Tải bản đầy đủ (.pdf) (58 trang)

Đặc điểm chủ tình trong tác phẩm lan trì kiến văn lục của vũ trinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (778.81 KB, 58 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN

======

LÊ THỊ HỒNG NHUNG

ĐẶC ĐIỂM CHỦ TÌNH
TRONG TÁC PHẨM LAN TRÌ KIẾN VĂN LỤC
CỦA VŨ TRINH
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

HÀ NỘI - 2018


TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN

======

LÊ THỊ HỒNG NHUNG

ĐẶC ĐIỂM CHỦ TÌNH
TRONG TÁC PHẨM LAN TRÌ KIẾN VĂN LỤC
CỦA VŨ TRINH
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học

TS. NGUYỄN THỊ TÍNH



HÀ NỘI - 2018


LỜI CẢM ƠN
Đầu tiên, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến cô giáo TS.
Nguyễn Thị Tính - Khoa Ngữ văn – Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 đã
trực tiếp hướng dẫn tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành
khóa luận này.
Tôi xin cảm ơn Khoa Ngữ văn - Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 đã
tạo điều kiện và thời gian cho tôi trong suốt quá trình nghiên cứu.
Tôi cũng xin cảm ơn những người thân, bạn bè đã luôn bên tôi, động
viên tôi hoàn thành khóa luận này.
Vì điều kiện và kiến thức của bản thân còn hạn chế nên khóa luận
không tránh khỏi những thiếu sót, tôi rất mong nhận được sự đóng góp của
quý thầy cô và bạn bè để luận văn được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Xuân Hòa, ngày 01 tháng 04 năm 2018
Tác giả khóa luận

Lê Thị Hồng Nhung


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan mọi kết quả của đề tài “Đặc điểm chủ tình trong tác
phẩm Lan Trì kiến văn lục của Vũ Trinh” là công trình nghiên cứu của cá
nhân tôi và được sự hướng dẫn khoa học của TS. Nguyễn Thị Tính. Các nội
dung nghiên cứu, kết quả nghiên cứu trong đề tài này là trung thực và chưa
từng được công bố dưới bất kì hình thức nào trước đây.
Những nội dung phục vụ cho việc phân tích, nhận xét, đánh giá được

tác giả thu thập từ các nguồn khác nhau có ghi rõ trong danh mục tài liệu
tham khảo. Ngoài ra trong khóa luận còn sử dụng một số nhận xét, đánh giá
của các tác giả khác đều có trích dẫn và chú thích nguồn gốc.
Tôi xin chịu mọi trách nhiệm về công trình nghiên cứu của mình!
Xuân Hòa, ngày 01 tháng 04 năm 2018
Tác giả khóa luận

Lê Thị Hồng Nhung


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ................................................................................ 1
2. Mục đích nghiên cứu ..................................................................................... 2
3. Lịch sử vấn đề nghiên cứu ............................................................................ 3
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu................................................................. 5
4.1. Đối tượng nghiên cứu................................................................................. 5
4.2. Phạm vi nghiên cứu .................................................................................... 5
5. Phương pháp nghiên cứu............................................................................... 5
6. Đóng góp của khóa luận................................................................................ 5
7. Cấu trúc nội dung của khóa luận ................................................................... 6
NỘI DUNG ....................................................................................................... 7
Chƣơng 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TÁC GIẢ VŨ TRINH VÀ
TRÀO LƢU CHỦ TÌNH ................................................................................ 7
1.1. Tác giả Vũ Trinh ........................................................................................ 7
1.1.1. Cuộc đời .................................................................................................. 7
1.1.2. Sự nghiệp................................................................................................. 9
1.2. Tác phẩm Lan Trì kiến văn lục .................................................................. 9
1.3. Trào lưu chủ tình của văn học Việt Nam thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX ... 12
1.3.1. Khái niệm .............................................................................................. 12

1.3.2. Biểu hiện ............................................................................................... 14
Chƣơng 2: CHỦ TÌNH TRONG TÁC PHẨM LAN TRÌ KIẾN VĂN
LỤC ................................................................................................................. 19
2.1. Chủ tình qua quan niệm nghệ thuật về con người, cuộc sống ................. 19
2.1.1. Sự trân trọng ngợi ca tình nghĩa ............................................................ 19
2.1.1.1. Tình nghĩa của con người................................................................... 19
2.1.1.2. Tình nghĩa của loài vật ....................................................................... 24


2.1.2. Sự lên án thói phụ tình, bạc nghĩa ......................................................... 30
2.2. Chủ tình qua bút pháp nghệ thuật ............................................................ 35
2.2.1. Sự kết hợp giữa bút pháp kì ảo với bút pháp hiện thực ........................ 35
2.2.2. Sự gia tăng tính chất ngụ ngôn.............................................................. 44
KẾT LUẬN .................................................................................................... 49
TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
1.1. Xét trong toàn bộ tiến trình văn học dân tộc, văn học trung đại Việt
Nam có một vị trí đặc biệt quan trọng, bởi nó mang tính chất mở đầu cho nền
văn học viết Việt Nam, đồng thời đóng vai trò to lớn trong việc kết tinh, hình
thành những truyền thống quý báu của nền văn học dân tộc. Chính từ văn học
trung đại, những truyền thống lớn trong văn học dân tộc đã hình thành, phát
triển và ảnh hưởng rất rõ đến sự vận động của văn học hiện đại. Những nền
móng vững chắc được xây dựng, gìn giữ trong ngót mười thế kỉ văn học trung
đại là một tài sản hết sức quý báu đối với các thời kì phát triển tiếp sau của
văn học dân tộc. Vì lẽ đó, việc nghiên cứu các tác phẩm văn học trung đại là
vô cùng cần thiết.
1.2. Trong tiến trình phát triển của văn học Việt Nam, văn học trung đại

