VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRỊNH LONG TƯỜNG
BẢO ĐẢM QUYỀN CÔNG DÂN TRONG LĨNH VỰC
CHÍNH TRỊ TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI, năm 2020
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRỊNH LONG TƯỜNG
BẢO ĐẢM QUYỀN CÔNG DÂN TRONG LĨNH VỰC
CHÍNH TRỊ TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NAM
Chuyên ngành : Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số : 8 38 01 02
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. LÊ MAI THANH
HÀ NỘI, năm 2020
LỜI CAM ĐOAN
Luận văn này là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi, được thực hiện
dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS. Lê Mai Thanh. Các số liệu, những
kết luận nghiên cứu được trình bày trong luận văn này hoàn toàn trung thực.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Quảng Nam, ngày tháng năm 2020
Tác giả luận văn
Trịnh Long Tường
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CÔNG DÂN
TRONG LĨNH VỰC CHÍNH TRỊ ..................................................................... 6
1.1. Khái niệm, đặc điểm, nội dung quyền công dân trong lĩnh vực chính trị....... 6
1.2. Bảo đảm quyền công dân và phương thức, nội dung bảo đảm quyền công
dân trong lĩnh vực chính trị ..................................................................................12
1.3. Các điều kiện bảo đảm quyền công dân trong lĩnh vực chính trị .................19
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM QUYỀN CÔNG DÂN TRONG
LĨNH VỰC CHÍNH TRỊ TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NAM...............25
2.1. Các yếu tố tác động đến bảo đảm quyền công dân trong lĩnh vực chính trị tại
tỉnh Quảng Nam ...................................................................................................25
2.2. Thực trạng bảo đảm quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội của công
dân từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam .........................................................................30
2.3. Thực trạng bảo đảm quyền ứng cử và bầu cử của công dân từ thực tiễn tỉnh
Quảng Nam. .........................................................................................................42
CHƯƠNG 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG BẢO
ĐẢM QUYỀN CÔNG DÂN TRONG LĨNH VỰC CHÍNH TRỊ TẠI TỈNH
QUẢNG NAM ....................................................................................................51
3.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật và tăng cường các điều kiện bảo đảm
khác đối với quyền công dân trong lĩnh vực chính trị .........................................51
3.2. Giải pháp tăng cường bảo đảm quyền công dân trong lĩnh vực chính trị tại
tỉnh Quảng Nam ...................................................................................................50
KẾT LUẬN .........................................................................................................70
TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
STT
Từ viết tắt
Nghĩa đầy đủ
1
HĐND
Hội đồng nhân dân
2
QCN
Quyền con người
3
QCD
Quyền công dân
4
UBND
Ủy ban nhân dân
5
UBMTTQVN
Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Các quyền của công dân là những giá trị xã hội được tạo nên bởi cuộc
đấu tranh vì sự công bằng bình đẳng bác ái. Các lợi ích hợp pháp của con
người cũng ngày càng được đảm bảo, tuỳ thuộc các chế độ chính trị, điều kiện
kinh tế, văn hoá - xã hội của mỗi quốc gia trong những điều kiện lịch sử cụ
thể. Nhà nước Việt Nam đã ban hành hệ thống các văn bản quy phạm pháp
luật, tiêu biểu trước hết là Hiến Pháp và những đạo luật cụ thể cùng các quy
định khác nhằm góp phần bảo vệ quyền công dân, trong đó có chế định về
quyền công dân trong lĩnh vực chính trị để đáp ứng tiến trình đổi mới và phát
triển của sự nghiệp cách mạng nước ta.
Quyền công dân là sự tập hợp về những quyền của một cá nhân với tư
cách là thành viên của một cộng đồng xã hội mang tính chính trị - xã hội của
một đất nước; chúng được gắn liền với quốc tịch - một chế định pháp lý cụ
thể (đó chính là các quyền mà con người chỉ được thụ hưởng khi và chỉ khi có
quốc tịch của một quốc gia). Vấn đề giải phóng con người, bảo vệ quyền con
người, quyền công dân được Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định trong bản
Tuyên ngôn độc lập năm 1945 và đây cũng là nguyên tắc được ghi nhận trong
các bản Hiến pháp của Việt Nam từ 1946, 1959, 1980, 1992 và 2013. Các bản
Hiến pháp này đều ghi nhận nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về
Nhân dân, công dân bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ, việc bảo vệ quyền
con người là trách nhiệm của các cơ quan tổ chức và toàn thể Nhân dân. Là
một thành viên của Liên hợp quốc, Nhà nước Việt Nam đã tham gia vào nhiều
văn kiện quốc tế để đảm bảo các quyền con người được thừa nhận và bảo vệ,
như Công ước quốc tế về các Quyền dân sự và chính trị (Việt Nam gia nhập
ngày 24/09/1982), Công ước quốc tế về các Quyền kinh tế, xã hội và văn hóa
(Việt Nam gia nhập ngày 24/09/1982).
1
Bảo đảm quyền công dân trong lĩnh vực chính trị là một trong những
trách nhiệm của Nhà nước. Đối với các quyền và nghĩa vụ của công dân, đặc
biệt là nhóm quyền về chính trị, Nhà nước ta luôn tạo ra cơ sở pháp lý vững
chắc, quy định tất cả các quyền tự do dân chủ trong sinh hoạt chính trị, đảm
bảo cho mọi người dân được làm chủ về mặt chính trị nhằm đem lại sự công
bằng, tiến bộ trong quá trình phát triển của xã hội. Vì mục tiêu bảo đảm quyền
của công dân trong lĩnh vực chính trị trong bối cảnh xã hội phát triển tác động
đến các điều kiện bảo đảm thì việc nghiên cứu về lý luận cũng như thực tiễn
bảo đảm quyền của công dân trong lĩnh vực chính trị nói chung và thực tiễn
bảo đảm quyền này tại địa bàn tỉnh Quảng Nam là hết sức cần thiết.
