Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

SKKN một vài kinh nghiệm khai thác, sử dụng kiến thức lịch sử thế giới để dạy và học tốt lịch sử việt nam lớp 9 (giai đoạn từ năm 1919 đến năm 1945)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (256.74 KB, 22 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRIỆU SƠN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT VÀI KINH NGHIỆM KHAI THÁC, SỬ DỤNG
KIẾN THỨC LỊCH SỬ THẾ GIỚI ĐỂ DẠY VÀ HỌC
TỐT LỊCH SỬ VIỆT NAM LỚP 9
(GIAI ĐOẠN TỪ NĂM 1919 ĐẾN NĂM 1945)

Người thực hiện: Quản Thị Hảo
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường THCS Thị trấn Triệu Sơn
SKKN thuộc lĩnh vực (môn): Lịch sử

THANH HOÁ NĂM 2017


MỤC LỤC
STT

Tên đề mục
1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài

1

1.2. Mục đích nghiên cứu

2


1.3. Đối tượng nghiên cứu

2

1.4. Phương pháp nghiên cứu

2

2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1.Cơ sở lý luận

2

3

4

Trang
1
1

3
3

2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến
kinh nghiệm

4

2.3. Các sáng kiến kinh nghiệm và giải pháp đã sử dụng để

giải quyết vấn đề

6

2.3.1. Những lưu ý chung khi khai thác, sử dụng
kiến thức lịch sử thế giới để dạy và học tốt lịch sử
Việt Nam lớp 9 ( từ năm 1919 đến năm 1945)

6

2.3.2. Một số biện pháp khai thác và sử dụng kiến
thức lịch sử thế giới để dạy và học tốt lịch sử Việt
Nam lớp 9( từ năm 1919 đến năm 1945).

7

2.3.3. Một số ví dụ cụ thể sử dụng kiến thức
lịch sử thế giới để dạy và học tốt lịch sử Việt Nam lớp
9 ( từ năm 1919 đến năm 1945)
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động
giáo dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.

11
14

2.4.1. Đối với học sinh

14

2.4.2. Đối với giáo viên


15

3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ

15

3.1. Kết luận

15

3.2. Kiến nghị

16

TÀI LIỆU THAM KHẢO

17



1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài.
“Trong lịch sử đất nước, ông cha ta đã rất coi trọng giáo dục môn Lịch
Sử. Từ thời phong kiến, các nho sinh từ sáu tuổi trở lên đã phải ngày đêm đèn
sách, gắng sức học cho thông kinh sử, bởi không thông sử thì khó đỗ đạt làm
quan để phụng sự dân tộc, quản lý đất nước. Sinh thời Cụ Nguyễn Sinh Sắc đã
dạy Nguyễn Tất Thành thời còn niên thiếu nhiều kiến thức, nhưng nhiều nhất
vẫn là những bài học về lịch sử. Những bài học, câu chuyện, áng thơ văn... về
lịch sử nước nhà đã giúp người thanh niên Nguyễn Tất Thành sớm hun đúc lòng

yêu nước và ý chí quyết tâm giải phóng dân tộc ra khỏi ách áp bức, cường quyền
của đế quốc, phong kiến”. [1]
Ngày nay, môn Lịch sử trong trường THCS là môn học có ý nghĩa và vị
trí quan trọng đối với việc đào tạo thế hệ trẻ theo mục tiêu giáo dục đã được Nhà
nước xác định, giúp học sinh nắm được những kiến thức cơ bản cần thiết về lịch
sử thế giới, lịch sử dân tộc làm cơ sở bước đầu cho sự hình thành thế giới quan
khoa học, giáo dục lòng yêu quê hương, đất nước. Hơn nữa, học sinh biết tự hào
về truyền thống dựng nước, giữ nước và nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc,
biết quan tâm tới những vấn đề có ảnh hưởng tới quốc gia, khu vực và toàn cầu.
Trên nền tảng kiến thức đã học môn Lịch sử còn giúp học sinh phát triển năng
lực tư duy, hành động, có thái độ ứng xử đúng đắn trong đời sống xã hội, hình
thành thế giới quan, tình cảm đạo đức... cho học sinh.
Tuy nhiên, do tâm lý chung của đa số học sinh, phụ huynh và thậm chí cả
giáo viên thì môn Lịch sử vẫn là môn học phụ nên hầu như không có sự đầu tư
cho môn học, tiết học còn diễn ra một cách đơn điệu, khô khan, đồ dùng dạy học
ít được sử dụng hoặc sử dụng nhưng chưa thực sự hiệu quả, học trò học đối phó,
chiếu lệ, không tập trung, giờ học chưa gây được hứng thú nên hiệu quả giáo
dục của bộ môn chưa thực sự đạt được theo yêu cầu.
Đất nước ta đang bước vào thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hoá, với mục
tiêu đến năm 2020 cơ bản trở thành nước công nghiệp, hội nhập với cộng đồng
quốc tế. Trong bối cảnh đó, đặt ra những yêu cầu mới đối với nền giáo dục của
nước ta là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, trí tuệ,
sức khỏe, thẩm mĩ về nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và
Chủ nghĩa xã hội, hình thành và bồi dưỡng nhân cách phẩm chất và năng lực của
công dân, đáp ứng nhu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Nhằm tiếp tục nâng cao chất lượng và hiệu quả giờ dạy theo yêu cầu đổi
mới phương pháp dạy học với định hướng “lấy học sinh làm trung tâm”, trong
những năm gần đây công tác bồi dưỡng chỉ đạo chuyên môn của lãnh đạo các
cấp của ngành giáo dục ngày càng được tăng cường. Đặc biệt là tại đơn vị
trường THCS Thị trấn Triệu Sơn, công tác chỉ đạo đổi mới phương pháp dạy học

được thống nhất từ Ban Giám hiệu đến các tổ, nhóm và từng cá nhân, quán triệt
sâu sắc việc tăng cường sử dụng đồ dùng dạy học có kết hợp các phương
1


tiện, kỹ thuật dạy học hiện đại một cách phù hợp đối với từng bộ môn nhằm góp
phần nâng cao chất lượng dạy và học tại đơn vị.
Liên tục trong nhiều năm được nhà trường giao nhiệm vụ dạy môn Lịch sử
9 đồng thời phụ trách đội tuyển học sinh giỏi của trường, của PGD và tham dự
nhiều tiết hội giảng của các đồng nghiệp. Tôi luôn xác định rằng muốn cho giờ
dạy không bị khô cứng, tẻ nhạt, cần phải đổi mới phương pháp dạy học bằng
cách tăng cường sử dụng đồ dùng, phương tiện dạy học, khai thác kênh hình,
kênh chữ có sẵn trong sách giáo khoa giúp học sinh nắm vững kiến thức theo
nguyên lí:“Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng
đến thực tiễn” đem lại hiệu quả cao trong việc dạy và học bộ môn. Đặc biệt, làm
cho học sinh thấy rõ Lịch sử thế giới và lịch sử dân tộc vốn là hai bộ phận riêng
biệt, mỗi phần có những đặc điểm riêng. Tuy nhiên đây lại là hai bộ phận không
tách rời nhau, luôn bổ trợ cho nhau. Bởi trong thực tế, những sự kiện lịch sử xảy
ra ở mỗi quốc gia ít nhiều cũng ảnh hưởng tới sự phát triển của lịch sử thế giới
và những chuyển biến của lịch sử thế giới sẽ tạo nên xu hướng phát triển chung
cho các quốc gia. Chính vì vậy, tôi đã lựa chọn nội dung: “Một vài kinh nghiệm
khai thác, sử dụng kiến thức lịch sử thế giới để dạy và học tốt lịch sử Việt
Nam lớp 9 ( giai đoạn từ năm 1919 đến năm 1945)” làm đề tài sáng kiến kinh
nghiệm của mình trong năm học 2016-2017.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
- Khảo sát, đánh giá được thực trạng việc học tập của học sinh ở trường
THCS Thị Trấn Triệu Sơn khi học phần lịch sử thế giới. Thông qua đó để tìm ra
được các giải pháp nhằm nâng cao ý thức và hứng thú học phần Lịch sử thế giới
làm tiền đề cho phần lịch sử Việt Nam các khối nói chung và lớp 9 nói riêng.
- Nâng cao được hiệu quả sử dụng phương tiện dạy học Lịch sử lớp 9.

