VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THỊ LINH
ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ ĐỐI VỚI TỘI TRỘM
CẮP TÀI SẢN TỪ THỰC TIỄN QUẬN TÂN PHÚ, THÀNH
PHỐ HỒ CHÍ MINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
HÀ NỘI, 2020
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THỊ LINH
ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ ĐỐI VỚI TỘI TRỘM CẮP TÀI
SẢN TỪ THỰC TIỄN QUẬN TÂN PHÚ, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ
MINH
Ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8380104
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. LÊ TƯỜNG VY
HÀ NỘI, 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn “Áp dụng pháp luật hình sự đối với tội
trộm cắp tài sản từ thực tiễn quận Tân Phú, thành phố Hồ Chí Minh” là
công trình do tôi thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của Tiến sĩ Lê Tường
Vy. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực.
Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Linh
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 1
Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ ÁP DỤNG
PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN THEO LUẬT HÌNH
SỰ VIỆT NAM ................................................................................................ 8
1.1. Khái niệm, đặc điểm, nội dung và ý nghĩa của áp dụng pháp luật
hình sự đối với tội trộm cắp tài sản ............................................................... 8
1.1.1. Khái niệm áp dụng pháp luật hình sự ..................................................... 8
1.1.2 Đặc điểm áp dụng pháp luật hình sự ....................................................... 9
1.2. Nội dung của áp dụng pháp luật đối với tội trộm cắp tài sản ............ 11
1.2.1. Định tội danh đối với tội trộm cắp tài sản ............................................ 11
1.2.2. Quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản ................................ 15
1.3. Cơ sở của áp dụng pháp luật hình sự đối với tội trộm cắp tài sản .... 18
1.3.1. Khái niệm tội trộm cắp tài sản .............................................................. 18
1.3.2. Dấu hiệu pháp lý của tội trộm cắp tài sản ............................................ 19
1.3.3. Cấu thành tăng nặng của Tội trộm cắp tài sản theo Bộ luật hình sự năm
2015. ................................................................................................................ 21
1.4. Các yếu tố tác động đến áp dụng pháp luật hình sự đối với tội trộm
cắp tài sản ....................................................................................................... 22
1.4.1. Yếu tố pháp luật .................................................................................... 22
1.4.2. Chất lượng của cán bộ áp dụng pháp luật hình sự ............................... 25
1.4.3. Sự phối hợp chặt chẽ với các cơ quan hữu quan .................................. 25
1.4.4. Vai trò của Đảng cộng sản Việt Nam, Mặt trận tổ quốc, cơ quan thông
tin đại chúng .................................................................................................... 25
Chương 2 THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI
TRỘM CẮP TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN TÂN PHÚ .................... 28
2.1. Khái quát tình hình áp dụng pháp luật đối với tội trộm cắp tài sản
trên địa bàn quận Tân Phú .......................................................................... 28
2.1.1. Khái quát về quận Tân Phú................................................................... 28
2.1.2. Tình hình áp dụng pháp luật hình sự đối với tội trộm cắp tài sản trên
địa bàn quận Tân Phú ..................................................................................... 28
2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự đối với tội trộm cắp tài sản .... 36
2.2.1. Thực tiễn định tội danh ......................................................................... 36
2.3. Quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản trên địa bàn quận
Tân Phú .......................................................................................................... 40
2.3. Đánh giá chung về thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về tội trộm
cắp tài sản trên địa bàn quận Tân Phú ....................................................... 48
2.3.1. Những mặt làm được: .......................................................................... 48
2.3.2. Những mặt thiếu sót, hạn chế: .............................................................. 49
2.3.3. Nguyên nhân của những hạn chế trong định tội danh và quyết định hình
phạt về tội Trộm cắp tài sản trên địa bàn quận Tân Phú ............................... 51
Chương 3 NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM ÁP DỤNG ĐÚNG PHÁP LUẬT
VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN TÂN PHÚ ..... 56
3.1. Các yêu cầu bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự đối với tội
trộm cắp tài sản ............................................................................................. 56
3.2. Các giải pháp đảm bảo chất lượng áp dụng đúng pháp luật hình sự
đối với tội trộm cắp tài sản ........................................................................... 60
3.2.1. Hoàn thiện pháp luật ............................................................................. 61
3.2.2. Các giải pháp khác................................................................................ 65
KẾT LUẬN .................................................................................................... 73
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLHS
: Bộ luật hình sự
BLTTHS
: Bộ luật tố tụng hình sự
TNHS
: Trách nhiệm hình sự
TAND
: Tòa án nhân dân
TTHS
: Tố tụng hình sự
VKSND
: Viện kiểm sát nhân dân
QĐHP
: Quyết định hình phạt
ADPL
: Áp dụng pháp luật
CTTP
: Cấu thành tội phạm
ADPL
: Áp dụng pháp luật
ADPLHS
: Áp dụng pháp luật hình sự
VKS
: Viện kiểm sát
CQĐT
: Cơ quan điều tra
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1. Số lượng số vụ và bị cáo phạm tội trộm cắp tài sản bị đưa ra
xét xử trong nhóm tội xâm phạm sở hữu trên địa bàn quận Tân Phú từ
năm 2015 đến năm 2019 ............................................................................... 31
Bảng 2.2. Tỷ lệ tội trộm cắp tài sản trong nhóm tội xâm phạm sở hữu
trên địa bàn quận Tân Phú từ năm 2015 đến năm 2019 ........................... 32
Bảng 2.3: Mức hình phạt Tòa tuyên bị cáo về tội trộm cắp tài sản ......... 35
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ở nước ta, quyền sở hữu là một quyền con người quan trọng, đã được
quy định và bảo hộ trong Hiến pháp và các văn bản pháp luật ở các lĩnh vực:
hình sự, hành chính, dân sự...Trong pháp luật hình sự, quyền sở hữu được bảo
vệ và quy định rõ thông qua các quy định về các tội xâm phạm sở hữu trong Bộ
luật hình sự (BLHS) đồng thời là một trong những nhóm tội được quy định sớm
nhất trong pháp luật hình sự của nước ta. Trong những năm gần đây, chính sách
mở cửa của Đảng và Nhà nước ta đã thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế, văn
hóa, xã hội trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh nói chung và quận Tân Phú nói
riêng, thu hút nhiều các dự án đầu tư từ nguồn vốn trong và ngoài nước, giải
quyết vấn đề việc làm, an sinh xã hội và đời sống vật chất, tinh thần của người
dân không ngừng được nâng lên. Nhưng bên cạnh đó, sự phân hóa giàu nghèo
và sự xâm nhập văn hóa độc hại, lối sống thực dụng, các tệ nạn xã hội ngày càng
tăng… đang làm cho tình hình trật tự an toàn xã hội trở nên hết sức phức tạp, là
điều kiện thuận lợi làm phát sinh tội phạm xâm phạm sở hữu nói chung và tội
trộm cắp tài sản nói riêng, gây ra nhiều thiệt hại nghiêm trọng cho tài sản của
Nhà nước, tổ chức và công dân đồng thời gây mất an ninh trật tự.