Chính vì lẽ đó, nên học viên chọn đề tài “Bảo đảm quyền công dân
trong lĩnh vực chính trị từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam” làm Luận văn tốt
nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Liên quan đến vấn đề nghiên cứu và vấn đề đảm bảo quyền công dân,
quyền con người trong lĩnh vực chính trị đã được rất nhiều tác giả nghiên cứu.
Sau đây là một số công trình tiêu biểu liên quan đến bảo đảm quyền con
người, quyền công dân nói chung:
- Luận văn thạc sĩ luật học (năm 2014): Bảo đảm quyền con người
trong Hiến pháp Việt Nam của tác giả Hoàng Lan Anh;
- Vũ Công Giao, Trịnh Quốc Toản chủ biên (2017), Thực hiện quyền
hiến định trong Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 2013;
- Đào Trí Úc, Nguyễn Thị Mơ, Nguyễn Văn Thuận, Vũ Công Giao
(2013), Các thiết chế hiến định độc lập: Kinh nghiệm quốc tế và triển vọng ở
Việt Nam, NXB Đại học quốc gia, Hà Nội;
2
- Luận án Tiến sĩ ngành Luật học (năm 2019): Bảo đảm quyền tố cáo
của công dân theo pháp luật Việt Nam hiện nay của tác giả Đặng Thị Kim
Ngân;
- Trần Quốc Việt (2017), Kiểm soát hoạt động bảo đảm quyền công
dân của cơ quan hành chính nhà nước ở Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ
Luật học.
Một số công trình, tài liệu nghiên cứu về bảo đảm quyền công dân
trong lĩnh vực chính trị được một số tác giả nghiên cứu cụ thể như sau:
- Vĩnh An (2013), Quyền dân sự, chính trị trong xã hội ta, Tạp chí
quốc phòng toàn dân, cập nhật 14/10/2013;
- Nguyễn Công Khanh (2014), Quyền chính trị ở Việt Nam hiện nay,
Luận văn Thạc sỹ Luật học;
- Đoàn Thị Ngọc Hải, Sở Tư pháp tỉnh Ninh Bình (2016), Các quyền
hiến định về chính trị của công dân trong Hiến pháp Việt Nam, Cổng thông
tin điện tử Bộ Tư pháp, Hà Nội, cập nhật ngày 08/8/2016.
Trên cơ sở kế thừa những công trình nghiên cứu, những tài liệu và bài
viết trên, tuy những công trình đã xuất bản tập trung vào đánh giá quyền con
người, đến nay pháp luật và thực tiễn về bảo đảm quyền công dân có nhiều
thay đổi. Vì vậy, đây là công trình mới phân tích một số khía cạnh lý luận và
đánh giá thực trạng bảo đảm quyền công dân trong lĩnh vực chính trị tại địa
phương tỉnh Quảng Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của Luận văn
- Mục đích nghiên cứu: Đánh giá thực trạng bảo đảm quyền công dân
trong lĩnh vực chính trị tại địa bàn Quảng Nam nhằm kiến nghị các giải pháp
hoàn thiện pháp luật và thúc đẩy các điều kiện bảo đảm quyền công dân trong
lĩnh vực này tại địa phương.
- Nhiệm vụ nghiên cứu:
3
+ Khái quát cơ sở lý luận về bảo đảm quyền công dân trong lĩnh vực
chính trị;
+ Phân tích thực trạng bảo đảm quyền công dân trong lĩnh vực chính trị
từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam;
+ Phân tích phương hướng và giải pháp tăng cường bảo đảm quyền
công dân trong lĩnh vực chính trị tại tỉnh Quảng Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là bảo
đảm quyền công dân trong lĩnh vực chính trị từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Luận văn nghiên cứu bảo đảm quyền công dân trong lĩnh vực chính
trị thông qua việc ghi nhận trong pháp luật về quyền công dân và thực tế thực
hiện quyền công dân trong lĩnh vực chính trị mà không mở rộng sang quyền
công dân trong các lĩnh vực khác. Quyền công dân trong lĩnh vực chính trị
được nghiên cứu trong luận văn chủ yếu gồm quyền tham gia quản lý nhà
nước, quyền ứng cử và bầu cử.
+ Luận văn nghiên cứu bảo đảm quyền tại địa bàn Quảng Nam trong
thời gian từ khi Hiến pháp 2013 có hiệu lực đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận: Luận văn sử dụng những quan điểm duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh
và những quan điểm của Đảng ta về Nhà nước pháp quyền, về dân chủ và về
quyền công dân.
Phương pháp nghiên cứu: Sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp;
phương pháp hệ thống; phương pháp tiếp cận lịch sử, pháp luật và phương
pháp so sánh.
4
6. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của Luận văn
- Ý nghĩa lý luận: Làm sáng tỏ các vấn đề lý luận và thực tiễn bảo đảm
quyền công dân trong lĩnh vực chính trị nói chung và tỉnh Quảng Nam nói
riêng.
- Ý nghĩa thực tiễn: Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo để các cá
nhân, cơ quan ban ngành trong việc nghiên cứu thực tiễn, từng bước nâng cao
năng lực, hoàn thiện pháp luật ghi nhận, tôn trọng và bảo vệ quyền công dân
trong lĩnh vực chính trị.
7. Kết cấu của Luận văn
Bên cạnh mục mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn có kết
cấu 3 chương cơ bản:
Chương 1. Cơ sở lý luận về bảo đảm quyền công dân trong lĩnh vực
chính trị
Chương 2. Thực trạng bảo đảm quyền công dân trong lĩnh vực chính trị
từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam.
