MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thơ trào phúng cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX đã trình làng một phòng
tranh chân dung đông đảo, cụ thể của những con người có nguyên mẫu từ đời
thực, những nhân vật là sản phẩm riêng của xã hội Việt Nam giai đoạn này.
Nghệ thuật thơ trào phúng ngày càng được các nhà thơ sử dụng một cách sáng
tạo trong các sáng tác. Nhà nghiên cứu Trần Đình Hựu đã nhận xét rất tinh tế
rằng thơ trào phúng đầu thế kỉ XX gặp gỡ vè dân gian. Ông viết “Về nghệ thuật,
văn chương trào phúng chỉ kế thừa được một di sản mỏng manh: Cái cười của
nông dân, cái cười của nhà nho và cái cười Tú Xương lúc đó còn là mới mẻ. Mỗi
nhà thơ, tùy hoàn cảnh sống, quan tâm đến những đề tài gần đời sống nông thôn
hay thành thị, gần những vấn đề có tính xã hội, phong tục hay những vấn đề thời
sự chính trị. Một loại nhà thơ trào phúng đi theo con đường từ vè với cái cười
nông dân, và một loại khác đi theo con đường mà Nguyễn Khuyến, Tú Xương
đã đi, với cái cười ít nhiều có tính chất nhà nho hay thị dân.” Đúng vậy mỗi nhà
thơ theo những mảng đề tài riêng mà khai thác nghệ thuật trào phúng một cách
có hiệu quả nhất, nghệ thuật thơ trào phúng ngày càng phát triển và nó ngày
càng được hoàn thiện và đưa đến đỉnh cao của nghệ thuật khi đến với thơ Hồ
Xuân Hương.
Hồ Xuân Hương là một nữ sĩ hiếm thấy nền văn học Việt Nam. Thơ văn
của bà mang một cốt cách riêng, một khí khái riêng mà ẩn chứa trong đó là một
sức sống mãnh liệt luôn chực chờ tuôn trào trong từng câu từng chữ. Nghiên cứu
về nghệ thuật trào phúng trong thơ Hồ Xuân Hương tuy không còn mới mẻ
nhưng luôn cần những khám phá mới, để giúp chúng ta hình dung rõ nét hơn về
con người và cá tính trong thơ của bà, đồng thời hiểu được vì sao những tác
phẩm của bà lại có giá trị to lớn đến thế đối với nền văn học nước nhà. Với
những lí do nêu trên, việc nghiên cứu đề tài “Nghệ thuật trào phúng trong thơ
Hồ Xuân Hương” là thực sự cần thiết vì vừa có ý nghĩa khoa học vừa có ý nghĩa
thực tiễn rất quan trọng.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Nghiên cứu về thơ trào phúng Hồ Xuân Hương có Bùi Quang Huy đã
từng nghiên cứu trong “Thơ ca trào phúng Việt Nam”, thơ Hồ Xuân Hương.
1
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
a. Mục đích nghiên cứu:
- Mục đích của bài tiểu luận này chủ yếu là làm sáng tỏ nét đặc sắc về
nghệ thuật trào phúng của Hồ Xuân Hương.
- Hiểu phần nào tâm tư, tình cảm của Hồ Xuân Hương về đời sống đưa ra
nhận xét đúng đắn về Hồ Xuân Hương.
b. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Làm rõ việc sử dụng tính chất trào phúng trong thơ Hồ Xuân Hương qua
các bài thơ của bà, những nét đặc sắc trong lối sử dụng ngôn ngữ cũng như thủ
pháp nghệ thuật.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Tiểu luận lấy đối tượng nghiên cứu là nghệ thuật
trào phúng trong thơ của Hồ Xuân Hương.
- Phạm vi nghiên cứu: Chủ yếu trong các tập thơ của Hồ Xuân Hương
5. Đóng góp của đề tài
Với những nghiên cứu đạt được sẽ góp phần bổ sung kiến thức, mở rộng
hiểu biết về nghệ thuật trào phúng trong thơ Hồ Xuân Hương giúp được các bạn
sinh viên nắm rõ hơn về nghệ thuật trào phúng trong thơ của Hồ Xuân Hương,
cách sử dụng từ ngữ của bà cũng như thành công của bà trong nghệ thuật thơ
của mình và là tư liệu để phục vụ cho công tác giảng dạy thơ Hồ Xuân Hương.
6. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài sử dụng phương pháp thu thập tài liệu, phân tích, so
sánh kết hợp chứng minh.
7. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung của tiểu luận gồm 2 chương:
Chương 1. Sơ lược về Hồ Xuân Hương
Chương 2. Nét đặc sắc về nghệ thuật trào phúng trong thơ Hồ Xuân
Hương
2
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. SƠ LƯỢC VỀ HỒ XUÂN HƯƠNG
1.1. Sơ lược về cuộc đời và sự nghiệp của Hồ Xuân Hương
1.1.1. Cuộc đời Hồ Xuân Hương
Cho đến nay, có rất nhiều ý kiến lý giải, xác định những vấn đề thuộc
cuộc đời và thơ văn của “Bà chúa thơ nôm” (chữ dùng của Xuân Diệu). Chưa ai
có thể khẳng định chính xác bà sinh vào năm nào, mất năm nào và sáng tác chủ
yếu vào thời kì nào. Dựa vào một số tài liệu lưu truyền, những bài thơ được
khẳng định là của Hồ Xuân Hương, các nhà nghiên cứu tạm chấp nhận về tiểu
sử của bà.
Hồ Xuân Hương thuộc dòng dõi họ Hồ, quê gốc ở làng Quỳnh Đôi, huyện
Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Đây là một dòng họ lớn có nhiều người đỗ đạt
nhưng đến thời Hồ Phi Diễn, thân sinh của bà, thì dòng họ này đã suy tàn. Theo
các nhà nho nghiên cứu đầu tiên về Hồ Xuân Hương như Nguyễn Hữu Tiến,
Dương Quảng Hàm thì bà là con ông Hồ Phi Diễn ( sinh 1704). Ông thi đậu tú
tài năm 24 tuổi dưới triều Lê Bảo Thái, nhà nghèo không thể tiếp tục học, ông ra
dạy học ở Hải Hưng, Hà Bắc để kiếm sống. Tại đây ông đã lấy cô gái Bắc Ninh,
họ Hà làm vợ lẽ, Hồ Xuân Hương ra đời là kết quả của tình duyên đó.
Bà sống vào thời kỳ cuối nhà Lê, đầu nhà Nguyễn, tức 1772-1822. Do đó
bà có điều kiện tiếp thu ảnh hưởng của phong trào đấu tranh của quần chúng và
chứng kiến tận mắt sự đổ nát của nhà nước phong kiến.
Hồ Xuân Hương xuất thân trong một gia đình phong kiến suy tàn, song
hoàn cảnh của cuộc sống đã giúp nữ sĩ có điều kiện sống gần gũi với quần chúng
lao động nghèo, lăn lộn và tiếp xúc nhiều với những người phụ nữ bị áp bức
trong xã hội. Bà là một người phụ nữ thông minh, có học nhưng học hành không
được nhiều lắm. Bà giao du rộng rãi với bạn bè nhất là đối với những bạn bè ở
làng thơ văn, các nhà nho. Nữ sĩ còn là người từng đi ngao du nhiều danh lam
thắng cảnh của đất nước.