- Nâng cao được kết quả học tập môn Lịch sử lớp 9.
- Rèn luyện, nâng cao được kĩ năng sống, đạo đức, tác phong, lối sống
thông qua các biểu tượng nhân vật lịch sử.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
Để có cơ sở đánh giá về hiệu quả của việc áp dụng đề tài vào thực tế dạy
học, tôi chọn 2 lớp nguyên vẹn của Trường THCS Thị Trấn Triệu Sơn, cụ thể:
- Lớp đối chứng: 9B
- Lớp thực nghiệm: 9C
Các lớp được chọn tham gia nghiên cứu cho đề tài có nhiều điểm tương
đồng nhau về tỉ lệ giới tính, ý thức học tập của học sinh, đặc biệt là năng lực học
tập, thái độ học tập với bộ môn Lịch sử trước khi tác động.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
Trong quá trình nghiên cứu, tôi đã sử dụng các phương pháp sau:
- Phương pháp thông tin, tái hiện lịch sử
- Phương pháp thống kê, phân tích, xử lý số liệu.
- Phương pháp tham khảo tài liệu.
- Phương pháp điều tra, khảo sát thực tế, thu thập thông tin.[1]
2


2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm.
Luật Giáo dục ban hành ngày 02/12/1998, điều 2412 đã chỉ rõ: “Phương
pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng
tạo của học sinh, phù hợp với đặc điểm từng lớp học, môn học, bồi dưỡng
phương pháp tự học, tự bồi dưỡng, rèn kỹ năng vận dụng vào thực tiễn, đem lại
hứng thú học tập cho học sinh…”
Môn lịch sử ở trường phổ thông nhằm giúp học sinh có được những kiến
thức cơ bản, cần thiết về lịch sử dân tộc và lịch sử thế giới, góp phần hình thành
ở học sinh thế giới quan khoa học, giáo dục lòng yêu quê hương, đất nước,

truyền thống dân tộc, cách mạng, bồi dưỡng các năng lực tư duy, hành động và
thái độ ứng xử đúng đắn trong cuộc sống xã hội. Vì vậy phương pháp dạy học
môn Lịch sử rất phong phú, đa dạng, bao gồm các phương pháp hiện đại (thảo
luận nhóm, đóng vai...) và các phương pháp truyền thống (trực quan, kể
chuyện...). Một trong những nội dung hết sức quan trọng trong đổi mới phương
pháp dạy- học lịch sử hiện nay là giáo viên hướng dẫn học sinh khai thác SGK
một cách có hiệu quả nhằm tái tạo, bổ sung, khắc sâu nội dung bài học, giúp học
sinh tiếp thu kiến thức một cách trọn vẹn.
Trong chương trình lớp 4 và lớp 5, Lịch sử và địa lí được học trong cuốn
Tự nhiên và xã hội. Tuy nhiên, bắt đầu từ năm lớp 6 Lịch sử đã tách ra thành
môn học độc lập. Mỗi cuốn SGK Lịch sử từ chương trình lớp 6 đến lớp 9 đều có
cấu trúc gồm hai phần rõ rệt: lịch sử thế giới và lịch sử Việt Nam được thể hiện cụ thể
trong bảng sau:

Phần
Lớp
Lớp 6

Lớp 7

Lớp 8

Lớp 9

Lịch sử thế giới

Lịch sử Việt Nam

Khái quát lịch sử thế giới Cổ đại
(4 bài: từ bài 3 đến bài 6)


Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc
đến thế kỉ X (20 bài: từ bài 8
đến bài 27)
- Thời lượng: 1 tiết/tuần
Lịch sử Việt Nam từ thế kỉ X
đến giữa thế kỷ XIX
- Thời lượng: 2 tiết/tuần
Lịch sử Việt Nam từ năm 1858
đến năm 1918 (8 bài).

- Thời lượng: 1 tiết/tuần
Khái quát lịch sử thế giới trung
đại (7 bài)
- Thời lượng: 2 tiết/tuần
- Lịch sử thế giới cận đại (từ
giữa thế kỉ XVI đến nửa sau thế
kỉ XIX) gồm có 14 bài.
- Lịch sử thế giới hiện đại (từ
1917 đến 1945) gồm có 9 bài.
- Thời lượng: 2 tiết/tuần
- Lịch sử thế giới hiện đại từ
1945 đến nay (có 13 bài).
- Thời lượng: 1 tiết/tuần

Thời lượng: 1 tiết/tuần
Lịch sử Việt Nam từ năm 1919
đến nay (có 34 bài)
- Thời lượng: 2 tiết/tuần


Nhìn vào bảng thống kê trên, chúng ta dễ dàng nhận thấy hai điểm:
+ Niên đại của các sự kiện thế giới thường gần với thời gian diễn ra các sự kiện
trong lịch sử dân tộc.
3


+ Phần lịch sử thế giới được bố trí học trước phần lịch sử Việt Nam.
Trong quá trình giảng dạy, đã nhiều lần học sinh thắc mắc: “Tại sao
không học lịch sử Việt Nam trước lịch sử thế giới?” hoặc “ Nếu bỏ qua phần lịch
sử thế giới mà chỉ học mình phần lịch sử Việt Nam thì có được không?”.
Có thể nói rằng, đây không phải là một sự sắp xếp ngẫu nhiên, tùy hứng
của các nhà biên soạn sách giáo khoa, mà là một nghiên cứu khoa học và lôgic
theo sự phát triển của tư duy con người nói chung và của khoa học lịch sử nói
riêng.
Trong các bài giảng của Chủ tịch Hồ Chí Minh ở lớp học chính trị (nhằm
mục tiêu đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cách mạng cho nước ta) tại Quảng Châu,
Trung Quốc (1925 – 1927) có nhấn mạnh: “...Đem lịch sử cách mệnh các nước
làm gương cho chúng ta soi...Đem phong trào thế giới nói cho đồng bào ta
rõ”[2]. Qua lời của cụ Hồ, chúng ta thấy rõ việc học tập Lịch sử nhân loại giúp
cho người dân Việt Nam hiểu rõ và đúng hơn về lịch sử chính dân tộc mình,
hiểu hơn về những cống hiến của dân tộc mình đối với sự phát triển của nhân
loại, những sự kiện, những nhân vật, những quốc gia tác động, ảnh hưởng đến
thắng lợi của cách mạng Việt Nam, đến tiến trình phát triển của lịch sử Việt
Nam. Từ đó, tiếp thu một cách “chọn lọc” những giá trị tinh hoa nhân loại,
những bài học kinh nghiệm trong các cuộc đấu tranh cách mạng, công cuộc xây
dựng và bảo vệ đất nước của các quốc gia trên thế giới. Mặt khác, học tập,
nghiên cứu Lịch sử nhân loại giúp chúng ta “biết” và “tường” quá trình phát
triển xã hội loài người, một qúa trình đa dạng phức tạp, đầy mâu thuẫn và hợp
quy luật.
Như vậy, trong việc dạy và học lịch sử Việt Nam thì phần lịch sử thế giới

