MỤC LỤC
A. Phần mở đầu
1. Lý do chọn đề tài ………………………………………………………………02
2. Mục đích nghiên cứu………………………………………………………….. 03
3. Nhiệm vụ nghiên cứu…………………………………………………………..03
4. Đối tượng nghiên cứu…………………………..................................................03
5.Phương pháp nghiên cứu………………………………………………………..04
6. Phạm vi nghiên cứu…………………………………………………………….04
B. Phần nội dung:………………………………………………………………..04
Chương 1. Cơ sở lý luận …………………………………………………….05, 06
Chương 2. Thực trạng của vấn đề…………………………………………........07
2.1. Thuận lợi……………………………………………………………………...07
2.1. Khó khăn …………………………………………………………………07, 08
Chương 3. Các biện pháp tiến hành giải quyết vấn đề………………………..07
Biện pháp 1: Giúp bé có cảm giác thích thú mỗi khi giao tiếp ……………….09, 10
Biện pháp 2. Thường xuyên kiểm tra, đánh giá………………………………......10
Biện pháp 3: Phối kết hợp với gia đình, cộng đồng để giáo dục trẻ:.................11, 12
Biện pháp 5.Giúp trẻ luôn cảm thấy tự tin khi tiếp nhận các thử thách mới:..........13
Biệnpháp 6. Thông qua các họat động vui chơi:.........……………………………13
Biện pháp 7.Thông qua các hoạt động lễ hội:………………….............................14
Biện pháp 8. Cho trẻ được tư do và hành động theo suy nghĩ của trẻ:……………14
Biện pháp 9.Luôn thay đổi môi trưòng chơi cho trẻ ...................................………15
Chương 4: Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm………………………………14
C. Kết luận, đề xuất và kiến nghị……………………………………………….15
D. Phụ lục…………………………………………………………………...........20
1
A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Sự nghiệp giáo dục có một vị trí quan trọng trong chiến lược phát triển đất
nước về trước mắt cũng như lâu dài. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của
Đảng đã xác định “cùng với khoa học và công nghệ, Giáo dục và Đào tạo là quốc
sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”. Nghị
quyết Đại hội đại biểu lần thứ IX của Đảng đã nhấn mạnh: “Phát triển Giáo dục Đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá, là điều kiện để phát huy nguồn nhân lực, là yếu tố cơ bản để phát
triển xã hội và tăng trưởng kinh tế bền vững”.
Mục tiêu của giáo dục là đào tạo, xây dựng những thế hệ con người mới có
đủ tài, đức, bản lĩnh để đưa đất nước tiến lên đuổi kịp trào lưu phát triển của thế
giới, hình thành những công dân có ích cho xã hội; vì vậy Giáo dục là sự nghiệp
của toàn Đảng, toàn dân và toàn xã hội. Các cấp Đảng ủy, chính quyền, các ban
ngành, đoàn thể, các tổ chức kinh tế xã hội, các gia đình và cá nhân đều có trách
nhiệm tích cực góp phần vào sự nghiệp phát triển Giáo dục - Đào tạo của đất nước.
Trong hệ thống Giáo dục quốc dân, Giáo dục Mầm non chiếm một vị trí vô
cùng quan trọng, đây là bậc học đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân, là nền
tảng của ngành Giáo dục & Đào tạo; Bác Hồ kính yêu đã từng nói: “Giáo dục mầm
non tốt sẽ mở đầu cho một nền giáo dục tốt”.