Là người phụ nữ tài hoa có cá tính mạnh mẽ nhưng đời tư lại có nhiều bất
hạnh. Hồ Xuân Hương lấy chồng muộn mà đến hai lần đi lấy chồng, hai lần đều
làm lẽ, cả hai đều ngắn ngủi và không có hạnh phúc. Có thể thấy Hồ Xuân
Hương không phải là một phụ nữ bình thường của thời phong kiến mà bà đã có
một cuộc sống đầy sóng gió.
3
1.1.2. Sự nghiệp sáng tác của Hồ Xuân Hương
Hồ Xuân Hương nổi tiếng với những sáng tác thơ bằng chữ Nôm, tổng
cộng chừng 50 bài. Ngoài ra, theo nhiều nhà nghiên cứu, bà còn là tác giả của
hai tập thơ: Lưu Hương Kí (gồm 24 bài chữ Hán và 26 bài thơ chữ Nôm), Xuân
Hương Thi tập gồm khoảng năm mươi bài đường luật.
Lưu Hương Kí: Tác giả viết về tình cảm và tâm sự của mình đối với
những người bạn trai như các ông Tốn Phong Thị, ông Hiệp Trấn Sơn Nam
thượng họ Trần, ông Sơn Phủ, ông Trí Hiên … Tình cảm trong bài thơ này thắm
thiết, táo bạo.
Xuân Hương Thi Tập: Đó là lời nói của một người phụ nữ trực tiếp bênh
vực cho phụ nữ, tố cáo những giả dối, bất công của xã hội phong kiến và bày tỏ
nỗi lòng tha thiết của mình đối với cuộc sống.
Đánh giá về thơ Hồ Xuân Hương, sách Tổng tập Văn Học Việt Nam nhận
định “Thơ Hồ Xuân Hương thường bộ lộ tài năng và trí tuệ của một phụ nữ
trước những cơn sóng gió của cuộc đời và thời cuộc, lớn tiếng đòi hỏi giải
phóng phụ nữ thoát khỏi những ràng buộc khắt khe phi lý của giáo điều phong
kiến lạc hậu, bảo thủ; nói lên khát vọng được sống, được bình đẳng, mang ý
nghĩa phản kháng mạnh mẽ. Tiếp nhận và phát huy những tinh hoa của dòng văn
hóa dân gian, lời thơ của Hồ Xuân Hương nhiều khi như lưỡi dao sắt ngọt đã xé
toạc bộ mặt giả đạo đức của nhiều kẻ tự mạo nhận là “Quân tử”, “Anh hùng”,
góp phần hạ bệ nhiều thần tượng chỉ có hư danh trong xã hội phong kiến”.
1.2. Thơ Nôm Trào Phúng Hồ Xuân Hương
1.2.1. Khái niệm “ Trào Phúng”
Từ điển Thuật Ngữ Văn Học định nghĩa trào phúng là “Một loại đặc biệt
của sáng tác văn học đồng thời là một nguyên tắc phản ánh nghệ thuật, trong đó
các yếu tố của tiếng cười mỉa mai, châm biếm, phóng đại, khoa trương, hài
hước… được sử dụng để chế nhạo, chỉ trích, tố cáo, phản kháng những cái tiêu
cực, xấu xa, lỗi thời, độc ác trong xã hội ”.
“Trong lĩnh vực văn học trào phúng gắn liền với phạm trù mỹ học, cái hài
với cái cung bậc hài hước, châm biếm đó là khái niệm bao trùm lĩnh vực văn
học tiếng cười”. Những cung bậc những tiếng cười từ hài hước đến mỉa mai
châm biếm, đả kích, bằng thủ pháp gây cười như phóng đại khoa trương … được
vận dụng một cách phổ biến trong tác phẩm trào phúng. Tóm lại hiểu một cách
đơn giản nhất trào phúng là nghệ thuật gây ra tiếng cười mang ý nghĩa phản ánh
4
xã hội để gây ra tiếng cười trào phúng, tiếng cười hài hước đây là tiếng cười mỉa
mai, châm biếm sâu cay.Lấy tiếng cười làm phương tiện để biểu hiện một đối
tượng nhất định.
1.2.2. Đối tượng trào phúng trong thơ Hồ Xuân Hương
Có thể nói Hồ Xuân Hương là phần tử nữ giới đầu tiên đã làm thơ để giễu
đời ở nước ta.Vốn đã mang hồn tính vững vàng của dân tộc để đứng cao mà
nhìn xuống, đứng ngoài mà ngó vào, lại được sống một thời loạn ly điên đảo,
Hồ Xuân Hương có đủ phương tiện và điều kiện để làm một nhà thơ trào phúng
bận rộn. Thêm nữa, cái thân thế long đong, duyên phận lỡ làng trong một cá tính
tự do, buất khuất càng làm cho cái cười của nữ sĩ sâu sắc, chân thành. Cái cười
của Hồ Xuân Hương, bắt đầu bằng đối tượng của nó. Đối tượng trào phúng của
Hồ Xuân Hương rất rộng: Ðó là những hiền nhân, quân tử, anh hùng, vua chúa,
nhà sư, quan thị, những gương mặt nam nhi không xứng mặt nam nhi.
Đối với thân mình: đôi khi tác giả chế giễu mình song vẫn không quên
bào chữa hay nói vớt lại, bà ưa kể lể và tự giải thích.
Có khi bà phân phua:
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặng,
Mà em vẫn giữ tấm lòng son
(Bánh trôi nước)
Đối với xã hội: Hồ Xuân Hương châm biếm rất chung, rất mờ. Bà không
vạch mặt chỉ tên ai và đánh đích danh vào một thói xấu, tật hư nào. Thơ bà chỉ là
một vài nét chấm phá về cái xã hội ngẩn ngơ, trân tráo, xuống dốc của thời bà,
cũng như của một thời loạn ly nào khác.
Đây lũ thư sinh tồi tàn:
Khéo léo đi đâu lũ ngẩn ngơ,
Lại đây cho chị dạy làm thơ…
Dắt díu nhau lên tới cửa chiền,
Cũng đòi học nói, nói không nên…
Bọn tăng ni đạo đức giả:
Khi cảnh, khi tiêu, khi chũm chọe,
Giọng hì, giọng hỉ, giọng hi ha…
Chày kình tiểu để suông không đấm,
Tràng hạt vãi lần đếm lại đeo.
Đây cảnh ngộ muôn đời của gái chửa hoang:
5
Cái tội trăm năm chàng chịu cả,
Mảnh tình một mối kiếp xin mang.
Một xã hội phác họa như trên thì không có cái gì cá biệt của thời Hồ Xuân
Hương cả. Trái với Hồ Xuân Hương, Trần Tế Xương thì không bao giờ chịu ở
trong bức họa tổng quát, đại thể. Với ông, xã hội còn và cốt yếu diễn ra bằng
những nhân vật đích danh, những thói hư tật xấu rõ ràng.
Nào ông Tri phủ hạt Xuân Trường
Tri phủ Xuân Trường được bốn niên,
Nhờ trời hạt ấy được bình yên.
Chữ “Y”, chữ “Chiểu” không phê đến,
Ông chỉ phê ngay một chữ “ Tiền”.
Nào ông sư bị ở tù:
Quảng đại từ bi cũng phải tù
Hay là sư cụ vụng đường tu?...