là rất quan trọng. Việc vận dụng linh hoạt các kiến thức cơ bản của phần lịch sử
thế giới vào dạy học lịch sử Việt Nam sẽ giúp các em có được cách lý giải khoa
học nhất các sự kiện đang diễn ra của dân tộc mình tại thời điểm đó và đương
nhiên mỗi quốc gia là một phần của thế giới vì thế các sự kiện xảy ra ở các quốc
gia tạo ra xu thế phát triển của thế giới.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
Đối với học sinh THCS, nhất là học sinh lớp 9, môn Lịch sử không còn
mới mẻ. Các em đã được học từ cấp I có hệ thống theo tiến trình lịch sử nên ít
nhiều đã có tư duy lịch sử nhất định. Do đó, các em dễ dàng nắm bắt được
những sự kiện lịch sử và bài học được rút ra.
Qua thực tế giảng dạy tôi nhận thấy rất nhiều học sinh quan tâm và hứng
thú đối với môn học. Các em chăm chú lắng nghe cô giảng bài, hồi hộp theo dõi
các sự kiện và thích thú khi cô cung cấp, mở rộng kiến thức bằng những câu
chuyện lịch sử, những con số “biết nói”...Nhưng các em cũng gặp một số trở
ngại khiến cho việc học tập môn lịch sử chưa đạt kết quả như mong muốn. Đó
là:
+ Từ trước tới nay các em quen với phương pháp học cũ: thầy giảng- trò
nghe nên các em chưa thực sự tích cực, chủ động, linh hoạt trong giờ học làm
cho giờ học trầm và nhàm chán.
+ Dù bộ môn Lịch sử đóng một vai trò rất quan trọng ở cấp THCS nhưng
trong thực tế vẫn có những em chưa ham học, chưa thực sự yêu thích bộ môn
4


Lịch sử, xem đó là môn phụ nên thời gian dành cho môn học này còn ít, học đối
phó, học vẹt.
+ Thực tế, hầu hết các em học sinh đều chưa hiểu hết mối quan hệ qua lại
giữa phần lịch sử thế giới với phần lịch sử Việt Nam. Do đó, trong tư duy của
các em đây là hai phần độc lập, học hết phần lịch sử thế giới thì có thể bỏ qua
theo kiểu (song thì cất đi), các em chưa có một sự vận dụng nhất định trong quá

trình tư duy và học phần lịch sử Việt Nam. Thậm chí, có em còn nghĩ chỉ cần
học lịch sử dân tộc mình là đủ, tại sao lại phải học cả lịch sử của các dân tộc
khác.
+ Chương trình Lịch sử lớp 9 gồm phần Lịch sử thế giới từ sau chiến tranh
thế giới thứ hai (năm 1945) đến nay (năm 2000) và phần Lịch sử Việt Nam từ
sau chiến tranh thế giới thứ nhất (năm 1919) đến nay (năm 2000).
Phần Lịch sử thế giới được dạy ở học kỳ 1 với thời lượng 1tiết/tuần. Phần
Lịch sử Việt Nam chủ yếu được dạy ở học kỳ II và tăng lên 2 tiết/tuần. Tuy
nhiên, khó khăn của giáo viên và học sinh khi học lịch sử Việt Nam giai đoạn
1919-1945 là phần lịch sử thế giới có liên quan, tác động mạnh mẽ chủ yếu nằm
trong ở lịch sử thế giới hiện đại từ 1917-1945 mà các em đã học ở học kỳ I lớp 8.
Qua khảo sát chất lượng đầu năm tại lớp 9B, 9C ở trường THCS Thị Trấn
Triệu Sơn khi chưa áp dụng kinh nghiệm này vào giảng dạy, tôi thu được kết
quả như sau:
Lớp Số
Giỏi
Khá
TB
Yếu
Ghi chú
HS SL TL(%) SL TL(%) SL TL(%) SL TL(%)
Lớp đối
9B
37 9
24.3
10
27
16
43.3 2
5.4

9C

34

4

11.8

8

23.5

17

50

5

14.7

chứng
Lớp thực
nghiệm

Vậy làm thế nào để các em có thể lĩnh hội, vận dụng được những kiến
thức lịch sử một cách có hệ thống, bài bản mà không bị đơn điệu, khô khan,
nhàm chán trong từng nội dung của bài học. Điều đó đòi hỏi những giáo viên
dạy môn Lịch sử phải biết lựa chọn kiến thức, phương pháp, hình thức tổ chức
phù hợp với từng bài, từng chủ đề, từng đối tượng học sinh, đặc biệt phải chú ý
đến nhu cầu tư duy, tâm lý muốn khám phá cái mới, cái độc đáo ở học sinh

THCS. Trước những đòi hỏi của môn học và thực tế của việc học lịch sử ở
trường THCS, tôi luôn trăn trở làm thế nào để việc dạy học môn Lịch sử (nhất là
môn Lịch sử 9) có hiệu quả hơn, học sinh say mê, hứng thú với môn học hơn
nữa. Vì vậy, tôi đã tiến hành thí điểm hai phương pháp dạy học cũ và mới ở hai
lớp 9B và 9C ở trường THCS Thị Trấn Triệu Sơn với nội dung khai thác, sử
dụng kiến thức lịch sử thế giới để dạy và học tốt lịch sử Việt Nam lớp 9 (từ năm
1919 đến năm 1945).
Ở lớp 9B (lớp đối chứng): Tôi dùng phương pháp truyền thống, trình bày
kết hợp với vấn đáp, chỉ hỏi mà không chỉ ra mối liên hệ giữa lịch sử thế giới
với lịch sử Việt Nam. Tôi cũng không đưa ra bảng hệ thống kiến thức thể hiện
mối quan hệ giữa lịch sử Việt Nam và lịch sử thế giới. Kết quả có nhiều em
5


thuộc bài song đó chỉ là sâu chuỗi các sự kiện lịch sử mà không hiểu bản chất
lịch sử và không rút ra được bài học.
Ở lớp 9C (lớp thực nghiệm): Ngay từ đầu năm học tôi đã đưa ra bảng hệ
thống kiến thức thể hiện mối quan hệ giữa lịch sử thế giới với lịch sử Việt Nam.
Đến khi các em học bài 13: “Tổng kết lịch sử thế giới từ sau năm 1945 đến
nay”, tôi lại đưa ra bảng hệ thống một lần nữa bởi sau bài học này các em sẽ học
sang phần lịch sử Việt Nam. Tôi cũng giao nhiệm vụ cho các em về tìm hiểu và
ôn lại các kiến thức lịch sử thế giới có liên quan đến bài học mới.
Trong quá trình dạy học, tôi hướng dẫn học sinh khai thác kiến thức trong
sách giáo khoa (giai đoạn từ 1919 đến 1945) và chỉ cho học sinh thấy rõ mối
quan hệ, tác động của lịch sử thế giới đến lịch sử Việt Nam. Đồng thời, kết hợp
với tranh ảnh, lược đồ...trên máy chiếu làm cho các em nắm bài rất nhanh và có
hệ thống, giờ học trở nên sôi nổi hơn.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.
2.3.1. Những lưu ý chung khi khai thác, sử dụng kiến thức lịch sử thế giới
để dạy và học tốt lịch sử Việt Nam lớp 9 ( giai đoạn từ năm 1919 đến năm