Giai đoạn phát triển của trẻ ở lứa tuổi mầm non có tính quyết định đến thể
lực, nhân cách, năng lực phát triển trí tuệ của trẻ trong suốt cả cuộc đời. Tuổi thơ
ấu của con người là một giai đoạn tràn đầy hạnh phúc trong vòng tay của ông bà,
cha mẹ. Song do sự phát triển của xã hội nên trẻ đã được gởi tới trường Mầm non
để học tập nhằm giúp cha mẹ, các bậc phụ huynh làm việc, tham gia vào lao động
xã hội. Điều này cho thấy thời gian sống ở các trường của trẻ rất lâu, bằng 2/3 số
thời gian trẻ thức trong ngày. Làm thế nào để giúp trẻ sống trong một tập thể đông
2
đúc có nề nếp, ngoan ngoãn, hiểu biết mà vẫn hồn nhiên, mạnh dạn, linh hoạt như
ở gia đình, đó là nhiệm vụ rất khó khăn của một giáo viên phụ trách nhóm lớp.
Thông thường giáo viên tuy đã đi học ở trường Sư phạm về sự cần thiết phải
xây dựng, phát triển nhân cách toàn diện cho trẻ phù hợp với việc phát triển tâm
sinh lý lứa tuổi nhưng trong thực tế hầu hết giáo viên hay chú trọng tới việc dạy trẻ
những hoạt động học mà không chú ý đến việc rèn nề nếp, thói quen tự phục vụ
cho trẻ. Thực tế hiện nay cho thấy, trẻ em Việt Nam vẫn còn thiếu các kỹ năng
sống cần thiết. Vì vậy, việc trang bị văn hoá và kỹ năng sống đó đến lúc cần song
hành với nhau. Đây là vấn đề hết sức quan trọng đối với mọi lứa tuổi, đặc biệt là
lứa tuổi mầm non hiện nay. Làm thế nào để trẻ biết cách đối phó với những khó
khăn trong cuộc sống hằng ngày. Biết cách tự bảo vệ bản thân khi không có cha
mẹ, người lớn bên cạnh.
Với nhiệm là người cán bộ quản lý phụ trách ngành học mầm non, tôi luôn trăn trở,
suy nghĩ trước các vấn đề cấp bách của xã hội. Tôi thiết nghĩ mình nên làm một
việc gì đó cho những mầm xanh tương lai của đất nước. Chính vì vậy tôi đã chọn
đề tài “ Một số biện pháp giúp giáo viên giáo dục kỹ năng sống cho trẻ trong
trường mầm non” nhằm đề ra một số biện pháp cụ thể, yêu cầu giáo viên thực
hiện để giúp các cháu có được những kỹ năng sống cần thiết đúng với lứa tuổi
mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích tôi chọn đề tài này nhằm đưa ra các phương pháp, biện pháp cụ thể
để cho giáo viên giúp trẻ hình thành cho trẻ có kỹ năng sống, tự phục vụ cho bản
thân ngay từ lúc nhỏ
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Đối với nhiệm vụ này tôi muốn nói về vấn đề giáo dục kỹ năng sống cho trẻ
ngay từ khi trẻ mới bước vào trường thông qua việc quan sát theo dõi quá trình
thực hiện trẻ, từ đó hướng dẫn cho trẻ thực hiện được tốt hơn.
4. Đối tượng nghiên cứu
3
Một số biện pháp giúp giáo viên rèn kỹ năng sống cho trẻ trong trường mầm
non
5. Phương pháp nghiên cứu
Khi lựa chọn đề tài này tôi đã lựa chọn phương pháp:
- Phương pháp nghiên cứu lý luận, phân tích , tổng hợp
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
6. Phạm vi nghiên cứu
Giáo dục kỹ năng sống cho tất cả học sinh Trường Mầm non Hoạ Mi trong
năm học 2013 – 2014
4
B. PHẦN NỘI DUNG
Chương 1. Cơ sở lý luận
Thạc sỹ - chuyên viên tâm lý Phạm Thị Thúy đã dành nhiều thời gian để
nghiên cứu hành vi của trẻ, nhận định “Trẻ sẽ tự định hình nhân cách một cách tự
nhiên, tuy nhiên, nếu được tham gia những khóa học về kỹ năng sống, trẻ sẽ tự lập,
tự tin hơn và dĩ nhiên, bé sẽ hòa nhập tốt hơn”.