Chương 3. Phương hướng và giải pháp tăng cường bảo đảm quyền
công dân trong lĩnh vực chính trị tại tỉnh Quảng Nam.
5
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CÔNG DÂN TRONG LĨNH
VỰC CHÍNH TRỊ
1.1. Khái niệm, đặc điểm, nội dung quyền công dân trong lĩnh vực
chính trị
1.1.1. Khái niệm quyền công dân trong lĩnh vực chính trị
Thuật ngữ “chính trị “ có nguồn gốc La-tinh là “politis” mang nghĩa
công việc nhà nước. Cụ thể hơn, chính trị được hiểu là “toàn bộ các hoạt động
liên quan đến những mối quan hệ giữa các giai cấp, giữa các dân tộc và những
tầng lớp trong xã hội, mà ở đó cốt lõi là vấn đề giành lấy chính quyền, duy trì
và sử dụng quyền lực nhà nước, đó còn là sự tham gia vào công việc của nhà
nước, sự xác định hình thức tổ chức, nội dung, nhiệm vụ hoạt động của nhà
nước" [15, tr.65].
Các quyền hiến định của công dân về chính trị nhằm đáp ứng nhu cầu,
lợi ích, đòi hỏi hợp pháp về tự do tư tưởng, chính trị, hoạt động chính trị và
các giao lưu chính trị để phục vụ cho việc thực hiện quyền làm chủ về chính
trị của công dân; góp phần củng cố, bảo vệ sức mạnh của chế độ xã hội chủ
nghĩa; xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam.
Quyền công dân và quyền con người là hai phạm trù rất gần gũi song
giữa chúng là không đồng nhất. Vì quyền công dân (citizen’s rights) là một
khái niệm xuất hiện cùng cách mạng tư sản. Cách mạng tư sản đã giúp con
người từ địa vị thần dân trở thành các công dân (có tư cách là các thành viên
xã hội bình đẳng trong một nhà nước) và những quyền tự nhiên của con người
được pháp điển hóa dưới hình thức quyền công dân. Như vậy, về bản chất,
các quyền công dân chính là những quyền con người được các nhà nước thừa
nhận và áp dụng cho công dân của mình [20, tr.67].
6
Khái niệm công dân được dùng để chỉ mối liên hệ giữa cá nhân và Nhà
nước. Có thể định nghĩa rằng: “Công dân là những cá nhân được mang quốc
tịch của một nhà nước”. Khái niệm công dân được gắn liền với khái niệm
quốc tịch. Người là công dân của Nhà nước nào thì có quốc tịch của nước đó.
"Công dân nước Cộng hoà XHCN Việt Nam chính là người có quốc tịch Việt
Nam" (Điều 49 của Hiến pháp năm 2013).
Từ những phân tích trên, ta có thể hiểu thuật ngữ quyền công dân dưới
hai phương diện theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp như sau:
- Theo nghĩa rộng: Quyền công dân được hiểu là quyền con người giới
hạn trong phạm vi các đặc tính xã hội của con người và trong phạm vi một
quốc gia, một chế độ chính trị trong đó con người có mối quan hệ gắn bó
bằng quốc tịch [19, tr.66].
Theo nghĩa hẹp: Quyền công dân là các quyền cụ thể của con người
được pháp luật của một quốc gia mà người đó có quốc tịch ghi nhận và bảo
đảm thực hiện [16, tr.65].
Như vậy, quyền công dân trong lĩnh vực chính trị và quyền con người
trong lĩnh vực chính trị là hai phạm trù khác nhau, song có mối liên hệ rất
chặt chẽ, tác động, bổ sung lẫn nhau. Thực tế cho thấy sự gắn bó giữa quyền
con người trong lĩnh vực chính trị và quyền công dân trong lĩnh vực chính trị
ngày càng trở lên mật thiết, đến nỗi trong một số trường hợp rất khó phân biệt
và trong một số bối cảnh không cần thiết phải phân biệt giữa chúng. Sự tương
đồng kể trên khiến cho những nỗ lực thúc đẩy và bảo vệ quyền con người
trong lĩnh vực chính trị, quyền công dân trong lĩnh vực chính trị trở nên khăng
khít, không thể tách rời, kể cả khi những nỗ lực này gắn liền với những chủ
thể tượng đối khác nhau [38, tr.66].
Mặc dù vậy, do những khác biệt nhất định về tính chất, đối tượng và
phạm vi điều chỉnh, quyền con người trong lĩnh vực chính trị và quyền công
7
dân trong lĩnh vực chính trị vẫn sẽ phát triển theo hai “kênh” khác nhau mà sẽ
không bao giờ hoà nhập hoàn toàn, trừ khi xã hội loài người không còn nhà
nước.
Vậy quyền công dân trong lĩnh vực chính trị là quyền của người mang
quốc tịch một quốc gia trong lĩnh vực chính trị như tham gia quản lý nhà
nước, giám sát xã hội, tham gia vào bộ máy quyền lực nhà nước. Đó là các
quyền tự do bầu cử, ứng cử, quyền khiếu nại, tố cáo, giám sát xã hội; tham gia
đóng góp ý kiến nhằm phản biện chính sách của Nhà nước... Quyền công dân
trong lĩnh vực chính trị thường được Hiến pháp ghi nhận.
1.1.2. Đặc điểm quyền công dân trong lĩnh vực chính trị
Vấn đề về quyền con người và quyền công dân luôn là mối quan tâm
của toàn nhân loại ở từng thời kỳ phát triển của nó, bằng chứng là các bản
tuyên ngôn của các quốc gia phát triển nhất trên thế giới như Mỹ, Pháp đều đề
cập đến vấn đề này từ Bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của nước
Pháp; Tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm 1948 cũng như trong hai
công ước quốc tế về quyền con người năm 1966.