1945).
Để phát huy hết hiệu quả khi sử dụng kiến thức lịch sử thế giới để dạy
phần lịch sử Việt Nam, điều quan trọng là giáo viên phải xác định cho mình nên
sử dụng, khai thác kiến thức thế nào. Theo tôi, giáo viên cần chú ý những điểm
sau:
- Cần phải căn cứ vào nội dung, yêu cầu giáo dưỡng, giáo dục của bài học
để lựa chọn phương pháp sử dụng thích hợp, đảm bảo phát huy được sự chú ý và
tính tích cực của học sinh .
- Những kiến thức lịch sử thế giới được trình bày ở phần bối cảnh tình
hình trước một giai đoạn, hay một sự kiện nào đó trong bài học lịch sư Việt
Nam. Những kiến thức lịch sử thế giới này có thuận lợi là được phân bố thời
gian để giáo viên trình bày cho học sinh, nhưng là phần kiến thức hỗ trợ, giúp
học sinh hiểu rõ hơn một sự kiện nào đó của lịch sử dân tộc, nên thường chỉ
được trình bày rất sơ lược, nhiều khi chỉ nhắc đến cho có. Bởi thế, khi soạn giáo
án, giáo viên phải xác định được thời điểm, thời gian hợp lí để sử dụng kiến
thức lịch sử thế giới vào bài dạy, phải xây dựng được hệ thống câu hỏi khai thác
một cách hợp lí và hệ thống câu hỏi này phải có tác dụng phát huy tính tích cực
của học sinh trong học tập.
- Kiến thức lịch sử thế giới thường rất rộng lớn và phức tạp, bao quát nhiều
thời kì, nhiều khu vực với nhiều sự kiện, khái niệm, cho nên muốn vận dụng
được đòi hỏi người giáo viên phải nắm rất vững kiến thức lịch sử thế giới. Nhiều
khi, vì những lí do khác nhau mà giáo viên có thể bỏ qua những liên hệ cần thiết
giúp học sinh hiểu sâu sắc hơn lịch sử dân tộc.
- Vạch ra bản chất, quy luật và những mối quan hệ tác động lẫn nhau giữa
sự kiện lịch sử trong nhiều trường hợp thực chất là sự tác động lẫn nhau giữa
các sự kiện lịch sử thế giới và lịch sử dân tộc, các sự kiện dân tộc với nhau. Giáo
viên phải vận dụng nhuần nhuyễn các phương pháp dạy học bộ môn, như
phương pháp thông tin tái hiện lịch sử, phương pháp nhận thức lịch sử, phương
6



pháp tìm tòi nghiên cứu... để hình thành tri thức cho học sinh từ tạo biểu tượng,
hình thành khái niệm, rút ra quy luật và bài học lịch sử.
- Phần lịch sử thế giới tác động đến lịch sử Việt Nam giai đoạn từ năm
1919 đến năm 1945 lại chủ yếu nằm trong chương trình lịch sử lớp 8. Vì vậy,
học sinh cần lưu ý lịch sử hiện đại của lớp 8 từ giai đoạn từ năm 1917 đến 1945
nhiều hơn. Sau mỗi tiết học, giáo viên phải giao nhiệm vụ và hướng dẫn học
sinh chuẩn bị bài mới trước khi đến lớp.
2.3.2. Một số biện pháp khai thác, sử dụng kiến thức lịch sử thế giới để dạy
và học tốt lịch sử Việt Nam lớp 9 ( giai đoạn từ năm 1919 đến năm 1945)”.
Mục đích của việc sử dụng kiến thức lịch sử thế giới trong dạy học lịch sử
dân tộc là làm cho học sinh thấy được mối quan hệ biện chứng của lịch sử thế
giới và lịch sử dân tộc, giúp học sinh hiểu được vị trí của lịch sử dân tộc trong
lịch sử nhân loại. Từ đó, hiểu sâu sắc hơn những tác động của lịch sử thế giới
đến Việt Nam.
Để khai thác triệt để nội dung tri thức lịch sử thế giới phục vụ cho việc
dạy tốt nội dung lịch sử Việt Nam, tôi đã thiết kế lập bảng về mối quan hệ giữa
lịch sử thế giới hiện đại và lịch sử dân tộc.
Ngay từ đầu năm học được giao dạy lịch sử lớp 9, giáo viên lập kế
hoạch cho cả năm, hoặc học kì. Nắm bắt được chương trình ở phần nào, lịch sử
thế giới có ảnh hưởng đến cách mạng Việt Nam, từ đó có kế hoạch hướng dẫn
học sinh lập bảng và giáo viên thiết kế bảng mối quan hệ giữa lịch sử Việt Nam
và lịch sử thế giới.
Tên
Nội dung lịch sử
Kiến thức lịch sử thế giới
bài học
Việt Nam
có liên quan
Bài 14: - Chiến tranh thế giới lần thứ nhất - Chiến tranh thế giới lần thứ

Việt
(1914-1918) kết thúc.
nhất (1914-1918) kết thúc.
Nam
-Pháp tiến hành chương trình khai -Tháng 6-1919, Hội nghị Véc
sau
thác thuộc địa lần hai ở Việt Nam. xai được họp để chia nhau
chiến
- Chương trình khai thác này đã
quyền lợi sau chiến tranh. Cuộc
Tranh tác động mạnh mẽ đến kinh tế, xã chiến tranh thế giới lần thứ nhất
thế giới hội Việt Nam
đã để lại một dấu ấn không phai
thứ
mờ trong lịch sử nhân loại mà
nhất
gánh nặng của nó đè lên đầu
giai cấp công nhân, nhân dân
các nước tham chiến cùng với
nhân dân các nước thuộc địa.
- Pháp tuy là nước thắng trận
nhưng phải chịu tổn thất nặng
nề. Để bù đắp những thiệt hại
ấy một mặt Pháp tiến hành bóc
lột nhân dân trong nước, mặt
khác Pháp tiến hành khai thác
thuộc địa, trong đó có Việt
Nam.
Bài 15: - Những năm sau Chiến tranh thế - Cách mạng tháng Mười Nga
7



Phong
trào
cách
mạng
Việt
Nam
sau
chiến
tranh
thế giới
thứ
nhất
Bài 16:
Hoạt
động
của
Nguyễn
Ái
Quốc ở
nước
ngoài
trong
những
năm
19191925

Bài 17:
Cách

mạng
Việt
Nam

giới thứ nhất, phong trào dân tộc
dân chủ ở nước ta đang trên đà
phát triển mạnh mẽ.
- Phong trào của giai cấp tư sản
dân tộc, tiểu tư sản diễn ra sôi nổi.
- Phong trào công nhân (19191925) có nhiều biến đổi được
đánh dấu bằng sự kiện bãi công
của công nhân xưởng đóng tàu Ba
Son (1925).

bùng nổ và giành thắng lợi.
- Dưới ảnh hưởng của Cách
mạng tháng Mười Nga, phong
trào giải phóng dân tộc ở các
nước phương Đông và phong
trào công nhân ở các nước tư
bản đế quốc phương Tây đã có
sự gắn bó mật thiết với nhau.
- Tháng 3-1919, Quốc tế Cộng
sản thành lập, mở ra một giai
đoạn mới trong quá trình phát
triển của phong trào cách mạng
thế giới.
- Sau 8 năm hoạt động ở nước
- Chiến tranh thế giới lần thứ
ngoài, tháng 6-1919 Nguyễn Ái

nhất kết thúc.
Quốc đã gửi đến Hội nghị Véc xai - Tháng 6-1919, Hội nghị Véc
bản Yêu sách của nhân dân An
xai được tổ chức tại thành Tua
Nam.
(Pháp) để các nước đế quốc
- Tháng 7-1920, Nguyễn Ái Quốc chia nhau quyền lợi sau cuộc
đọc Sơ thảo lần thứ nhất những
chiến tranh.
luận cương về vấn đề dân tộc và
- Cuộc cách mạng xã hội chủ
vấn đề thuộc địa của Lê nin.
nghĩa tháng Mười Nga thắng
- Tại Đại hội
của Đảng Xã hội lợi, sự thắng lợi này mở đường
Pháp họp ở Tua (12-1920) Người cho học thuyết Mác-Lênin xâm
bỏ phiếu tán thành việc gia nhập
nhập mạnh mẽ vào các dân tộc
Quốc tế thứ ba và tham gia sáng
khác nhau trên thế giới.
lập Đảng Cộng sản Pháp.
- Năm 1921, Nguyễn Ái Quốc
sáng lập Hội Liên hiệp thuộc địa ở
Pa ri.
- Người còn viết nhiều bài cho các
báo Nhân Đạo, Đời sống công
nhân và cuốn sách “Bản án chế độ
thực dân Pháp”.
- Tháng 6-1923 Người rời Pháp
sang Liên Xô.

