ Phước Tích (cả những
người dân đã tham gia và chưa tham gia vào hoạt động du lịch cộng đồng tại địa
phương). Ưu điểm của phương pháp này là đơn giản, chi phí thấp, chủ động được
thời gian, phù hợp với những nghiên cứu với tầm các khoá luận tốt nghiệp.
− Quy mô mẫu:
Quy mô mẫu: sử dụng công thức Linus Yamane để tính quy mô mẫu.
8
SVTH: Trương Thị Thu
Lớp: K50 - HDDL1
Chuyên đề tốt nghiệp đại học
GVHD: ThS. Quản Bá Chính
Công thức: n =
Với n: Quy mô mẫu để điều tra.
N: kích thước tổng thể, cụ thể tổng số khách tham quan Làng cổ Phước Tích
trong năm 2019 N= 6644.
e: Độ sai lệch (e =0,1).
Áp dụng công thức ta có quy mô mẫu là:
n =
6644
1+ 6644 *0 ,12
= 98,51 (mẫu)
Để đạt được số phiếu cần thiết của đề tài đã tiến hành phát ra 120 phiếu điều
tra. Sau đó thu về 110 phiếu trong đó có 05 phiếu không hợp lệ. Vậy số lượng mẫu
còn lại chọn phân tích là 105 mẫu.
4.2 Phương pháp điều tra
− Để hoàn thành nghiên cứu này đã tiến hành điều tra thông qua việc phát
bảng hỏi những đối tượng tham gia và không tham gia vào hoạt động du lịch tại
Làng cổ Phước Tích xã Phong Hòa, huyện Phong Điền, Tỉnh Thừa Thiên Huế.
− Đã đi khảo sát thực tế nhiều lần cũng như tiếp xúc với người dân địa
phương nhằm nắm bắt thông tin khách quan về thực trạng tài nguyên và thực trạng
hoạt động du lịch cộng đồng tại địa phương.
4.3 Phương pháp phân tích, xử lý số liệu
Để có những số liệu thống kê cần thiết và phù hợp, đề tài sử dụng phương
pháp thống kê bằng phần mềm SPSS phiên bản 20.0.
Cụ thể, các công cụ được sử dụng đó là: Tần suất (Frequency), thống kê mô tả
(Descriptive), phần trăm (percent), Crosstabs (Bảng chéo).
5. Kết cấu đề tài
Ngoài lời cảm ơn, lời cam đoan, phần đặt vấn đề, kết luận, kiến nghị, mục
lục và phụ lục thì kết cấu của đề tài gồm 3 chương chủ yếu sau:
9
SVTH: Trương Thị Thu
Lớp: K50 - HDDL1
Chuyên đề tốt nghiệp đại học
GVHD: ThS. Quản Bá Chính
Chương I: Tổng quan về vấn đề nghiên cứu.
Chương II: Đánh giá mức độ tham gia của người dân địa phương vào hoạt
động du lich cộng đồng tại Làng cổ Phước Tích.
Chương III: Một số giải pháp để thu hút sự tham gia và nâng cao năng lực của
cộng đồng địa phương trong hoạt động du lịch tại Làng Cổ Phước Tích.
10
SVTH: Trương Thị Thu
Lớp: K50 - HDDL1
Chuyên đề tốt nghiệp đại học
GVHD: ThS. Quản Bá Chính
PHẦN II: NỘI DUNG CỦA ĐỀ TÀI
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
A. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Một số khái niệm về du lịch
Du lịch đã trở thành một hiện tượng kinh tế xã hội phổ biến không chỉ ở các
nước phát triển mà còn ở các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Tuy
nhiên, cho đến nay, không chỉ ở nước ta, nhận thức về nội dung du lịch vẫn chưa
thống nhất. Do hoàn cảnh khác nhau, dưới mỗi góc độ nghiên cứu khác nhau, mỗi
người có một cách hiểu về du lịch khác nhau. Do vậy có bao nhiêu tác giả nghiên
cứu về du lịch thì có bấy nhiêu định nghĩa.
Theo các nhà kinh tế, du lịch không chỉ là một hiện tượng xã hội đơn thuần mà
nó phải gắn chặt với hoạt động kinh tế. Nhà kinh tế học Picara- Edmod đưa ra định
nghĩa: “Du lịch là việc tổng hoà việc tổ chức và chức năng của nó không chỉ về
phương diện khách vãng lai mà chính về phương diện giá trị do khách chỉ ra và của
những khách vãng lai mang đến với một túi tiền đầy, tiêu dùng trực tiếp hoặc gián
tiếp cho các chi phí của họ nhằm thoả mãn nhu cầu hiểu biết và giải trí.” [8]
Luật Du lịch Việt Nam 2005 đã đưa ra khái niệm như sau: “Du lịch là các hoạt
động liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của
mình nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong một
khoảng thời gian nhất định”. [3]
1.2. Lý luận chung về du lịch cộng đồng
1.2.1. Khái niệm và nguyên tắc phát triển du lịch cộng đồng
1.2.1.1. Khái niệm về du lịch cộng đồng
Ngày nay, du lịch cộng đồng đang nhận được nhiều sự đồng thuận trong chiến
lược phát triển du lịch không chỉ ở các quốc gia phát triển mà còn có ở nhiều quốc
gia khác với mục tiêu mang lại lợi ích chung cho cộng đồng địa phương, đặc biệt
cho cộng đồng các làng quê xa xôi ở nông thôn.