Theo thống kê từ năm 2015 đến năm 2019, tội trộm cắp tài sản trên địa
bàn quận Tân Phú ngày càng diễn biến phức tạp về phương thức, thủ đoạn, mức
độ liều lĩnh, táo bạo và độ tuổi người phạm tội ngày càng trẻ hơn…, làm giảm
lòng tin của quần chúng đối với pháp luật và gây ra tâm lý bất an trong cộng
đồng dân cư, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự tại địa phương. Mặc dù các
cơ quan chức năng đã áp dụng các biện pháp phòng ngừa, đấu tranh, nhất là
việc phát hiện và làm hạn chế các nguyên nhân làm phát sinh tội trộm cắp tài
sản song chưa đem lại hiệu quả cao. Bên cạnh đó, thực tiễn điều tra, truy tố và
1
xét xử đã cho thấy những bất cập, khó khăn trong việc xác định đối tượng tác
động của tội phạm, một số dấu hiệu định tội, các dấu hiệu định khung tăng
nặng, giảm nhẹ…của những người tiến hành tố tụng còn nhiều hạn chế, có vụ
định tội danh chưa chính xác, quyết định hình phạt ít nhiều còn mang tính chủ
quan. Trong khi đó, việc áp dụng pháp luật hình sự nói chung và áp dụng pháp
luật hình sự đối với tội trộm cắp tài sản vẫn còn nhiều hạn chế nhưng đến nay
vẫn chưa có các văn bản hướng dẫn mới về các tội xâm phạm sở hữu trong đó
có tội trộm cắp tài sản theo quy định của Bộ Luật hình sự năm 2015 dẫn đến
thực tế áp dụng quy định về các tội này chưa thống nhất giữa các cơ quan tố
tụng.
Để khắc phục những bất cập trong quy định của pháp luật hình sự và đề
xuất các giải pháp nhằm bảo đảm áp dụng đúng quy định của pháp luật hình sự
về tội trộm cắp tài sản tại quận Tân Phú cũng như trên phạm vi cả nước. Học
viên đã lựa chọn đề tài: "Áp dụng pháp luật hình sự đối với tội trộm cắp tài sản
từ thực tiễn quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh" làm đề tài Luận văn Thạc
sĩ Luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hiện nay ở nước ta, vấn đề áp dụng pháp luật nói chung và áp dụng pháp
luật hình sự đối với tội trộm cắp tài sản nói riêng luôn là đề tài thu hút sự quan
tâm của các nhà khoa học và có những bài viết có giá trị, có thể kể đến một số
công trình khoa học, bài viết, đề tài sau:
2.1. Nhóm (các luận văn, luận án tiến sĩ luật học):
- Luận án tiến sỹ luật học “Hoạt động áp dụng pháp luật hình sự của các
cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án Việt Nam” của tác giả Chu Thị
Trang Vân, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2009;
- Luận án tiến sỹ luật hoc “Tội trộm cắp tài sản và đấu tranh phòng
chống tội này ở Việt Nam” của tác giả Hoàng Văn Hùng, Đại học Luật Hà Nội,
2
2007;
- Luận văn thạc sĩ “Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
từ thực tiễn tỉnh Bình Phước” của tác giả Lê Thị Bình, Học viện Khoa học xã
hội, 2018;
- Luận văn thạc sĩ “Tội trộm cắp tài sản do người nước ngoài thực hiện
từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh” của tác giả Trần Thị Bích Liên, Học viện
Khoa học xã hội, 2016;
2.2. Nhóm (các sách chuyên khảo)
- GS.TSKH. Lê Cảm, Một số vấn đề lý luận chung về định tội danh,
Chương I - Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm), Khoa Luật,
Đại học Quốc gia Hà Nội, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001, tái bản 2007;
- GS.TSKH. Lê Cảm, Một số vấn đề lý luận chung về định tội danh,
Phần 2, Các nghiên cứu chuyên khảo về Phần chung luật hình sự, Nxb. Công
an nhân dân, Hà Nội, 2000;
- PGS.TS. Trịnh Quốc Toản, Một số vấn đề lý luận về định tội danh và
hướng dẫn giải bài tập về định tội danh, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 1999;
- PGS.TS. Nguyễn Ngọc Chí, Chương VI - Các tội xâm phạm sở hữu,
Trong sách: Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm), Tập thể tác
giả do GS.TSKH. Lê Cảm chủ biên, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2003;
- ThS. Đinh Văn Quế, Bình luận khoa học Bộ luật hình sự Phần các tội
phạm, Tập II - Các tội xâm phạm sở hữu, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 2002;
2.3. Nhóm (sách giáo trình, bài viết)
- Võ Khánh Vinh (Chủ biên) (2012), Giáo trình “Luật hình sự Việt NamPhần Các tội phạm”, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội;
- Võ Khánh Vinh (2013), “Lý luận chung về định tội danh”, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội;
- Giáo trình Luật hình sự Việt Nam của Trường Đại học Luật Hà Nội,
3
Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2010;
- Phạm Văn Beo (2010), “Luật hình sự Việt Nam-Quyển 2 (Phần các tội
phạm), Nxb Chính trị Quốc gia, Cần Thơ.