- Cuối 1924, Nguyễn Ái Quốc về
Quảng Châu (Trung Quốc) sáng
lập ra Hội Việt Nam Cách mạng
Thanh niên.
- Sau khi Hội Việt Nam Cách
Trung Quốc diễn ra Cuộc cách
mạng Thanh niên ra đời thì Tân
mạng Tân Hợi 1911 do Tôn
Việt Cách mạng Đảng thành lập
Trung Sơn lãnh đạo, tháng 9(7/1928) và Việt Nam Quốc dân
1905 thành lập Đảng cách mạng
Đảng ra đời
(12/1927) là một lấy tên là Trung Quốc đồng
8


trước
khi
Đảng
cộng
sản ra
đời.
Bài 18:
Đảng

chính đảng theo xu hướng cách
mạng dân chủ tư sản, tiếp thu chủ
nghĩa Tam Dân của Tôn Trung
Sơn


minh hội, tư tưởng của tổ chức
này đã ảnh hưởng đến Việt
Nam.

Với tư cách là phái viên của Quốc
tế Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã
thống nhất ba tổ chức cộng sản ở
Việt Nam thành một Đảng duy
nhất lấy tên là Đảng Cộng sản
Việt Nam (3-2-1930)

- Ảnh hưởng của cách mạng
tháng Mười Nga.
- Quốc tế Cộng sản ra đời lãnh
Cộng
đạo phong trào cách mạng thế
sản
giới.
Việt
- Hàng loạt các Đảng cộng sản
Nam ra
trên thế giới ra đời. Đảng Cộng
đời
sản Pháp 1920, Đảng Cộng sản
Trung Quốc 1921.
Bài 19: - Cuộc khủng hoảng kinh tế thế
- Cuộc khủng hoảng kinh tế thế
Phong giới 1929- 1933 đã tác động mạnh giới 1929- 1933 từ các nước tư
trào
mẽ đến kinh tế, xã hội Việt Nam. bản đã lan nhanh sang các nước

cách
+ Kinh tế: nông-công nghiệp suy
thuộc địa và phụ thuộc của thực
mạng
sụp, hàng hóa khan hiếm…
dân Pháp trong đó có Việt Nam.
Việt
+ Xã hội: đời sống của nhân dân
- Pháp thoát khỏi khủng hoảng
Nam
lao động, nhất là công nhân và
bằng cách vừa tăng cường bóc
trong
nông dân chịu nhiều tác hại
lột nhân dân lao động trong
những nhất…
nước vừa ra sức vơ vét, bóc lột
năm
- Sau thất bại của khởi nghĩa Yên đàn áp nhân dân thuộc địa…
1930Bái, Pháp tiến hành khủng bố dã
1935.
man.
- Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời
đã kịp thời lãnh đạo quần chúng
nhân dân nổi dậy đấu tranh.
Bài 20: - Đảng xác định kẻ thù cụ thể,
- Chế độ phát xít hình thành ở
Cuộc
trước mắt của nhân dân Đông
Đức, Italia và Nhật Bản cùng bè

vận
Dương lúc này là bọn phản động
lũ tay sai ở một số nước (Pháp,
dộng
Pháp cùng bè lũ tay sai.
Tây Ban Nha...) trở thành mối
dân
- Đảng đề ra chủ trương thành lập nguy cơ dẫn tới một cuộc chiến
chủ
Mặt trận Nhân dân phản đế Đông tranh mới.
trong
Dương năm 1936. Đến 3-1938 đổi - Đại hội lần thứ VII của Quốc
những thành Mặt trận Dân chủ Đông
tế Cộng sản họp ở Mátxcơva
năm
Dương, nhằm tập hợp mọi lực
(7-1935) xác định kẻ thù nguy
1936lượng yêu nước dân chủ tiến bộ
hiểm trước mắt của nhân dân
1939
đấu tranh chống chủ nghĩa phát
thế giới là chủ nghĩa phát xít.
xít, bảo vệ hòa bình thế giới.
- Năm 1936, Mặt trận Nhân dân
Pháp do Đảng Cộng sản Pháp
làm nòng cốt thắng cử và lên
nắm quyền, thi hành những
9



Bài 21:
Việt
Nam
trong
những
năm
19391945

Bài 22:
Cao
trào
cách
mạng
tiến tới
tổng
khởi
nghĩa
tháng
Tám
năm
1945

Bài 23:
Tổng
khởi
nghĩa
tháng
Tám
năm
1945 và

sự
thành
lập
nước

chính sách mềm dẻo ở thuộc địa
trong đó có Việt Nam.
- Chiến tranh thế giới thứ hai bùng - Ngày 1-9-1939 Đức tấn công
nổ (9-1939) đến (9-1940) phát xít Ba Lan, chiến tranh thế giới thứ
Nhật tiến vào Đông Dương. Thực hai bùng nổ.
dân Pháp dâng Đông Dương cho
- Ngày 22-6-1940 Pháp kí hiệp
Nhật.
ước đầu hàng Đức.
- Dưới hai tầng áp bức bóc lột
Ở châu Á, lợi dụng Đức tấn
nhân dân ta vùng dậy đấu tranh,
công Liên Xô, Nhật Bản quyết
với các cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn
định “Nam tiến” đánh vào khu
(27-9-1940), Nam Kì (23-1-1941) vực ảnh hưởng của các nước
và binh biến Đô Lương (1941)
Mĩ, Anh, Pháp.
Từ cuối năm 1941 đến tháng 51942 Nhật Bản thắng lớn, quân
Anh, Pháp, Mĩ bị đánh bại khỏi
Thái Bình Dương.
- Nguyễn Ái Quốc về nước (1941) - Đức mở cuộc tấn công Liên
triệu tập Hội nghị lần thứ 8 Ban
Xô (6-1941)
chấp hành Trung ương Đảng

- Ở mặt trận Thái Bình Dương,
Cộng sản Đông Dương tại Pác Bó từ mùa khô năm 1943, quân
(Cao Bằng).
Anh, Mĩ tiến vào Miến Điện,
- Nhiệm vụ giải phóng dân tộc
quân Nhật kháng cự yếu ớt.
được đặt lên hàng đầu.
- Thành lập Mặt trận Việt Minh
(19-5-1941).
- Đêm 9-3-1945 hội nghị Ban
thường vụ trung ương Đảng họp.
Xác định kẻ thù chính, cụ thể,
trước mắt của cách mạng Việt
Nam là Nhật.
- Phát động cao trào kháng Nhật
cứu nước.
- Từ 14 đến 15/8/1945 Đảng họp
- Ở mặt trận Xô- Đức, Liên Xô
hội nghị toàn quốc, ra bản Quân
đuổi hết quân Đức ra khỏi bờ
lệnh số 1.
cõi cuối năm 1944 và giải
- Ngày 16/8/1945 Đại hội Quốc
phóng Đông Âu.
dân tán thành quyết định Tổng
- Mặt trận Bắc Phi, tháng 7 năm
khởi nghĩa, lập Ủy ban Dân tộc
1943 Italia đầu hàng.
giải phóng Việt Nam.
- Liên quân Anh-Mĩ mở mặt

- Chiều ngày 19-8-1945 khởi
trận thứ hai kết hợp với Liên
nghĩa thắng lợi ở Hà Nội.
Xô tiêu diệt phát xít Đức, 9-5- Từ 14 đến 18/8 Bắc Giang, Hải
1945 Đức đầu hàng vô điều
Dương, Hà Tĩnh, Tuyên Quang,
kiện,
Quảng Nam giành chính quyền.
- Ngày 15-8-1945 Nhật đầu
- Ngày 23-8 Huế giành chính
hàng Đồng minh vô điều kiện,
10


Việt
Nam
Dân
chủ
Cộng
hòa.

quyền.
chiến tranh thế giới kết thúc.
- Ngày 25-8 Sài Gòn giành chính
quyền.
- Ngày 28-8 các địa phương còn
lại giành chính quyền.
Như vậy từ 14 đến 28-8-1945
cuộc Tổng khởi nghĩa giành thắng
lợi hoàn toàn.