11
SVTH: Trương Thị Thu
Lớp: K50 - HDDL1
Chuyên đề tốt nghiệp đại học
GVHD: ThS. Quản Bá Chính
Khái niệm này cũng được nhắc đến trong chương trình nghiên cứu của nhiều
tổ chức xã hội trên thế giới. Pachamama (Tổ chức hướng đến việc giới thiệu và bảo
tồn văn hóa bản địa khu vực Châu Mỹ) cho rằng: “DLCĐ là loại hình du lịch mà du
khách từ bên ngoài đến với cộng đồng địa phương để tìm hiểu về phong tục, lối
sống, niềm tin và được thưởng thức ẩm thực địa phương. Cộng đồng địa phương
kiểm soát cả những tác động và những lợi ích thông qua quá trình tham gia vào hình
thức du lịch này, từ đó tăng cường khả năng tự quản, tăng cường phương thức sinh
kế và phát huy giá trị truyền thống của địa phương”. [7]
Tại Việt Nam, hàng loạt khái niệm về DLCĐ đã được đề cập. Tác giả Trần Thị
Mai (2005) đã xây dựng nội dung cho khái niệm này như sau: “DLCĐ là hoạt động
tương hỗ giữa các đối tác liên quan, nhằm mang lại lợi ích về kinh tế cho cộng đồng
dân cư địa phương, bảo vệ được môi trường và mang đến cho du khách kinh
nghiệm mới, góp phần thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của địa phương
có dự án”. [47;5]
Du lịch cộng đồng được định nghĩa tại Khoản 15 Điều 3 Luật Du lịch 2017
(có hiệu lực từ ngày 01/01/2018). Theo đó: “Du lịch cộng đồng là loại hình du lịch
được phát triển trên cơ sở các giá trị văn hóa của cộng đồng, do cộng đồng dân cư
quản lý, tổ chức khai thác và hưởng lợi. Hiện nay, du lịch cộng đồng đang được coi
là loại hình du lịch mang lại nhiều lợi ích phát triển kinh tế bền vững nhất cho bản
địa. Du lịch cộng đồng không chỉ giúp người dân bảo vệ tài nguyên môi trường sinh
thái, mà còn là dịp để bảo tồn và phát huy những nét văn hoá độc đáo của địa
phương.” [4]
1.2.1.2. Nguyên tắc phát triển du lịch cộng đồng
❖
Bình đẳng xã hội
Các thành viên của cộng đồng tham gia lập kế hoạch, thực hiện và quản lý các
hoạt động du lịch trong cộng đồng của mình. Sự tham gia của cộng đồng địa
phương vào công tác chuẩn bị, tổ chức và thực hiện các hoạt động du lịch được chú
trọng. Các lợi ích kinh tế được chia đều,không chỉ cho các công ty du lịch mà cho
cả các thành viên cộng đồng.
❖
Tôn trọng văn hóa địa phương và các di sản thiên nhiên
12
SVTH: Trương Thị Thu
Lớp: K50 - HDDL1
Chuyên đề tốt nghiệp đại học
GVHD: ThS. Quản Bá Chính
Hầu hết các hoạt động du lịch đều tiềm tàng các tác động tích cực và cả tiêu
cực đến cộng đồng địa phương và môi trường tự nhiên. Quan trọng là các giá trị văn
hóa địa phương và môi trường thiên nhiên được bảo vệ và tôn trọng thông qua các
hoạt động tích cực của tất cả các đối tác trong ngành du lịch địa phương. Điều này
rất quan trọng để duy trì cấu trúc xã hội địa phương. Do đó, các cộng đồng không chỉ
phải nhận thức được vai trò và trách nhiệm của mình trong việc cung cấp các trải
nghiệm du lịch thành công, mà còn phải hiểu các tác động tích cực và tiêu cực của du
lịch mà có thể ảnh hưởng đến họ và môi trường tự nhiên của họ do thiếu quy hoạch và
quản lý.
❖
Chia sẻ lợi ích
Việc chia sẻ các lợi ích từ du lịch cho cộng đồng đòi hỏi cộng đồng có thể
nhận được các lợi ích giống như các đối tác liên quan khác. Trong việc chia sẻ lợi
ích, doanh thu từ các hoạt động du lịch thường được chia cho tất cả những người
tham gia và một phần riêng đóng để góp cho toàn bộ cộng đồng địa phương thông
qua quỹ cộng đồng, quỹ này có thể được sử dụng cho các mục đích như tái đầu tư vào
cơ sở hạ tầng như cầu, đường, điện hoặc các lĩnh vực lợi ích cộng đồng khác như y tế
và giáo dục.
❖
Sở hữu và tham gia của địa phương
Du lịch cộng đồng thành công sẽ khai thác một cách hiệu quả các kiến thức và
nguồn lực của cộng đồng địa phương để đạt được các kết quả trong du lịch. Sự tham
gia của cộng đồng địa phương từ khâu lập kế hoạch đến thực hiện và đánh giá là rất
quan trọng một cách tốt nhất để đảm bảo đạt được quyền sở hữu của địa phương và
phát huy tối đa sự được tham gia của địa phương.
1.2.1.3. Những hình thức của du lịch cộng đồng
−
Du lịch sinh thái: du lịch sinh thái là một hình thức du lịch diễn ra trong
khu vực tự nhiên (đặc biệt là trong các khu vực cân được bảo vệ và môi trường
xung quanh nó) và kết hợp tìm hiểu bản sắc văn hóa - xã hội của địa phương có sự
quan tâm đến vấn đề môi trường.
13
SVTH: Trương Thị Thu
Lớp: K50 - HDDL1
Chuyên đề tốt nghiệp đại học
−
GVHD: ThS. Quản Bá Chính
Du lịch văn hóa: du lịch văn hóa là một trong những thành phần quan
trọng nhất của du lịch dựa vào cộng đồng từ khi văn hóa, lịch sử, khảo cổ học, là
yếu tố thu hút khách chủ yếu của cộng đồng địa phương.
−
Du lịch nông nghiệp: đây là một hình thức du lịch tại các khu vực nông
nghiệp như vườn cây ăn trái, trang trại nông lâm kết hợp phục vụ cho khách du lịch.
−
Du lịch làng: Khách du lịch chia sẻ các hoạt động trong cuộc sống thôn
bản, và các làng nông thôn thu được lợi ích kinh tế từ các hoạt động du lịch.