Đối với tạo vật: đến với xã hội thì đối tượng trào phúng của Trần Tế
Xương dừng lại, nhưng Hồ Xuân Hương thì không thế. Ta đã nói rằng bà cười
hết thảy và cũng là để gián tiếp giễu đời giễu mình
Làm tuyền tuyến cả phồn hoa lại,
Rõ khéo trời giè đến dở dom!
Lắt lẻo cành thông cơn gió thốc,
Đầm đìa lá liễu giọt sương gieo.
Hiền nhân quân tử ai là chẳng,
Mỏi gối chồn chân vẫn muốn trèo!
Tóm lại, đối tượng trào phúng của Hồ Xuân Hương rộng mà hóa hẹp vì
mơ hồ và đồng nhất, đối tượng trào phúng của Trần Tế Xương hẹp mà hóa rộng
vì rõ ràng và phức biệt.
6
CHƯƠNG 2. NÉT ĐẶC SẮC VỀ NGHỆ THUẬT TRÀO PHÚNG
TRONG THƠ HỒ XUÂN HƯƠNG
2.1. Đề tài phong phú đa dạng
Hồ Xuân Hương sáng tác ở các mảng đề tài rất phong phú và đa dạng
như: về tình yêu đôi lứa, về cảnh thiên nhiên, về những thói hư tật xấu trong xã
hội.
2.1.1. Niềm đồng cảm với phụ nữ
Trong văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII - nửa đầu thế kỷ XIX, Hồ
Xuân Hương là một nhà thơ nhân đạo chủ nghĩa, bởi vì thơ bà trước hết là tiếng
nói tâm tình của người phụ nữ, niềm đồng cảm sâu sắc đối với phụ nữ. Trong xã
hội phong kiến, phụ nữ là người chịu nhiều thiệt thòi nhất. Họ không chỉ chịu áp
bức về mặt giai cấp cũng như làm lụng đầu tắt mặt tối, mà còn chịu áp bức về
mặt giới tính, đau đớn về mặt tinh thần còn đau khổ nhiều lần hơn đau khổ về
mặt vật chất. Đã có rất nhiều nhà nhân đạo thể hiện niềm cảm thông xót xa với
thân phận người phụ nữ như Người cung nữ (Cung oán ngâm khúc), Người
Chinh Phụ (Chinh Phụ Ngâm Khúc)… đến Hồ Xuân Hương, người phụ nữ
trong thơ bà không phải người phụ nữ lầu son, gác tía chinh phụ hay cung tần
mà là những người phụ nữ hết sức bình thường, những người phụ nữ lao động
chịu nhiều bất hạnh trong đời sống.
Trong thơ của mình, Hồ Xuân Hương không nói đến toàn bộ nỗi khổ của
người phụ nữ, Xuân Hương hình như chỉ muốn nói đến nỗi khổ đau riêng có
tính chất giới tính của mình. Xuân Hương viết về nỗi khổ của người phụ nữ
“Lấy chồng chung”, hay nỗi khỗ của người phụ nữ “không chồng mà chửa”,…
Xuân Hương nêu lên được một nét điển hình nổi bật của chế độ hôn nhân phong
kiến:
Kẻ đắp chăn bông, kẻ lạnh lùng,
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung!
Năm thì mười họa chăng hay chớ,
Một tháng đôi lần có cũng không…
Cố đấm ăn xôi, xôi lại hẩm,
Cầm bằng làm mướn, mướn không công.
Thân này ví biết dường này nhỉ,
Thà trước thôi đành ở vậy xong
(Lấy chồng chung - Theo bản khắc 1914)
7
Nhà thơ vạch ra làm lẽ chẳng chỉ là một thứ làm mướn, thậm chí còn tệ
hơn cả làm mướn nữa : đó là thứ làm mướn không công. Xã hội phong kiến bắt
người phụ nữ phải chính chuyên một chồng trong khi cho phép đàn ông có năm
thê bảy thiếp. Thông thường trong xã hội phong kiến lấy lẽ để thỏa mãn cuộc
sống dâm dật của bọn địa chủ, đồng thời để có thêm sức lao động. Ý nghĩa phê
phán sâu sắc trong bài thơ của Hồ Xuân Hương là ở đó. Và nó được nhân lên rất
nhiều khi người phụ nữ luôn cố hết sức chịu đựng khi không chịu đựng nổi, bà
đã thét lên:
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung!
Hồ Xuân Hương nhận thức được cảnh bất công, ngang trái của việc lấy
chồng chung, nhà thơ lên tiếng chửi quyết liệt, nhưng vẫn không tìm được lối
thoát. Bài thơ kết thúc không mở ra một bước ngoặt nào cả, mà đóng lại bằng
tiếng thở dài bất lực:
Thân này ví biết dường này nhỉ,
Thà trước thôi đành ở vậy xong!
Nhà thơ không thể vượt lên hoàn cảnh xã hội. Bất mãn với thực tại, Xuân
Hương nghĩ giá ngày trước đừng lấy chồng!
Hồ Xuân Hương luôn cảm nhận bằng một trái tim cháy bỏng với tất cả sự
xúc động chân thành của mình. Khi giận giữ thì thét lên mắng chửi; khi yêu
thương thì đằm thắm, ngọt ngào. Bà nhìn sự việc với thái độ khoan dung, độ
lượng đối với cảnh ngộ không may của họ qua bài “không chồng mà chửa”.
Trong xã hội phong kiến người phụ nữ chửa hoang là một tai họa tầy
đình. Họ cho rằng những người phụ nữ thông dâm là những ngườ mất hết “liêm
sỉ”,nhưng đối với Xuân Hương thì đó không phải là việc làm tội lỗi mà đó chỉ là
chuyện “cả nể” đối với người tình, và vì cả nể nên mới hóa dở dang như vậy:
Cả nể cho nên hóa dở dang,
Nỗi niềm chàng có biết chăng chàng.
Người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương còn là những người giàu đức hy
sinh, sẵn sàng chấp nhận đương đầu với lễ giáo phong kiến khắc nghiệt:
Quản bao miệng thế lời chênh lệch,
Không có, nhưng mà có, mới ngoan!
Xuân Hương là một nhà thơ yêu con người, yêu cuộc sống. Trong những
vần thơ của mình Xuân Hương luôn đem đến cho họ một nụ cười, giúp họ có
8
nghị lực để sống và chống chọi với cuộc sống. Nhà thơ sẽ bảo một bà lang khóc
chồng:
Văng vẳng tai nghe tiếng khóc gì,
Thương chồng nên nỡi khóc tỉ ti.
(Dỗ người đàn bà chồng chết)
Sẽ bảo cô gái chồng chết:
Nín đi em kẻo thẹn với non song,
Ai về nhắn nhủ đàn em bé!...
Đối với phụ nữ Xuân Hương không chỉ có thông cảm và bênh vực, đặc
biệt nhà thơ hết sức đề cao và ca ngợi họ. Qua một loạt hình tượng nói về số
phận bấp bênh, hẩm hiu của người phụ nữ như chiếc bánh trôi “ Bảy nổi ba chìm
với nước non”; con ốc nhồi “Đêm ngày lăn lóc đám cỏ hôi”, hay quả mít “da nó
xù xì”... Nhà thơ chú trọng nêu bật cái đẹp bên trong, cái đẹp tâm hồn của họ.