Vậy kỹ năng sống là gì ? Kỹ năng sống chính là những kỹ năng tinh thần
hay những kỹ năng tâm lý - xã hội giúp cho cá nhân tồn tại và thích ứng trong cuộc
sống. Kỹ năng sống còn được xem như một biểu hiện quan trọng của năng lực tâm
lý xã hội giúp cho cá nhân vững vàng trong cuộc sống có nhiều thách thức cũng
như nhiều cơ hội trong thực tại.
Hay nói cách khác : Kỹ năng sống là những kỹ năng cần có cho hành vi
lành mạnh cho phép bạn đối mặt với những thách thức của cuộc sống hằng ngày.
Cuộc sống bây giờ phức tạp, có rất nhiều sự việc đã xảy ra cho trẻ em ở lứa
tuổi mầm non như việc cô giáo mầm non ép trẻ ăn một cách tàn bạo, hay cô giáo
đánh trẻ em khi các cháu không nghe lời. Thực tế hiện nay cho thấy chúng ta phải
thừa nhận một điều là trẻ con ngày nay đã thông minh hơn, hoạt bát hơn, lém lĩnh
hơn. Nhưng khi cháu vào lớp học thì các cháu không dám nói lên những điều trẻ
thích, không dám mạnh dạn sinh hoạt trong tập thể, giao tiếp với người lớn theo
suy nghĩ của mình. Vì thế, nếu không rèn kỹ năng sống cho trẻ sóm thì trẻ sẽ
không mạnh dạn, tự tin đối mặt với những thử thách của cuộc sống sau này. Chính
vì vậy không phải đợi trẻ em lớn lên mới cho tiếp cận mà sớm cho trải nghiệm, sẽ
tốt hơn. Có thể trải nghiệm dưới những hình thức này, hình thức khác. Và một
trong những con đường dạy các em trải nghiệm là qua giáo dục. Hiện tại, giáo dục
của chúng ta tập trung nhiều vào giảng dạy văn hoá, mà chưa chú trọng đến nhiều
những khía cạnh hoạt động tinh thần.
Một điều rất cần hiện nay là giáo dục cho học sinh một nền tảng sâu hơn về
giá trị sống và kỹ năng sống. Giáo dục về giá trị sống để dạy cho các em biết thế
5
nào là tôn trọng, yêu thương, tự do…Ý thức được những giá trị căn bản này, các
em sẽ trang bị nhận thức và bản lĩnh tốt hơn. Cần dạy cho các em nhiều hơn về các
kỹ năng sống :
Kỹ năng tư duy, kỹ năng giao tiếp, lắng nghe, biết xử lý tình huống, giúp
trẻ luôn cảm thấy tự tin khi tiếp nhận các thử thách mới…
Từ nhận thức sâu sắc đó, mà tôi luôn quan tâm đến việc chăm sóc giáo dục
trẻ của giáo viên trong trường. Từ đó xây dựng, bồi dưỡng giáo viên có phẩm chất
đạo đức tốt, chất lượng chuyên môn cao, có lòng yêu nghề mến trẻ, tận tụy say sưa
với công việc, coi trường như nhà, quý trẻ như con để rèn luyện cho trẻ có những
kỹ năng sống ngay từ lứa tuổi mầm non .
6
Chương 2. Thực trạng của vấn đề :
2.1. Thuận lợi
- Bộ giáo dục đã chỉ đạo tăng cường giáo dục đạo đức, rèn kỹ năng sống
cho học sinh . Đó là một trong những nhiệm vụ chung của giáo dục mầm non, giáo
dục phổ thông, giáo dục thường xuyên, giáo dục chuyên nghiệp trong năm học
2010-2011.
( Chỉ thị số 3399/CT-BGDĐT)
- Đội ngũ giáo viên trẻ khỏe, yêu nghề mến trẻ, nhiệt tình trong công tác.
- Trình độ đào tạo của giáo viên đạt chuẩn so với yêu cầu hiện nay.