−
Du lịch làng nghề truyền thống: Du lịch làng nghề truyền thống là hình
thức du lịch mà ở đó mục tiêu của du khách là muốn tìm hiểu về các làng nghề có
lịch sử lâu đời. Do đó, du khách đến các làng nghề với mong muốn được tìm hiểu
về các sản phẩm này, quy trình làm ra chúng và được tự tay làm ra một sản phẩm
của riêng mình. Thực tế này tạo ra cơ hội cho du lịch cộng đồng phát triển. Hình
thức này giúp du khách tiếp cận những sản phẩm đặc trưng của địa phương thông
qua đó quảng bá được hình ảnh của các sản phẩm truyền thống đến với du khách.
1.2.2. Điều kiện phát triển và khó khăn đối với hoạt động du lịch cộng đồng
tại một địa phương
1.2.2.1. Điều kiện thuận lợi để phát triển du lịch cộng đồng
Điều kiện thuận lợi đầu tiên giúp các địa phương phát triển du lịch cộng đồng
là cộng đồng được tổ chức và có tính gắn kết. Tất cả những thành viên của cộng
đồng được tham gia rộng rãi vào quá trình đưa ra quyết định và quản lý tài chính
xung quanh du lịch cộng đồng.
Cấu trúc quản lý và đưa ra quyết định theo hướng từ dưới lên. Những quyết
định cho du lịch dựa vào cộng đồng cần được quyết định bởi cộng đồng dựa trên
những thông tin đầy đủ và xác thực về ảnh hưởng, khả năng thay thế, nguy cơ và
lượng sản phẩm.
Các hoạt động được hỗ trợ đắc lực bởi những chương trình Marketing hiệu
quả. Bên cạnh đó, các địa phương cần một kế hoạch mở rộng mạnh mẽ, hoặc giới
hạn lượng khách đến để giữ cân bằng với nguồn lực của cộng đồng và môi trường,
nhằm tránh phản tác dụng lên cả hai.
14
SVTH: Trương Thị Thu
Lớp: K50 - HDDL1
Chuyên đề tốt nghiệp đại học
GVHD: ThS. Quản Bá Chính
Xây dựng kết nối hiểu biết của du khách với những giá trị văn hoá và tài
nguyên. Sự tiếp cận đó của du khách có tính đặc trưng và riêng có dựa vào bối cảnh
địa phương, không phải chỉ du nhập, sao chép từ nơi khác.
1.2.2.2. Khó khăn đối với phát triển du lịch dựa vào cộng đồng địa phương
Việc đưa ra quyết định được hoàn toàn quyết định bởi một nhóm cá nhân có
quyền lực (thường là nam giới) và lợi ích không được chia sẻ công bằng cho cộng
đồng. Cộng đồng không thực sự có quyền lực trong việc đưa ra quyết định hoặc đưa
ra quyết định dựa trên những thông tin không đầy đủ hoặc thiếu sự cân nhắc về
những lựa chọn.
Hoạt động du lịch dựa vào cộng đồng của địa phương có ít hoạt động quảng bá
hoặc những hoạt động quảng bá không phù hợp. Người bản địa chỉ muốn kéo khách
đến và giữ khách ở lại càng nhiều, chứ không nỗ lực nào để thông báo cho khách du
lịch về những điểm đặc biệt của những di sản văn hoá và tài nguyên thiên nhiên địa
phương, do vậy không tạo được cảm giác mới lạ.
1.2.3. Vai trò của các bên tham gia trong phát triển du lịch cộng đồng
Nhiều người chỉ cho rằng chỉ có cộng đồng địa phương tham gia vào Du lịch
cộng đồng – đây là một cách nhìn không đầy đủ. Thật ra có rất nhiều bên tham gia
vào du lịch cộng đồng tại một địa phương, đó là:
Cộng đồng dân cư địa phương (người dân, chính quyền…)
Có nhiệm vụ tổ chức mô hình Du lịch cộng đồng tại địa phương.
Các công ty lữ hành
Có nhiệm vụ đưa khách đến các điểm Du lịch cộng đồng.
Khách du lịch
Là người có mong muốn được tìm hiểu mô hình Du lịch cộng đồng tại địa phương.
Các công ty vận tải
Là đơn vị đưa khách đến với mô hình Du lịch cộng đồng tại địa phương –
thường các công ty vận tải này thường có mối quan hệ mật thiết với các công ty lữ
hành hoặc người điều hành du lịch.
Chính quyền địa phương
15
SVTH: Trương Thị Thu
Lớp: K50 - HDDL1
Chuyên đề tốt nghiệp đại học
GVHD: ThS. Quản Bá Chính
Có thể là chính quyền thuộc các cấp khác nhau đảm bảo cho mô hình Du lịch
cộng đồng tại địa phương hoạt động hiệu quả nhất, chẳng hạn như đề ra các chính
sách, hỗ trợ hạ tầng, cấp giấy phép cho khách nước ngoài….
Các cơ sở đào tạo
Có nhiệm vụ cung cấp các dịch vụ đào tạo đến các đối tượng khác nhau trong
mô hình Du lịch cộng đồng. Các lĩnh vực đào tạo có thể là đào tạo kỹ năng vận
hành du lịch, đào tạo kỹ năng bán hàng, kỹ năng quản lý, đào tạo ngoại ngữ…
Các doanh nghiệp vừa và nhỏ
Là các đơn vị tham gia vào phát triển dịch vụ tại địa phương như sản xuất
hàng thủ công, hướng dẫn khách du lịch. Đây cũng có thể là các doanh nghiệp
không nằm ở địa phương mà liên kết với Ban quản lý Du lịch cộng đồng tại địa
phương để cùng phát triển Du lịch cộng đồng và phân chia lợi nhuận.