đã có những đóng góp không nhỏ. Giai đoạn văn học này đã để lại một di sản
vô cùng quý báu, đồ sộ về khối lượng, phong phú, đa dạng về nội dung, đạt
tới nhiều đỉnh cao về nghệ thuật. Nền văn học trung đại Việt Nam được cấu
thành bởi hai bộ phận chủ yếu là văn học chữ Hán và văn học chữ Nôm.
Trong quá trình phát triển hai bộ phận văn học này không đối lập nhau mà bổ
sung, hoàn thiện lẫn nhau. Chúng đều phát triển dựa trên cơ sở văn tự của
người Hán và đều tích cực phản ánh những khía cạnh khác nhau trong đời
sống xã hội, tâm tư, tình cảm của con người thời trung đại. Tuy nhiên bộ phận
văn học chữ Nôm ra đời muộn hơn. Nếu như thành tựu của văn học chữ Nôm
chủ yếu là thơ thì văn học chữ Hán có thành tựu ở cả hai mảng là thơ và văn
xuôi. Một trong những tác phẩm văn học chữ Hán tiêu biểu đó là Lan Trì kiến
văn lục hay còn gọi là Kiến văn lục của tác giả Vũ Trinh. “Cũng như Vũ trung
tùy bút của Phạm Đình Hổ, Tang thương ngẫu lục của Phạm Đình Hổ và
Nguyễn Án, Lan Trì kiến văn lục tiếp nối dòng truyện truyền kỳ, bắt đầu từ

1


thế kỉ XVI với Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ…” Theo PGS.TS. Nguyễn
Đăng Na trong Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại – tập 1, “đây là tác
phẩm cuối cùng của loại hình truyền kỳ Việt Nam thời trung đại”. Tác phẩm
xứng đáng góp mặt trong tủ sách “Cảo thơm trước đèn” – “nơi hội tụ những
sáng tác, biên khảo xuất sắc của các trí thức, quan lại, nhà văn không chuyên
Việt Nam thời phong kiến.”
1.3. Xưa nay, việc nghiên cứu về tác phẩm Lan Trì kiến văn lục mới chỉ
dừng lại ở mức độ gợi mở, khái quát và mang tính chất lẻ tẻ, chưa tạo thành
hệ thống hoàn thiện. Điều đó hối thúc chúng tôi tiếp tục nghiên cứu về tác
phẩm sâu hơn, hoàn thiện hơn.
1.4. Bản thân là một sinh viên ngành sư phạm, khoa Ngữ văn, việc
nghiên cứu văn học Việt Nam, văn học Trung đại nói chung và tác phẩm Lan

Trì kiến văn lục nói riêng sẽ giúp ích cho tôi trong công việc giảng dạy và
nghiên cứu sau này.
Những lí do trên đã tạo tiền đề để chúng tôi lựa chọn đề tài “Đặc điểm
chủ tình trong tác phẩm Lan Trì kiến văn lục của Vũ Trinh” làm vấn đề
nghiên cứu cho khóa luận của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
- Khóa luận khẳng định giá trị của tác phẩm Lan Trì kiến văn lục và tác
giả Vũ Trinh trong dòng chảy của văn học trung đại Việt Nam.
- Khóa luận tìm hiểu trào lưu chủ tình của văn học Việt Nam thế kỉ
XVIII – đầu TK XIX.
- Khóa luận làm rõ một đặc điểm mới của tác phẩm chưa được nghiên
cứu trước đây đó là đặc điểm chủ tình thông qua quan niệm về con người,
cuộc sống và bút pháp nghệ thuật.
- Bản thân tác giả muốn trau dồi kiến thức phục vụ cho việc giảng dạy
và nghiên cứu sau này.

2


3. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Lan Trì kiến văn lục đã được chú ý ngay từ khi tác phẩm mới ra đời.
Ngô Thì Hoàng trong Kiến văn lục – Tựa 1 khẳng định không thể coi tác
phẩm là “loại dã sử của các vị quan xoàng” bởi “mục đích viết sách của ông
đâu chỉ có ghi lại những việc tai nghe mắt thấy… đại để là ngụ ý khuyên răn
và cảnh cáo sâu xa, để người xem sau này thấy điều hay thì bắt chước, thấy
điều dở thì phòng ngừa, thực có ích rất nhiều cho thế giáo…”. Tín Như Thị
trong Kiến văn lục – Tựa 2 nhận định: “Tôi đọc sách này có được thu hoạch
sâu sắc. Truyện Ca nữ họ Nguyễn, truyện Liên Hồ quận công thương giai
nhân chẳng gặp thời, cũng là ngụ lời than tài tử số phận lạ lùng. Truyện
Người đàn bà trinh tiết ở Thạch Hán, truyện Người con gái trinh liệt ở Cổ