- Dương Tuyết Miên (2007), “Định tội danh và Quyết định hình phạt”
của Nxb Lao động xã hội, Hà Nội.
- Và các bài viết “Tội danh và việc chuyển hóa các tội phạm trong Bộ
luật hình sự Việt Nam” của tác giả Nguyễn Ngọc Hòa, Tạp chí Luật học, số
6/2004;“Hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự về các tội xâm phạm sở
hữu” của tác giả Nguyễn Ngọc Anh, Tạp chí Công an nhân dân, số 4/2008;
“Một số vấn đề chú ý khi áp dụng Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT ngày
25/12/2001, hướng dẫn xử lý các tội xâm phạm sở hữu”, của tác giả Nguyễn
Ngọc Anh, Tạp chí Công an nhân dân, số 4/2002…
Qua nghiên cứu các tài liệu tham khảo trên đã cung cấp cho tác giả một
lượng kiến thức cơ bản về các tội xâm phạm sở hữu nói chung, tội trộm cắp tài
sản nói riêng, đặc biệt là là vấn đề áp dụng pháp luật hình sự đối với các tội
phạm. Tuy nhiên, do các công trình nghiên cứu trên có thời gian khá lâu, cũng
như một số công trình chỉ nghiên cứu một hoặc vài khía cạnh của tội trộm cắp
tài sản nên hiện nay việc nghiên cứu áp dụng pháp luật hình sự đối với tội trộm
cắp tài sản mà đặc biệt là trên địa bàn cụ thể như quận Tân Phú thì vẫn còn bỏ
ngỏ.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu :
Luận văn nghiên cứu một cách tương đối có hệ thống những vấn đề lý
luận, đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự đối với tội trộm cắp tài sản
trên địa bàn quận Tân Phú. Trên cơ sở đó, chỉ ra một số vướng mắc, tồn tại
trong thực tiễn áp dụng pháp luật đối với tội trộm cắp tài sản để đưa ra những
kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và những giải pháp áp dụng
4
đúng các quy định của BLHS Việt Nam về tội trộm cắp tài sản tại quận Tân
Phú cũng như trên toàn quốc.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để đạt được mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ: Làm rõ những vấn đề
lý luận và pháp luật về khái niệm, đặc điểm, nội dung và ý nghĩa của áp dụng
pháp luật đối với tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam. Đánh giá thực
trạng áp dụng pháp luật hình sự về tội trộm cắp tài sản trên địa bàn quận Tân
Phú; qua đó tìm ra những vướng mắc, bất cập trong các quy định của pháp luật.
Trên cơ sở đó, đưa ra các giải pháp nhằm áp dụng pháp luật đúng về tội trộm
cắp tài sản trên địa bàn quận Tân Phú.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận, pháp luật cũng như việc áp
dụng pháp luật đối với tội trộm cắp tài sản trên địa bàn quận Tân Phú.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
- Về nội dung nghiên cứu: Hoạt động áp dụng pháp luật hình sự trải dài
xuyên suốt toàn bộ các giai đoạn tố tụng hình sự từ giai đoạn điều tra, tuy tố,
xét xử đến giai đoạn thi hành án. Tuy nhiên do điều kiện nghiên cứu có giới hạn
nên luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn hoạt động
áp dụng pháp luật hình sự trong giai đoạn xét xử sơ thẩm. Trong đó tác giả chỉ
tập trung nghiên cứu hoạt động định tội danh và hoạt động quyết định hình phạt
đối với tội trộm cắp tài sản từ thực tiễn quận Tân Phú, thành phố Hồ Chí Minh.
Đây là hai hoạt động áp dụng pháp luật hình sự nổi bật nhất và quan trọng nhất
của giai đoạn xét xử sơ thẩm.
- Về thời gian : Luận văn nghiên cứu trong thời gian 05 năm từ năm
2015 đến năm 2019
5
- Về địa bàn : Luận văn nghiên cứu hoạt động áp dụng pháp luật hình sự
đối với tội trộm cắp tài sản từ thực tiễn quận Tân Phú, thành phố Hồ Chí Minh
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác Lê-nin và
tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà
nước ta về tội phạm và hình phạt với tội trộm cắp tài sản.