Các tổ chức phi chính phủ
Đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao năng lực của Cộng đồng địa
phương về phát triển du lịch bền vững, đào tạo các kỹ năng cần thiết cho Du lịch
cộng đồng, hỗ trợ nguồn vốn để xây dựng các mô hình tại địa phương.
Cộng đồng dân cư ở các vùng phụ cận
Sự phối hợp của cộng đồng dân cư ở các vùng phụ cận góp phần làm cho tuyến
Du lịch cộng đồng thêm ấn tượng, ví dụ sự hợp tác trong việc tạo cảnh quan chung.
1.2.4. Sự tham gia của cộng đồng địa phương trong hoạt động du lịch
1.2.4.1. Các hình thức tham gia của cộng đồng địa phương
Đã có khá nhiều các nhà nghiên cứu nỗ lực phát triển một loại các mô hình
khái quát sự tham gia của cộng đồng trong bối cảnh các nghiên cứu phát triển nói
chung. Mặc dù vậy, vẫn chưa có một mô hình cụ thể nào được xây dựng cho một
lĩnh vực kinh tế nhất định (Arnstein, 1969 được trích bởi Tosun, 2006 và Pretty,
1995 được trích dẫn bởi Tusun, 2000). Tuy những công trình này đã góp phần đưa
ra các công cụ hữu dụng thúc đẩy sự tham gia của cộng đồng,nhưng các nghiên cứu
chỉ tập trung chủ yếu vào cách tiếp cận phát triển và có sự tham gia trong các
nghiên cứu phát triển (Tosun, 2006).
16
SVTH: Trương Thị Thu
Lớp: K50 - HDDL1
Chuyên đề tốt nghiệp đại học
GVHD: ThS. Quản Bá Chính
Tác giả Tosun (2000) sau khi xem xét các nghiên cứu này đã tiến hành khảo
sát sự tham gia của cộng đồng trong lĩnh vực du lịch và thiết kế một mô hình có thể
được ứng dụng trong ngành công nghiệp du lịch. Chính vì lý do này, sau quá trình
nghiên cứu của bản thân, tác giả đã lựa chọn sử dụng mô hình về các hình thức
tham gia của cộng đồng của tác giả Tosun để chỉ ra các hình thức tham gia của
người dân và cộng đồng trong hoạt động du lịch.
MÔ HÌNH CỦA TOSUN(2006) VỀ CÁC HÌNH THỨC THAM GIA
1
CỦA CỘNG ĐỒNG
HÌNH THỨC THAM GIA TỰ NGUYỆN.
Tiếp cận từ dưới lên, chủ động, trực tiếp, tham gia vào tiến trình ra quyết
2
định, tự lập kế hoạch, là sự tham gia đích thực.
HÌNH THỨC THAM GIA DO THUYẾT PHỤC.
Tiếp cận từ trên xuống, bị động, không trực tiếp, tham gia mang tính hình
thức, có sự điều khiển, tham gia vào việc thực hiện và có sự phân chia về lợi
3
ích, có quyền lựa chọn và đưa ra ý kiến phản hồi.
HÌNH THỨC THAM GIA DO ÉP BUỘC.
Tiếp cận từ trên xuống, bị động, không trực tiếp, tham gia vào việc thực hiện
nhưng không hẳn có sự chia sẻ về lợi ích, không có quyền lựa chọn hoặc sự
lựa chọn bị hạn chế, không có sự tham gia, tính hình thức và sự điều khiển
cao.
Hình 1.1: Mô hình về các hình thức tham gia của cộng đồng
(Nguồn, Tosun, 2006)
Theo mô hình của Tosun, “hình thức tham gia tự nguyện” nhấn mạnh đến
việc trao toàn quyền quản lý và ra quyết định cho cộng đồng người dân và đề xuất
một mô hình lý tưởng về sự tham gia của cộng đồng trong lĩnh vực du lịch. Nó thể
hiện được quyền công dân của người dân và chắc chắn rằng nó sẽ nhận được sự ủng
hộ nhiệt tình của cộng đồng.
Đối với loại hình “Tham gia do thuyết phục” thì cộng đồng người dân đã
được nêu lên ý kiến chủ quan của mình đối với tiến trình phát triển du lịch và tiếng
nói của họ có cơ hội được lắng nghe. Tuy nhiên, cộng đồng người dân chỉ thường
tham gai vào một phần của tiến trình ra quyết định nên không thể đảm bảo tiếng nói
17
SVTH: Trương Thị Thu
Lớp: K50 - HDDL1
Chuyên đề tốt nghiệp đại học
GVHD: ThS. Quản Bá Chính
của họ được xem xét cho việc thực hiện do bị chi phối bởi các nhóm khác có quyền
lực cao hơn như các cơ quan chính quyền, các công ty lữ hành. Đây là loại hình chỉ
mang tính hình thức, cộng đồng người dân có sự tham gia nhưng bị động, họ chỉ
tham gia vào việc thực hiện giải quyết các vấn đề phát triển du lịch và chứng thực
các quyết định liên quan đến họ, mà không có quyền ra quyết định.
Đối với hình thức “Tham gia do ép buộc” của Tosun, cộng đồng người dân
hầu như không được tham gia vào tiến trình ra quyết định như ở loại hình “Tham
gia do thuyết phục”. Ở đây, mọi quyết định đều được nắm giữ bởi những nhóm có
quyền lực cao hơn, sự phân chia lợi ích cũng hầu như không có cho người dân. [6]
Tóm lại, sự tham gia của cộng đồng vào hoạt động du lịch không đơn giản
chỉ là sự chứng thực về một hoạt động nào đó liên quan đến họ mà cần có sự tham
gia đích thực vào tiến trình phát triển du lịch. Chỉ có như vậy mới giúp cho du lịch
phát triển theo hướng bền vững.
