MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ...................................................................................................................4
CHƯƠNG 1. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP
QUYỀN CỦA DÂN, DO DÂN VÀ VÌ DÂN ..........................................................5
1.1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì
dân ..........................................................................................................................5
1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa bản chất giai cấp công nhân với
tính nhân dân và tính dân tộc của nhà nước ta .......................................................7
1.2.1. Bản chất giai cấp công nhân của nhà nước ta .........................................7
1.2.2. Bản chất giai cấp của Nhà nước ta thống nhất với tính nhân dân và tính
dân tộc .................................................................................................................7
1.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về một nhà nước pháp quyền có hiệu lực pháp lý mạnh
mẽ ...........................................................................................................................8
1.3.1 Xây dựng một nhà nước hợp hiến ..............................................................8
1.3.2. Quản lý nhà nước bằng pháp luật và chú trọng đưa pháp luật vào cuộc
sống .....................................................................................................................9
1.3.3. Tích cực xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức của Nhà nước có đủ đức và
tài ........................................................................................................................9
1.4. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh, hoạt
động có hiệu quả ..................................................................................................10
1
CHƯƠNG 2. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM .......................................................................12
2.1. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một tất yếu
lịch sử, khách quan...............................................................................................12
2.1.1. Tính tất yếu lịch sử..................................................................................12
2.1.2. Tính tất yếu khách quan ..........................................................................13
2.2. Quan điểm của Đảng về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam ..............................................................................................................13
2.3. Những đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam ......................................................................................................................15
2.3.1. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân, thể hiện quyền làm chủ của nhân dân ...........15
2.3.2. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam tổ chức và hoạt động
trên cơ sở Hiến pháp, tôn trọng và bảo vệ Hiến pháp .....................................16
2.3.3. Nhà nước pháp quyền Việt Nam quản lý xã hội bằng pháp luật, bảo đảm
vị trí tối thượng của pháp luật trong đời sống xã hội.......................................17
2.3.4. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam tôn trọng và bảo vệ
quyền con người, các quyền và tự do của công dân, giữ vững mối liên hệ giữa
Nhà nước và công dân, giữa Nhà nước và xã hội ............................................18
2.3.5. Trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, quyền lực nhà
nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước
trong việc thực hiện các quyền: lập pháp, hành pháp và tư pháp, có sự kiểm tra,
giám sát chặt chẽ việc thực hiện quyền lực nhà nước ......................................19
2.3.6. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước do Đảng
Cộng sản Việt Nam lãnh đạo ............................................................................19
2
CHƯƠNG 3. TÌNH HÌNH XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM HIỆN NAY VÀ
GIẢI PHÁP XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ MỚI ....................................................................21
3.1. Những thành tựu và hạn chế trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam hiện nay .....................................................................................21
3.1.1. Những thành tựu chủ yếu ........................................................................21
3.1.2. Những hạn chế, yếu kém .........................................................................22
3.2. Một số giải pháp xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
trong thời kỳ mới..................................................................................................24
3.2.1. Nâng cao nhận thức về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam............................................................................................................24
3.2.2. Tiếp tục đổi mới tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước ...................24
3.2.3. Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, có năng lực đáp ứng yêu
cầu trong tình hình mới.....................................................................................27
3.2.4. Tích cực thực hành tiết kiệm, phòng ngừa và kiên quyết chống tham
nhũng, lãng phí .................................................................................................27
KẾT LUẬN .............................................................................................................29
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................30
3
MỞ ĐẦU
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước pháp quyền, nhà nước của nhân
dân, do nhân dân và vì nhân dân là tư tưởng độc đáo, sáng tạo của Người và của
Đảng ta trong tiến trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Đây là kết quả của sự vận
dụng và phát triển những quan điểm tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin, sự tiếp
thu có chọn lọc tinh hoa văn hoá thế giới vào xây dựng chính quyền nhà nước kiểu
mới do nhân dân làm chủ.
Theo Hồ Chí Minh, nhà nước phải thể hiện ý chí quyền lực của dân, mưu cầu
hạnh phúc cho dân, phấn đấu đem lại lợi ích cho dân, thoả mãn những nhu cầu hợp
lý của các tầng lớp nhân dân trong xã hội. Đó là một nhà nước dân chủ và tiến bộ.
Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền làm chủ đất nước và xã hội của nhân
dân, Đảng ta đã đúc kết thành cơ chế, chính sách quản lý, điều hành đất nước: Đảng
lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Cơ chế đó phát huy được tính tích
cực, chủ động của các tổ chức chính trị - xã hội, tạo nên sức mạnh tổng hợp của cả
hệ thống chính trị, đáp ứng đòi hỏi của các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc cũng
như sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Bước vào thời kỳ mới, trước yêu cầu của công cuộc đổi mới đất nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa, việc xây dựng nhà nước pháp quyền của nhân dân, do
nhân dân và vì nhân dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh phải tiếp tục được quán triệt
sâu sắc. Bởi đây là nền tảng tư tưởng, lý luận quan trọng trong tổ chức và hoạt động
của nhà nước pháp quyền kiểu mới do nhân dân làm chủ.
Vì vậy, em chọn đề tài “Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước
pháp quyền của dân, do dân, vì dân và việc vận dụng xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong thời kỳ mới” làm tiểu luận môn “Quan
điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam và tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng và
chính quyền Nhà nước”.