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin với phép duy
vật biện chứng, các quan điểm của Đảng và Nhà nước về tội phạm, hình phạt,
về cải cách tư pháp, về đấu tranh phòng chống tội phạm; đường lối xử lý các tội
xâm phạm sở hữu nói chung, tội trộm cắp tài sản nói riêng, luận văn sử dụng
một số phương pháp nghiên cứu để làm sáng tỏ về mặt khoa học từng vấn đề
tương ứng như lịch sử, so sánh, phân tích, tổng hợp, thống kê, quy nạp, diễn
dịch…
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn góp phần làm rõ thêm các vấn đề lý luận về áp dụng pháp luật
hình sự, hoạt động định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp tài
sản từ thực tiễn quận Tân Phú, thành phố Hồ Chí Minh.
Luận văn là tài liệu tham khảo cho các cơ quan tiến hành tố tụng đặc biệt
là Tòa án nhân dân quận Tân Phú trong việc định tội danh và quyết định hình
phạt để ứng dụng vào xét xử các vụ án hình sự nói chung và các vụ án trộm cắp
tài sản nói riêng. Ngoài ra, luận văn còn là cơ sở để đưa ra các kiến nghị tiếp tục
hoàn thiện pháp luật hình sự Việt Nam liên quan đến áp dụng pháp luật hình sự
đối với tội trộm cắp tài sản, qua đó, nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh
phòng, chống tội phạm nói chung, việc bảo vệ các quyền tài sản của tổ chức và
công dân nói riêng, cũng như phòng, chống oan, sai và vi phạm pháp luật trong
giải quyết vụ án hình sự.
6
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung của luận văn gồm 3 chương như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về áp dụng pháp luật đối với
tội Trộm cắp tài sản theo Luật hình sự Việt Nam
Chương 2: Thực trạng áp dụng pháp luật hình sự về tội trộm cắp tài sản
trên địa bàn quận Tân Phú
Chương 3: Những giải pháp nhằm áp dụng đúng pháp luật về tội Trộm cắp
tài sản trên địa bàn quận Tân Phú
7
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ ÁP DỤNG PHÁP
LUẬT ĐỐI VỚI TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN THEO LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM
1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của áp dụng pháp luật hình sự
đối với tội trộm cắp tài sản
1.1.1. Khái niệm áp dụng pháp luật hình sự
Ở bất cứ một hình thức Nhà nước nào thì pháp luật luôn là một công cụ
để đảm bảo cho một xã hội pháp triển ổn định, khi đặt ra những quy phạm pháp
luật, Nhà nước ta mong muốn sử dụng chúng để điều chỉnh các quan hệ xã hội,
đáp ứng lợi ích của nhân dân lao động và sự tiến bộ xã hội. Khi các chủ thể
thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật trong đời sống thực tế thì mục đích của áp
dụng pháp luật đã đạt được. Áp dụng pháp luật (ADPL) là một hình thức thực
hiện pháp luật, trong đó nhà nước thông qua cơ quan có thẩm quyền hoặc tổ
chức cho các chủ thể pháp luật thực hiện trong những quy định pháp luật để ra
các quyết định làm phát sinh, thay đổi, đình chỉ hay chấm dứt một quan hệ pháp
luật. Dựa vào tính chất của hoạt động thực hiện pháp luật thì thực hiện pháp
luật bao gồm các hình thức sau:
- Tuân thủ pháp luật: Là việc thực hiện pháp luật, mang tính chất thụ
động và thể hiện dưới dạng "hành vi không hành động" Việc các chủ thể pháp
luật tự kiềm chế là những xử sự thụ động, tự ghép mình vào tập thể, xã hội, đặt
lợi ích quốc gia, lợi ích tập thể, lợi ích cộng đồng lên trên lợi ích cá nhân, lợi
ích của bộ phận cục bộ đồng thời pháp luật cũng quy định mọi tổ chức và công
dân không được thực hiện những hành vi nguy hiểm cho xã hội, không được
xâm phạm đến quyền và nghĩa vụ hợp pháp của người khác. Bên cạnh đó, pháp
8
luật cũng bắt buộc mọi tổ chức và công dân phải làm một việc nào đó vì lợi ích
chung và tùy theo hoàn cảnh cụ thể.
- Chấp hành pháp luật: Là hành vi hành động được thực hiện một cách chủ
động và tích cực, các chủ thể thực hiện nghĩa vụ pháp lý của mình với hành
động tích cực, là cơ sở pháp lý để đánh giá thành tích, phẩm chất tốt đẹp và
danh dự của công dân, tổ chức, cán bộ công chức nhà nước.
- Sử dụng pháp luật : Là một hình thức thực hiện pháp luật trong đó các
chủ thể pháp luật thực hiện quyền và tự do pháp lý của mình (thực hiện những
hành vi mà pháp luật cho phép).
- Áp dụng pháp luật: Là hoạt động của các chủ thể có thẩm quyền căn cứ
vào các quy định pháp luật hiện hành để đưa ra quyết định có tính cá biệt nhằm
điều chỉnh quan hệ xã hội theo mục tiêu cụ thể.
Như vậy, nếu như tuân thủ pháp luật, chấp hành pháp luật và sử dụng pháp
luật là những hình thức mà mọi chủ thể pháp luật đều có thực hiện thì áp dụng
pháp luật chỉ được thực hiện thông qua hoạt động của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền, được xem như để bảo đảm đặc thù của Nhà nước cho các quy
phạm pháp luật được thực hiện một cách có hiệu quả trong đời sống xã hội. Do
đó, có thể đưa ra khái niệm: ADPL là một hình thức thực hiện pháp luật đặc
biệt, là một hoạt động thực tiễn pháp lý nhằm cá biệt hóa những quy phạm
pháp luật vào các trường hợp tương ứng đối với các chủ thể pháp luật cụ thể,
mang tính tổ chức - quyền lực do nhà nước thông qua những thiết chế của nó
thực hiện
Từ những phân tích trên có thể rút ra một định nghĩa khoa học về
ADPLHS là một dạng của ADPL nói chung, được hiểu là một hoạt động thực
tiễn pháp lý, là quá trình nhằm cá biệt hóa những quy phạm PLHS vào các
trường hợp cụ thể đối với người đã thực hiện hành vi mà nhà nước coi là tội
9
phạm, mang tính tổ chức - quyền lực nhà nước và được thực hiện theo một
trình tự đặc biệt do pháp luật tố TTHS quy định.