1.2.4.2. Ý nghĩa của sự tham gia người dân trong hoạt động du lịch cộng đồng
CĐĐP chính là những người chủ sở hữu các nguồn tài nguyên cũng như một
nền văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc. Họ là những người hiểu rõ nhất về nguồn tài
nguyên của mình. Vì vậy sự tham gia của cộng đồng địa phương trong hoạt động du
lịch là có ý nghĩa hết sức quan trọng. Sự tham gia của họ không những có tác dụng
to lớn trong việc giáo dục du khách mà còn góp phần nâng cao hơn nữa nhận thức
của chính bản thân người dân trong việc bảo tồn nguồn tài nguyên tự nhiên, văn hoá
của địa phương.
Từ những kinh nghiệm thực tiễn của nhiều địa phương trong nước và quốc tế
cho thấy, công tác bảo vệ nguồn tài nguyên và môi trường trong du lịch chỉ thật sự
thành công khi huy động được sự tham gia cảu tất cả các ngành, các cấp, tổ chức
quần chúng và đặc biệt là sự tham gia của người dân càng có ý nghĩa thiết thực và
vô cùng quan trọng.
Chính vì vậy, chúng ta cần làm tốt công tác vận động cộng đồng cùng tham
gia vào hoạt động du lịch. Sự tham gia mạnh mẽ của cộng đồng tạo ra năng lực của
cộng đồng, tiếng nói đồng thuận, tạo thêm nguồn lực cho các địa phương thực hiện
tốt nhiệm vụ phát triển du lịch. Thông qua tham gia du lịch người dân sẽ được
18
SVTH: Trương Thị Thu
Lớp: K50 - HDDL1
Chuyên đề tốt nghiệp đại học
GVHD: ThS. Quản Bá Chính
hưởng lợi ích kinh tế, góp phần xoá đói giảm nghèo, tạo việc làm cho người dân địa
phương, giảm thiểu các tệ nạn xã hội.
1.2.5. Hình thức phân chia lợi ích của du lịch cộng đồng
Cộng đồng phải được chia sẻ lợi ích từ phát triển du lịch. Theo nguyên tắc này cộng
đồng phải cùng hưởng lợi như các thành khác tham gia vào hoạt động kinh doanh
cung cấp các sản phẩm cho khách du lịch, nguồn thu từ hoạt động du lịch được
phân chia công bằng cho mọi thành viên tham gia hoạt động, đồng thời lợi ích đó
cũng được trích để phát triển lợi ích chung cho xã hội như tái đầu tư cho cộng đồng
xây dựng đường sá, cầu cống, điện, chăm sóc sức khỏe, giáo dục,…
Bên cạnh đó, hoạt động du lịch gây ra những mâu thuẫn giữa các bên tham gia nếu
không phân chia lợi ích công bằng. Cho nên, muốn khai thác lâu bền các giá trị của
cộng đồng, nhất thiết phải thực hiện du lịch có trách nhiệm. Trong bối cảnh hiện
nay, phát triển du lịch có trách nhiệm phải chia sẻ lợi ích, đảm bảo sự tham gia đồng
đều của tất cả các bên. Đối với du khách, phải làm sao để họ thay đổi nhận thức và
có những hành động thiết thực tại điểm đến. Nhiều doanh nghiệp đã hỗ trợ cho
người bản địa, hỗ trợ về môi trường, xử lý rác thải. Còn đối với những du khách nếu
không có nhiều thời gian thì có thể mua sản phẩm của địa phương; thuê hướng dẫn
viên du lịch là người bản địa; ăn, nghỉ ở nhà hàng của địa phương.
Phát triển du lịch cộng đồng mang lại lợi ích cho người dân địa phương. Trong đó,
cộng đồng dân cư tại địa phương tham gia du lịch cộng đồng với tư cách vừa là nhà
tổ chức, vừa là người hưởng thụ, lại vừa chủ động cung cấp các dịch vụ như nhà
nghỉ, phương tiện vận chuyển, phục vụ ăn uống, bán hàng lưu niệm, hỗ trợ du
khách… Cùng với du khách, người dân là đối tượng được thụ hưởng những lợi ích
hữu hình cũng như vô hình của hoạt động này. Phát triển du lịch thì phải có trách
nhiệm với xã hội. Để phát triển kinh tế địa phương, tôn trọng những giá trị bản địa,
giá trị cộng đồng thì loại hình du lịch có trách nhiệm sẽ là giải pháp để phát triển du
lịch cộng đồng đúng hướng và bền vững. Suy cho cùng thì người dân phải được
hưởng lợi từ sự phát triển du lịch, phát triển du lịch cộng đồng đồng nghĩa với đảm
bảo sự công bằng trong việc chia sẻ nguồn thu nhập du lịch cho cộng đồng giữa các
bên tham gia. [3]
B. CƠ SỞ THỰC TIỄN
1.3. Khái quát chung về tình hình phát triển du lịch tỉnh Thừa Thiên Huế
19
SVTH: Trương Thị Thu
Lớp: K50 - HDDL1
Chuyên đề tốt nghiệp đại học
GVHD: ThS. Quản Bá Chính
Phát huy lợi thế của thành phố với những di sản và lễ hội – nguồn tài nguyên
quý giá của ngành du lịch, ngành kinh tế du lịch kết hợp với những tiềm năng khác
của tỉnh, Thừa Thiên Huế đã có những bước phát triển toàn diện và bền vững, trở
thành những trung tâm văn hóa du lịch của cả nước, thực hiện sự liên kết về du lịch
với các tour du lịch trong tuyến Hành lang kinh tế Đông – Tây với các điểm du lịch
ở Quảng Bình, Quảng Trị, Đà Nẵng, Quảng Nam hình thành nên “Con đường di sản
Miền Trung”.