Châu, biểu dương tiết lớn của bậc quần thoa, cũng có thể gửi gắm nỗi đau bất
hạnh của kẻ trung thần. Cá, hổ có nghĩa hiệp; gà, chó ấy thân người… Ôi,
không đến Trường Giang, Hán Thủy, thì không biết là sông sâu, không lên
núi Thái, non Hoa thì không thấy được núi cao. Không thấy tác phẩm này, thì
sao biết được trong trời đất không gì là không có.” Trần Danh Lưu trong Kiến
văn lục – Tựa 3 nhận xét về giá trị của tác phẩm đó là “…có thể làm cho
người điếc cùng nghe nhạc tiên réo rắt, người mù thấy rạng rỡ mây lành.
Chưa nói hiểu hoàn toàn ý nghĩa của tác phẩm, chỉ cần biết nhặt nhạnh chút
cặn dư thừa thôi, thì lúc nào cũng có thể biến những điều biết được, gặp được
thành thanh, thành sắc. Thực có thể thành kim vàng thêu uyên ương, thành
móng tay điểm sắt thành vàng.” Nguyễn Tử Kính trong Kiến văn lục – Tựa 4
khẳng định lại một lần nữa: “Nghe những điều nghe được rồi suy đến những
gì không nghe; Thấy những điều thấy được rồi suy đến những gì không thấy.
Thị, phi, thường, quái, chỉ một lẽ trên là xuyên suốt.”
Cho đến nay nhiều nhà nghiên cứu đã tìm hiểu về tác phẩm. Tác phẩm
đã được giới thiệu trong Từ điển văn học, được đánh giá cao trong giáo trình

3


và không ít bài báo, tạp chí. Nhắc đến nét nổi bật của tác phẩm, trong Từ điển
văn học (bộ mới), GS. Nguyễn Huệ Chi viết:
“Bên cạnh những con người hoang dâm, lạm dụng uy quyền (Hầu Đười ươi), những kẻ giết con (Hiệp hổ - Hổ nghĩa hiệp), giết vợ (Tái sinh Sống lại)...; là những con người có những phẩm chất cao quý, nhất là ở giới
phụ nữ. Một ca kỹ có nhân cách với một tình yêu đầy chủ động (Nguyễn ca
kỹ - Ca kỹ họ Nguyễn), một người con gái (con của phú ông) mang mối tình
thủy chung nhưng oan trái đến bạc mệnh (Thanh Trì tình trái - Nợ tình ở
Thanh Trì), một người đàn bà dệt vải có chồng vẫn khao khát yêu đương (Tái
sinh - Sống lại), một thiếu nữ nghèo mắc bệnh nan y vẫn sống hết mình cho
tình yêu (Báo Ân tháp - Tháp Báo Ân), v.v...Về những con người này, ngòi
bút của tác giả luôn tỏ ra trân trọng, và yêu mến lạ thường... Nhìn chung, tác

giả khá nhạy bén với cái mới. Tình yêu trong truyện của ông thường say đắm,
và đôi khi đi tới mức nhục cảm (Báo Ân tháp)”. [2, tr.2034]
PGS.TS Nguyễn Đăng Na đã đánh giá về tác phẩm trong Đặc điểm văn
học Việt Nam trung đại – Những vấn đề văn xuôi tự sự: “Kiến văn lục của Vũ
Trinh là đại biểu cuối cùng của văn xuôi tự sự thuộc xu hướng thế tục”.
Từ trước đến nay việc nghiên cứu về Lan Trì kiến văn lục đã hình thành
và thu được những kết quả nhất định. Cùng với các nhà nghiên cứu lớn, nhiều
sinh viên, nghiên cứu sinh cao học cũng đã quan tâm đến Lan Trì kiến văn
lục. Có thể kể đến các khóa luận, luận văn sau:
- Khóa luận tốt nghiệp đại học “Tìm hiểu giá trị nội dung, nghệ thuật
Lan Trì kiến văn lục của Vũ Trinh” - Nguyễn Thị Trang (Mã số:
KL06190 – Thư viện Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2).
- Luận văn thạc sĩ “Nhân vật của Lan Trì kiến văn lục” – Nguyễn Thị
Hoàng Thu (Mã số: 60.22.34 – Thư viện Trường Đại học Vinh).
- Luận văn thạc sĩ “Loại hình các nhân vật trong truyện truyền kì Việt

4


Nam qua ba tác phẩm tiêu biểu: Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn
lục, Lan Trì kiến văn lục” – Trương Thị Hoa (Mã số: VHVN – 08 –
010 – Thư viện Trường Đại học Sư phạm TPHCM).
Các kết quả nghiên cứu trên đã mang tính chất gợi mở những vấn đề về
nội dung và nghệ thuật của tác phẩm. Bên cạnh đó, trào lưu chủ tình gợi ra
một hướng nghiên cứu mới trong tiến trình văn học trung đại, đặc biệt là thế
kỉ XVIII – đầu thế kỉ XIX. Vì vậy, khóa luận của chúng báo trước về thiên tai như
Dốc đầu sấm, Phạm Viên; dự báo về thi cử, con đường làm quan như Bà
đồng, Điềm báo trước, Thầy tướng, Tháp báo ân, Mộng lạ, Thượng thư họ
Đỗ. Vũ Trinh “thông qua chuyện nói về ma nhưng kỳ thực đó là ám chỉ tính
cách của con người, nó như một phương tiện để đối sánh với bản chất xấu xa

trong mỗi con người. Ma làm sao có được những hành động và lời nói như
trong truyện.” Ông viết về những yếu tố kì quái, hoang đường, thậm chí quái
đản “không chỉ mở ra cánh cửa dẫn đến thế giới tâm linh của người Việt mà