1.1.2. Đặc điểm áp dụng pháp luật hình sự
ADPLHS là một hình thức thực hiện pháp luật đặc biệt và có những đặc
điểm chung của các dạng ADPL, đó là:
Thứ nhất, hoạt động ADPLHS là sự tham gia của nhà nước với tư cách là
một tổ chức quyền lực công nên điều này làm cho hoạt động ADPLHS có đặc
điểm là hoạt động mang tính tổ chức-quyền lực và do nhà nước thông qua
những cơ quan có thẩm quyền tiến hành. Cụ thể theo quy định của BLTTH năm
2015 bao gồm các cơ quan: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án. Trong
mối tương quan giữa nhà nước-pháp luật và ADPL thì pháp luật là công cụ,
phương tiện để nhà nước thực hiện các chức năng của mình, ngoài ra nhà nước
bằng việc ADPL để thực hiện những mục tiêu mà pháp luật đặt ra, các chủ thể
ADPL có thẩm quyền phải nhân danh ý chí của nhà nước mà không được nhân
danh ý chí chủ quan của mình. Trong mối quan hệ này, pháp luật mang tính
khách quan ngay cả đối với những chủ thể có thẩm quyền áp dụng nó thì quyền
của chủ thể ADPLHS bị giới hạn đến mức tối thiểu, họ chỉ có một quyền duy
nhất là phải chuyển hóa một cách chính xác các quy định của pháp luật hình sự
vào từng quan hệ xã hội cụ thể.
Thứ hai, hoạt động ADPLHS điều chỉnh cá biệt, cụ thể các quan hệ
xã hội khi có sự kiện phạm tội do nó là hoạt động giải quyết trực tiếp
những vấn đề thực tế. Nói đến ADPL là nói đến tính cụ thể và ADPLHS
cũng như vậy, chỉ diễn ra trong các trường hợp rất cụ thể, trong những
quan hệ pháp luật rất cụ thể. Khi pháp luật hình sự được vật chất hóa vào
đời sống xã hội thì nó luôn có tính xác định về mặt chủ thể- áp dụng đối
với ai, áp dụng cho quan hệ xã hội nào, áp dụng ở đâu, áp dụng khi nào, áp
dụng quy phạm nào của hệ thống pháp luật hình sự.
10
Th ba, ADPLHS l mt hot ng c tin hnh vi nhng th tc c
quy nh cht ch bi phỏp lut TTHS, ngha l vic ADPLHS khụng th tin
hnh mt cỏch tựy tin m phi c din ra trờn c s, trong nhng iu kin
v theo nhng th tc nht nh do phỏp lut quy nh, ú l th tc t tng
hỡnh s.
Th t, ADPLHS l mt hot ng mang tớnh sỏng to. Tớnh sỏng to
trong ADPLHS chớnh l s ũi hi s sỏng to ca cỏc ch th trong quỏ trỡnh
ỏp dng vỡ phỏp lut hỡnh s cú tớnh khỏi quỏt cao cũn thc t thỡ phong phỳ v
a dng nờn ũi hi cỏc ch th ADPL phi sỏng to (trong khuụn kh ca phỏp
lut) khi chuyn húa nhng quy nh ca phỏp lut vo i sng. phm vi
rng, sỏng to l thuc tớnh chung ca vic thc hin phỏp lut, bi thc hin
phỏp lut núi chung v ADPLHS núi riờng l hot ng tớch cc ca cỏc ch th
phỏp lut chuyn húa phỏp lut thnh cỏc x s c th nờn nhng ch th
khỏc nhau vic chuyn húa cng khỏc nhau nhng vn trong khuụn kh phỏp
lut cho phộp.
1.2. Ni dung ca ỏp dng phỏp lut i vi ti trm cp ti sn
L hot ng nhm vt cht húa nhng quy nh ca PLHS nờn ni dung
ca ADPLHS ph thuc vo chớnh PLHS, ngha l PLHS quy nh iu gỡ thỡ
vic ỏp dng PLHS s cỏ bit húa nhng quy nh ú trong nhng quan h xó
hi v cỏc ch th c th. Vic ỏp dng PLHS khi c chuyn húa vo thc t
cng chớnh l vic chuyn húa cỏc ni dung v ti phm v hỡnh pht vo cỏc
trng hp c th thnh hai ni dung tng ng l nh ti danh v QHP.
1.2.1. nh ti danh i vi ti trm cp ti sn
Trong lý luận hình sự, việc áp dụng các quy phạm pháp luật hình sự
đ-ợc hiểu là một quá trình đa dạng và phức tạp đ-ợc tiến hành qua các
giai đoạn nhất định nh-: giải thích pháp luật hình sự, xác định hiệu lực của
văn bản pháp luật về không gian và thời gian, định tội danh, quyết định
11
hình phạt Trong đó, định tội danh là một trong những giai đoạn cơ bản,
một trong những nội dung của quá trình áp dụng pháp luật. Định tội còn là
tiền đề, cơ sở cho việc áp dụng các quy phạm pháp luật hình sự khác và
pháp luật tố tụng hình sự.