- Ngày 2-9-1945 Chủ tịch Hồ Chí
Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập,
khai sinh nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa.
Khi lập bảng niên biểu này, giáo viên đã xác định được những kiến thức
cơ bản mà học sinh cần nắm. Đồng thời, cũng xác định được mối liên hệ nhân
quả giữa lịch sử thế giới và lịch sử Việt Nam; biết so sánh, đối chiếu các sự kiện,
hiện tượng và nhân vật lịch sử; biết liên hệ rút ra bài học bởi vì cấu trúc của
chương trình sắp xếp lịch sử thế giới được học trước lịch sử Việt Nam.
2.3.3. Một số ví dụ cụ thể sử dụng kiến thức lịch sử thế giới để dạy và học tốt
lịch sử Việt Nam lớp 9( giai đoạn từ năm 1919 đến năm 1945).
Sau khi xác định được nội dung cần phải có phương pháp dạy học thích
hợp, có hiệu quả. Theo tôi, điều quan trọng nhất ở đây là “phát huy tính tích cực
của học sinh” cho việc nhớ và sử dụng kiến thức lịch sử thế giới để học, để hiểu
lịch sử Việt Nam. Phương pháp tốt nhất là đặt câu hỏi gợi ý và bài tập lịch sử để
học sinh nhớ lại kiến thức đã học và sử dụng vào bài học mới.
Ví dụ 1: Tiết 16, bài 14 “Việt Nam sau chiến tranh thế giới thứ nhất ”.
Khi trình bày nội dung chương trình khai thác lần thứ hai của thực dân
Pháp, chúng ta có thể làm rõ bối cảnh thế giới và những nguyên nhân Pháp ráo
riết tiến hành cuộc khai thác lần thứ hai ngay sau khi chiến tranh vừa kết thúc.
Chúng ta có thể đặt câu hỏi: “Pháp tiến hành cuộc khai thác thuộc địa
lần thứ hai trong hoàn cảnh nào?” Từ đó, hướng dẫn học sinh trả lời theo các ý
sau đây để làm nổi bật sự tác động của tình hình thế giới đến cuộc khai thác lần
thứ hai của Pháp:
+ Chiến tranh thế giới lần thứ nhất kết thúc, tuy thắng trận nhưng Pháp bị tổn
thất rất nặng nề về kinh tế và tài chính, trở thành con nợ của Mĩ, số nợ quốc gia
của Pháp vào năm 1920 đã lên tới 300 tỉ phrăng.
+ Cách mạng tháng Mười Nga thắng lợi (1917), chính quyền Xô Viết tuyên bố
xóa các khoản nợ nước ngoài của Nga Hoàng cũng như quốc hữu hóa các nhà
máy, xí nghiệp nước ngoài, trong khi đó Nga là thị trường đầu tư lớn nhất của

Pháp (bị mất trắng).
+ Do lạm phát, giá cả đắt đỏ, đời sống khó khăn... phong trào đấu tranh của nhân
dân lao động Pháp và các thuộc địa dâng cao.
Qua sự trình bày như vậy, học sinh sẽ hiểu rõ hơn về mục đích, quy mô,
tốc độ, những thủ đoạn và tác động của cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai đến
xã hội Việt Nam.[2]
11


Ví dụ 2: Tiết 22, bài 19: “Phong trào cách mạng trong những năm 19301935” khi dạy phần I. Việt Nam trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế thế giới
(1929- 1933).
Giáo viên đặt câu hỏi “Nêu một vài hiểu biết của em về cuộc khủng
hoảng kinh tế 1929- 1933?”
Đây là kiến thức phần lịch sử thế giới đã học trong chương trình lịch sử
lớp 8 bài 17 “Châu Âu giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1918- 1939)”. Học
sinh có thể chỉ nhớ sơ sài, giáo viên gợi ý, hướng dẫn các em trả lời
- Đây là cuộc khủng hoảng “thừa” do sản xuất ồ ạt, chạy đua theo lợi
nhuận trong những năm 1924- 1929 dẫn đến tình trạng hàng hóa ế thừa trong
khi người lao động không có tiền mua. Cuộc khủng hoảng tàn phá nặng nề nền
kinh tế đến các nước tư bản chủ nghĩa trong đó có Pháp.
Giáo viên hỏi: “ Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới (1929- 1933) đã tác
động đến tình hình kinh tế, xã hội Việt Nam ra sao?”
- Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới (1929- 1933) từ các nước tư bản đã
lan nhanh sang các nước thuộc địa và phụ thuộc của thực dân Pháp trong đó có
Việt Nam
+ Về kinh tế: Vốn phụ thuộc hoàn toàn vào thực dân Pháp nay càng phải
chịu những hậu quả nặng nề: nông nghiệp và công nghiệp đều bị suy sụp, xuất
nhập khẩu đình đốn, hàng hóa khan hiếm, giá cả đắt đỏ.
+ Về xã hội: đời sống của nhân dân lao động, nhất là công nhân và nông
dân vô cùng khổ cực. Công nhân thất nghiệp, nông dân bị bần cùng hóa và phá

sản trên quy mô lớn. Tiểu tư sản thành thị điêu đứng, các nghề thủ công bị sa
sút; viên chức bị sa thải….Mâu thuẫn dân tộc và mâu thuẫn giai cấp ngày càng
sâu sắc.
- Pháp tăng cường áp bức, bóc lột, đẩy mạnh chính sách khủng bố dã man
sau khởi nghĩa Yên Bái càng làm cho tinh thần cách mạng của nhân dân ta lên
cao.
- Đúng lúc đó, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã nhanh chóng tập hợp
quần chúng nổi dậy đấu tranh.
Ví dụ 3: Sử dụng sơ đồ chỉ quan hệ nhân quả trong bài 20: “Cuộc vận động
dân chủ trong những năm 1936- 1939”
Khủng
kinh tế
1933

hoảng
1929-

Xuất hiện Chủ
nghĩa phát xít

Đại hội Quốc tế
Cộng sản lần thứ
VII (7/1935)

Chính phủ
trận Nhân
Pháp lên
quyền

Mặt

dân
cầm

Từ sơ đồ trên đây, học sinh thấy động của tình hình thế được sự tác
giới đến đường lối cách mạng của Đảng, thể hiện sự vận dụng Nhiệm vụ cách
sáng tạo, linh hoạt của chủ nghĩa Mác-Lênin vào hoàn cảnh cụ mạng: KẻĐổiHìnhthù:Mặtbọnthứcphảntrậđấu
thể của Việt Nam.[3]
phản độngnhântranh:thuộcdânphảnđạihợpđếvà
Ví dụ 4: Bài 23: “Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 và địa, tayĐôngpháp,saibánbánnướcDươnghợp
thànhpáp,Mặt côngtrận
sự thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa” , ta có thể sử
dânkhai,chủbán Đcông
dụng sơ đồ “Chớp thời cơ phát động tổng khởi nghĩa giành
dân chủ,Dươngkhai.(3/1938)
cơm
chính quyền trong cách mạng tháng Tám” để cho học sinh thấy
áo, hòa bình
chống

động thuộc
chống phát

xít, chống

chiến

tranh, đòi tự do,

12



được hoàn cảnh quốc tế thuận lợi, sự nhạy bén và quyết tâm cao độ của Đảng ta
trong việc chớp thời cơ để giành chính quyền:
Nguyê
n nhân
thắng
lợi
nhanh
chóng
của
cách
mạng
tháng
Tám