Là kinh đô Việt Nam dưới triều đại phong kiến nhà Nguyễn, các giá trị di sản
nơi đây vừa hội tụ những đặc trưng tinh hoa văn hóa của dân tộc, vừa thể hiện nét
riêng, hấp dẫn của một nền văn hóa. Cùng với quần thể di tích cố đô Huế được công
nhận là di sản văn hóa thế giới, Huế còn được biết đến với nhã nhạc cung đình Huế
- kiệt tác phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại. Bên cạnh những giá trị di sản,
những lễ hội mang giá trị độc đáo, Huế còn được đông đảo khách du lịch trong và
ngoài nước biết đến là vùng đất của sự thanh tịnh, hiền hòa. Ẩm thực, con người
Huế cũng là một trong những nét hấp dẫn du khách.
Với những lợi thế về tài nguyên kết hợp với những chính sách phát triển du lịch
và những người làm du lịch, lượng khách du lịch đến huế liên tục tăng qua các năm.
Với những lợi thế về tài nguyên kết hợp với những chính sách phát triển du
lịch và những người làm du lịch, lượng khách du lịch đến huế liên tục tăng qua các
năm. Nếu như năm 2017 lượng khách đến Huế là 3.800.012 lượt khách thì đến năm
2018, tiếp tục đà phát triển, lượng khách đến Huế đạt hơn 4.332 triệu lượt. Năm
2019 lượng khách đến Huế đạt 4.817 triệu lượt khách. Lượng khách du lịch đến
Huế tăng mạnh vào những năm chẵn, những năm tổ chức Festival Huế.
Du lịch Huế đã có những bước chuyển mình đáng khích lệ. Hình thành và
phát triển một số sản phẩm du lịch: Tổ chức tốt một số lễ hội như lễ hội hoa Sen,
lễ hội múa Lân, lễ hội Diều, Hiphop để phục vụ du khách. Du lịch sinh thái dựa
vào cộng đồng, du lịch homestay, du lịch nhà vườn đã được hình thành khắp các
huyện, thị xã, nổi bật như điểm đến Bạch Mã Village, không gian lưu niệm Lê
Bá Đảng ở Thủy Bằng, Bến Xuân ở Thủy Biều, Thanh Toàn, A Roàng... đáp ứng
xu hướng trải nghiệm của khách du lịch... Đặc biệt, việc hình thành phố đi bộ
20
SVTH: Trương Thị Thu
Lớp: K50 - HDDL1
Chuyên đề tốt nghiệp đại học
GVHD: ThS. Quản Bá Chính
Phạm Ngũ Lão, Chu Văn An, Võ Thị Sáu, phố đi bộ trên sông Hương kết hợp
với phố Nguyễn Đình Chiểu và trục đường Lê Lợi... đã bước đầu giải được bài
toán giải trí về đêm tại trung tâm thành phố Huế. Đưa vào xây dựng các tour du
lịch tâm linh như đền Huyền Trân, Thiền viện Trúc lâm Bạch Mã, khu vực
Tượng Quán Thế Âm...; hình thành một số tour du lịch đặc trưng về làng nghề
Huế phục vụ khách du lịch như làng gốm Phước Tích, làng nón Phú Cam, đúc
đồng Phường Đúc, điêu khắc Mỹ Xuyên, đan lát Bao La, hoa giấy Thanh Tiên;
Ngoài ra, một số nhà đầu tư (Công ty Bình An, Công ty TTN) đang nghiên cứu
dịch vụ trên bờ nhằm phục vụ cho thủy thủ đoàn và du khách.
Công tác kêu gọi đầu tư phát triển du lịch, dịch vụ được chú trọng, đã đưa
vào hoạt động Trung tâm Thương mại Vincom, Khách sạn Vinpearl. Một số dự án
của các nhà đầu tư chiến lược, có thương hiệu đang triển khai như dự án mở rộng
của Laguna giai đoạn 2 gắn với dịch vụ casino, Địa Trung Hải, Minh Viễn, khu nghỉ
dưỡng và công viên chủ đề HAB của Tập đoàn PSH...
Hạ tầng phục vụ du lịch được tập trung đầu tư, đưa vào sử dụng như đường
vào Lăng Gia Long, hệ thống bãi đỗ xe, nhà vệ sinh công cộng,... Tập trung đẩy
nhanh tiến độ nâng cấp Cảng hàng không quốc tế Phú Bài, trước mắt nâng cấp, mở
rộng nhà khách T2; cơ bản hoàn thành bến cảng số 2, khởi công bến số 3 ở cảng
Chân Mây để có thể đưa bến số 1 trở thành bến cảng chuyên phục vụ tàu du lịch.
Việc tham gia các hội chợ trong và ngoài nước đã kêu gọi được sự hưởng ứng,
chung tay của các doanh nghiệp, chất lượng và hiệu quả được nâng lên. Công tác
quảng bá được đẩy mạnh, nhất là quảng bá qua ứng dụng du lịch thông minh như các
trang mạng xã hội có uy tín như Tripadvisor, Angoda, Booking.com, Traveloka; ký kết
thoả thuận với Vietnam Airlines, Traveloka, Đường sắt, Bưu điện.
Với nguồn tài nguyên du lịch đa dạng và phong phú, Thừa Thiên Huế hứa
hẹn là một điểm đến hấp dẫn cho khách du lịch trong và ngoài nước. Đóng vai trò
quan trọng trong sự phát triển của ngành du lịch miền Trung nói riêng và cả nước
nói chung.
21
SVTH: Trương Thị Thu
Lớp: K50 - HDDL1
Chuyên đề tốt nghiệp đại học
GVHD: ThS. Quản Bá Chính
1.4. Tình hình phát triển du lịch cộng đồng trên địa bàn Tỉnh Thừa
Thiên Huế
Thừa Thiên Huế có nhiều tiềm năng trong việc phát triển loại hình du lịch cộng
đồng. Nơi đây hội tụ những điều kiện cần thiết về tài nguyên văn hóa, tài nguyên môi
trường, cơ sở hạ tầng, thông tin du lịch, nguồn nhân lực, các dịch vụ du lịch…Để trở
thành một trong những điểm đến hấp dẫn của du lịch cộng đồng. Đó chính là hệ thống
di sản thế giới Cố đô Huế, là các nhà vườn, là các bảo tàng, các danh lam thắng cảnh,
các làng nghề cổ… Việc kết hợp giữa việc khai thác hệ thống di sản Cố đô Huế, các
bảo tàng, các hoạt động lễ hội, và đời sống văn hóa của cộng đồng sẽ nâng tầm các sản
phẩm du lịch tại Thừa Thiên Huế và thu hút khách du lịch đến Huế.