Ở Việt Nam quyền công dân phát triển gắn liền với lịch sử lập
hiến nước nhà. Nó được thể hiện một cách nhất quán trong các bản Hiến
pháp, ghi nhận các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân Việt Nam. Đất
nước ngày càng phát triển, nhân quyền và dân quyền cũng ngày một được mở
rộng thể hiện sự tôn trọng của Nhà nước với quyền lợi của Nhân dân, nâng
cao niềm tin của Nhân dân với đất nước. Sự quản lý của Nhà nước không
nhằm hạn chế các quyền và tự do của con người mà mong muốn phát triển
hoàn thiện hơn các quyền con người mà nhân dân Việt Nam đáng được hưởng
đã ghi nhận trong các công ước quốc tế.
Quyền công dân trong lĩnh vực chính trị có các đặc điểm đó là:
8
- Một là, quyền công dân trong lĩnh vực chính trị thể hiện một phần nội
dung quyền con người, nhằm vào sự nỗ lực thúc đẩy và bảo vệ quyền con
người trong lĩnh vực chính trị. Cụ thể đó là, các quyền tự do bầu cử, ứng cử,
quyền khiếu nại, tố cáo, giám sát xã hội; tham gia đóng góp ý kiến để phản
biện chính sách của Nhà nước...
- Hai là, quyền công dân trong lĩnh vực chính trị chỉ được áp dụng
trong phạm vi lãnh thổ quốc gia và có thể bị thay đổi theo thời gian, chúng
được ghi nhận bằng pháp luật của một quốc gia xác định và được Nhà nước
của quốc gia đó bảo đảm thực hiện.
- Ba là, quyền công dân trong lĩnh vực chính trị được thể hiện trong
mối quan hệ giữa cá nhân với quốc gia; nói cách khác, chủ thể của quyền
công dân trong lĩnh vực chính trị gắn liền với vấn đề về quốc tịch của một
quốc gia.
1.1.3. Nội dung quyền công dân trong lĩnh vực chính trị
Thứ nhất, quyền bầu cử, ứng cử và quyền tham gia công việc quản lý
nhà nước và xã hội:
Quyền bầu cử, ứng cử và quyền tham gia công việc quản lý nhà nước
và xã hội là quyền cơ bản của công dân về lĩnh vực chính trị được ghi nhận
trong đạo luật cơ bản của Nhà nước.
Với quyền bầu cử theo luật định là khả năng của công dân thực hiện
quyền lựa chọn người đại biểu của mình vào cơ quan quyền lực nhà nước.
Quyền bầu cử của công dân gồm có: đề cử, chủ động giới thiệu người ứng cử
và bỏ phiếu. Quyền ứng cử theo luật định là việc công dân có đủ điều kiện thể
hiện nguyện vọng của mình được ứng cử đại biểu Quốc hội, ứng cử đại biểu
HĐND. Tính đến ngày bầu cử được công bố, công dân nước Cộng hòa
XHCN Việt Nam có đủ từ 18 tuổi trở lên là có quyền bầu cử và có đủ từ 21
tuổi trở lên là có quyền ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND.
9
Bên cạnh, quyền bầu cử và ứng cử, thì quyền tham gia công việc quản
lý nhà nước và xã hội được công dân thực hiện một cách trực tiếp hoặc gián
tiếp bao gồm hoạt động của công dân tham gia quản lý, tổ chức và xây dựng
chính quyền nhà nước, tham gia thảo luận các vấn đề chung của cả nước và
địa phương, kiến nghị với các cơ quan nhà nước, biểu quyết khi nhà nước tổ
chức trưng cầu dân ý. Công dân còn tham gia quản lý nhà nước và xã hội
thông qua hoạt động của các tổ chức xã hội, đoàn thể như thông qua mặt trận,
công đoàn, đoàn thanh niên, hội phụ nữ...
Theo đó, nhà nước bảo đảm cho công dân có quyền tham gia trực tiếp
hay gián tiếp (dân chủ đại diện) vào công việc quản lý nhà nước và xã
hội. Nhóm quyền này quy định khả năng của công dân tham gia vào các hoạt
động của Nhà nước, của xã hội, thể hiện vai trò làm chủ của nhân dân về
chính trị. Về cơ bản, các quyền bầu cử, ứng cử và quyền tham gia công việc
quản lý nhà nước và xã hội được quy định tại các Điều 27, 28, 29 trong Hiến
pháp năm 2013. Với điều kiện là công dân có đủ từ 18 tuổi trở lên mới có
quyền bầu cử và có đủ từ 21 tuổi trở lên mới có quyền ứng cử vào Quốc
hội, HĐND các cấp. Công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội
bằng cách tham gia trực tiếp vào bộ máy quản lý nhà nước cũng như thông
qua hoạt động giám sát xã hội bằng cách phản biện, khiếu nại, tố cáo... Công
dân có quyền biểu quyết một khi nhà nước tiến hành tổ chức trưng cầu dân ý.
Thứ hai, các quyền khác liên quan trong lĩnh vực chính trị như:
Quyền tự do ngôn luận, báo chí; quyền tiếp cận thông tin:
Theo Điều 25 Hiến pháp năm 2013, công dân có quyền tự do ngôn
luận, tiếp cận thông tin, tự do báo chí. Thông qua quyền tiếp cận thông tin mà
mọi công dân có thể tiếp cận được những thông tin gồm cả thông tin về quyền
của mình và về hoạt động tư pháp, nhằm thụ hưởng đầy đủ và bảo vệ những
quyền của mình theo Hiến pháp và luật định.
10
Quyền tự do hội họp, lập hội, biểu tình: Những quyền này đã được quy
định trong Hiến pháp và một số văn bản quy phạm pháp luật khác. Với nước
ta, quyền này được quy định tại Điều 25 của Hiến pháp 2013.