1. Cuộc tấn công của quân đội Liên Xô vào Béc lin, phát xít
Tại
Đức đầu hàng tháng 5-1945.
sao
2. Hồng quân Liên Xô đánh tan đạo quân Quan Đông của
Đảng
Nhật Bản, Nhật Bản đầu hàng đồng minh (13/8/1945)
ta
3.Sự hoang mang cực độ của quân Nhật và bọn tay sai Nhật ở quyết
Đông Dương.
định
4. Quân đội Tưởng, Anh chưa vào Việt Nam.
tổng
5. Nhân dân sẵn sàng theo Đảng giành chính quyền.
khởi

6. Quyết định Tổng khởi nghĩa kịp thời của Đảng và Tổng bộ nghĩa
Việt Minh (Hội nghị toàn quốc của Đảng từ 13 đến
không
15/8/1945)
chậm
7. Thành lập Ủy ban giải phóng dân tộc (Đại hội Quốc dân
trễ
họp ở Tân Trào)
khi
8. Giải phóng Thái Nguyên (chiều 16/8) mở đầu Tổng khởi
Nhật
nghĩa
Bản
9. Hoạt động của đội tuyên truyền cách mạng ở Hà Nội
đầu
10. Mít tinh ở Hà Nội, quần chúng nhân dân chiếm phủ Khâm hàng
Sai, trại lính Bảo An, giành chính quyền ở Hà Nội 19/8
Đồng
11. Đấu tranh của nhân dân cả nước, giành chính quyền ở minh Huế
(23/8), Sài Gòn (25/8), một số tỉnh còn lại ở Nam Bộ ? (28/8)
12. Vua Bảo Đại tuyên bố thoái vị (30/8)
13. Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (2/9/1945).[4]

Trong Bài 23: “Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 và sự thành lập
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”, khi dạy mục I.Lệnh tổng khởi nghĩa được
ban bố. GV đưa ra câu hỏi cho học sinh khai thác nội dung bài học: “Lệnh tổng
khởi nghĩa cách mạng tháng Tám năm 1945 được ban bố trong hoàn cảnh lịch
sử nào?”
GV gợi ý: Em hãy nhắc lại tình hình thế giới năm 1945? Tình hình đó đã

ảnh hưởng đến cách mạng Việt Nam như thế nào?
Học sinh nhớ lại và trả lời:
+ Thế giới: ở Châu Âu: Phát xít Đức đầu hàng không điều kiện (5/1945)
ở Châu Á: Nhật bị Hồng quân Liên Xô đánh tan đội quân
Quan Đông ở Mãn Châu, Nhật đầu hàng không điều kiện (8/1945).
+ Như vậy, kẻ thù của chúng ta đã bị đánh gục ở chính quốc, đây là điều
kiện khách quan hết sức thuận lợi cho nhân dân ta vùng lên, là thời cơ “ngàn
năm có một”.
Tình hình thế giới thuận lợi kết hợp với điều kiện chủ quan đã đầy đủ,
chín muồi. Đảng, Bác Hồ nắm bắt thời cơ và quyết định lệnh Tổng khởi nghĩa
trong cả nước, giành chính quyền trước khi quân Đồng minh vào nước ta.
13


Qua các ví dụ cụ thể ở từng bài lịch sử Việt Nam từ năm 1919 đến năm
1945 tôi nhận thấy, việc sử dụng kiến thức lịch sử thế giới để dạy và học tốt lịch
sử Việt Nam là một biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học Lịch sử. Bởi vậy,
người giáo viên Lịch sử phải luôn có ý thức về vấn đề này và không ngừng trau
dồi kiến thức và kĩ năng sư phạm, tùy trường hợp và hoàn cảnh cụ thể mà vận
dụng các phương pháp và biện pháp dạy học thích hợp để nâng cao hiệu quả dạy
học lịch sử.
Không chỉ dừng lại ở đó, giáo viên còn phải giúp học sinh nhận thấy lịch
sử dân tộc cũng góp phần không nhỏ vào sự phát triển của lịch sử thế giới mà
điển hình như thắng lợi của cách mạng tháng Tám năm 1945; chiến thắng lịch
sử Điện Biên Phủ năm 1954... góp phần cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng
dân tộc trên thế giới, nhất là các nước ở Á, Phi Mĩ la tinh.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.
2.4.1 Đối với học sinh:
Qua học tập kinh nghiệm của đồng nghiệp, bản thân tự tìm tòi và mạnh
dạn áp dụng phương pháp, phương tiện dạy học mới tôi đã đạt được hiệu quả

cao khi dạy các bài lịch sử Việt Nam từ 1919 đến 1945. Cụ thể:
- Các em nắm chắc bài ngay tại lớp, hiểu bài sâu sắc, biết vận dụng kiến thức
của môn học, có kĩ năng phân tích, đánh giá, so sánh và rút ra những kết luận
cần thiết.
- Các em đã biết cách thảo luận , mạnh dạn đóng góp ý kiến, nắm được nội dung
cần học ở lớp cũng như nội dung cần luyện tập ở nhà. Một số học sinh khá giỏi
thuộc bài ngay tại lớp. Học sinh thói quen soạn trước những nội dung cần thảo
luận ở nhà trước khi đến lớp (kể cả bài tập và câu hỏi từ dễ đến khó ở sách giáo
khoa và cả sách bài tập).
- Khả năng trình bày, diễn đạt kiến thức trước cả lớp, giúp phong trào học tập
của các em tích cực chủ động, phát biểu sôi nổi trong tiết học. Tái hiện kiến thức
nhanh và nhớ kiến thức được lâu. Các em sử dụng các đồ dùng, phương tiện dạy
học có hiệu quả. Đặc biệt, các em có hứng thú thực sự với môn học, luôn có tâm
thế sẵn sàng chờ đợi tiết học nên sẽ kích thích được óc sáng tạo, tìm tòi của các
em.
Từ sự yêu thích môn Lịch sử, các em biết trân trọng những thành quả mà
ông cha đã đạt được và tự hào về truyền thống của dân tộc ta. Qua đó các em ý
thức được trách nhiệm của mình đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước
hiện nay.
Chất lượng đó còn được thể hiện rõ rệt qua các bài tập, bài kiểm tra và kết
quả giữa học kỳ II ở 2 lớp 9B, 9C trường THCS Thị Trấn Triệu Sơn mà tôi đang dạy:
Lớp Số
Giỏi
Khá
TB
Yếu
Ghi chú
HS SL TL(%) SL TL(%) SL TL(%) SL TL(%)
Lớp đối
9B