4
CHƯƠNG 1
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
CỦA DÂN, DO DÂN VÀ VÌ DÂN
1.1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền của dân, do
dân và vì dân
Nếu vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng là vấn đề chính quyền thì vấn đề
cơ bản của chính quyền là ở chỗ nó thuộc về ai, phục vụ quyền lợi cho ai. Năm
1927, trong cuốn “Đường Kách Mệnh”, Bác chỉ rõ: “Chúng ta đã hy sinh làm kách
mệnh, thì nên làm cho đến nơi, nghĩa là làm sao kách mệnh rồi thì quyền giao cho
dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người. Thế mới khỏi hy sinh nhiều
lần, thế dân chúng mới được hạnh phúc”. Sau khi giành độc lập, Người khẳng định,
“nước ta là nước dân chủ, bao nhiêu quyền hạn đều của dân, bao nhiêu lợi ích đều
vì dân... nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”. Đó là điểm khác nhau
giữa nhà nước ta với nhà nước bóc lột đã từng tồn tại trong lịch sử.
Thế nào là nhà nước của dân?
Điều 1 Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hoà (Năm 1946) khẳng định:
“Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hoà. Tất cả quyền bính trong nước là
của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo,
giai cấp, tôn giáo”.
Điều 32 của Hiến pháp viết: “Những việc liên quan đến vận mệnh quốc gia
sẽ đưa ra nhân dân phúc quyết...”, thực chất đó là chế độ trưng cầu dân ý, một hình
thức dân chủ đề ra khá sớm ở nước ta.
Nhà nước của dân thì mọi người dân là chủ, người dân có quyền làm bất cứ
việc gì mà pháp luật không cấm và có nghĩa vụ tuân theo pháp luật. Nhà nước của
dân phải bằng mọi nỗ lực, hình thành thiết chế dân chủ để thực thi quyền làm chủ
của người dân. Những vị đại diện do dân cử ra chỉ là thừa uỷ quyền của dân, chỉ là
công bộc của dân.
5
Thế nào là nhà nước do dân?
Nhà nước đó do nhân dân lựa chọn bầu ra những đại biểu của mình, nhà nước
đó do dân ủng hộ, giúp đỡ, đóng thuế để chi tiêu, hoạt động; nhà nước đó lại do dân
phê bình xây dựng, giúp đỡ. Do đó, Bác yêu cầu tất cả các cơ quan nhà nước là phải
dựa vào dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát
của nhân dân. “Nếu Chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi Chính phủ”, nghĩa
là khi cơ quan nhà nước không đáp ứng lợi ích và nguyện vọng của nhân dân thì
nhân dân có quyền bãi miễn nó. Hồ Chí Minh khẳng định: mỗi người có trách nhiệm
“ghé vai gánh vác một phần” vì quyền lợi, quyền hạn bao giờ cũng đi đôi với trách
nhiệm, nghĩa vụ.
Thế nào là nhà nước vì dân?
Đó là nhà nước phục vụ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân,
không có đặc quyền đặc lợi, thực sự trong sạch, cần kiệm liêm chính. Trong nhà
nước đó, cán bộ từ chủ tịch trở xuống đều là công bộc của dân.
“Việc gì có lợi cho dân ta phải hết sức làm,
Việc gì có hại đến dân ta phải hết sức tránh”.
Hồ Chí Minh chú ý mối quan hệ giữa người chủ nhà nước là nhân dân với
cán bộ, công chức nhà nước là công bộc của nhân dân, do nhân dân bầu ra, được
nhân dân thừa ủy quyền. Là người phục vụ, nhưng cán bộ nhà nước đồng thời là
người lãnh đạo, hướng dẫn nhân dân. “Nếu không có nhân dân thì Chính phủ không
đủ lực lượng. Nếu không có Chính phủ thì nhân dân không ai dẫn đường”. Cán bộ
là đày tớ của nhân dân là phải trung thành, tận tụy, cần kiệm liêm chính..., là người
lãnh đạo thì phải có trí tuệ hơn người, sáng suốt, nhìn xa trông rộng, gần gũi với
dân, trọng dụng hiền tài...
Cán bộ phải vừa có đức vừa có tài.
6
1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa bản chất giai cấp công
nhân với tính nhân dân và tính dân tộc của nhà nước ta
1.2.1. Bản chất giai cấp công nhân của nhà nước ta
Nhà nước ta mang bản chất giai cấp, “là nhà nước dân chủ nhân dân dựa trên
nền tảng liên minh công nông, do giai cấp công nhân lãnh đạo”. Bản chất giai cấp
công nhân biểu hiện ở chỗ:
- Nhà nước ta do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo. Đảng lãnh đạo bằng
những chủ trương, đường lối thông qua tổ chức của mình trong Quốc hội, Chính
phủ, các ngành, các cấp của Nhà nước; được thể chế thành pháp luật, chính sách, kế
hoạch của Nhà nước.
- Bản chất giai cấp còn thể hiện ở định hướng đưa nước ta đi lên chủ nghĩa
xã hội. “Bằng cách phát triển và cải tạo nền kinh tế quốc dân theo chủ nghĩa xã hội,
biến nền kinh tế lạc hậu thành một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa với công nghiệp và
nông nghiệp hiện đại, khoa học và kỹ thuật tiên tiến”.
- Bản chất giai cấp của Nhà nước ta còn thể hiện ở nguyên tắc tổ chức cơ bản
là nguyên tắc tập trung dân chủ. “Nhà nước ta phát huy dân chủ đến cao độ... mới
động viên được tất cả lực lượng của nhân dân đưa cách mạng tiến lên. Đồng thời
phải tập trung cao độ để thống nhất lãnh đạo nhân dân xây dựng chủ nghĩa xã hội”.
Bên cạnh dân chủ, Bác cũng nhắc đến chuyên chính, “chế độ nào cũng có
chuyên chính. Vấn đề là ai chuyên chính với ai?”. “Dân chủ là của quý báu của nhân
dân, chuyên chính là cái khoá, cái cửa để đề phòng kẻ phá hoại... dân chủ cũng cần
chuyên chính để giữ gìn lấy dân chủ”.
1.2.2. Bản chất giai cấp của Nhà nước ta thống nhất với tính nhân dân và
tính dân tộc
Tính thống nhất thể hiện ở chỗ:
7
(1) Nhà nước dân chủ mới ra đời là kết quả của cuộc đấu tranh lâu dài và gian
khổ với sự hy sinh xương máu của bao thế hệ cách mạng.