Nếu chúng ta hiểu rằng BLHS đánh giá về mặt pháp lý của Nhà n-ớc
đối những hành vi nguy hiểm cho xã hội, việc thực hiện tội phạm là thực
hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã bị pháp luật hình sự cấm, thì định tội
danh chính là xác định sự phù hợp của hành vi nguy hiểm cho xã hội đã
đ-ợc thực hiện với các dấu hiệu của một cấu thành tội phạm t-ơng ứng
đ-ợc quy định trong pháp luật hình sự.
Hin nay trong khoa hc hỡnh s Vit nam, cú nhiu quan im v khỏi
nim nh ti danh, in hỡnh nh sau:
Theo TS Phm Vn Beo: nh ti danh l vic xỏc nhn v mt phỏp lý
s phự hp gia cỏc du hiu ca hnh vi nguy him cho xó hi c th ó c
thc hin vi cỏc yu t cu thnh ti phm c th tng ng c quy nh
trong B lut hỡnh s [6, tr.5]
Theo GS.TS. Vừ Khỏnh Vinh : nh ti danh l vic xỏc nh v ghi
nhn v s phỏp lý phự hp, chớnh xỏc gia cỏc du hiu ca hnh vi phm ti
c th ó c thc hin vi cỏc du hiu ca cu thnh ti phm ó c quy
nh trong quy phm phỏp lut hỡnh s [39, tr. 9-10]
TS. Dng Tuyt Miờn cng a ra quan im ca mỡnh : nh ti danh
l hot ng thc tin ca cỏc c quan tin hnh t tng (C quan iu tra,
Vin kim sỏt, Tũa ỏn) v mt s c quan khỏc cú thm quyn theo quy nh
ca phỏp lut xỏc nh mt ngi cú phm ti hay khụng, nu phm ti thỡ
ú l ti gỡ, theo iu lut no ca BLHS hay núi cỏch khỏc õy l quỏ trỡnh
xỏc nh tờn ti cho hnh vi nguy him ó thc hin [19, tr.9]
12
Như vậy, tùy vào cách tiếp cận và mục đích nghiên cứu của mỗi tác giả
mà đưa ra các quan điểm khác nhau về khái niệm định tội danh. Tuy nhiên, các
quan điểm đều có điểm chung ở chỗ định tội danh là xác định sự phù hợp giữa
các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện với các dấu hiệu
của CTTP tương ứng với quy định trong BLHS
Tổng hợp các quan điểm nêu trên, có thể đưa ra khái niêm : Định tội
danh là quá trình chuyển hóa nội dung quy định tội phạm của BLHS bằng cách
xác nhận sự phù hợp (đồng nhất) đầy đủ và chính xác giữa hành vi nguy hiểm
cho xã hội cụ thể đã được thực hiện trong thực tế với các dấu hiệu của một
CTTP cụ thể tương ứng được quy định trong Phần các tội phạm của BLHS và
trong những trường hợp cần thiết phải xác định sự phù hợp với các quy định
trong Phần chung của BLHS.
Trong khoa học pháp lý hình sự, có nhiều cách hiểu khác nhau về khái
niệm định tội danh nhưng hầu hết đều thống nhất định tội danh là hoạt động
ADPLHS. Do đó, định tội danh cũng được xác định là bước thứ nhất của quá
trình chuyển hóa những quy định của PLHS vào việc giải quyết những vụ án cụ
thể.
Khi định tội, chủ thể phải lấy các quy định của BLHS làm căn cứ duy
nhất để so sánh với hành vi phạm tội đã được thực hiện trên thực tế từ đó phải
xác định được hành vi được thực hiện có cấu thành tội phạm hay không. Để xác
định được vấn đề này thì ngoài các yếu tố khác, chủ thể định tội phải căn cứ
vào Phần chung và Phần các tội phạm của BLHS. Tiếp theo của việc xác định
tội danh thì chủ thể định tội phải xác định khung hình phạt cần áp dụng đối với
người phạm tội để xác định khung hình phạt tăng nặng hay giảm nhẹ, trước hết
hành vi của người phạm tội phải thỏa mãn các dấu hiệu đặc trưng của cấu thành
cơ bản được quy định trong điều luật.
13
Trong lĩnh vực pháp luật, định tội danh có nghĩa là lựa chọn một quy
phạm pháp luật mà nó đề cập tới trường hợp cụ thể nào đó, những quy phạm
pháp luật hình sự phần các tội phạm quy định TNHS đối với mỗi hành vi phạm
tội phải dựa trên những nguyên tắc, điều kiện được nêu ra trong các quy phạm
phần chung còn bản thân quy phạm pháp luật phần chung lại không có ý nghĩa
nếu thiếu quy phạm pháp luật phần riêng.
Định tội danh là việc chuyển hóa nội dung quy định về tội phạm của luật
hình sự vào đời sống xã hội thông qua việc giải quyết những vụ án hình sự, từ
khi khởi tố (mở) vụ án cho đến khi ra được bản án (có hiệu lực pháp luật). Đây
là hoạt động được thực hiện ở tất cả các giai đoạn của TTHS. Trong đó, định tội
danh ở giai đoạn xét xử của Tòa án giữ vị trí trung tâm, có tính chất quyết định,
ảnh hưởng trực tiếp đến địa vị pháp lý, quyền và nghĩa vụ của các chủ thể có
liên quan. Do đó, việc định tội danh trong hoạt động xét xử của Toà án có ý
nghĩa chính trị, xã hội và pháp lý to lớn. Một người được Tòa án xác định là vô
tội có nghĩa là họ được khôi phục toàn bộ các quyền và nghĩa vụ pháp lý của
mình, kể cả những quyền đã bị hạn chế trong quá trình xét xử và tiền xét xử.