37
8 21,6
9 24.3
17 46.0
3
8
9C

34

10

29.4

13

38.2

9

26.5

2

10

chứng
Lớp thực
nghiệm
14



Qua bảng số liệu trên ta nhận thấy:
Ở lớp 9B tôi không áp dụng kinh nghiệm khai thác, sử dụng kiến thức
lịch sử thế giới để dạy và học lịch sử Việt Nam lớp 9 ( từ năm 1919 đến năm
1945) mà chỉ hướng dẫn học sinh khai thác từng mục, không chỉ ra mối liên hệ,
tác động của lịch sử thế giới tới lịch sử Việt Nam thì tỉ lệ học sinh giỏi từ 24,3%
xuống còn 21,6% (giảm 2,7%); tỉ lệ học sinh khá từ 27% xuống còn 24,3 %
(giảm 2.7 %). Trong khi đó tỉ lệ học sinh trung bình tăng từ 43.3% lên 46%
(tăng 2.7%); học sinh yếu từ 5.4% lên 8.1% (tăng 2.7%).
Ở lớp 9C, tôi áp dụng kinh nghiệm khai thác, sử dụng kiến thức lịch sử
thế giới để dạy và học tốt lịch sử Việt Nam lớp 9 ( từ năm 1919 đến năm 1945)
kết hợp với các phương pháp dạy học tích cực thì kết quả rất khả quan:
Tỉ lệ học học sinh giỏi từ 11,8% lên 29,4% (tăng 17,6%); tỉ lệ học sinh
khá tăng từ 23.5% lên 38.2 % (tăng 14,7%). Trong khi đó tỉ lệ học sinh trung
bình từ 50% xuống 26.5% (giảm 23,5%); học sinh yếu từ 14.7 xuống 5.9%.
Đặc biệt hơn nữa, trong kỳ thi học sinh giỏi cấp huyện môn Lịch sử năm
học 2016- 2017 tôi đã có 5 học sinh đạt giải (1giải nhất, 2 giải ba và 2 khuyến
khích). Cấp tỉnh có 1 em học sinh dự thi đạt giải 3. Các em chủ yếu là học sinh
của lớp 9C.
Khi được Phòng giáo dục giao dạy đội tuyển học sinh giỏi cấp huyện dự
thi cấp tỉnh năm học 2016- 2017 gồm 10 em, tôi cũng đã áp dụng kinh nghiệm
khai thác, sử dụng kiến thức lịch sử thế giới để dạy và học tốt lịch sử Việt
Nam lớp 9 ( từ năm 1919 đến năm 1945) và mở rộng hơn về các giai đoạn sau.
Kết quả 10/10 em đều đạt giải (6 giải ba và 4 giải khuyến khích)
2.4.2. Đối với giáo viên:
- Giáo viên chuẩn bị soạn giảng một cách chu đáo, logic được nội dung
kiến thức giữa tiết trước và tiết sau với hệ thống câu hỏi và dàn ý tối ưu trong
phần thảo luận. Hình thành được bài giảng một cách chủ động, phù hợp với nội
dung của kiểu bài lên lớp theo phương pháp dạy học mới.

- Tiết kiệm được thời gian trong một tiết giảng 45 phút giáo viên không
phải làm việc nhiều chủ yếu hướng dẫn học sinh chủ động bàn bạc thảo luận
phát huy tính tự lập, khai thác và hoàn thành kiến thức trong bài.
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận.
Với những biện pháp mà tôi vận dụng trong các bài dạy của mình tại
Trường THCS Thị Trấn Triệu Sơn tôi thấy đã mang lại hiệu quả rõ rệt: Đa số
học sinh hiểu và nắm được bài. Các em biết vận dụng những điều đã học vào
thực tế cuộc sống đặc biệt đã định hướng được sự thành kĩ năng sống của mỗi
học sinh.
Điều quan trọng hơn đó là học sinh có hứng thú trong giờ học môn Lịch sử,
các em học tập hăng say và tích cực hơn và tự bản thân các em thấy đây là môn
học thực sự bổ ích, giúp các em hình thành tư tưởng đạo đức đúng đắn, biết
sống có lí tưởng, có mục đích, sống là để cống hiến. Đồng thời đã nâng cao
được hiệu quả sử dụng phương tiện, công cụ, thiết bị đồ dùng dạy học trong
trường phổ thông hiện nay.
15


3.2. Kiến nghị.
Để tạo hứng thú cho học sinh trong học tập lịch sử, nhằm giúp các em có
hiểu biết nhiều hơn về lịch sử dân tộc cũng như lịch sử thế giới, đòi hỏi giáo
viên phải nhiệt tình, sáng tạo, có phương pháp dạy học phù hợp với từng bài,
từng đối tượng học sinh.
Việc sử dụng các phương pháp dạy học trên, có tác động rất lớn đến lứa
tuổi học sinh phổ thông, các em thấy yêu thích môn Lịch sử hơn, nên chất lượng
bộ môn cũng được cải thiện. Tuy nhiên, mỗi phương pháp có những mặt ưu
điểm và hạn chế nhất định. Điều quan trọng là người giáo viên phải biết sử dụng
các phương pháp dạy học một cách hợp lí, chủ động, sáng tạo thì mới đem lại
hiệu quả cao. Đồng thời, giáo viên phải không ngừng tự học, tự bồi dưỡng để

hiểu biết về công nghệ thông tin, biết khai thác thông tin trên mạng Internet, có
kĩ năng sử dụng thành thạo và phát huy các tính năng của các trang thiết bị dạy
học hiện đại trong việc thiết kế bài dạy.
Đối với các cấp lãnh đạo, cần quan tâm hơn về cơ sở vật chất như: Trang
thiết bị máy tính có nối mạng, máy chiếu Projector...tại các phòng học đa năng,
khuyến khích và động viên giáo viên áp dụng công nghệ thông tin vào dạy học.
Với kết quả của đề tài này, tôi mong rằng các bạn đồng nghiệp quan tâm,
chia sẻ và đặc biệt là đối với giáo viên cùng bộ môn có thể ứng dụng đề tài này
vào việc dạy học bộ môn ở nhiều bài, nhiều khối khác nhau để tạo hứng thú và
nâng cao kết quả học tập cho học sinh.
Trên đây chỉ là ý kiến chủ quan của tôi, xin đưa ra để góp một phấn nhỏ vào việc đổi
mới dạy học môn Lịch sử ở THCS. Tôi nghĩ, dạy học có nhiều phương pháp khác nhau, song
vận dụng như thế nào mới là quan trọng và học sinh chính là đáp số chính xác nhất cho hiệu
quả của một tiết dạy. Vậy mong được sự góp ý, nhận xét chân thành từ phía các đồng nghiệp
để tôi được học hỏi nhiều hơn nữa.
XÁC NHẬN
Thanh Hóa, ngày 23 tháng 4 năm 2017.
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của

mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.

LÊ THỊ THƠ

STT

TÊN SÁCH

[1]


Phương pháp dạy học
Lịch sử

[2],
[3],

Những vấn
về đổi mới

Quản Thị Hảo
TÀI LIỆU THAM KHẢO
TÁC GIẢ
Phan Ngọc Liên
Trần Văn Trị

đề chung Nguyễn Hải Châu
giáo dục Nguyễn Xuân Trường

NHÀ XUẤT BẢN
NXB Giáo dục
NXB Giáo dục

16


[4] Trung học cơ sở
Bài báo “dạy môn Thượng tướng PGS,
Lịch sử ở trường phổ
TS Võ Tiến Trung

[1] thông là nâng cao nhân
cách và lòng
yêu
nước”
Hồ Chí Minh, Toàn
[2] tập, Tập 2, Sđd, trang
262

Báo Nhân Dân
điện tử
NXB chính trị
quốc gia

17


DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC
HỘI ĐỒNG ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT,
CẤP SỞ GD&ĐT VÀ CÁC CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ
C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: QUẢN THỊ HẢO
Chức vụ và đơn vị công tác: giáo viên trường THCS Thị Trấn Triệu Sơn
Cấp đánh Kết quả
giá xếp loại đánh giá
(Phòng, Sở, xếp loại
(A, B,
Tỉnh...)
hoặc C)
PGD

C

TT

Tên đề tài SKKN

1.

Rèn luyện kĩ năng sử dụng kênh
hình trong dạy học địa lí THCS

2.

Nâng cao chất lượng học tập của
học sinh trong giờ dạy lịch sử

PGD

C

Kinh nghiệm dạy bài “Nhật Bản”
theo phương pháp mới (lớp 9-

PGD

A

3.

SGD


C

Kinh nghiệm khai thác, sử dụng
hình ảnh nhân vật lịch sử nhằm

PGD

A

nâng cao hứng thú cho học sinh

SGD

B

PGD

A

THCS)
4

Năm học
đánh giá
xếp loại

2007-2008
2010-2011


2011- 2012

2013- 2014

khi học lịch sử thế giới lớp 9
Một vài kinh nghiệm khai thác,
sử dụng kiến thức lịch sử thế giới
5

để dạy và học tốt lịch sử Việt

2016- 2017

Nam lớp 9 (giai đoạn từ năm
1919 đến năm 1945)
* Liệt kê tên đề tài theo thứ tự năm học, kể từ khi tác giả được tuyển dụng vào
Ngành cho đến thời điểm hiện tại.
----------------------------------------------------



×