- Nhà trường luôn tạo điều kiện thuận lợi về cơ sở vật chất cũng như đề ra
các hoạt động nhằm rèn kỹ năng sống cho trẻ
- Giáo viên trong lớp luôn có sự thống nhất phối hợp chặt chẽ với nhau
trong công tác chăm sóc giáo dục các cháu .
- Một số phụ huynh luôn quan tâm và kết hợp với cô giáo trong việc giáo
dục các cháu .
2.2 Khó khăn :
Với sự bùng nổ thông tin như hiện nay, các em có điều kiện tiếp xúc với
nhiều cái mới thông qua các phương tiện truyền thông như: Phim ảnh, Internet…
những giải pháp mà ngành Giáo dục và Đào tạo triển khai nhằm giáo dục kỹ năng
sống cho học sinh chưa đáp ứng được nhu cầu .
- Đa số giáo viên trẻ, mới ra trường nên chưa có kinh nghiệm chăm sóc, giáo
dục các cháu một cách hợp lý. Chưa biết cách đưa các nội dung giáo dục kỹ năng
sống vào các hoạt động cho trẻ một cách hiệu quả.
- Giáo viên cũng chưa giúp trẻ hiểu được khi gặp khó khăn thì chúng cần
phải có sự giúp đỡ của người khác để vượt qua.
- Đa số học sinh là người dân tộc thiểu số và một số trẻ mới đi học lần đầu
tiên nên có đặc điểm tâm lý rụt rè , nhút nhát, không mạnh dạn , tự tin khi giao tiếp
với người lạ.
7
- Để nắm được tình hình của các cháu về kỹ năng sống như thế nào, đầu
năm tôi triển khai cho giáo viên tiến hành khảo sát các cháu để nắm được tình hình
thực tế nhằm đưa ra những biện pháp kịp thời. Kết quả như sau:
10% thực hiện tốt
15% trẻ thực hiện khá
20% trẻ thực hiện ở mức trung bình
55% trẻ yếu kém chưa thực hiện được.
Đây là một kết quả khảo sát quá thấp so với yêu cầu đặt ra. Để giáo dục kỹ
năng sống cho các cháu đạt hiệu quả, tôi không chỉ chú trọng vào giáo dục các
kiến thức khoa học mà cần thực hiện giáo dục kỹ năng sống cho trẻ một cách hài
hòa, tự nhiên với nhiều phương pháp đa dạng, đủ để các cháu có thể ứng xử phù
hợp với những vấn đề trong học tập , sinh hoạt và trong cuộc sống hằng ngày .
8
Chương 3. Các biện pháp tiến hành để giải quyết vấn đề :
Để thực hiện tốt nhiệm vụ của giáo viên mầm non và thực hiện lời dạy của
Bác Hồ đã để lại: Dạy mẫu giáo là thay mẹ dạy trẻ, Muốn làm được thì trước hết
phải thương yêu trẻ , các cháu nhỏ hay quấy, phải bền bỉ, chịu khó mới nuôi dạy
được các cháu, dạy trẻ nhỏ tốt thì sau này các cháu mới trở thành người tốt. Như
chúng ta đã biết, trường mầm non là ngôi nhà thứ hai của trẻ, ở đó trẻ được học,
được chơi, được chăm sóc yêu thương bằng tình yêu của các cô giáo như người mẹ
hiền. Tuy nhiên, không phải cháu nào cũng như nhau: có cháu nhút nhát, có cháu
quá hiếu động, có cháu nói ít, có cháu nói nhiều, mỗi cháu mỗi tính ,mỗi nết . Song
để trẻ có thể học tập và vui chơi một cách có hiệu quả nhất khi chúng thực sự hứng
thú vào hoạt động. Trẻ cần được tự do lựa chọn hoạt động mà chúng thích. Để làm
được việc này tôi thiết nghĩ rằng trước hết trẻ cần có niềm tin ở chính bản thân
mình, vào giáo viên, vào bạn bè và vào môi trường xung quanh để từ đó hình thành
nên những kỹ năng sống cần thiết để trẻ cùng hòa nhập với môi trường xã hội, Và
để thực hiện được điều này tôi đã đề ra những biện pháp để giúp giáo viên rèn cho
trẻ những kĩ năng sống phù hợp cho trẻ.