41


còn tạo nên một vùng không gian hư ảo để con người tự do bộc lộ những
khát khao, mộng tưởng mà lúc tỉnh thức họ không cách nào thực hiện được.”
Ông viết về một thế giới khác dường như đang tồn tại song song với thế giới
của con người như một mơ ước về một xã hội mà ở đó con người có thể thoát
ra khỏi những ràng buộc, những ngăn cách, nơi mà cái ác sẽ bị trừng trị theo
một cách nào đó. Giữa không khí dường như thực mà lại dường như mộng,
thật khó tách bạch giữa đâu là hiện thực, đâu là ảo đã mang lại sức hấp dẫn
riêng cho người đọc.
Về mặt tư tưởng, triết học, bút pháp kì ảo trong Lan Trì kiến văn lục
gắn bó chặt chẽ với “các triết thuyết Phật giáo và đạo Lão Trang” – “hai học
thuyết đối trọng với Nho giáo nhưng lại khá dung hoà với tín ngưỡng gốc dân
gian để góp phần tạo ra bản sắc dân tộc Việt Nam”. Nếu như văn hoá Nho
giáo không khuyến khích “hư cấu, tưởng tượng”, chủ trương không nói
chuyện “quái, lực, loạn, thần”, “kính quỷ thần nhi viễn chi” thì chính học
thuyết đề cao vai trò của Tâm “vạn pháp duy tâm tạo (toàn bộ thế giới là hình
ảnh do tâm tạo ra)” đã đề cao vai trò của trí tưởng tượng bay bổng của nhà
văn, giúp người viết vượt lên trên tình trạng sao chép đơn giản hiện thực để
hư cấu, tưởng tượng. “Cũng chính học thuyết về kiếp, về cuộc sống sau cái
chết và vấn đề lai sinh hay tái sinh của Phật giáo đã mở ra một nguồn mạch tư
duy hết sức phong phú.” Ta bắt gặp điều này trong các câu chuyện Đẻ lạ,
Sống lại, Nhớ ba kiếp, Nhớ kiếp trước. “Đó là những khổ nạn phù sinh, là sự
mong manh, hư ảo của kiếp người, là khát vọng về một thế giới cực lạc, hằng
tồn khác hẳn cõi trần tạm bợ.” [15]

Bên cạnh đó nó biểu hiện ý thức “trước thư lập ngôn” của tác giả.
“Bằng cách khai thác tối đa thế mạnh từ đặc trưng của yếu tố kì ảo, những câu
chuyện của Vũ Trinh xứng đáng được gọi là những “kì văn”. Với đặc trưng
“nhận thức và phản ánh cuộc sống bằng những yếu tố thần kì, linh dị, kì ảo dễ

42


dàng giúp tầng lớp nho sĩ - vốn chịu không ít kìm toả bức bối của tam cương,
ngũ thường - tìm được con đường để giải thoát những ẩn ức dồn nén đồng thời
thông qua đó bộc lộ những suy tư, chiêm nghiệm về cuộc đời.” Đằng sau
những câu chuyện có phần hoang đường, kì quái, mục tiêu của ông không phải
chỉ là để mua vui, giải trí đơn thuần, mà như sự hé lộ của tác giả Lĩnh Nam
chích quái: “Chỉ cốt khuyên điều thiện, răn điều ác, bỏ giả theo thật để khuyến
khích phong tục mà thôi”. Suy cho cùng, động cơ sáng tác truyện kì ảo của Vũ
Trinh cũng như Nguyễn Dữ, Phạm Đình Hổ, Tùng Niên, Phạm Đình Dục,
Đoàn Thị Điểm... cũng không ra ngoài phạm vi “tải đạo ngôn chí” của văn
chương chính thống. Chỉ có điều, họ “tải đạo” bằng con đường khác - tiểu đạo,
và đã thoáng nói đến những cái “chí” khác - những ước muốn bị coi là cấm kị,
cả sự bất đắc chí... mà dù có cố gắng chính thống hóa nó đến mấy chăng nữa
cũng vẫn nổi lên như một giấc mộng đẹp, một nỗi khắc khoải chân thành.”
[15]
Lan Trì kiến văn lục “dù vẫn còn mang bóng dáng của văn học dân
gian, nhưng đây là những sáng tác đậm dấu ấn cá nhân của” Vũ Trinh, “gắn
liền với sự bừng ngộ, sự ý thức của con người đối với thực tế giờ không còn
tính chất nguyên sơ, thuần khiết buổi đầu. Sử dụng bút pháp kì ảo với tư cách
của một cái nhìn thế giới, ông đã chọn cho mình một phạm vi, một chỗ đứng
khác so với thường nhật và đăm chiêu nhìn vào cõi bên kia. Đó là một xứ lạ
với mộ địa, đêm tối... đầy vẻ ma quái, những đồ vật, loài vật được nhân hoá,
thần kì hoá - một thế giới mà chưa bao giờ và không bao giờ con người có thể

thực sự đặt chân đến. Chính điều này không cho phép người ta đặt trọn niềm
tin vào cái huyễn ảo, trái lại cố gắng giải thiêng, giải ảo nó theo phong cách,
mĩ cảm của mình.” [15]. Nghĩa là “cái phần huyền bí, nguyên thuỷ trong nó
đã bị lí trí tác giả và người xem tước bỏ, để chỉ còn lại sức mạnh của một cảm
hứng nghệ thuật”. Suy cho cùng, như GS. Nguyễn Huệ Chi trong Từ điển Văn