(2) Nhà nước ta vừa mang bản chất giai cấp vừa có tính nhân dân và tính dân
tộc vì nó lấy lợi ích của dân tộc làm nền tảng và bảo vệ lợi ích cho nhân dân. Trong
thời gian Người lãnh đạo đất nước, nhờ sách lược mềm dẻo, cũng như Người dung
nạp nhiều nhân sĩ, trí thức, quan lại cao cấp của chế độ cũ vào bộ máy nhà nước đã
thể hiện tư tưởng Nhà nước ta là nhà nước của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
- Nhà nước ta vừa ra đời đã đảm nhiệm vai trò lịch sử là tổ chức toàn dân
kháng chiến để bảo vệ nền độc lập, tự do của Tổ quốc, xây dựng một nước Việt
Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, góp phần tích cực vào sự
phát triển tiến bộ của thế giới.
1.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về một nhà nước pháp quyền có hiệu lực
pháp lý mạnh mẽ
1.3.1 Xây dựng một nhà nước hợp hiến
Nhà nước có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ trước hết là một nhà nước hợp hiến.
Vì vậy, sau khi giành chính quyền, Hồ Chí Minh đã thay mặt Chính phủ lâm thời
đọc Tuyên ngôn độc lập, tuyên bố với quốc dân đồng bào và với thế giới khai sinh
Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Chính phủ lâm thời có địa vị hợp pháp, tổng
tuyển cử bầu ra quốc hội rồi từ đó lập Chính phủ và các cơ quan nhà nước mới.
Sau đó, Người bắt tay xây dựng Hiến pháp dân chủ, tổ chức tổng tuyển cử
với chế độ phổ thông đầu phiếu, thành lập Ủy ban dự thảo Hiến pháp của nước Việt
Nam dân chủ cộng hoà. Chủ tịch Hồ Chí Minh được Quốc hội nhất trí bầu làm Chủ
tịch Chính phủ liên hiệp kháng chiến. Đây là Chính phủ hợp hiến đầu tiên do nhân
dân bầu ra, có đầy đủ tư cách và hiệu lực trong việc giải quyết các vấn đề đối nội
và đối ngoại.
8
1.3.2. Quản lý nhà nước bằng pháp luật và chú trọng đưa pháp luật vào
cuộc sống
Nhà nước pháp quyền có hiệu lực pháp lý là Nhà nước quản lý đất nước bằng
pháp luật và phải làm cho pháp luật có hiệu lực trong thực tế. Trong nhà nước dân
chủ, dân chủ và pháp luật luôn đi đôi với nhau, đảm bảo cho chính quyền trở nên
mạnh mẽ. Mọi quyền dân chủ phải được thể chế hoá bằng hiến pháp và pháp luật.
Xây dựng một nền pháp chế xã hội chủ nghĩa đảm bảo việc thực hiện quyền lực của
nhân dân là mối quan tâm của Hồ Chí Minh. Là người sáng lập Nhà nước Việt Nam
dân chủ, có công lớn trong sự nghiệp lập hiến và lập pháp, một mặt Người chăm lo
hoàn thiện Hiến pháp và hệ thống pháp luật của Nhà nước ta, mặt khác Người chăm
lo đưa pháp luật vào cuộc sống, tạo cơ chế đảm bảo cho pháp luật được thi hành, cơ
chế kiểm tra, giám sát việc thi hành của các cơ quan nhà nước và của nhân dân.
“Trăm điều phải có thần linh pháp quyền”. Sức mạnh là do con người và vì con
người, vì vậy, Hồ Chí Minh yêu cầu mọi người phải hiểu và tuyệt đối chấp hành
pháp luật, bất kể người đó giữ cương vị nào. Công tác giáo dục pháp luật cho mọi
người, đặc biệt là cho thế hệ trẻ cực kỳ quan trọng trong việc xây dựng một nhà
nước pháp quyền có hiệu lực pháp lý, đảm bảo quyền và nghĩa vụ công dân được
thực thi trong cuộc sống.
1.3.3. Tích cực xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức của Nhà nước có đủ
đức và tài
Để tiến tới một nhà nước pháp quyền có hiệu lực mạnh mẽ, Bác Hồ cho rằng,
phải nhanh chóng đào tạo, bồi dưỡng nhằm hình thành một đội ngũ viên chức nhà
nước có trình độ văn hoá, am hiểu pháp luật, thành thạo nghiệp vụ hành chính và
nhất là phải có đạo đức cần kiệm liêm chính chí công vô tư, một tiêu chuẩn cơ bản
của người cầm cân công lý. Yêu cầu của đội ngũ cán bộ phải có đức và tài, trong đó
đức là gốc, đội ngũ này phải được tổ chức hợp lý và có hiệu quả. Cụ thể là:
9
(1) Tuyệt đối trung thành với cách mạng.
(2) Hăng hái, thành thạo công việc, giỏi chuyên môn, nghiệp vụ.
(3) Phải có mối liên hệ mật thiết với nhân dân.
(4) Cán bộ, công chức phải là những người dám phụ trách, dám quyết đoán,
dám chịu trách nhiệm, nhất là những tình huống khó khăn, “thắng không kiêu, bại
không nản”.
Để đảm bảo công bằng và dân chủ trong tuyển dụng cán bộ nhà nước, Người
ký sắc lệnh ban hành Quy chế công chức. Công chức theo chế độ chức nghiệp, vì
vậy phải qua thi tuyển công chức để bổ nhiệm vào ngạch, bậc hành chính. Nội dung
thi tuyển khá toàn diện bao gồm 6 môn thi: chính trị, kinh tế, pháp luật, địa lý, lịch
sử và ngoại ngữ. Điều này thể hiện tầm nhìn xa, tính chính quy hiện đại, tinh thần
công bằng dân chủ... của tư tưởng Hồ Chí Minh trong việc xây dựng nền móng cho
Nhà nước pháp quyền Việt Nam.