Quyền tự do tín ngưỡng và tôn giáo: Tại Điều 24 của Hiến pháp 2013
đã quy định: Mọi người đều có quyền tự do tín ngưỡng và tôn giáo, không
theo hoặc theo một tôn giáo nào. Những tôn giáo đều bình đẳng trước pháp
luật. Nhà nước tôn trọng, bảo hộ các quyền tự do tín ngưỡng và tôn giáo.
Không ai được xâm phạm tới tự do tín ngưỡng, tôn giáo hay lợi dụng tín
ngưỡng, tôn giáo nhằm vi phạm quy định của pháp luật.
Quyền bình đẳng của các dân tộc: Tại Điều 5 của Hiến pháp 2013 quy
định, các dân tộc bình đẳng, tôn trọng, đoàn kết và giúp đỡ nhau để cùng phát
triển; nghiêm cấm tất cả các hành vi kỳ thị và chia rẽ dân tộc.
Quyền công dân trong lĩnh vực chính trị bao gồm quyền ứng cử, bầu cử
và quyền tham gia quản lý xã hội, ngoài ra còn có các quyền về quyền tự do
ngôn luận, báo chí; quyền tiếp cận thông tin; về quyền tự do hội họp, lập hội,
biểu tình; về quyền tự do tín ngưỡng và tôn giáo; về quyền bình đẳng của các
dân tộc… Xét dưới góc độ quyền con người, các quyền chính trị có thể không
phân chia liên hệ, phụ thuộc lẫn nhau; quyền này là tiền đề cho các quyền
khác. Tuy nhiên, nếu xét dưới góc độ quyền công dân mang tính chuyên biệt
trong lĩnh vực chính trị thì có thể xác định phạm vi nội dung quyền trong một
số quyền nhất định như quyền ứng của, bầu cử, tham gia quản lý nhà nước.
Những quyền như quyền tự do ngôn luận, báo chí, khi chúng ta khai thác ở
góc độ là quyền phát sinh giữa cá nhân với cá nhân, cá nhân với pháp nhân và
pháp nhân với pháp nhân, được thiết lập trên cơ sở bình đẳng, tự nguyện, tự
do ý chí nhằm thỏa mãn các nhu cầu vật chất, tinh thần của họ… thì nó là
quyền dân sự.
11
Vậy nên, trong phạm vi luận văn chú trọng phân tích nhóm quyền ứng
cử, bầu cử và quyền tham gia quản lý xã hội; các nội dung quyền khác chỉ đề
cập dưới góc độ lý luận mà không đi sâu nghiên cứu.
1.2. Bảo đảm quyền công dân và phương thức, nội dung bảo đảm
quyền công dân trong lĩnh vực chính trị
1.2.1. Khái niệm bảo đảm quyền công dân trong lĩnh vực chính trị
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH
[bổ sung và phát triển năm 2011], Đảng ta đã khẳng định “Nhà nước tôn trọng
và đảm bảo những quyền công dân, quyền con người; chăm lo hạnh phúc và
sự phát triển tự do của mỗi con người”. Thực hiện định hướng này, Nhà nước
ta có trách nhiệm và nghĩa vụ phải tôn trọng những quyền công dân và quyền
con người; đảm bảo những quyền công dân và quyền con người; đồng thời
chăm lo sự hạnh phúc và sự phát triển tự do của mỗi người. Những quyền của
con người bao gồm các giá trị xã hội được con người nhận thức và thừa nhận,
từng bước chúng được thể chế hóa trong văn kiện quốc tế về quyền con người
và được những quốc gia và vùng lãnh thổ thừa nhận và cam kết thực hiện.
Các quyền công dân là hình thức pháp lý, biểu hiện cụ thể của quyền con
người được pháp luật của quốc gia ghi nhận.
Việc đảm bảo những quyền công dân, đó là việc tạo ra những tiền đề và
điều kiện về kinh tế, xã hội, chính trị, pháp lý và tiến hành tổ chức thực hiện
để các cá nhân, công dân và những tổ chức của công dân thực hiện được
những quyền, tự do và lợi ích chính đáng của họ vốn đã được luật pháp ghi
nhận. Dưới khía cạnh nghiên cứu của luật học, với điều kiện xây dựng Nhà
nước pháp quyền XHCN Việt Nam của dân, do dân và vì dân, sự đảm bảo
pháp lý có tầm ý nghĩa hệ trọng có tính quyết định để thể chế hóa sự đảm bảo
về kinh tế, chính trị, xã hội và tổ chức thành hệ chuẩn mực mang tính ràng
buộc mà Nhà nước cùng với các cơ quan của mình và xã hội phải thực thi các
12
bảo đảm về quyền công dân. Sự đảm bảo pháp lý là phong phú và đa dạng,
mà trước tiên là phải ghi nhận những quyền công dân và tổ chức nên những
điều kiện về pháp lý; cơ chế; tổ chức và bộ máy chuyên trách để đảm bảo
quyền công dân. Những quyền công dân cũng biểu thị sự đa dạng, song chúng
phải trên cơ sở được đảm bảo bằng sự bảo vệ của cả hệ thống luật pháp,
tương ứng với mỗi lĩnh vực sẽ có các cách thức chuyên biệt để phù hợp.
Quyền chính trị - một trong những quyền Hiến định của công dân Việt
Nam [Khoản 1 Điều 14 Hiến pháp 2013]. Như vậy, các quyền hiến định của
công dân được hiểu là khả năng mà luật cơ bản trao cho công dân được hưởng
gì, được làm gì, được yêu cầu và đòi hỏi gì ở nhà nước và xã hội phù hợp với
pháp luật và khả năng, điều kiện thực tế đất nước, để thỏa mãn nhu cầu, lợi
ích chính đáng của mình.