43


học: “Sự tham gia của yếu tố thần kì vào câu chuyện cũng không phải là do
lực lượng tự nhiên được nhân hóa như kiểu thần thoại hoặc những nhân vật có
phép lạ như trời, bụt, thần, tiên... như trong truyện cổ tích thần kì mà phần lớn
ngay ở hình thức phi nhân tính của nhân vật: ma quỷ, hồ li, vật hóa người...
Tuy nhiên, trong truyện bao giờ cũng có những nhân vật là người thật và
chính những nhân vật mang hình thức phi nhân cũng chỉ là sự cách điệu,
phóng đại của tâm lí, tính cách của một loại người nào đấy”.
Lan Trì kiến văn lục “đã mượn yếu tố hoang đường kì ảo, mượn chuyện
xưa để phản ánh hiện thực xã hội đương thời”. Người đọc nếu biết bóc tách
cái vỏ kì ảo hoang đường ra thì sẽ thấy cái cốt lõi hiện thực; và nếu biết phủi
lớp bụi thời gian, chúng ta sẽ thấy rõ nét bộ mặt xã hội lúc bấy giờ. Do đó, xét
đến cùng, đây không chỉ là truyện của thế giới ma quái mà còn là truyện của
cuộc sống con người; không chỉ là truyện xảy ra trong thế giới hư ảo mà là
truyện xảy ra ngay trong xã hội nước ta. Bút pháp kì ảo và bút pháp hiện thực
đan xen với nhau trong tác phẩm đã giúp tác giả thể hiện rõ điều đó.
2.2.2. Sự gia tăng tính chất ngụ ngôn
“Ngụ ngôn là một thể loại của văn học giáo huấn, mang nội dung đạo
đức, có hình thức thơ hoặc văn xuôi tương đối ngắn, sử dụng phúng dụ như
một nguyên tắc tổ chức tác phẩm”. “Hầu hết các tác phẩm ngụ ngôn được
chia làm hai phần: phần thứ nhất truyền đạt một hiện tượng hay một nhân vật,
sự kiện buồn cười; phần thứ hai là bài học đạo đức. Tuy vậy, không nhất thiết

mọi tác phẩm đều có cấu trúc tương tự. Nhiều tác phẩm phần hai bị lược đi,
bài học tự nó thoát ra từ cốt truyện. Các bài học đó thường được đúc kết thành
thành ngữ, ngạn ngữ, cách ngôn, chẳng hạn như thầy bói xem voi, đẽo cày
giữa đường, ếch ngồi đáy giếng, cáo mượn oai hùm, vẽ rắn thêm chân... hay
một điển cố văn học. Bài học đạo đức trong tác phẩm toát ra từ việc chế giễu
các tính cách và đặc điểm tiêu cực nào đó của con người, và phần lớn các thói

44


xấu, nhược điểm của con người được thể hiện trong các hình tượng loài vật
như chim, cá, thú, gia súc… Phúng dụ của ngụ ngôn thường dựa trên các đặc
điểm tiêu biểu, thông dụng của các loài vật.”
Truyện truyền kì mang tính chất ngụ ngôn cũng thường ngắn gọn như
truyện ngụ ngôn trong dân gian. Tuy nhiên, lời kể và lời thoại trong các
truyện này trau chuốt, hoa mĩ, giàu tính triết lí, nhất là triết lí Nho giáo, chèn
những câu văn đối ngẫu, những điển cố… - những đặc điểm của văn chương
bác học trung đại. Chẳng hạn như truyện Gấu hổ chọi nhau trong Lan Trì kiến
văn lục sự gia tăng tính chất ngụ ngôn được thể hiện rõ nét. Về nhân vật, nhân
vật chính của truyện là hai con vật gấu và hổ. Gấu và hổ đều sống ở rừng
thiêng núi sâu, là loài vật to lớn, hung dữ và nguy hiểm. Nó đại diện cho sức
mạnh và sự thống trị. Trong truyện gấu và hổ ngồi đối diện nhau, quay về
phía đống lửa, xem chừng không nhìn thấy nhau. Về xung đột, hổ và gấu chọi
nhau không phải do giữa chúng có mối thù địch gì đó với nhau, hay tranh
chấp lãnh thổ, quyền lực mà do bàn tay của con người. Anh Nguyễn trong
một lần vào rừng sâu đẽo gỗ làm thuyền độc mộc, trời rét, anh ta chất cỏ rồi
nằm lên, lấy thuyền chụp lên người, bên cạnh thì gom củi khô, đốt lên sưởi
ấm. Nửa đêm, ngửi thấy mùi tanh nồng nặc, từ khe hở nhìn ra thấy một con
hổ ngồi bên cạnh đống lửa đang nhắm mắt ngủ. Lát sau có một con gấu tới,
ngồi đối diện với hổ, quay về đống lửa, xem chừng không nhìn thấy hổ. Anh

ta cời một cục than to, dí vào lưng hổ. Hổ bị bỏng giật mình tỉnh dậy, mở mắt
nhìn thấy gấu ngỡ là gấu dí than vào mình, nó gầm lên, xô tới cứn cổ gấu.
Gấu cũng dùng vuốt cào bụng hổ. Hai con thú đều liều sức, nhảy cắn lung
tung. Lúc lâu sau gấu bị đút cổ, hổ bị lòi ruột, chết ở sườn núi. Xung đột của
hai con vật đơn thuần là hành động chứ không có lý lẽ, xoay quanh vấn đề là
cái đúng - cái sai, cái chân lý - cái ngụy biện… Từ đó, phản ánh được những
xung đột trong xã hội giữa người bị áp bức – kẻ áp bức, kẻ thống trị - người bị