1.4. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước trong sạch, vững
mạnh, hoạt động có hiệu quả
Thứ nhất, tăng cường và khắc phục những tiêu cực trong hoạt động của
Nhà nước.
Tăng cường pháp luật đi đôi với đẩy mạnh giáo dục đạo đức. Do tập quán của
kinh tế tiểu nông, muốn hình thành ngay một nhà nước pháp quyền là chưa được, vì
vậy một mặt phải nhấn mạnh vai trò của luật pháp, đồng thời tăng cường tuyên
truyền, giáo dục pháp luật trong nhân dân, nhất là giáo dục đạo đức. Đạo đức và
pháp luật là hai hình thái ý thức xã hội có thể kết hợp cho nhau. Khắc phục những
biểu hiện tiêu cực sau:
- Đặc quyền, đặc lợi.
- Tham ô, lãng phí, quan liêu.
10
- “Tư túng”, “chia rẽ”, “kiêu ngạo”.
Thứ hai, tăng cường pháp luật đi đôi với giáo dục đạo đức cách mạng. Bên
cạnh giáo dục đạo đức, Người kịp thời ban hành pháp luật.
Kiên quyết chống ba thứ “giặc nội xâm” là tham ô, lãng phí, quan liêu. Sức
mạnh và hiệu quả của luật pháp, một mặt dựa vào tính nghiêm minh của thi hành
pháp luật, mặt khác dựa vào sự gương mẫu, trong sạch về đạo đức của người cầm
quyền. Bác nói: “Tham ô, lãng phí, quan liêu, dù cố ý hay không, cũng là bạn đồng
minh của thực dân phong kiến... tội lỗi ấy cũng nặng như tội việt gian, mật thám”.
Mác và Ăngghen đã từng cảnh tỉnh giai cấp vô sản rằng chủ nghĩa quan liêu có thể
dẫn các đảng cộng sản cầm quyền đến chỗ “đánh mất một lần nữa chính quyền vừa
giành được”. Lênin cũng viết “...chúng ta bị khốn khổ trước hết về tệ quan liêu.
Những người cộng sản đã trở thành tên quan liêu. Nếu có cái gì sẽ làm tiêu vong
chúng ta thì chính là cái đó”.
Vì vậy, không thể nói đến một nhà nước trong sạch vững mạnh, hiệu quả nếu
không kiên quyết, thường xuyên đẩy mạnh cuộc đấu tranh để ngăn chặn tận gốc
những nguyên nhân gây ra nạn tham ô, lãng phí, quan liêu.
11
CHƯƠNG 2
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC
PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
2.1. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một
tất yếu lịch sử, khách quan
Quá trình xây dựng và phát triển của Nhà nước ta trong mỗi giai đoạn sau này
đã có không ít những thay đổi về mô hình bộ máy dưới tác động của nhiều yếu tố
chủ quan và khách quan, nhưng xuyên suốt mạch phát triển ấy vẫn là tư tưởng của
Hồ Chí Minh về một chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân. Ngày nay,
tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân vẫn còn nguyên giá trị và là một tất yếu lịch sử, khách quan.
2.1.1. Tính tất yếu lịch sử
Tính tất yếu lịch sử của việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam bắt
nguồn từ chính lịch sử xây dựng và phát triển của Nhà nước ta. Ngay từ khi thành
lập và trong quá trình phát triển, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã và luôn
là một nhà nước hợp hiến, hợp pháp. Nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ
sở các quy định của Hiến pháp và pháp luật và luôn vận hành trong khuôn khổ Hiến
pháp và pháp luật. Các đạo luật tổ chức Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân,
Viện kiểm sát nhân dân và các đạo luật về chính quyền địa phương được xây dựng
trên cơ sở các Hiến pháp năm 1946, năm 1959, năm 1980, năm 1992 và năm 2013.
Những lần Hiến pháp được sửa đổi và thông qua là những bước củng cố cơ
sở pháp luật cho tổ chức và hoạt động của bản thân các cơ quan nhà nước. Vì vậy,
có thể nói, quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam là một quá trình
lịch sử được bắt đầu ngay từ Tuyên ngôn độc lập năm 1945 và Hiến pháp năm 1946.
Ngày nay, quá trình này đang được tiếp tục ở một tầng cao phát triển mới với
nhiều đòi hỏi và nhu cầu cải cách mới.
12
2.1.2. Tính tất yếu khách quan
Tính tất yếu khách quan của việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam
xuất phát từ định hướng xã hội chủ nghĩa mà mục tiêu cơ bản là dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh. Chúng ta ý thức sâu sắc rằng, để xây dựng được một
chế độ xã hội có tính mục tiêu như vậy, công cụ, phương tiện cơ bản chỉ có thể là nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và một nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trên cơ sở chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Tính tất yếu khách quan ấy còn xuất phát từ đặc
điểm của thời đại với xu thế toàn cầu hóa. Nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi
chúng ta phải tiếp tục đẩy mạnh cải cách nhà nước, cải cách pháp luật, bảo đảm cho
Nhà nước không ngừng vững mạnh, có hiệu lực để giải quyết có hiệu quả các nhiệm
vụ phát triển kinh tế - xã hội, thực hành dân chủ, củng cố độc lập, tự chủ và hội nhập
vững chắc vào đời sống quốc tế.
2.2. Quan điểm của Đảng về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam
Thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã xác định Nhà nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải được xây dựng, tổ chức và vận hành theo thể chế
nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Đây là chủ trương,
đường lối có tính chiến lược của Đảng, xuất phát từ yêu cầu tất yếu, khách quan của
thực tiễn xây dựng và phát triển đất nước. Những yêu cầu tất yếu, khách quan đó
bao gồm: Một là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam nhằm
đáp ứng yêu cầu của tiến trình toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ. Hai là, xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam xuất phát từ yêu cầu quản lý và
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Ba là, xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam xuất phát từ yêu cầu phát triển xã hội
theo hướng dân chủ, hài hòa và bền vững.