Xuân Hương sống vào một thời kỳ chế độ phong kiến đã mục rỗi, thối nát
và bà là nạn nhân của cái chế độ ấy. Là người phụ nữ xuất thân trong một gia
đình phong kiến suy tàn, cuộc sống đã đẩy bà xuống tầng lớp tận cùng của xã
hội và cùng lăn lộn tiếp xúc với người phụ nữ cũng bị áp bức nên những vần thơ
của Xuân Hương luôn có một niềm đồng cảm với người phụ nữ, nói lên bằng cả
tấm lòng con tim của mình.
2.1.2. Phê phán, đả kích giai cấp thống trị
Hồ Xuân Hương là nhà thơ trào phúng, trước kia thường bị các giai cấp
thống trị coi là người đàn bà lăng loài, đĩ thõa vì Hồ Xuân Hương dám nói lên
những điều mà mọi người không dám nói, bà thẳng tay tát vào mặt cả bọn phong
kiến từ trên xuống dưới, vạch trần bộ mặt giả dối trong xã hội.
Trước hết Hồ Xuân Hương đánh vào giai cấp thống trị mà đại diện là vua
chúa, quan lại, hiền nhân quân tử... với vũ khí tiếng cười của bà, đã đánh vào
bọn thống trị một cách đau đớn, có thể thấy đối tượng đả kích trong thơ bà rất
rộng. Qua bài “Vịnh cái quạt” phần nào cho ta hiểu rõ hơn:
Mười bảy hay mười tám đây?
Cho ta yêu dấu chẳng rời tay.
Mỏng dày chừng ấy, chành ba góc,
Rộng hẹp dường nào, cắm một cay.
Càng nóng bao nhiêu thời càng mát,
Yêu đêm chưa phỉ lại yêu ngày.
9
Hồng hồng má phấn duyên vì cậy,
Chúa dấu vua yêu một cái này.
Mượn cớ tả cái quạt mà thật ra là để chỉ cái khác, nói đến thói mê hoa,
hám sắc của bọn quan lại, vua chúa. Vua chỉ yêu “cái này” thôi và không yêu cái
khác! Nói cái quạt để ám chỉ người con gái “mười bảy hay mười tám” số nan
quạt giấy cũng đồng thời nói lên tuổi của thiếu nữ. Đương thời chỉ có ca dao với
Trạng Quỳnh mới dám đả kích như vậy. Còn đối với bọn “ hiền nhân quân tử”:
Mùa hè hây hẩy gió nồm đông,
Thiếu nữ nằm chơi qua giấc nồng.
Lược trúc chải cài trên mái tóc,
Yếm đào trễ xuống dưới nương long.
Đôi gò Bồng Đảo sương còn ngậm,
Một lạch Đào nguyên suối chửa thông.
Quân tử dùng dằng đi chẳng dứt,
Đi thì củng dở, ở không xong.
“Hiền nhân quân tử” là mẫu hình lý tưởng của xã hội nhưng thực ra họ
cũng lắm khát khao phàm tục. Thấy cô gái ngủ hớ hênh thì quân tử cũng “dùng
dằng đi chẳng dứt”. Nhà thơ vạch ra tính chất khôi hài của nội dung rất phàm tục
lại được che đậy bằng một lớp vỏ đạo đức giả hoặc qua bài “Đèo ba dội” cũng
vậy:
Một đèo, một đèo,lại một đèo
Khen ai khéo tạc cảnh cheo leo.
Cửa son đỏ loét tumg hum nóc,
Hòn đá xanh rì lún phún rêu.
Lắt lẻo cành thông cơn gió thốc,
Đầm đìa lá liễu giọt sương gieo.
Hiền nhân, quân tử ai là chẳng…
Mỏi gối, chồn chân vẫn muốn trèo.
Trong những bài thơ quả mít, ốc nhồi, bà cũng đã vạch ra những việc xấu
xa ấy của bọn quân tử.
Đó còn là đám sĩ nho quân tử con nhà quan dốt nát mà hênh hoang.
Không tự lượng tài sức non nớt, hễ đến thăm chùa chiền nào là làm thơ đề vịnh
ngay lên vách đó là chuyện lố lăng, bà chừi thẳng mặt :
Khéo léo đi đâu lũ ngẩn ngơ?
10
Lại đây cho chị dạy làm thơ.
Ong non ngứa nọc châm hoa rữa,
Dê cỏn buồn sừng húc giậu thưa.
(Mắng học trò dốt I)
Hay:
Dắt díu nhau lên đến cửa chiền,
Cũng đòi học nói, nói không nên.
Ai về hắn bảo phường lòi tói,
Muốn sống đem vôi quét trả đền.
(Mắng học trò dốt II)
Trong xã hội rối ren, nhà chùa không còn là nơi tu hành tôn nghiêm nữa.
Nhiều kẻ lợi dụng chùa chiền để làm điều bậy bạ.Hồ Xuân Hương chỉ trích thậm
tệ sự sa đọa của các nhà sư, bà mỉa mai hạng tu hành không giữ vững được đạo
vì bị vật dụng ám ảnh nên phải hoàn tục :
Cái kiếp tu hành nặng đá đeo,
Vị gì một chút tẻo tèo teo.
Thuyền từ cũng muốn về Tây Trúc,
Trái gió cho nên phải lộn lèo.
( Kiếp tu hành)
Hay:
Nào nón tu lờ, nào mũ thâm,
Đi đâu chẳng đội để ong châm.
Đầu sư há phải gì…bà cốt,
Bá ngọ con ong bé cái nhầm.
Hồ Xuân Hương còn vạch ra cho chúng ta thấy cảnh chướng tai gai mắt
của hạng nhà sư chỉ có đạo đức ở bộ áo cà sa, còn lòng dạ thì vấn vương trần tục
“ miệng nam mô, bụng một bồ dao găm” ..
Chẳng phải là Ngô, chẳng phải ta,
Đầu thì trọc lốc, áo không tà.
Oảng dâng trước mặt, dăm ba phẩm,
Vải núp sau lưng, bảy tám bà.
Khi cảnh, khi tiu, khi chũm chọe,
Giọng hì, giọng hỉ, giọng hi ha.
Tu lâu có lẽ nên sư cụ,
11
Ngất nghểu tòa sen nọ đó mà!
(Sư hổ mang)
Qua những hình ảnh sinh động với lối thơ châm biếm, Hồ Xuân Hương vẽ
lên không phải là cảnh tôn nghiêm của nhà chùa mà là nơi một bọn đội lốt tu
hành ngày đêm đú đởn, chè chén, hát hổng..
Người quen cõi Phật chen chân xọc,
Kẻ lạ bầu tiên mỏi mắt dòm.
Với bài “ Chùa sư quán”
Quán sứ sao mà cảnh vắng teo,
Hỏi thăm sư cụ đáo nơi neo?
Chày kinh, tiểu để suông không đấm,
Tràng hạt, vãi lần đếm lại đeo.
Sáng banh không kẻ khua tang mít,
Trưa trật nào ai móc kẽ rêu.
Cảnh buồn thêm ngán nợ tình đeo.
Cho ta thấy cảnh sinh hoạt ở chùa Quán sứ lười biếng và vô nghĩa.