45


trị, giữa những kẻ thống trị…
Về kết cấu, “truyện gồm phần xác (câu chuyện) và phần hồn (điều răn
dạy). Có đôi khi điều răn dạy được diễn tả thành lời, tức là dựa theo quan
niệm của La Phôngten thì phần hồn được hiện ra bên ngoài xác”. Phần quan
trạng là phần ý nghĩa, phần hồn của câu chuyện. Đó là nội dung ẩn ý, nói
bóng đằng sau cốt truyện, là giá trị cơ bản của truyện. “Tác giả Đông Tây ngụ
ngôn nêu nhận xét bao quát về những kiểu kết cấu này”: “Các nhời quy trâm,
khi thì ăn luôn theo vào bài, chỉ như gợi cái đại ý ra; khi thì đứng lìa rời hẳn
ra ngoài như để thúc kết lại; lúc thì dàn ngay trên đầu bài như nhời giáo đầu;
lúc thì dồn ở dưới cuối như cái khung đóng bài vậy. Có nhiều nhời trâm quy
có thể lấy ra mà dùng như những câu tục ngữ, ca dao được…”. Với truyện
Gấu hổ chọi nhau phần hồn không được nhắc đến mà nó ẩn sau phần xác, để
người đọc tự tìm ra. Tuy kết cấu giản dị, thường chỉ là một tình tiết, một tình
huống, một hoàn cảnh nhưng chính điều đó làm nên giá trị của truyện ngụ
ngôn khi để độc giả tự mình suy tư, chiêm nghiệm, đúc kết lên các bài học
trong cuộc sống.
Về mục đích, truyện đưa ra bài học triết lý về xã hội, con người. Đó có
thể là bài học xử thế hơn là khẳng định hay phê phán hiện thực. Về đặc điểm
tính chất, truyện ngụ ngôn vừa có tính dân gian, vừa có tính bác học (dùng lời

văn, nghệ thuật miêu tả,… rất đặc sắc). Về đặc điểm hư - thực của truyện,
truyện “có sự đan xen thực tế và hư cấu”. Tuy nhiên các tình tiết hư cấu trong
truyện “là hư cấu chịu sự chi phối của tư duy suy lí. Tức là câu truyện được
kể có sự chọn lọc trong việc chọn lựa nhân vật, hoàn cảnh sao cho phù hợp
với ý tưởng có sẵn. Truyện không sáng tạo ra cả thế giới nghệ thuật mà chỉ
đặt ra câu chuyện để minh họa cho ý tưởng của mình. Dù trong truyện có xuất
hiện con người làm ta liên tưởng đến một sự kiện thực tế, hiện tượng thực tế
thì đó cũng không phải là một hiện tượng thực tế cụ thể mà chỉ là một mặt nào

46


đó trong thực tế. Nói như vậy không có nghĩa là truyện ngụ ngôn hoàn toàn
không dựa trên tính xác thực. Xét trên góc độ nào đó ta vẫn có thể ít nhiều
hiểu biết về những đặc tính của các con vật và về tâm lí, tính cách con người.
Tác giả ngụ ngôn chỉ dựa vào một mặt nào đó của sự việc trong thực tế để từ
đó xây dựng nên câu chuyện cho phù hợp với ý tưởng muốn gởi gắm.” [18].
Thông qua truyện Gấu hổ chọi nhau Vũ Trinh muốn vạch trần một khía
cạnh xấu của một bộ phận con người đó là vô lương tâm, thậm chí là độc ác,
nhẫn tâm trước số phận của loài vật. Như Nguyễn trong câu chuyện là nguyên
nhân gây nên cái chết của hai con vật lại không hề có sự ăn năn hối lỗi nào
mà “vừa buồn cười, vừa sợ, giữ chặt mép thuyền”. Trong khi đó hai con vật
dù to lớn, hung dữ, nguy hiểm nhưng lại không có bất cứ một hành động nào
đe dọa tới con người. Con người phải chăng tự cho mình quyền sinh quyền sát
đối với muôn thú. Hơn hết không chỉ dừng lại ở loài vật mà đó là sự vô cảm
trước cuộc sống của con người. Con người vốn phải sống với nhau bằng tình
yêu thương thì lại sống bằng trái tim sắt đá, “không biết xúc động, sống ích
kỷ, lạnh lùng, sự an toàn của bản thân mình là trên hết. Họ thờ ơ, làm ngơ
trước những điều xấu xa, hoặc nỗi bất hạnh, không may của những người
sống xung quanh mình, sẵn sàng quay lưng lại với những nỗi đau khổ, bất

hạnh của đồng loại, sẵn sàng làm ngơ trước cái xấu, cái ác, nên làm cho cái
xấu, cái ác có mảnh đất mầu mỡ để sinh sôi nẩy nở như cỏ mọc hoang và
đang đầu độc, chế ngự cuộc sống tốt đẹp của con người.” Mỗi người chỉ biết
sống cuộc đời của bản thân mình mà không màng đến số phận của đồng loại.
Thông qua hình tượng hai con vật ông phê phán những sai lầm, những thói hư
tật xấu của con người như nhìn nhận sự việc hiện tượng một cách phiến diện,
không tìm hiểu ngọn nguồn nguyên nhân và không có cách giải quyết thích
hợp, chứng kiến bao chuyện ngang trái bất bình mà không dám lên tiếng bảo
vệ cho lẽ phải. Nếu không nhìn nhận sự việc một cách đa chiều thì tất sẽ gặp