13
Từ những yêu cầu trên đây, bắt đầu từ Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm
kỳ khóa VII (tháng 01-1994), Đảng Cộng sản Việt Nam đã sử dụng khái niệm nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và khẳng định sự cần thiết phải xây dựng nhà
nước pháp quyền như một điều kiện không thể thiếu để phát triển nền dân chủ thực
sự vì nhân dân. Trong Văn kiện Đại hội IX, Đảng ta đã khẳng định: “Nhà nước ta
là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, là nhà nước pháp
quyền của dân, do dân, vì dân. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công
và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp,
hành pháp, tư pháp. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật”.
Từ Nghị quyết Đại hội IX, tại Điều 2 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2001)
đã ghi nhận: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Tất cả quyền lực
nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với
giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân
công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập
pháp, hành pháp, tư pháp”.
Trong Văn kiện Đại hội X, Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Nhà nước ta là nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Cần xây dựng cơ chế vận hành của Nhà nước,
bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân. Quyền lực
nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực
hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng tính
cụ thể, khả thi của các quy định trong văn bản pháp luật. Xây dựng và hoàn thiện
thể chế kiểm tra, giám sát tính hợp hiến và hợp pháp trong các hoạt động và quyết
định của các cơ quan công quyền”.
Trong Văn kiện Đại hội XI, các đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa đã được khái quát một cách cô đọng, tập trung tại một luận điểm
14
về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Cụ thể, trong Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm
2011) có ghi rõ: “Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà
nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí
thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Quyền lực nhà nước là thống nhất; có
sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các
quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nhà nước ban hành pháp luật; tổ chức, quản lý
xã hội bằng pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Nhà
nước phục vụ nhân dân, gắn bó mật thiết với nhân dân, thực hiện đầy đủ quyền dân
chủ của nhân dân, tôn trọng, lắng nghe ý kiến của nhân dân và chịu sự giám sát của
nhân dân; có cơ chế và biện pháp kiểm soát, ngăn ngừa và trừng trị tệ quan liêu,
tham nhũng, lãng phí, vô trách nhiệm, lạm quyền, xâm phạm quyền dân chủ của
công dân; giữ nghiêm kỷ cương xã hội, nghiêm trị mọi hành động xâm phạm lợi ích
của Tổ quốc và của nhân dân. Tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước theo
nguyên tắc tập trung dân chủ, có sự phân công, phân cấp, đồng thời đảm bảo sự chỉ
đạo thống nhất của Trung ương”.
2.3. Những đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam
2.3.1. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, thể hiện quyền làm chủ của nhân dân
Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh “Nước ta là một nước dân chủ, địa vị cao nhất
là dân vì dân là chủ”; “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là nhân dân là chủ”. Với Hồ
Chí Minh, nhân dân là chủ thể tối cao và duy nhất của quyền lực nhà nước. Toàn bộ
quyền lực nhà nước đều bắt nguồn từ nhân dân, do nhân dân uỷ quyền cho bộ máy
nhà nước thực hiện, nhằm phụng sự lợi ích của nhân dân. Bộ máy nhà nước được
15
thiết lập là bộ máy thừa hành ý chí, nguyện vọng của nhân dân, đội ngũ cán bộ, công
chức nhà nước không thể là các ông quan cách mạng mà là công bộc của nhân dân.
Là nhà nước của dân, do chính nhân dân lập ra thông qua chế độ bầu cử dân chủ.
Bầu cử dân chủ là phương thức thành lập bộ máy nhà nước đã được xác lập trong
nền chính trị hiện đại, đảm bảo tính chính đáng của chính quyền khi tiếp nhận sự uỷ
quyền quyền lực từ nhân dân.
Tư tưởng về một nhà nước của dân, do dân, vì dân đã được thể chế hoá thành
một mục tiêu hiến định ngay trong bản Hiến pháp đầu tiên của chính thể dân chủ
cộng hoà ở nước ta - Hiến pháp 1946: “Xây dựng một chính quyền mạnh mẽ và sáng
suốt của nhân dân” (Lời nói đầu - Hiến pháp 1946). Đặc điểm này của Nhà nước ta
tiếp tục được khẳng định trong các bản Hiến pháp 1959, 1980, 1992 và 2013.
2.3.2. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam tổ chức và hoạt
động trên cơ sở Hiến pháp, tôn trọng và bảo vệ Hiến pháp
Trong nhà nước pháp quyền, ý chí của nhân dân và sự lựa chọn chính trị được
xác lập một cách tập trung nhất, đầy đủ nhất và cao nhất bằng Hiến pháp. Chính vì
lẽ đó mà Hiến pháp được coi là đạo luật cơ bản của Nhà nước, có hiệu lực pháp lý
cao nhất, quy định chế độ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh,
quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, cơ cấu, nguyên tắc tổ chức và hoạt động
của các cơ quan nhà nước. Sự hiện diện của Hiến pháp là điều kiện quan trọng nhất
bảo đảm sự ổn định xã hội và sự an toàn của người dân.
Những quan điểm lớn, những nội dung cơ bản của Hiến pháp là cơ sở pháp
lý quan trọng cho sự duy trì quyền lực nhà nước, cho sự làm chủ của nhân dân. Và
đó chính là nền tảng có tính chất hiến định để xem xét, đánh giá sự hợp hiến hay
không hợp hiến của các đạo luật, cũng như các quyết sách khác của Nhà nước và
của cá tính chất chính trị, tính chất xã hội.