Hồ Xuân Hương bằng lối thơ châm biếm của mình đã vạch trần bộ mặt
xấu xa của xã hội một cách thẳng thắn và mạnh mẽ không hề câu nệ ai,bà phê
phán một cách gay gắt đến tính chất giả dối, dốt nát của giai cấp thống trị. Bên
cạnh đó còn là những thủ đoạn bóc lột nông dân của chúng. Hồ Xuân Hương
đứng trên lập trường người phụ nữ để nói đến cái xấu xa của chúng. Có thể do
ảnh hưởng của cuộc đời riêng của mình nên Xuân Hương thường chú ý nhiều
đến mặt xã hội phong kiến.
2.1.3. Bộc lộ tiếng lòng của mình
Thơ trào phúng Hồ Xuân Hương ngoài mục đích chĩa mũi nhọn vào chế
độ và lễ giáo phong kiến còn đề cập đến nỗi niềm riêng tư của nhà thơ. Đó là sự
thể hiện ước mơ, khát khao hạnh phúc lứa đôi. Hồ Xuân Hương có ba bài thơ trữ
tình bộc lộ về mình của tác giả, đó là những bài thơ viết về duyên phận chìm
nổi, lênh đênh của nhà thơ. Ba chùm thơ Tự Tình I, Tự Tình II, Tự Tình III, thể
hiện trong sâu thẳm tâm hồn Hồ Xuân Hương, bà là người phụ nữ tài hoa nhưng
lại gặp phải cuộc đời nhân duyên dở dang, số phận long đong. Qua bài Tự Tình
III
Cảnh khuya văng vẳng trống canh dồn,
Trơ cái hồng nhan với nước non.
12
Chén rượu hương đưa say lại tỉnh,
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn!
Xiên ngang mặt đất rêu từng đám,
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn.
Ngán nỗi xuân đi, xuân lại lại,
Mảnh tình san sẻ tí con con.
Cho ta thấy nỗi đau của chính tác giả, nỗi buồn giận trong cảnh cô đơn ,
“hồng nhan” chỉ dung nhan người phụ nữ mà lại đi kèm với từ “cái” gợi gì đó
một sự rẻ rúng, mỉa mai thể hiện sự cay đắng. Có khi nỗi buồn của bà lại rộng
rãi, không biết buồn vì cô đơn hay góa bụa:
Tiếng gà văng vẳng gáy trên bom,
Oán hận trông ra khắp mọi chòm.
Mõ thảm không thua mà cũng cốc,
Trước nghe những tiếng thêm rầu rĩ,
Sau giận vì duyên để mõm mòm.
Tài tử, văn nhân ai đó tá?
Thân này đâu đã chịu già tom.
(Tự Tình II)
Qua ba bài thơ Tự Tình, nhà thơ thể hiện tấm lòng chân thật của người
phụ nữ về thân phận ê chề, đau khổ của mình, đồng thời nói lên niềm khát khao
cháy bỏng, ước mơ được yêu, được trao duyên gửi tình của nhà thơ. Nỗi niềm
riêng tư của Hồ Xuân Hương không chỉ được thể hiện ở ba bài thơ này mà còn
thể hiện ở nhiều bài thơ khác khi thì trực tiếp, khi thì gián tiếp. Trong xã hội bây
giờ, sự chìm nổi của số phận người phụ nữ là không thể tranh khỏi, Hồ Xuân
Hương đã cảm thông sâu sắc với các bạn gái với số phận long đong, buồn thảm
ấy:
Thân em thì trắng phận em tròn,
Bảy nổi ba chìm với nước non.
( Bánh trôi nước)
Nhưng cũng nhận thấy rằng dù xã hội có phủ phàng đến đâu đi nữa, người
phụ nữ vẫn giữ cho tấm lòng trinh bạch:
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn,
Nhưng em vẫn giữ tấm lòng son.
( Bánh trôi nước)
13
Nó biểu lộ ý thức về đạo đức và ý chí của người phụ nữ cố gắng bảo vệ
danh dự của mình.
Hồ Xuân Hương có hai nỗi đau lớn trong đời : hai lần chồng chết chính vì
thế mà những câu thơ của bà bộc bạch được hết nỗi lòng của mình cũng như của
người phụ nữ trong xã hội, những mất mát đau thương nhưng cũng nói rất nhiều
đến hạnh phúc lứa đôi và tuổi xuân của người phụ nữ :
Hỏi bao nhiêu tuổi hỡi cô mình,
Chị cũng xinh, mà em cũng xinh.
Đôi lứa như in tờ giấy trắng,
Nghìn năm còn mãi cái xuân xanh.
(Tranh tố nữ)
Cảnh đáng thương của người đi làm lẽ, vừa mỉa mai vừa chua chát:
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung!
Năm thì mười họa nên chăng chớ,
Hồ Xuân Hương làm thơ trào phúng để phơi bày những nỗi bực tức ghét
giận của bà đối với những cái xấu xa mà bà không ít thì nhiều cũng là nạn nhân.
Nỗi đau đớn khổ sở mà bà đã gặp, lời than thân trách phận của những người phụ
nữ mà hơn hết là cái khát khao tìm được hạnh phúc trọn vẹn.
2.1.4. Thiên nhiên trong thơ Hồ Xuân Hương
Hồ Xuân Hương là một nhà thơ trào phúng xuất sắc, điều này không ai có
thể phủ nhận nhưng yếu tố trào phúng và trữ tình không hề đối lập mà trái lại
thống nhất chặt chẽ với nhau. Chính yếu tố trữ tình đã khiến cho yếu tố trào
phúng thêm thâm thúy, chua xót. Bức tranh thiên nhiên trong thơ Hồ Xuân
Hương góp phần không nhỏ vào việc thể hiện nghệ thuật của mình. Thể hiện
tình yêu thiên nhiên của bà, cảnh thiên nhiên nhà thơ yêu mến là những cảnh
bình thường, hết sức quen thuộc: có cây, có lá, có gió, có âm thanh, có sắc
màu…
Tấm lòng yêu đời của Hồ Xuân Hương mang đến cho thiên nhiên chất
sống tràn trề, căng đầy như nhựa mùa xuân, có lúc thiên nhiên hiện lên thật bình
dị mà không kém phần sinh động :
Lắt lẻo cành thông cơn gió thốc,
Đầm đìa lá liễu giọt sương gieo.
Nhưng có khi nó thật hùng vĩ, tươi vui:
Gió giật sườn non kêu lắc cắc,
14
Sóng dồn mặt nước vỗ long bong.
Hoặc:
Một đèo, một đèo, lại một đèo,
Khen ai khéo tạc cảnh cheo leo.
Hai câu thơ như cho ta cảm giác đứng trước một cảnh đèo có ba đợt dốc,
giữa là một cảnh núi non hiểm trở. Với màu sắc rất đậm và nét bút táo bạo Hố
Xuân Hương tả:
Cửa son đỏ loét tùm hum tóc,
Hòn đá xanh rì lún phún rêu.
Hay tả một cái giếng nước trong như một bức tranh lụa mịn màng :
Cầu trắng phau phau đôi ván ghép,
Nước trong leo lẻo một dòng thông.
Cỏ gà lún phún leo quanh mép,
Cá diếc le te lách giữa dòng.