Thay vì chỉ khai thác các danh lam thắng cảnh và hệ thống di tích Cố đô
Huế, tỉnh Thừa Thiên-Huế đang phát triển du lịch cộng đồng, mở hướng đi mới
trong phát huy giá trị văn hóa Huế, kết nối thêm các tour, tuyến du lịch trên địa bàn
một cách hiệu quả. Nhiều tour du lịch cộng đồng tại Thừa Thiên Huế đã được tổ
chức trong thời gian qua thu hút sự quan tâm, chú ý của du khách. Trong đó có thể
kể đến những chương trình du lịch nổi trội như:
Cầu ngói Thanh Toàn với tour du lịch “Chợ quê ngày hội” được xem là một
trong những tour du lịch cộng đồng khá thành công ở Thừa Thiên Huế và là điểm
đến của nhiều khách du lịch trong và ngoài nước mỗi kỳ Festival Huế. Đây là tour
du lịch mới nằm trong dự án “Phát triển du lịch cộng đồng” do Tổ chức Hợp tác
quốc tế Nhật Bản (JICA) phối hợp với Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Thừa Thiên
Huế thực hiện bắt đầu từ tháng 6/2012. Điểm du lịch làng quê này được đầu tư cơ
sở hạ tầng, người dân địa phương được tập huấn cách làm du lịch và có thu nhập
thêm từ các dịch vụ.
Làng cổ Phước Tích với hệ thống các đình chùa, miếu, nhà cổ, di tích Chăm
pa và nghề gốm truyền thống được kết hợp với tour du lịch cộng đồng “Hương xưa
làng cổ”. Đây là nơi triển khai dự án “Phát huy vai trò cộng đồng trong phát triển bền
vững thông qua du lịch” của JICA. Thông qua, tour du lịch cộng đồng này, Phước
Tích đã thu hút được sự chú ý của nhiều đơn vị lữ hành du lịch trong việc đưa khách
về tham quan, lưu trú tìm hiểu, khám phá văn hóa, kiến trúc, đời sống của làng,
22
SVTH: Trương Thị Thu
Lớp: K50 - HDDL1
Chuyên đề tốt nghiệp đại học
GVHD: ThS. Quản Bá Chính
chương trình phục hồi nghề gốm cổ của làng cũng được khởi động. Ở đây, các du
khách đã cùng người dân làm bánh ướt, bánh ngọt và món mứt Tết nổi tiếng ở Phong
Hoà, vốn được du khách người nước ngoài đến từ Pháp, Nhật Bản thích thú.
Dự án của JICA nhằm phát triển du lịch cộng đồng tại Làng cổ
Phước Tích
Cơ quan Hợp tác quốc tế Nhật Bản tại Việt Nam (JICA) đang giúp 3 làng
cổ của Việt Nam phát huy các giá trị văn hóa và tài nguyên du lịch nhằm phát triển
du lịch cộng đồng thông qua dự án Hỗ trợ phát huy vai trò của cộng đồng trong phát
triển bền vững tại Việt Nam qua du lịch di sản.
Dự án sẽ được thực hiện đến năm 2014, tại 3 ngôi làng truyền thống có tiềm
năng phát triển du lịch, gồm: Đường Lâm (Hà Nội), Phước Tích (Thừa Thiên Huế),
Đông Hòa Hiệp (Tiền Giang). Đây là 3 ngôi làng cổ, còn lưu giữ được khá nguyên
vẹn những di sản, nét văn hóa đặc trưng của từng miền. Chọn 3 ngôi làng này để
thực hiện dự án, JICA mong muốn xây dựng được mô hình quản lý phù hợp trong
phát triển du lịch cộng đồng ở Việt Nam. Phó trưởng Đại diện Văn phòng JICA tại
Việt Nam Matsunaga Masaei cho biết: “Tăng trưởng kinh tế cao khiến các làng
nghề truyền thống có thể biến mất, trừ khi có mô hình quản lý phù hợp được áp
dụng. Do đó, dự án nhằm xây dựng mô hình quản lý phù hợp được áp dụng trong du
lịch cộng đồng; thiết lập một hệ thống quản lý để thường xuyên bắt kịp những thay
đổi, từ đó đưa ra các giải pháp kịp thời khắc phục các khó khăn và sự suy thoái của
môi trường du lịch”.
Theo đó, tùy thuộc vào đặc thù của mỗi ngôi làng và kết quả đạt được khi kết
thúc dự án, JICA sẽ đầu tư, giúp đỡ xây dựng mô hình trên các phương diện khác
nhau. Tại làng cổ Phước Tích sẽ xây dựng và thực hiện chương trình du lịch theo
hình thức trải nghiệm ngành nghề sản xuất tại địa phương (ngành gốm). Sau khi
khảo sát, đánh giá thực trạng, các chuyên gia Nhật Bản và nghệ nhân Bát Tràng (Hà
Nội) sẽ hỗ trợ về mặt kỹ thuật liên quan đến việc phục hồi làng nghề gốm cũng như
tái kiến thiết các cơ sở ngành nghề gốm; tư vấn về cách phát triển và bán các sản
phẩm đồ gốm. Ngoài việc hướng dẫn và hỗ trợ cách xây dựng các công cụ thực hiện
cho du lịch, dự án còn tư vấn, hướng dẫn việc nâng cao chất lượng dịch vụ du lịch
23
SVTH: Trương Thị Thu
Lớp: K50 - HDDL1
Chuyên đề tốt nghiệp đại học
GVHD: ThS. Quản Bá Chính
(như các nhà hàng của người dân, việc bán các sản phẩm làm quà, trải nghiệm sản
xuất đồ gốm...). [1]
Các chương trình hoạt động của JICA tổ chức tại Làng
cổ Phước Tích
Tổ chức Hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA) hỗ trợ 700 triệu đồng xây dựng và
bàn giao Trung tâm thông tin du lịch cho làng cổ Phước Tích, xã Phong Hòa, huyện
Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên-Huế.