Bảo đảm quyền công dân trong lĩnh vực chính trị được Hiến pháp và
luật pháp ghi nhận và được Nhà nước thiết lập nên các cơ chế để bảo đảm
thực hiện. Hiến pháp 2013 đã khẳng định quyền con người và quyền công dân
về dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa được công nhận và tôn trọng,
chúng phải được bảo vệ, đảm bảo theo Hiến pháp và luật pháp.
1.2.2. Nội dung, phương thức bảo đảm quyền công dân trong lĩnh
vực chính trị
1.2.2.1. Nội dung bảo đảm quyền công dân trong lĩnh vực chính trị
Nội dung bảo đảm quyền công dân trong lĩnh vực chính trị được hiểu là
việc ghi nhận, tôn trọng, thực thi và bảo vệ quyền công dân trong lĩnh vực
này.
* Quyền tham gia công việc quản lý nhà nước và xã hội
Điều 28 của Hiến pháp năm 2013 đã quy định rằng: Công dân có quyền
tham gia vào quản lý nhà nước và xã hội. Việc ghi nhận trong Hiến pháp về
quyền này có ý nghĩa là việc thừa nhận về mặt Nhà nước tầm quan trọng
13
trong đời sống chính trị của công dân, là cơ sở pháp lý quan trọng nâng cao ý
thức chính trị của mỗi người trong việc tham gia vào hoạt động của bộ máy
nhà nước, nhằm động viên phát huy sức mạnh toàn dân, toàn xã hội nhằm xây
dung một nhà nước vững mạnh, có hiệu quả. Ngoài ra quy định này còn cho
thấy rõ một đặc điểm của bộ máy nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân và
vì dân.
Công dân có thể tham gia quản lý nhà nước và xã hội dưới nhiều hình
thức khác nhau:
Một là, Hiến pháp 2013 quy định, công dân thực hiện quyền quản
lý nhà nước thông qua đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND. Công dân
thể hiện trách nhiệm xã hội bằng việc sáng suốt lựa chọn đội ngũ những
người có tài, có đức nhằm quản lý nhà nước và xã hội.
Hai là, công dân có quyền phản ánh, kiến nghị tới những cơ quan hành
pháp, cơ quan tư pháp và cơ quan nhà nước khác.
Thứ ba, từ mối liên hệ giữa những cơ quan nhà nước và nhân dân được
quy định tại Điều 8 của Hiến pháp 2013, công dân thực hiện quyền quản lý
nhà nước và xã hội.
Thứ tư, chẳng những là Mặt trận và những tổ chức thành viên của Mặt
trận thì công dân có quyền tham gia việc quản lý nhà nước và xã hội.
Hiến pháp năm 2013 bên cạnh việc khẳng định lại nội dung của Điều 2
Hiến pháp 1992 thì đã bổ sung thêm hình thức dân chủ trực tiếp. Dân chủ trực
tiếp được thực hiện có thể băng hình thức trưng cầu ý dân và được quy định ở
khoản 15 thuộc Điều 70. Việc trưng cầu dân ý cũng được quy định ở trường
hợp sửa đổi, bổ sung Hiến pháp theo quy định ở khoản 4 thuộc Điều 120 của
Hiến Pháp. Trưng cầu dân ý là hình thức mà công dân thực hiện trực tiếp về
quyền quản lý nhà nước cũng như quản lý xã hội. Hoạt động Quốc hội trong
thời gian gần đây đã thể hiện rõ tinh thần dân chủ, công khai, minh bạch.
14
Hoạt động chất vấn của Quốc hội ngày càng đi vào thực chất và trở
thành diễn đàn để Nhân dân thông qua các đại biểu do họ bầu ra chất vấn luật
pháp, chính sách, cách thức điều hành của Chính phủ nhằm hướng đến các
giải pháp có hiệu quả, đáp ứng quyền và lợi ích chính đáng của Nhân dân. Tại
các địa phương, cơ sở, quyền được biết, được bàn, được kiểm tra, giám sát
của Nhân dân ngày càng được khẳng định trong thực tế, củng cố vị thế chính
trị của các tầng lớp nhân dân, thúc đẩy tính minh bạch, trách nhiệm giải trình
trong hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước ở địa phương, cơ sở.
Như vậy, quyền tham gia công việc quản lý nhà nước và xã hội là
quyền cơ bản về chính trị của công dân cần được đảm bảo và cần triển khai
quyền làm chủ của nhân dân theo phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm,
dân kiểm tra”.
* Quyền bầu cử, ứng cử của công dân
Quyền bầu cử, ứng cử là quyền cơ bản của công dân về lĩnh vực chính
trị được ghi nhận trong đạo luật cơ bản của Nhà nước.
Quyền bầu cử theo luật định là khả năng của công dân thực hiện quyền
lựa chọn người đại biểu của mình vào cơ quan quyền lực nhà nước. Quyền
bầu cử của công dân gồm có: đề cử, giới thiệu người ứng cử (quyền chủ động
lựa chọn ứng cử viên của công dân để đại diện cử tri) và tiến hành quyền bỏ
phiếu.
Quyền ứng cử theo luật định là việc công dân có đủ điều kiện thể hiện
nguyện vọng của mình được ứng cử đại biểu Quốc hội, ứng cử đại biểu
HĐND.
Việc thực hiện quyền bầu cử, ứng cử của công dân do luật định. Điều
27 của Hiến pháp 2013 đã xác định: Công dân có đủ từ 18 tuổi trở lên thì có
quyền bầu cử; và có đủ từ 21 tuổi trở lên thì có quyền ứng cử vào Quốc hội,
HĐND. Tức là, tính từ ngày bầu cử được công bố, công dân nước Cộng hòa
15
XHCN Việt Nam có đủ từ 18 tuổi trở lên là có quyền bầu cử và có đủ từ 21
tuổi trở lên là có quyền ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND.