16
Hiến pháp có một vai trò quan trọng như vậy trong việc duy trì quyền lực của
nhân dân, cho nên, việc xây dựng và thực hiện một cơ chế hữu hiệu cho việc phát
hiện, đánh giá và phán quyết về những quy định và hoạt động trái với Hiến pháp là
rất cần thiết trong tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước ở nước ta hiện nay.
2.3.3. Nhà nước pháp quyền Việt Nam quản lý xã hội bằng pháp luật, bảo
đảm vị trí tối thượng của pháp luật trong đời sống xã hội
Pháp luật xã hội chủ nghĩa của chúng ta là kết quả của sự thể chế hoá đường
lối, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam trên tất cả các mặt kinh tế, chính trị,
xã hội, văn hoá, giáo dục, khoa học, đối nội, đối ngoại. Pháp luật thể hiện ý chí và
nguyện vọng của nhân dân, phù hợp với hiện thực khách quan, thúc đẩy tiến bộ xã
hội. Vì vậy, nói đến pháp luật trong nhà nước pháp quyền là nói đến tính pháp luật
khách quan của các quy định pháp luật, chứ không phải chỉ nói đến nhu cầu đặt ra
pháp luật, áp dụng pháp luật, tuân thủ pháp luật một cách chung chung với mục đích
tự thân của nó.
Pháp luật của Nhà nước ta phản ánh đường lối, chính sách của Đảng và lợi
ích của nhân dân. Vì vậy, pháp luật phải trở thành phương thức quan trọng đối với
tính chất và hoạt động của Nhà nước và là thước đo giá trị phổ biến của xã hội ta:
công bằng, dân chủ, bình đẳng - những tố chất cần thiết cho sự phát triển tiến bộ và
bền vững của Nhà nước và xã hội ta.
Nhà nước pháp quyền đặt ra nhiệm vụ phải có một hệ thống pháp luật cần và
đủ để điều chỉnh các quan hệ xã hội, làm cơ sở cho sự tồn tại một trật tự pháp luật
và kỷ luật. Pháp luật thể chế hoá các nhu cầu quản lý xã hội, là hình thức tồn tại của
các cơ cấu và tổ chức xã hội và của các thiết chế nhà nước. Vì vậy, sống và làm việc
theo Hiến pháp và pháp luật là lối sống có trật tự và lành mạnh nhất của xã hội. Tất
cả các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và mọi công dân đều phải
nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật.
17
2.3.4. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam tôn trọng và bảo
vệ quyền con người, các quyền và tự do của công dân, giữ vững mối liên hệ giữa
Nhà nước và công dân, giữa Nhà nước và xã hội
Xét về bản chất, ngọn cờ bảo vệ quyền con người thuộc về các nhà nước cách
mạng chân chính, nhà nước xã hội chủ nghĩa. Cuộc đấu tranh suốt hàng chục năm
đầy gian khổ hy sinh của dân tộc Việt Nam vì độc lập, tự do dưới sự lãnh đạo của
Đảng suy cho cùng, chính là vì quyền con người, quyền được sống, quyền tự do và
quyền mưu cầu hạnh phúc của cộng đồng dân tộc và của từng cá nhân, từng con
người. Do vậy, vấn đề bảo đảm quyền con người, quyền công dân, mở rộng quyền
dân chủ, nâng cao trách nhiệm pháp lý giữa Nhà nước và công dân, giữa công dân
với Nhà nước… luôn được Đảng ta dành sự quan tâm đặc biệt. Nhiều hội nghị của
Trung ương Đảng đề cập đến vấn đề này như văn kiện đại hội Đảng VI, VII, VIII,
IX, X, XI và nhiều nghị quyết Trung ương khác. Văn kiện Đại hội Đảng VI xác
định: Xây dựng một chính quyền không có đặc quyền, đặc lợi, hoạt động vì cuộc
sống của nhân dân. Nghị quyết Trung ương 8 khoá VII xác định trên nguyên tắc:
dân chủ xã hội chủ nghĩa là vấn đề thuộc bản chất của Nhà nước ta. Phát huy quyền
làm chủ của nhân dân trên mọi lĩnh vực. Quyền làm chủ đó được thể chế hoá bằng
pháp luật… Dân chủ đi đôi với kỷ cương, kỷ luật… Văn kiện Đại hội Đảng IX xác
định rõ những phương châm cơ bản: xây dựng cơ chế cụ thể để thực hiện phương
châm: “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” đối với các chủ trương, chính sách
lớn của Đảng và Nhà nước. Thực hiện tốt các cơ chế làm chủ của nhân dân: làm chủ
thông qua đại diện (là cơ quan dân cử và các đoàn thể), làm chủ trực tiếp bằng các
hình thức nhân dân tự quản, bằng việc xây dựng và thực hiện các quy ước, hương
ước tại cơ sở. Đảng và Nhà nước tiếp tục đổi mới phong cách, bảo đảm dân chủ
trong quá trình chuẩn bị ra quyết định và thực hiện các quyết định.
18
2.3.5. Trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, quyền lực
nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước
trong việc thực hiện các quyền: lập pháp, hành pháp và tư pháp, có sự kiểm tra,
giám sát chặt chẽ việc thực hiện quyền lực nhà nước
Bắt đầu từ Đại hội Đảng lần thứ VII (1991), với “Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội”, quan điểm về sự tồn tại của ba
quyền và sự phân công, phối hợp giữa ba phạm vi quyền lực đó của Nhà nước mới
được chính thức khẳng định trên cơ sở tiếp thu, kế thừa, phát triển, vận dụng vào
hoàn cảnh lịch sử cụ thể của Việt Nam các tri thức của nhân loại và trước yêu cầu
của sự nghiệp đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà
nước. Và đến Hội nghị Trung ương 8 khoá VII, quan niệm của Đảng về ba quyền
đã được sự bổ sung quan trọng: quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công
và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện ba quyền lập
pháp, hành pháp, tư pháp. Quan điểm về sự thống nhất quyền lực nhà nước có sự
phân công, phối hợp chặt chẽ giữa ba quyền và quyền lực nhà nước là một quan
điểm có tính nguyên tắc chỉ đạo trong thiết kế mô hình tổ chức Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
2.3.6. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước do
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo
Ở Việt Nam, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với sự nghiệp xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân là một tất yếu
lịch sử và tất yếu khách quan. Không chỉ vậy, sự lãnh đạo đó còn có cơ sở đạo lý
sâu sắc và cơ sở pháp lý vững vàng.
Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam - Đảng duy nhất cầm quyền đối
với đời sống xã hội và đời sống nhà nước không những không trái (mâu thuẫn) với
19
bản chất nhà nước pháp quyền nói chung mà còn là điều kiện có ý nghĩa tiên quyết
đối với quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân,
vì dân ở nước ta. Trong ý nghĩa ấy, Nhà nước pháp quyền dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam, một Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam hành động là một trong những đặc
trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Đối với Nhà nước, sự lãnh đạo của Đảng là lãnh đạo chính trị, quyết định
phương hướng chính trị của Nhà nước, bảo đảm cho Nhà nước ta thực sự là tổ chức
thực hiện quyền lực của nhân dân, thực sự của dân, do dân và vì dân, để thực hiện
thành công công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước
triển khai tổ chức thực hiện các nghị quyết, chủ trương của Đảng bằng các hoạt động
quản lý nhà nước, tổ chức tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân tham gia quản lý
nhà nước, quản lý xã hội trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội,
an ninh, quốc phòng, đối ngoại…
20
CHƯƠNG 3
TÌNH HÌNH XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM HIỆN NAY
VÀ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ MỚI
3.1. Những thành tựu và hạn chế trong xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
3.1.1. Những thành tựu chủ yếu
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác
định nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo
của Đảng là một trong những nhiệm vụ có tính chiến lược trong quá trình thực hiện
các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020. Sự xác định mục tiêu xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong Báo cáo chính trị của Đại hội X không
chỉ là khẳng định quyết tâm chính trị của Đảng ta trong việc đẩy mạnh cải cách tổ
chức và hoạt động của Nhà nước, phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế mà còn là
sự đánh dấu một giai đoạn phát triển mới của sự nghiệp xây dựng nhà nước kiểu
mới - một nhà nước của dân, do dân, vì dân.
Quá trình xây dựng, tăng cường nhà nước xã hội chủ nghĩa của dân, do dân,
vì dân ở nước ta trong suốt mấy chục năm qua (đặc biệt trong những năm đổi mới)
đã đưa lại nhiều kết quả tích cực. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 khoá VIII và
các văn kiện Đại hội Đảng khoá IX, X, XI đã khẳng định công cuộc xây dựng và
hoàn thiện Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã có những tiến bộ quan trọng:
- Đã từng bước phát triển hệ thống quan điểm, nguyên tắc cơ bản về xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Hiến pháp 1992 và
nhiều bộ luật, luật, pháp lệnh đã được ban hành, tạo khuôn khổ pháp lý để Nhà nước
quản lý bằng pháp luật trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng... Đã
có nhiều quyết định cải cách có ý nghĩa quan trọng trên lĩnh vực xây dựng nhà nước
và pháp luật, làm cơ sở cho đổi mới hệ thống chính trị, đổi mới tổ chức hoạt động
của bộ máy nhà nước.
21
- Dân chủ xã hội chủ nghĩa tiếp tục được phát huy trên nhiều lĩnh vực. Dân
chủ về kinh tế ngày càng được mở rộng đã tác động tích cực đến việc giải phóng
sức sản xuất, là động lực thúc đẩy kinh tế phát triển, nâng cao đời sống nhân dân.
Dân chủ về chính trị có bước tiến quan trọng, thể hiện ở việc bầu các cơ quan dân
cử, ở chất lượng sinh hoạt của Quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp, tại các cuộc
thảo luận của nhân dân tham gia ý kiến xây dựng các dự án luật, trong hoạt động
của báo chí...
- Tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước, trước hết là của cơ
quan hành chính nhà nước, đã có một bước điều chỉnh theo yêu cầu của quá trình
chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp sang quản lý nền kinh tế
nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước đã có bước
đổi mới, vừa bảo đảm tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, vừa phát huy trách
nhiệm, tính chủ động của các cơ quan nhà nước.
3.1.2. Những hạn chế, yếu kém
- Bộ máy nhà nước ta chưa thật trong sạch, vững mạnh; tình trạng tham
nhũng, lãng phí, quan liêu còn nghiêm trọng, chưa được ngăn chặn; hiệu lực quản
lý, điều hành chưa cao; kỷ cương xã hội còn bị buông lỏng, làm giảm sút lòng tin
của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước ta.
- Quản lý nhà nước chưa ngang tầm với đòi hỏi của thời kỳ mới; chưa phát
huy đầy đủ mặt tích cực và hạn chế được tính tự phát, tiêu cực của kinh tế thị trường.
Đất đai, vốn và tài sản nhà nước chưa được quản lý chặt chẽ, sử dụng lãng phí và
thất thoát nghiêm trọng.
- Tổ chức bộ máy nhà nước còn nặng nề, sự phân công và phối hợp giữa các
22
cơ quan nhà nước trong việc thực hiện ba quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp còn có
những điểm chưa rõ về chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ, phân cấp trung ương địa phương còn một số mặt chưa cụ thể (như về quản lý đầu tư, tài chính, tổ chức bộ
máy, kết hợp quản lý theo ngành và lãnh thổ...), làm cho tình trạng tập trung quan
liêu cũng như phân tán, cục bộ chậm được khắc phục.
- Sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước vẫn còn tình trạng buông lỏng và
bao biện, chống chéo nên chưa phát huy tốt vai trò lãnh đạo của Đảng và hiệu lực
điều hành của bộ máy nhà nước.
* Có nhiều nguyên nhân gây nên những yếu kém của hệ thống chính trị,
của bộ máy nhà nước, trong đó chủ yếu là:
- Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong điều kiện
chuyển đổi nền kinh tế là nhiệm vụ mới mẻ, hiểu biết của chúng ta còn ít, có nhiều
việc phải vừa làm, vừa tìm tòi, rút kinh nghiệm.
- Đảng chưa làm tốt việc lãnh đạo cụ thể hoá nghị quyết của Đảng về xây
dựng nhà nước để có chủ trương kịp thời xử lý những vấn đề phát sinh trong thực
tiễn đổi mới, đặc biệt là những vấn đề nổi lên ngày càng bức xúc như tình trạng
quan liêu, lãng phí, tham nhũng, thiếu trách nhiệm trong bộ máy nhà nước; thiếu
những biện pháp tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương kiên quyết, hợp lý và đủ
mạnh để tạo chuyển biến tích cực nhằm khắc phục những khuyết điểm, yếu kém.
- Chưa kịp thời tổng kết thực tiễn và còn thiếu cơ sở khoa học khi quyết định
một số chủ trương về sắp xếp điều chỉnh tổ chức bộ máy ở trung ương và địa phương
nên khi thực hiện có vướng mắc, hiệu quả và tác dụng còn hạn chế.
- Các cơ quan nhà nước chưa phát huy đầy đủ trách nhiệm trong việc quán
triệt và tổ chức thực hiện các nghị quyết của Đảng; trong việc tự đổi mới, tự chỉnh
đốn, bảo đảm sự trong sạch và nâng cao hiệu quả hoạt động ở từng cơ quan, đơn vị.
23
- Các đoàn thể quần chúng chưa chú trọng xây dựng các nội dung cụ thể, thiết
thực và đổi mới phương thức hoạt động để tổ chức vận động nhân dân phát huy
quyền làm chủ trong việc tham gia xây dựng chính quyền, giám sát hoạt động của
cán bộ, công chức nhà nước và thực hiện đầy đủ nghĩa vụ công dân, sống, làm việc
theo hiến pháp, pháp luật.
3.2. Một số giải pháp xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam trong thời kỳ mới
3.2.1. Nâng cao nhận thức về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam
Trước hết, phải nâng cao nhận thức về các đặc trưng cơ bản của Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam: không chỉ là nhà nước của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân, mà còn phải “bảo đảm Nhà nước ta thực sự là của nhân dân,
do nhân dân và vì nhân dân, do Đảng lãnh đạo”; không chỉ là nhà nước quản lý, điều
hành theo pháp luật, mà còn phải “nâng cao năng lực quản lý và điều hành của Nhà
nước theo pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa và kỷ luật, kỷ cương”;
không chỉ là nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, mà còn phải
“nghiên cứu xây dựng, bổ sung các thể chế và cơ chế vận hành cụ thể để bảo đảm
nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân và nguyên tắc quyền lực
nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan
trong việc thực hiện ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp”; không chỉ là đề cao
vai trò của pháp luật trong nhà nước pháp quyền, mà còn phải “tiếp tục hoàn thiện
hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách để vận hành có hiệu quả nền kinh tế và thực
hiện tốt các cam kết quốc tế, bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc”.
3.2.2. Tiếp tục đổi mới tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước
Đổi mới tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước là khâu then chốt đảm bảo
24
sự thành công của việc xây dựng, sự vận hành có hiệu lực, hoạt động có hiệu quả
cao của Nhà nước pháp quyền xã hội hội nghĩa Việt Nam. Với ý nghĩa đó, Văn kiện
Đại hội XI của Đảng đã đề ra các giải pháp nhằm tiếp tục đổi mới tổ chức, hoạt động
của bộ máy nhà nước:
Thứ nhất, “đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, đảm bảo Quốc hội
thực sự là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao
nhất...”. Muốn đạt được mục đích đó, công tác bầu cử đại biểu Quốc hội cần có sự
đổi mới, hoàn thiện về cơ chế để cử tri có thể lựa chọn và bầu được những người đủ
đức, đủ tài, xứng đáng trở thành đại biểu của nhân dân trong Quốc hội. Vấn đề gia
tăng tính dân chủ, công khai, đối thoại trên tinh thần thẳng thắn, cởi mở trong các
phiên thảo luận và hoạt động chất vấn trên diễn đàn Quốc hội cũng phải được chú
trọng và tăng cường hơn nữa.
Thứ hai, “tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng công tác xây dựng pháp
luật, trước hết là quy trình xây dựng luật, pháp lệnh; luật, pháp lệnh cần quy định
cụ thể, tăng tính khả thi để đưa nhanh vào cuộc sống...”. Đây cũng đang là đòi hỏi
cấp thiết của thực tiễn đời sống pháp luật, khi mà các luật, pháp lệnh của Nhà nước
cứ phải thường xuyên sửa đổi, bổ sung. Để nâng cao chất lượng công tác xây dựng
pháp luật thì cần phải tăng cường hoạt động khảo sát thực tiễn các quan hệ xã hội
đang cần có pháp luật điều chỉnh; làm thật tốt công tác dự báo pháp luật.
Thứ ba, “nghiên cứu xác định rõ hơn quyền hạn và trách nhiệm của Chủ tịch
nước để thực hiện đầy đủ chức năng nguyên thủ quốc gia, thay mặt Nhà nước về
đối nội, đối ngoại và thống lĩnh các lực lượng vũ trang; quan hệ giữa Chủ tịch nước
với các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp”.
Thứ tư, “tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ theo hướng
xây dựng nền hành chính thống nhất, thông suốt, trong sạch, vững mạnh; có hiệu
25