47


thất bại trong cuộc sống. Vũ Trinh một lần nữa nhấn mạnh vai trò của tình
thương trong cuộc sống. “Không có tình thương, con người chỉ là một con vật
bị sai khiến bởi lòng ích kỷ” (Đời thừa – Nam Cao).
Bên cạnh đó sự gia tăng tính chất ngụ ngôn còn được thể hiện qua
chuỗi câu chuyện về tình nghĩa của chúa sơn lâm như Con hổ hào hiệp, Con
hổ nghĩa hiệp, Con hổ nhân nghĩa. Vũ Trinh không nhằm kể chuyện về loài
vật mà chỉ “mượn chuyện về loài vật để nói về con người và xã hội loài
người”. Các con hổ trong truyện không bao giờ được miêu tả kĩ về đặc điểm
mà nhiều về hành động. Gia tăng tính chất ngụ ngôn cho câu chuyện, Vũ
Trinh muốn gửi gắm bài học về lẽ sống đến mọi người: “Để xứng đáng với
danh nghĩa con người đầy kiêu hãnh, mỗi chúng ta hãy ra sức tu dưỡng lòng
yêu thương, vị tha, sự trung thực và lòng dũng cảm, phải biết yêu thương sẻ
chia, đồng cảm với những người xung quanh.”
Bút pháp kì ảo và bút pháp hiện thực đan xen cùng với sự gia tăng tính
chất ngụ ngôn trong các câu chuyện của Vũ Trinh đã lay động tình cảm con
người, tác động vào chúng để người đọc dễ dàng nhận ra những điều lầm lạc
hoặc làm theo tiếng gọi của những điều tốt đẹp mà tác giả gợi ra. Tác phẩm

“không chỉ dừng lại ở góc độ một giai đoạn lịch sử mà nó mang yếu tố thời
đại”. Bất kì một xã hội nào mà con người sống với nhau có tình có nghĩa thì
xã hội đó sẽ trở nên tốt đẹp và tràn ngập hạnh phúc. Từ xưa đến nay dân tộc ta
luôn có truyền thống sống ân nghĩa vẹn tròn. Qua tác phẩm chúng ta càng
thấm thía thêm rằng ân nghĩa là sợi dây gắn kết con người xích lại gần với
nhau, giúp họ vượt qua rào cản của tiền tài, công danh, giúp họ quên đi những
điều xấu xa còn đang tồn tại.

48


KẾT LUẬN
Trào lưu chủ tình trong văn học Việt Nam thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX
là một đề tài lớn, những vấn đề mà chúng tôi đặt ra và chứng minh được mới
chỉ là bước đầu. Nhiều công việc tiếp theo liên quan vẫn đang để ngỏ. Ví dụ
phân tích kỹ hơn trào lưu chủ tình qua các tác giả tiêu biểu trong giai đoạn
văn học này như Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du, Cao Bá Quát, Nguyễn Công
Trứ, Nguyễn Gia Thiều, Đặng Trần Côn… hoặc so sánh trào lưu chủ tình với
những trào lưu khác cùng giai đoạn. Tuy nhiên, chủ tình trong Lan Trì kiến
văn lục là một cống hiến đặc sắc của Vũ Trinh cho nền văn học nước nhà. Tác
phẩm viết về nhiều chủ đề khác nhau: chuyện tình yêu nam nữ, tình phu thê,
tình mẫu tử, đền ơn trả nghĩa, báo ứng luân hồi, kì quái khó tin… “Ghi lại
những điều mắt thấy tai nghe trong khoảng trời đất vô cùng này, tưởng chừng
đó chỉ là những câu chuyện kì quái, hoang đường, vụn vặt nhưng ẩn chứa
đằng sau là lại là một tấm lòng bao la độ lượng và một nhân sinh quan sâu
sắc, mới mẻ. Sáng tác của ông nói đến nhiều việc, nhiều chuyện, lúc ảo lúc
thật nhưng hầu hết đều ngụ ý như một nỗi niềm tâm sự, khao khát một cuộc
sống yên bình.” Những câu chuyện trong tác phẩm dù viết về tình nghĩa của
con người hay tình nghĩa của loài vật, lên án thói phụ tình bạc nghĩa suy cho
cùng cũng là để đề cao chữ tình trong cuộc sống, tức là “thiên về xúc cảm

thay vì lý trí tỉnh táo của nhà Nho truyền thống”. Vũ Trinh là người “khá bảo
thủ trong quan điểm chính trị” nhưng trong sáng tác văn chương “ông lại là
cây bút nhạy bén”. Chính tư tưởng tình cảm mạnh mẽ là tố chất lớn giúp ông
làm nên thành công cho tác phẩm của mình. “Bút pháp của Vũ Trinh tinh
giản, truyện ông viết thường vắn tắt và không phải truyện nào đọc cũng thích
nhưng ở mỗi chuyện thành công, mỗi chi tiết được kể vắn tắt đều đóng một vị
trí quan trọng không thể thay thế được. Phải chăng đó chính là bí quyết của
một cây bút truyện ngắn tài năng.”