Bầu cử vốn dĩ là quyền cơ bản của công dân được Hiến pháp và luật
pháp quy định để đảm bảo cho tất cả công dân có đủ điều kiện thực hiện sự
lựa chọn đại biểu của mình vào vị trí trong cơ quan quyền lực nhà nước. Qua
hoạt động bầu cử, người dân trực tiếp tiến hành bỏ phiếu bầu ra người đại
diện cho mình về ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ, để thay mặt/ đại diện
mình thực thi quyền lực nhà nước, đóng góp vào việc thiết lập nên bộ máy
nhà nước nhằm quản lý xã hội.
Ngoài Hiến pháp 2013, quyền bầu cử, ứng cử và tham gia quản lý nhà
nước và xã hội còn được quy định tại nhiều văn bản luật như Luật Bầu cử đại
biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2015, Luật Tiếp công dân,
Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo, Luật Thanh tra...
1.2.2.2. Cách thức thực hiện quyền công dân trong lĩnh vực chính trị
Công dân thực hiện quyền của mình theo những nội dung và bằng
những phương thức tương ứng như trên đã phân tích hoặc có thể thông qua
cách thức mà Nhà nước bảo đảm quyền công dân như:
* Quyền khiếu nại, tố cáo của công dân
Quyền khiếu nại, tố cáo được quy định tại Điều 30 Hiến pháp 2013,
được cụ thể hóa trong Luật khiếu nại 2011 và Luật tố cáo 2018. Mà cụ thể là,
mọi người có quyền khiếu nại, tố cáo với các tổ chức, cơ quan và cá nhân có
thẩm quyền về việc làm trái luật của tổ chức, cơ quan và cá nhân. Nếu công
dân có căn cứ cho rằng quyền lợi bị xâm hại bởi một quyết định hành chính,
hành vi hành chính của cơ quan hành chính Nhà nước, của người có thẩm
quyền trong cơ quan hành chính Nhà nước thì có quyền khiếu nại (như khiếu
nại về danh sách cử tri). Mặt khác, công dân có quyền tố cáo hành vi phạm
pháp của bất kỳ tổ chức, cơ quan, cá nhân nào gây ra thiệt hại hay đe dọa gây
16
ra thiệt hại tới lợi ích của Nhà nước, lợi quyền hợp pháp của tổ chức, cơ quan
và của mình cũng như của người khác (tố cáo sai phạm trong quản lý Nhà
nước).
Trước hết, khiếu nại, tố cáo là là quyền dân chủ của công dân (một
trong các quyền cơ bản của công dân).
Khiếu nại, tố cáo là một phương thức thể hiện quyền dân chủ của nhân
dân và là một trong những phương thức thực hiện quyền giám sát của nhân
dân đối với bộ máy Nhà nước thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, kiểm
soát hoạt động của bộ máy Nhà nước, giải quyết khiếu kiện của dân, chống
phiền hà, nhũng nhiễu dân.
Hiến pháp 1946 của nước ta vốn đã ghi nhận những quyền và tự do dân
chủ là hoàn toàn của người dân Việt Nam như: quyền bình đẳng kinh tế, chính
trị, văn hoá, quyền bình đẳng trước luật pháp, quyền bình đẳng giữa các thành
phần dân tộc, quyền nam nữ bình đẳng, quyền tự do tín ngưỡng, tự do ngôn
luận và tự do tổ chức hội họp … Mặc dù, Hiến pháp 1946 còn chưa có một
điều khoản cụ thể nào để quy định về quyền khiếu nại, tố cáo của công dân,
nhưng với thể chế dân chủ mà Hiến pháp này1946 đã tạo dựng nên đã trở
thành nền tảng cơ bản hình thành nên quyền khiếu nại, tố cáo của công dân
trong thực tiễn. Kế thừa các giá trị và phát triển tư tưởng dân chủ trong Hiến
pháp 1946, tại Điều 29 của Hiến pháp 1959 chính thức đã ghi nhận về quyền
khiếu nại, tố cáo là một trong các quyền cơ bản của công dân: Công dân nước
Việt Nam dân chủ cộng hoà có quyền khiếu nại và tố cáo với bất cứ cơ quan
nào của Nhà nước về các việc làm phạm pháp của cán bộ, nhân viên cơ quan
Nhà nước. Những khiếu nại, tố cáo cần phải chú trọng xem xét, giải quyết
nhanh. Người bị thiệt hại do việc làm trái luật gây ra có quyền yêu cầu bồi
thường.
17
Giữa các Hiến pháp từ năm 1946 cho đến Hiến pháp hiện hành năm
2013 đã tiếp tục kế thừa các giá trịvà ghi nhận về quyền công dân trong hoạt
động khiếu nại, tố cáo đi theo hướng mở rộng quyền công dân và tạo môi
trường điều kiện thuận lợi cho công dân.
Thứ hai, khiếu nại, tố cáo vốn dĩ là phương thức thực hiện quyền giám
sát của người dân đối với hoạt động của Nhà nước và đội ngũ cán bộ, công
chức.
Hoạt động giám sát của người dân đối với hoạt động của Nhà nước
trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo được thể hiện là khi sự khiếu nại, tố cáo
của người dân đã chuyển tới các cơ quan Nhà nước về thông tin phát hiện các
việc làm vi phạm luật pháp, xâm hại tới lợi ích của Nhà nước và lợi quyền
hợp pháp của công dân. Đây là cơ sở mà Nhà nước tiến hành kiểm tra lại hoạt
động của các cơ quan và hành vi của cán bộ công chức nhà nước, qua đó
nhằm chấn chỉnh kịp thời và xử lý sai phạm, loại trừ những người không còn
xứng đáng ra khỏi bộ máy nhà nước, giúp cho bộ máy nhà nước cùng đội ngũ
của mình luôn trong sạch, vững mạnh. Thực tiễn từng xác nhận rằng, sự yếu
kém của tổ chức bộ máy, vấn đề chất lượng cán bộ công chức cùng các vấn đề
bất cập/ vướng mắc trong chính sách, luật pháp… thì phần lớn chúng được
phát hiện từ thực tiễn hoạt động tiếp dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo.