( Giếng thơi)
Tả một cảnh thu cô quạnh đìu hiu, bà vẽ cho ta thấy con đường đi xiên
vẹo, cái quá tiêu điều, cột xiêu vách nát, một dòng nước lăng tăng, trên có một
cái cầu tre thô sơ cũ kỹ. cảm giác thật buồn tẻ và hình ảnh thật rõ rệt :
Đứng tréo trông theo cảnh hắt heo,
Đường đi thiên thẹo, quán cheo leo.
Lợp lều mái cỏ tranh xơ xác,
Xỏ kẽ kèo tre đốt chẳng kheo.
Ba gạc cây xanh hình uốn éo,
Một dòng nước biết chảy tăn teo.
Thú vui quên cả niềm lo cũ,
Kìa cái diều ai nó lộn lèo.
Để tả người đi viếng cảnh Chùa Hương, bà dùng:
Người quen cõi phật chen chân xọc,
Kẻ lạ bầu tiên mỏi mắt dòm.
Hay tả cái cảnh trí đột ngột của Hang Cắt Cớ:
Trời đất sinh ra đá một chòm,
Nứt làm hai mảnh hỏm hòm hom.
Kẽ hầm rêu mốc trơ hoen hoẻn,
Luồng gió thông rêu vỗ phập phòm.
15
Bằng những lời thơ của mình Hồ Xuân Hương đã tả lại rất chính xác cảnh
đẹp của Hang Cắc Cớ :
Xiêng ngang mặt đất rêu từng đám,
Đâm toạc chân mây đa mấy hòn…
Thiên nhiên trong thơ Hồ Xuân Hương không bao giờ yên ắng mà nó luôn
cựa quậy như chính con người của tác giả luôn muốn thoát khỏi cuộc sống bị đè
nén như vậy. Tả cảnh đánh đu trong ngày xuân:
Bốn cọc khen ai khéo khéo trồng,
Người thì lên đánh kẻ ngồi trông.
Trai đu gối hạc khom khom cật,
Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng.
Bốn mảnh quần hồng bay phấp phới,
Hai hàng chân ngọc duỗi song song.
Chơi xuân đã biết xuân chăng tá,
Cọc nhổ đi rồi lỗ bỏ không.
Bức tranh rất hiện thực, rất sống. Mỗi câu thơ toát lên sức sống. Thơ của
Xuân Hương khiến nhiều người đọc cho rằng thơ khêu gợi cái “dâm tục”, Xuân
Hương thường làm thơ theo hai nghĩa, một nghĩa phô ra và một nghĩa ẩn nên
những ai đọc thơ bà mà hiểu theo nghĩa đen thì cho rằng thơ bà dâm tục nhưng
thơ của bà toát lên vẻ chân thật mà gần gũi, qua đó thể hiện khát vọng nhu cầu
của con người nên không thể coi đó là thơ “dâm tục” được.
Xuân Hương có một nghệ thuật tả cảnh rất độc đáo và thiên nhiên trong
thơ bà gần gũi mà giản dị với cuộc sống của người dân, đó là cảnh Chùa Hương,
Đèo Ngang, Hang Thanh Hóa, có khi là những gì rất bình dị nơi thôn quê: Cái
giếng, ngôi chùa, đám hội xuân, những cảnh đẹp hết sức êm đềm. Bằng ngôn
ngữ của nhân dân, nôm na, giản dị, có giá trị gợi tả về hình ảnh cũng như về âm
thanh, có một bút pháp tả thực sắc xảo, tài tình.Bức tranh thiên nhiên được bà vẽ
lên thật sinh động lạ thường và thắm tươi đầy chất sống. Không chỉ là tả cảnh
thiên nhiên mà qua đó còn là sự đả kích châm biếm vẽ đẹp mà xã hội thối nát lúc
bấy giờ giăng ra.
2.2. Ngôn ngữ và giọng điệu
2.2.1. Thơ nôm Hồ Xuân Hương – Phong phú về từ vựng
Trong kho tàng thơ nôm trào phúng của Hồ Xuân Hương chúng ta thấy từ
vựng trong sáng tác của bà đủ muôn màu muôn sắc. Nó luôn luôn vận động.
16
Đầu tiên là phải kể đến hệ thống những động từ mạnh thể hiện sức sống mãnh
liệt không gì có thể ngăn cản được :
Xiên ngang mặt đất rêu từng đám,
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn…
Dườmg như sự vật trong thơ của Hồ Xuân Hương cũng muốn bức phá
không chịu thuận theo quy luật của tự nhiên như một sự thách thức để tìm sự
sống cũng như chính nỗi lòng của tác giả cũng vậy muốn bức phá. Ngoài ra còn
hàng loạt động từ trong xuất hiện trong các bài thơ khác như : nảy ( nảy vừng
quế đỏ, nảy nét ngang), nổi chìm ( bảy nổi ba chìm với nước non)… các cách
liên kết đó tạo nên một nhịp thơ mạnh mẽ, tạo nên thế giới của sự sống, của
thiên nhiên năng động đầy sức sống. Những động từ này còn góp phần vạch
mặt, chửi thẳng vào bọn sư mô đạo đức giả, bọn học trò dốt nát với những động
từ như: “đấm, khua, móc” hay “châm húc”. Bên cạnh động từ, hệ thống từ vựng
tính từ chiếm vị trí không nhỏ trong thơ Hồ Xuân Hương và tạo được những
rung cảm đẹp. Như đã nói ở trên Xuân Hương bao giờ cũng muốn bức phá
không muốn an phận như những người phụ nữ bị chèn ép khác. Những tính từ
đã diễn tả màu sắc trong thơ Hồ Xuân Hương. Đó là những màu đậm và nóng.
Đỏ thì “ đỏ loét”, đỏ “lòm lom”, đỏ “như son”, xanh thì “xanh rì”, trắng thì
“trắng phau”, trong thì phải “trong leo lẻo”, tối thì “tối om mom”, sáng thì “sáng
banh”, trua thì “trưa trật”. Hoặc nếu không “xiên ngang mặt đất” thì cũng phải “
mõ thãm không khua mà cũng cốc – chuông sầu chẳng đánh cớ sao om”, với
Xuân Hương không có gì là đứng yên là chết lặng cả mà nó phải bức ra, xé ra.
Hồ Xuân Hương vận dụng hết giác quan của mình để trông:
Lợp lều mái cỏ tranh xơ xác,
Xỏ kẽ kèo tre đốt khẳng kheo…
Cầu trắng phau phau đôi ván ghép,
Nước trong leo lẻo một dòng thông….
Hay để nghe ngóng:
Giọt nước hữu tình roi lõm bõm…
Sóng dồn mặt nước vỗ long bong…
Ba hồi triêu mộ chuông gầm song…
Và cả để đụng chạm nữa :
Lườn đá cỏ leo, sờ rậm rạp,
Vách khe nước rỉ, mó lam nham.