49


Lan Trì kiến văn lục đã góp phần chứng minh rõ ràng và thấu đáo cho
đặc điểm chủ tình của văn học Việt Nam thông qua quan niệm nghệ thuật về
con người, cuộc sống và sự kết hợp tài tình giữa bút pháp kì ảo với bút pháp
hiện thực cùng sự gia tăng tính chất ngụ ngôn trong các câu chuyện. Trong
Lan Trì kiến văn lục người đọc khó tìm thấy hình ảnh vua quan, có chăng
cũng chỉ rải rác ở vài ba truyện. Vũ Trinh hướng ngòi bút về với những con
người thân thuộc, những tình cảm gần gũi. Chúng ta cũng không thấy tác giả
xuất hiện một cách trực tiếp nhưng người đọc vẫn nhận ra nhà văn ẩn sau mỗi
nhân vật trong truyện như để an ủi, nâng đỡ, chia sẻ với nỗi đau của họ.
Truyện của Vũ Trinh vừa mang màu sắc giáo huấn vừa đậm tính chất nhân
văn. Đa phần nó không dừng lại ở việc tự sự đơn thuần mà còn chứa đựng
cách nhìn, tư tưởng, tình cảm của nhà văn nên đậm màu sắc trữ tình. Một
trong những điểm đặc sắc của tác phẩm là đã xây dựng thành công hình tượng
con vật. Những bài học luân lý, bài học làm người được thể hiện dưới hình
thức mang tính ngụ ngôn cao. Ông không trực tiếp đưa ra lời khuyên răn, giáo
huấn mà thông qua các con vật nhẹ nhàng giúp người đọc hiểu được tình
người, đạo lý ở đời. Mục đích của tác phẩm không tách rời đích đến của trào
lưu chủ tình đó là giúp cho con người hiểu được những chân lý của cuộc

sống, để sống sao cho đúng đắn, hài hòa. Tác phẩm bề ngoài chỉ là kể những
câu chuyện kì lạ song đằng sau nó thấm đẫm một tình yêu thương của nhà văn
dành cho con người. Lan Trì kiến văn lục đã góp vào văn học trung đại những
con người với khát vọng sống cao đẹp. Trải qua thời gian, “Lan Trì kiến văn
lục vẫn còn nguyên giá trị của nó”. Chính những đặc điểm nổi bật của trào lưu
chủ tình cùng tư tưởng nhân đạo sâu sắc, Vũ Trinh đã giúp Lan Trì kiến văn
lục vượt thời gian sống mãi cùng bạn đọc nhiều thế hệ.

50


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Anh Chi (2009), Vũ Trinh và truyện truyền kì,
2. Nguyễn Huệ Chi (2004), Từ điển văn học (bộ mới), Nhà xuất bản Thế
giới.
3. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2009), Từ điển thuật ngữ
văn học, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.
4. Bùi Thanh Hiền (2015), “Thủ pháp kì ảo và lạ hóa – một phương diện
nghệ thuật độc đáo để xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết Mạc Ngôn”,
Tạp chí khoa học ĐHSP TPHCM.
5. Trương Thị Hoa (2011), Loại hình các nhân vật trong truyện truyền kì
Việt Nam qua ba tác phẩm tiêu biểu: Thánh Tông di thảo, Truyền kì
mạn lục, Lan Trì kiến văn lục, Luận văn thạc sĩ văn học, Trường Đại
học sư phạm TP Hồ Chí Minh.
6. Hoàng Thị Tuyết Mai, Vũ Thị Ngọc, “Trào lưu chủ tình trong văn học
Việt Nam thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX qua thơ Nôm Hồ Xuân Hương”,
Tạp chí Khoa học và Công nghệ.
7. Lê Dương Khắc Minh (2016), Nghĩ về cội nguồn của truyện truyền kì
Việt Nam, Tạp chí khoa học ĐHSP TPHCM.
8. Bùi Thụy Đào Nguyên (2011), Vũ Trinh với Lan Trì kiến văn lục,


9. Vương Thị Phương Thảo (2013), Văn học Việt Nam thế kỷ XVIII - đầu
XIX với vấn đề cái chết, Tạp chí văn hóa Nghệ An.
10.Trần Nho Thìn (2008), Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn
hóa, Nhà xuất bản Giáo dục.
11.Trần Nho Thìn (2014) “Trào lưu chủ tình trong văn học Việt Nam thế
kỷ XVIII - đầu thế kỷ XIX và dấu vết ảnh hưởng của sách Thế thuyết


tân ngữ”, Tạp chí Nghiên cứu Văn học (1/2007), tr.78-104.
12. Nguyễn Thị Hoàng Thu (2012), Nhân vật Lan Trì kiến văn lục, Luận
văn thạc sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Vinh.
13. Nguyễn Thị Trang (2014), Tìm hiểu giá trị nội dung, nghệ thuật Lan
Trì kiến văn lục của Vũ Trinh, Khóa luận tốt nghiệp đại học, Trường
Đại học Sư phạm Hà Nội 2.
14. Vũ Trinh (2013), Lan Trì kiến văn lục, Nhà xuất bản Hồng Bàng.
15. Bùi Thanh Truyền (2014), Dòng chảy kì ảo trong tiến trình văn học
Việt Nam, Tạp chí Văn nghệ Quân đội điện tử - Tổng cục Chính trị
Quân đội nhân dân Việt Nam.
16. />17. />ng_con_h%E1%BB%95_trong_v%C4%83n_h%C3%B3a.
18. />


×