Ngược lại, một người bị Tòa án xác định là có tội có nghĩa là họ sẽ phải chịu
TNHS về tội phạm mà họ đã thực hiện. Như vậy, về mặt chính trị-xã hội, định
tội danh đúng là biểu hiện của thực hiện đúng CSHS của Đảng và Nhà nước
được thể hiện trong công cuộc đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm, loại
trừ khả năng kết án oan người vô tội. Định tội danh không đúng sẽ góp phần
xuyên tạc bức tranh thực tế của tình hình tội phạm, tác động tiêu cực đến việc
soạn thảo và thực hiện các biện pháp phòng ngừa tội phạm. Định tội danh đúng
là một đảm bảo cho việc làm sáng tỏ một cách có căn cứ khách quan tình trạng,
mức độ và khuynh hướng của tình hình tội phạm cũng như tình hình các loại tội
phạm cụ thể trên các vùng lãnh thổ cũng như trên phạm vi toàn quốc. Về mặt
pháp lý, định tội danh đúng là vấn đề có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình
14
giải quyết TNHS với người thực hiện tội phạm, là một bảo đảm cho việc thực
hiện nguyên tắc pháp chế XHCN, tạo cơ sở pháp lý cho việc quyết định một
hình phạt cũng như áp dụng các biện pháp pháp lý hình sự khác công bằng
Như vậy, định tội danh đối với tội trộm cắp tài sản là một hoạt động
nhận thức, hoạt động áp dụng pháp luật hình sự được thể hiện trên cơ sở xác
định đầy đủ, chính xác, khách quan các tình tiết cụ thể của hành vi phạm tội
thực hiện, nhận thức đúng nội dung quy phạm pháp luật hình sự quy định cấu
thành tội phạm tương ứng và xác định sự phù hợp giữa các dấu hiệu của một
cấu thành tội phạm được quy định tại Điều 173 BLHS năm 2015
1.2.2. Quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản
Khái niệm quyết định hình phạt (QĐHP) là một trong những khái niệm
cơ bản và quan trọng của Luật hình sự Việt Nam, xác định hành vi nào là nguy
hiểm cho xã hội, xâm phạm tới khách thể được pháp luật hình sự bảo vệ, từ đó
đưa ra các biện pháp cưỡng chế phù hợp nhất đối với người phạm tội. Vì vậy,
có thể khẳng định QĐHP là cầu nối, là một mắt xích quan trọng giữa tội phạm
và hình phạt. Như vậy, QĐHP là giai đoạn của ADPLHS được Tòa án thực hiện
ngay sau việc định tội, định khung hình phạt.
Hiện nay pháp luật hình sự Việt Nam chưa có một văn bản chính thức để
định nghĩa cụ thể về khái niệm QĐHP, khái niệm này chỉ được nghiên cứu dưới
độ là một khái niệm khoa học luật hình sự mà chưa được quy định trong hệ
thống văn bản pháp lý hình sự có tính chất chính thống. Trong khoa học luật
hình sự khái niệm về QĐHP đã được nhiều nhà nghiên cứu về luật hình sự đưa
ra. TS. Lê Văn Đệ đưa ra định nghĩa về QĐHP: "Quyết định hình phạt là sự lựa
chọn loại hình phạt và xác định mức hình phạt cụ thể trong phạm vi luật định
để áp dụng đối với người phạm tội cụ thể" [10, tr. 161]. Dưới góc độ của luật tố
tụng hình sự, TS Chu Thị Trang Vân đưa ra khái niệm "Quyết định hình phạt là
một giai đoạn rất quan trọng trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân, là
15
việc Tòa án lựa chọn loại hình phạt và mức hình phạt cụ thể được quy định
trong luật hình sự tương ứng với cấu thành tội phạm cụ thể để áp dụng với
người phạm tội, thể hiện trong bản án buộc tội" [36, tr. 55]. Trong giáo trình
Luật hình sự Việt Nam của khoa luật thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội thì định
nghĩa: "Quyết định hình phạt là việc Tòa án lựa chọn loại hình phạt hình cụ thể
(bao gồm hình phạt chính và có thể cả hình phạt bổ sung) với mức độ cụ thể
trong phạm vi luật định để áp dụng đối với người phạm tội" [8, tr. 317]... Tóm
lại, phần lớn các tác giả đều có chung quan điểm về QĐHP như sau: Quyết định
hình phạt là việc Tòa án lựa chọn loại hình phạt và mức hình phạt cụ thể được
quy định trong BLHS tương ứng với một CTTP cụ thể để áp dụng đối với
người phạm tội. Như vậy, tiếp cận từ khía cạnh pháp lý (tiếp cận theo nghĩa
hẹp) thì quyết định hình phạt là việc Tòa án nghiên cứu để đưa ra quyết định
hình phạt với hình phạt chính và hình phạt bổ sung. Từ khía cạnh bản chất là
hoạt động áp dụng PLHS thì QĐHP được hiểu ở nghĩa rộng thì việc QĐHP có
nội dung là cả việc áp dụng các biểu hiện khác của TNHS, chứ không đơn
thuần chỉ là hình phạt. Khi QĐHP, Tòa án phải căn cứ vào : (1) Căn cứ vào quy
định của BLHS; (2) Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của
hành vi; (3) Căn cứ vào nhân thân người phạm tội; (4) Căn cứ vào tình tiết giảm
nhẹ và tăng nặng TNHS.