17
Chính vì thế khi đọc thơ Xuân Hương không chỉ có mắt nhìn, tai nghe mà
nói chung các giác quan của ta đều dùng để cảm nhận. Bên cạnh đó kho tang
ngôn ngữ còn được Xuân Hương vận dụng rất thành công, những chữ thường
dùng trong thơ bà có một giá trị tạo hình đặc biệt và bạo dạn như :
Hòn đá xanh rì mốc thếch rêu. Lắt lẻo cành thông cơn gió giật, đầm
đìa lá liễu hạt sương gieo…Cỏ gà lún phún leo quanh mép… Giai đu gối
hạc khom khom cật… Xin đừng ngó ngoáy. Đến với thơ của Hồ Xuân Hương
không còn là những từ ngữ bình thường nữa mà được tác giả vận dụng như một
nhà điêu khắc, khắc họa lên những gì rõ nét nhất. Bà còn hay dùng những chữ
tục, nạc, người bình dân ưa nói :
Bá ngọ con ong bé cái nhầm…Quân tử có thương thì bóc yếm, Ong
non ngứa nọc châm hoa rữa, Dê cỏn buồn sừng húc giậu thưa… Một đàn thằng
ngọng đứng xem chuông… hay dùng tục ngữ, phương ngôn trong thơ (Cố đấm
ăn xôi, xôi lại hẩm, cầm bằng làm mướn, mướn không công…hăm bảy tháng
trời là mấy chốc!
Hồ Xuân Hương nhà thơ nôm, thơ bà rất bình dân vì dùng toàn những
tiếng việt thông thường nhưng nó chứa chan vị sống tươi ngọt, hệ thống từ vựng,
ngôn ngữ trong thơ bà vô cùng phong phú, dùng tục ngữ dân gian, tạo nên
những hình ảnh giàu tính hình tượng , gợi liên tưởng…
2.2.2. Giọng điệu châm biếm đả kích
Giọng điệu chủ đạo trong những sáng tác trào phúng thơ nôm của Hồ
Xuân Hương thể hiện rất rõ ở giọng điệu châm biếm đả kích. Với giọng điệu này
Hồ Xuân Hương hướng tới mọi đối tượng, không bỏ sót một ai, từ bọn vua chúa,
quan lại đến những kẻ “ hiền nhân quân tử”, bọn sư mô núp bóng của chùa để
làm việc xấu. Đó là những lời đả phá, chế giễu một cách gay gắt. Thông qua
giọng điệu đó bà đã không ngần ngại vạch trần những thói hư tật xấu, những bộ
mặt đạo đức giả, với mỗi đối tượng thì giọng điệu ấy lại biến hóa linh hoạt.
Như với bọn sư mô, nhà thơ phác họa vài nét nhưng qua đó người đọc
phần nào nhận ra được giọng điệu châm biếm, thâm thúy, sâu cay của tác giả về
những cảnh “chướng tai gai mắt” ở nơi tôn nghiêm: sư cụ đang mãi “đáo nơi
neo”, chú tiểu thì bỏ kinh kệ, bỏ cả “chày kinh”. Giọng thơ châm biếm khá chua
cay:
Cái kiếp tu hành nặng đá đeo
Vẻ gì một chút tẻo tèo teo
18
Thuyền từ cũng muốn sang Tây Trúc
Trái gió nên cho phải lộn lèo.
Với bọn đạo đức giả những kẻ dốt nát mà hay khoe tài. Hồ Xuân Hương
ngoài việc bóc trần thói dốt nát của bọn chúng còn thể hiện giọng châm biếm
của bậc bề trên đối với đàn em:
Khéo léo đi đâu lũ ngẩn ngơ,
Lại đây cho chị dạy làm thơ.
Ong non ngứa nọc châm hoa rữa
Dê cỏn buồn sừng húc giậu thưa
Hay giọng khing bỉ:
Này này chị bảo cho mà biết
Muốn sống đem vôi quét trả tiền
Giọng điệu châm biếm ấy trở nên chua xót khi bà thể hiện hoàn cảnh của
người đàn bà không chồng mà chửa, hay khi nghĩ về chính hoàn cảnh bất hạnh
của mình thì giọng điệu ấy trở nên mỉa mai, gay gắt:
Kẻ đắp chân bông kẻ lạnh lùng,
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung!
Năm thì mười họa chăng hay chớ,
Một tháng đôi lần có cũng không.
Không chỉ xót xa, chế giễu, giọng điệu châm biếm, đả kích còn hướng tới
khẳng định một bản lĩnh đó là bản lĩnh của chính tác giả:
Ví đây đổi phận làm trai được
Thì sự anh hung há bấy nhiêu.
Với bọn quân tử,Xuân hương cười vào cái dục vọng thấp hèn của bọn
chúng khi bắt gặp cô gái ngủ trưa:
Quân tử dùng dằng đi chẳng dứt,
Đi thì cũng dở, ở không xong.
Hay ngợi ca người phụ nữ:
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Nhưng em vẫn giữ tấm lòng son.
Thơ bà còn lên tiếng bênh vực người phụ nữ chửa hoang:
Quản bao miệng thế lời chênh lệch
Không co, nhưng mà, có mới ngoan.
19
Từ những điều trên cho chúng ta thấy, tiếng cười của Hồ Xuân Hương bao
giờ cũng bao hàm hai mặt: mặt phê phán đả kích và mặt ngợi ca khẳng định. Nó
không chỉ phê phán mà còn ngợi ca, khẳng định bênh vực con người. Tiếng cười
của Hồ Xuân Hương cũng vậy là tiếng cười có giá trị nhân đạo. Bên cạnh việc tố
cáo cả một bè lũ phong kiến thống trị trụy lạc, xa hoa thì tiếng cười của Hồ
Xuân Hương còn hướng tới bênh vực những người phụ nữ bất hạnh, chân trọng
ngợi ca những phẩm chất của họ và đặc biệt là bản lĩnh của chính bản thân mình.
2.2.3. Kế thừa và sáng tạo thơ Nôm thuần túy
Thơ Hồ Xuân Hương chính là sự vươn lên của văn nghệ bình dân. Tiếp
xúc với thơ của bà người đọc được tiếp xúc với tiếng nói thuần túy của dân tộc,
lời văn nôm na. Câu thơ thường chỉ một lời nói cửa miệng:
Mười bảy hay mười tám đây?
Khéo léo đi đâu lũ ngẩn ngơ!
Quán sứ sao mà cảnh vắng teo?
Không điển tích cao xa, không chữ sách thông thái. Những lời nói ấy
được bà đưa vào luật lệ thất ngôn rất tự nhiên :
Người quen cõi Phật chen chân xọc,
Kẻ lẹ bầu tiên mỏi mắt dòm.
Rúc rích thây ma con chuột nhắt,
Vo ve mặc mẹ cái ong bầu.
Những hình ảnh hết sức bình dân, quen thuộc với đời sống hàng ngày
cũng được bà đưa vào trong thơ như những thi liệu hết sức đắc lực phục vụ cho
ngòi bút trào phúng của mình. Nào là hình ảnh chiếc bánh trôi nước, cái quạt,
cây đu, con ốc, quả mít… nhằm đả phá mạnh mẽ bộ mặt đạo đức giả của xã hội
phong kiến. Với tài năng của mình bà đã làm cho hai thể thơ thất ngôn tứ tuyệt
và bát cú không còn bị gò bó mà thánh thoát, thoải mái. Không phải vì lối ngôn
ngữ đời thường mà mất đi giá trị của Hồ Xuân Hương, bà vẫn tạo được những
thành công đặc sắc dựng lên những bức tranh lạ thường và tràn đầy sức sống:
Bốn cọc khen ai khéo khéo trồng
Người thì lên đánh kẻ ngồi không
Trai đu gối hạc khom khom cật
Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng.