Từ cuối tháng 3 trong năm, Trung tâm trở thành điểm điều phối các hoạt
động du lịch trong làng. Đây cũng là nơi dừng chân nghỉ ngơi của du khách, có các
khu dịch vụ đạt chuẩn và phương tiện kết nối Internet.
Trước đó, Tổ chức JICA phối hợp với Đại học Nữ Chiêu Hòa (Nhật Bản) hỗ trợ
và đào tạo nghề cho 20 người dân Phước Tích duy trì nghề gốm bằng cách sản xuất các
sản phẩm, mẫu mã mới dựa trên kỹ thuật truyền thống để giới thiệu với du khách.
Tại đây, các chuyên gia đến từ Nhật Bản hỗ trợ người dân Phước Tích ý tưởng
sản xuất các dụng cụ ẩm thực như bát, cốc, chén... ngay tại lò gốm của làng để sử dụng
tại chỗ, đồng thời giúp nghề gốm phát triển, tạo việc làm và cải thiện đời sống cho người
dân. Đặc biệt, sản phẩm chiếc đĩa ăn hình lá vả (loại cây đặc sản của Huế), được bày trí
trên bàn ăn trong khu vườn sum suê cây trái, bên những ngọn nến lung linh thắp sáng về
đêm tạo không gian ẩm thực độc đáo, thực khách có thể tận hưởng không khí thiên nhiên
trong lành và vẻ đẹp lãng mạn của ngôi làng cổ.
Tại các kỳ Festival Huế sắp tới, Phước Tích là điểm đến trong tour du lịch
“Hương xưa làng cổ”. Loại hình du lịch được phát triển ở đây là Home stay phục vụ
khách. Phước Tích vì thế đã thu hút được sự chú ý của nhiều đơn vị lữ hành du lịch
trong việc đưa khách về tham quan, lưu trú tìm hiểu, khám phá văn hóa, kiến trúc,
đời sống của làng.
Du lịch cộng đồng tại Tỉnh Thừa Thiên Huế đang ngày càng phát triển, ngoài
những mô hình đã được nói ở trên thì hiện tại, vẫn còn một số mô hình phát triển du
lịch cộng đồng đang diễn ra và thu hút sự quan tâm của du khách trong và ngoài
nước trên địa bàn Tỉnh Thừa Thiên Huế.
24
SVTH: Trương Thị Thu
Lớp: K50 - HDDL1
Chuyên đề tốt nghiệp đại học
GVHD: ThS. Quản Bá Chính
Dù còn nhiều vấn đề phải bàn, phải cải thiện trong việc xây dựng các tour du
lịch cộng đồng tại Huế nhưng sự phát triển của các tour du lịch cộng đồng tại Thừa
Thiên Huế thời gian qua cho thấy sự hấp dẫn của văn hóa và cuộc sống của người
dân Huế đối với du khách trong và ngoài nước. Mặt khác, việc tham gia các tour du
lịch cộng đồng, khả năng kết nối giữa các cơ quan quản lý, tổ chức, doanh nghiệp
trong và ngoài nước và cộng đồng dân cư địa phương được tăng cường, đồng thời
tạo ra nhiều cơ hội cho du khách tìm hiểu thêm về hình ảnh văn hóa Huế.
CHƯƠNG 2: ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ THAM GIA CỦA NGƯỜI
DÂN ĐỊA PHƯƠNG VÀO HOẠT ĐỘNG DU LỊCH CỘNG ĐỒNG
TẠI LÀNG CỔ PHƯỚC TÍCH
2.1.Khái quát về di tích Làng cổ Phước Tích
2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của Làng cổ Phước Tích
Làng Phước Tích được thành lập vào khoảng thế kỉ 15, gần với thời gian mở
mang bờ cõi về phía Nam của nhà nước phong kiến Đại Việt. Gia phả của họ
Hoàng, dòng họ khai canh ở làng Phước Tích có ghi: “…Đến đời Lê Thánh Tông,
niên hiệu Hồng Đức thứ nhất và thứ hai (1470 - 1471), ngài thuỷ tổ họ Hoàng lúc
bấy giờ là Hoàng Minh Hùng, tục gọi là Nồi, nguyên người làng Cẩm Quyết tỉnh
Nghệ An, đã thân chinh đánh đuổi Chiêm Thành. Sau khi chiến thắng trở về, ngài đi
xem xét đến nguồn Ô Lâu, bao chiếm địa phận từ Khe Trăn, Khe Trái đến xứ Cồn
Dương. Sau khi xem bói, biết được chỗ đất tốt tươi, ngài liền chiêu tập nhân dân
thành lập làng…”
Lúc đầu làng có tên gọi là Phúc Giang như mong muốn một vùng gần sông
nước nhiều phúc lộc. Trong Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn, làng Phúc Giang bên
bờ sông Ô Lâu thuộc tỉnh Hương Trà. Đến thời Tây Sơn, Phúc Giang được đổi
thành Hoàng Giang, để nhớ đến dòng họ khai canh lập làng (Hoàng là tên dòng họ
khai canh, Giang là vùng gần với sông nước). Đến đời Gia Long, làng được đổi tên
25
SVTH: Trương Thị Thu
Lớp: K50 - HDDL1