Ba là, thực hiện tốt công tác tiếp dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo
của công dân là nhằm đóng góp vào việc giữ gìn, củng cố và thắt chặt mối
quan hệ giữa Đảng và Nhà nước với nhân dân.
Việc thực hiện tốt công tác tiếp dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo sẽ
thể hiện càng sâu sắc về bản chất dân chủ XHCN; đây cũng là một biện pháp
cơ bản để đảm bảo quyền công dân ở lĩnh vực chính trị.
Việc giải quyết kịp thời các khiếu nại, tố cáo của công dân theo đúng
luật, nó sẽ gắn liền với việc khôi phục nhanh các lợi quyền hợp pháp của công
18
dân, xử lý nghiêm đối với những người sai phạm. Thông qua đó sẽ tạo dựng
và củng cố niềm tin của người dân vào đường lối của Đảng và chính sách
pháp luật của nhà nước.
Do vậy, phải khẳng định rằng, quyền khiếu nại, tố cáo là một trong các
quyền hiến định cơ bản của công dân, là một trong các quyền của công dân có
tính chính trị - pháp lý. Sự thực hiện về quyền khiếu nại, tố cáo của công dân
sẽ là nền tảng để thực thi những quyền và nghĩa vụ khác của công dân. Hơn
nữa, đó còn là phương tiện chính thức để công dân tranh đấu phòng chống
những hành vi trái luật để bảo vệ lợi ích của nhà nước và lợi quyền hợp pháp
của người dân, cũng như qua đó mà tham gia một cách thiết thực vào công
việc quản lý nhà nước và xã hội.
1.3. Các điều kiện bảo đảm quyền công dân trong lĩnh vực chính trị
1.3.1. Điều kiện pháp lý
Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp đã chỉ ra rằng: Người
ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi và phải luôn luôn được tự do và
bình đẳng về quyền lợi. Kế thừa tình hoa các giá trị của nhân loại, Tuyên
ngôn độc lập 1945 chính là lời Tuyên ngôn "kép" đối với quyền dân tộc tự
quyết và quyền công dân của dân tộc ta và những dân tộc thuộc địa. Đây là sự
cống hiến quý báu vô giá của Hồ Chí Minh và Đảng ta đối với lý luận chính
trị nói chung và nhân quyền nói riêng ở thời đại hiện nay.
Trong hơn 70 năm qua, quyền công dân ở Việt Nam luôn được khẳng
định, điều chỉnh và mở rộng phù hợp với luật pháp quốc tế và thực tiễn phát
triển của đất nước. Quyền công dân chẳng những được quy định trong Hiến
pháp và pháp luật, mà chúng còn phải được thực hiện trong thực tiễn. Cùng
với các quyền công dân khác, các quyền chính trị của công dân được Hiến
pháp và pháp luật ghi nhận và bảo đảm thực hiện là một trong những thành
quả vĩ đại nhất của cách mạng nước ta – từ cách mạng dân chủ nhân dân đến
19
cách mạng xã hội chủ nghĩa, trực tiếp phản ánh sự làm chủ về chính trị của
nhân dân dưới chế độ dân chủ XHCN.
Trong điều kiện đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập
quốc tế ở nước ta hiện nay thì việc tiếp tục hoàn thiện và bảo đảm thực hiện
các quyền chính trị của công dân bằng pháp luật là một trong những điều kiện
quan trọng để xây dựng thành công nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam
của dân, do dân và vì dân. Trong đó, để đáp ứng điều kiện pháp lý để bảo đảm
thực hiện quyền công dân trong lĩnh vực chính trị, yêu cầu đặt ra là phải: hoàn
thiện cả nội dung và hình thức pháp luật; pháp điển hóa; minh bạch hóa và đề
cao trách nhiệm giải trình từ phía các cơ quan Nhà nước, cán bộ công chức –
nhất là người đứng đầu, người đại diện; cũng như nâng cao chất lượng văn
bản quy phạm pháp luật… để loại bỏ các văn bản quy phạm pháp luật không
phù hợp với quy luật phát triển của đời sống kinh tế, chính trị, xã hội, không
phù hợp thực tiễn, nhất là với tiến trình xây dựng nhà nước pháp quyền
XHCN...
1.3.2. Các điều kiện chính trị
Chính trị là yếu tố mở đường có ảnh hưởng mạnh mẽ tới hiệu quả của
hoạt động thực hiện pháp luật về đảm bảo quyền công dân của những chủ thể
pháp luật, nhất là các cơ quan Nhà nước và cá nhân có thẩm quyền để áp dụng
pháp luật.
Chính sách của Đảng là nền tảng thiết lập các chính sách pháp luật; trên
cơ sở đó các nguyên tắc bảo đảm quyền công dân trong lĩnh vực chính trị mới
được ghi nhận và thực thi hiệu quả.
Ở điều kiện xã hội ngày càng mở rộng nền dân chủ, thông tin được tiếp
cận phong phú đa dạng, thì mọi tầng lớp trong xã hội có nhiều cơ hội công
khai thẳng thắn, trao đổi cởi mở để bày tỏ quan điểm chính kiến của mình về
các vấn đề quyền công dân, chủ trương của đảng và các cơ quan pháp luật,
20