Có thể nói, căn cứ quyết định hình phạt là cơ sở pháp lý để Tòa án QĐHP
tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội,
là điều kiện cần thiết để khắc phục tình trạng tùy tiện, thiếu tính thống nhất khi
quyết định hình phạt đồng thời đảm bảo tính hợp pháp và có căn cứ pháp lý của
hoạt động QĐHP.
Do đó, khi QĐHP, Hội đồng xét xử trên cơ sở xác định hành vi phạm tội
của bị cáo để quyết định một mức hình phạt tương xứng với hành vi mà bị cáo
đã gây ra nguy hiểm cho xã hội nhằm đảm bảo mục đích của hình phạt, đảm
16
bảo tính công minh, có căn cứ và đúng pháp luật đối với người phạm tội bị kết
án góp phần tích cực vào việc bảo vệ quyền con người và công tác đấu tranh
phòng, chống tội phạm nói chung.
Như vậy, QĐHP đối với tội trộm cắp tài sản là hoạt động của Tòa án
trong việc cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân
thân người phạm tội và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS để lựa chọn loại
hình phạt và mức hình phạt cụ thể bao gồm hình phạt chính và hình phạt bổ
sung, trong phạm vi luật định để áp dụng đối với người phạm tội.
QĐHP có vai trò vô cùng to lớn trong cả quá trình hoạt động tố tụng của
các cơ quan và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, các hoạt động tố tụng
trước đó (từ khởi tố, điều tra, truy tố kể cả việc tranh tụng tại phiên tòa) sẽ
không có ý nghĩa nếu Tòa án không làm tốt việc QĐHP. Mọi trường hợp
QĐHP không đúng đều không đạt được mục đích của hình phạt trong thực tiễn
mà còn làm nảy sinh những phản ứng tiêu cực, tâm lý chống đối, không tin
tưởng vào tính công minh của pháp luật…từ phía người bị kết án và dư luận xã
hội.
Đối với Nhà nước, mục đích của hình phạt là cơ sở để xây dựng hệ thống
hình phạt bao gồm các loại hình phạt khác nhau và các chế định liên quan đến
hình phạt... Đây chính là những căn cứ pháp lý quan trọng cho việc QĐHP. Tuy
nhiên, để quyết định được một hình phạt đảm bảo tính công minh, đúng pháp
luật, phù hợp với lợi ích xã hội còn đòi hỏi các Thẩm phán và Hội thẩm nhân
dân phải luôn nhận thức đúng đắn về mục dích của hình phạt và mục đích của
việc áp dụng hình phạt trong những trường hợp cụ thể.
Trong mọi trường hợp, mục đích của hình phạt chỉ thực sự đạt được khi
việc quyết định hình phạt đảm bảo tính công minh, có căn cứ, đúng pháp luật để
hình phạt được tuyên có khả năng vừa đạt được mục đích trừng trị, vừa đạt
được mục đích giáo dục người phạm tội. Điều đó có nghĩa là ngoài việc tuân
17
thủ các quy định về QĐHP, Hội đồng xét xử phải xem xét một cách khách quan
các mục đích của hình phạt để không coi nhẹ hay nhấn mạnh riêng mục đích
nào. Nếu có bất kỳ vi phạm trong việc xem xét mục đích của hình phạt cũng
dẫn đến việc quyết định hình phạt không chính xác. Cụ thể là việc xem nhẹ mục
đích giáo dục, coi trọng mục đích trừng trị sẽ dẫn đến việc quyết định hình phạt
quá nặng, hình phạt trong trường hợp này sẽ chỉ làm cho người bị kết án thù
ghét pháp luật và các cơ quan bảo vệ pháp luật, nảy sinh tâm lý chống đối và
không có ý thức tự cải tạo, giáo dục. Ngược lại, việc xem nhẹ mục đích trừng
trị, coi thường pháp luật, không tích cực giáo dục, cái tạo mà còn không đủ khả
năng để ngăn ngừa những người khác phạm tội. Khi quyết định một hình phạt
đúng pháp luật, công bằng và hợp lý đối với người phạm tội thì đó sẽ là tiền đề,
là điều kiện cho việc đạt được mục đích của hình phạt, tức là có tác dụng trừng
trị, giáo dục, cải tạo người phạm tội, ngăn ngừa người đó phạm tội mới và giáo
dục những người khác. Ngược lại, khi Tòa án QĐHP không đúng pháp luật,
không công bằng và không hợp lý thì những mục đích nói trên sẽ không thể đạt
được. Như vậy, việc nhận thức đúng về mục đích của hình phạt là cơ sở đầu
tiên giúp chúng ta nhận thức đúng những căn cứ QĐHP và từ đó Tòa án có thể
quyết định một hình phạt đúng đắn, công bằng và hợp lý đối với người phạm
tội. Nếu đạt được mục đích trừng trị và giáo dục người phạm tội thì đương
nhiên hình phạt cũng phát huy được tác dụng giáo dục, phòng ngừa chung, góp
phần hình thành ý thức tự giác tuân thủ pháp luật, tính tích cực, chủ động tham
gia đấu trnah phòng, chống tội phạm ở các thành viên khác trong xã hội.
1.3. Cơ sở của áp dụng pháp luật hình sự đối với tội trộm cắp tài sản
1.3.1. Khái niệm tội trộm cắp tài sản
Tội trộm cắp tài sản, theo quy định tại Điều 173 BLHS năm 2015 chỉ quy
định "Người nào trộm cắp tài sản của người khác có giá trị..." mà không nêu rõ
18