Hồ Xuân Hương còn sử dụng lối nói lái của dân gian trong các truyện tiếu
lâm, truyện cười và bà cũng không ngần ngại khi văng tục:
20
Quán sư sao mà cảnh vắng teo
Hỏi thăm sư cụ đáo nơi neo
( Chùa quán sứ)
Đầu sư há phải gì… bà cốt
Be ngọ con ong bé cái nhầm.
( Sư bị ong châm)
Ngôn ngữ sinh hoạt hàng ngày cũng như thành ngữ, tục ngữ, lối ca dao
cũng được bà vận dụng hết sức thành công.
Những kẻ không, mà có, mới ngoan,
Đầu sư há phải gì… bà cốt,
Đi thì cũng dở ở không xong,
Một tháng đôi lần có cũng không,
Hồ Xuân Hương tự tạo cho thơ mình một phong cách, một bản sắc riêng,
thể hiện rõ bản lĩnh sáng tạo của người nghệ sĩ. Bản lĩnh sáng tạo đó trước hết
bộc lộ ở sự khẳng địnhcon người cá nhân, nhấn mạnh vai trò chủ thể, nhấn mạnh
yếu tố cái “ tôi” trữ tình tác giả trên hai phương diện: biến dịch hiện thực đời
sống theo lối riêng và sự tự biểu hiện, khám phá về chính bản thân mình.
Trong ý thức tự biểu hiện mình, Hồ Xuân Hương hướng tới cụ thể hóa
cái “tôi” trữ tình bằng hình ảnh “con người này”, có thiên hường đặt mình ở
ngôi chỉ định thứ nhất, bộc lộ cảnh ngộ riêng và thái độ ứng xử của chính bản
thân mình.
Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi
Này của Xuân Hương đã quệt rồi
( Mời trầu)
Tài tử văn nhân ai đó tá?
Thân này đâu đã chịu già tom!
( Tự tình I)
Thân này ví biết dường này nhỉ,
Thà trước thôi đành ở vậy xong.
( Làm lẽ)
Có khi cái “tôi” tác giả hóa thân trong ngôi thứ nhất của nhân vật trữ tình,
thuộc về cảnh ngộ riêng tư cụ thể.
Cái nghĩa trăm năm chàng nhớ chửa?
Mảnh tình một khối thiếp xin mang.
21
( Không chồng mà chửa)
Trong trường hợp khác, nhà thơ nhập thân vào đối tượng, nhất thể hóa
mình với đối tượng, nương theo mỗi nội dung hiện thực mà “ tự biểu hiện” và
lựa chọn một giọng điệu thích hợp. Khi đó rõ ràng nữ sĩ đã chuyển từ miêu tả,
đề vịnh khách thể tới sự hòa đồng giữa chủ thể sáng tạo với “ cái được miêu tả”
xóa mờ khoảng gián cách giữa chủ thể với đối tượng vốn là đặc trưng của thể tài
đề vịnh truyền thống trước đó.
Thân em vừa trắng lại vừa tròn
( Bánh trôi nước)
Thân em như quả mít trên cây.
( Qủa mít)
Xuân Hương có tài khai thác vốn ngôn ngữ xúc tích, cô đọng của ca dao
tục ngữ làm cho nó có sức tác động mạnh. Kế thừa lối thơ truyền thống, Hồ
Xuân Hương quả đã sử dụng tiếng Nôm một cách quá tài tình và bài thơ đường
luật với một nghệ thuật hết sức độc đáo, ngoài ra Xuân Hương sáng tạo riêng
cho mình, và một trong những sáng tạo đó là biệt tài láy chữ của bà từ đó gợi ấn
tượng về sự vật, sự việc: trắng phau phau, trong leo lẻo, chín mom mõm, đỏ lòm
lom… khả năng biểu cảm của từ được nâng lên.
Chính việc vận dụng ngôn ngữ dân gian và nâng lên một tầm cao, Hồ
Xuân Hương đã khẳng định được tài năng vượt trội của mình vừa thể hiện thành
công ngòi bút trào phúng vừa thể hiện bản lĩnh thơ nôm của mình. Xuân Diệu
mệnh danh Hồ Xuân Hương là “ Bà chúa thơ nôm” quả là đúng đắn.
KẾT LUẬN
22
Thơ trào phúng của Hồ Xuân Hương là loại thơ trào phúng yêu đời, chủ
quan, tinh nghịch, mang cốt cách hài hước. Thơ Hồ Xuân Hương có tính chiến
đấu mạnh không phải chỉ có tiếng cười, lời chế giễu mà trên những cái ấy là
tiếng kêu than uất ức, thậm chí có cả nước mắt mà bà cố nuốt đi. Đối với Xuân
Hương thơ không chỉ là để giải trí, để thổ lộ tâm tình mà chủ yếu là một thứ vữ
khí để đả kích những cái xấu xa, lố bịch của xã hội phong kiến và để bênh vực
những con người bị áp bức, cùng khổ, vũ khí sắc bén đặc biệt của Xuân Hương
dùng để chiến đấu là châm biếm, khôi hài. Ngoài ra thơ bà còn mang lại giá trị
tư tưởng cao mà giá trị đó nằm ở tinh thần trào phúng, cảm hứng phê phán chứ
không phải sự việc, nhân vật cụ thể. Đây chính là điểm mấu chốt khiến cho thơ
bà mang tính khái quát cao, tồn tại bất chấp thời gian. Xuân Hương còn thành
công trên lĩnh vực nghệ thuật, bà đã kế thừa và phát huy được vốn văn nghệ dân
gian phong phú, những cái gì thành công, những cái gì tinh túy, là tuyệt diệu của
nghệ thuật thơ Xuân Hương đều có liên quan đến những tinh hoa của nền văn
nghệ dân gian mà thi sĩ đã rất thấm nhuần. Hồ Xuân Hương tiếp thụ văn học dân
gian mà không lặp lại dân gian, bà đã tiếp thụ cái hay, cái đẹp, cái đúng, còn cái
gì chưa đúng thì bà uốn nắn. Thơ Hồ Xuân Hương là một thể thống nhất giữa
nội dung và nghệ thuật, nhà thơ dù nói đến lòng xót thương người phụ nữ hay đả
kích giai cấp thống trị, dù bộc bạch nỗi niềm riêng tư hay ngâm ngợi cảnh đẹp
thiên nhiên rộng lớn dù làm thơ trào phúng hay thơ trữ tình đều chịu sự chi phối
của một tư tưởng thống nhất đó là chủ nghĩa nhân đạo của nhà thơ. Chính cuộc
đời Hồ Xuân Hương và thơ là một hiện tượng hết sức phức tạp, nhưng với
những tài liệu chúng ta đang có về bà thì con người và thơ Hồ Xuân Hương là
một niềm tự hào trong văn học Việt Nam – một nữ thi sĩ đầy bản lĩnh và tài hoa.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
23
1. Nhiều tác giả, Hồ Xuân Hương về tác gia tác phẩm, Nxb giáo dục,
2007.
2. Trần Nho Thìn, Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn học,
Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2008.
3. Phạm Du Yên, Văn Học Việt Nam Cổ Điển và Hiện Đại thơ Hồ Xuân
Hương, Nxb Thanh niên, 2007.
4. G.S Lê Trí Viễn, Nghĩ về thơ Hồ Xuân Hương, Sở giáo dục Nghĩa Bình,
1987.
5. Tạp chí văn học, 1991.
24