Biện pháp 1: Giúp bé có cảm giác thích thú mỗi khi giao tiếp
Hàng tháng trong những buổi họp chuyên môn tôi thường đưa ra những việc
chưa thực hiện được để các cô cùng thảo luận. Tôi hướng dẫn và gợi ý các cô nên
gần gũi trò chuyện cùng trẻ, đừng rầy la khi cháu làm sai. Mà ngược lại phải tôn
trọng cháu không xem thường những thắc mắc những câu hỏi của cháu.
Và không chỉ gợi ý cho các cô bằng lời, tôi đã hành động để các cô nắm
vững cách : thường xuyên vào lớp hoặc những giờ sinh hoạt ngoài trời, giờ vui
chơi, nói chuyện với trẻ bình thường và gần gũi với các cháu, đặc biệt là các cháu
lớp 3 tuổi ..; Như cháu tên gì? Cháu năm nay bao nhiêu tuổi?
Sử dụng những câu chuyện đơn giản bằng cách gợi cho cháu trả lời bằng
những ngôn ngữ bình thường, dần dần các cháu hết bị gò bó, không còn nhút nhát
9
nữa và còn thấy rằng “ cô Hiệu trưởng, Phó Hiệu trưởng nói chuyện cũng rất giống
mẹ nói chuyện với con”.
Tôi thường xuyên nhắc nhở các cô giáo nên hạn chế phân tích những điều
chưa tốt một cá nhân nào đó trước lớp mà chỉ nên giáo dục cháu trên những nhân
vật trong truyện... Và để giúp bé mạnh dạn cô mời bé đứng lên – xác nhận những
gì cha mẹ kể cho cô nghe và động viên bé kể những việc làm tốt ở nhà. Mục đích
của cô sẽ đạt rất nhanh, vì bé sẽ rất tự tin những điều cô nói về mình.
Đối với trẻ chậm phát triển về ngôn ngữ, chưa biết diễn đạt nhu cầu của
mình qua lời nói, cô hỏi trẻ chỉ biết nhắc lại câu hỏi của cô chứ không biết trả lời .
Tôi thường xuyên nhắc nhở các giáo viên trong lớp luôn trò chuyện và hỏi trẻ ở
mọi lúc mọi nơi . Tập cho trẻ nhắc lại câu trả lời theo cô. Dần dần trẻ nhớ được tên
cô, tên lớp và và biết cách trả lời một số câu hỏi như : Bố tên gì ? mẹ tên gì ? bố
làm ở đâu?
Biện pháp 2. Thường xuyên kiểm tra, đánh giá
Đây là một trong những việc làm thường xuyên của người cán bộ quản lý.
Hằng ngày, tôi thường xuyên kiểm tra đột xuất các lớp trong các giờ sinh hoạt và
hoạt động của các lớp xem các kỹ năng sống của các cháu như thế nào. Thông qua
đó, tôi nắm bắt được những mặt mạnh, mặt hạn chế của từng lớp để có biện pháp
thích hợp hơn giúp cho giáo viên có biện pháp chăm sóc, giáo dục cháu phù hợp.
Khi kiểm tra, đánh giá nếu đạt yêu cầu hay chưa đạt yêu cầu , tôi góp ý và lên kế
hoạch kiểm tra lại ngay hoạt động đó và cùng giáo viên hướng dẫn cho các cháu.
Qua công tác này, tôi kịp thời uốn nắn, nhắc nhở những giáo viên còn thiếu sót, tạo
cho giáo viên tâm thế thoải mái phấn đấu vươn lên hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Biện pháp 3: Phối kết hợp với gia đình, cộng đồng để giáo dục trẻ:
Công tác tuyên truyền ở bậc học Mầm Non đóng vai trò rất quan trọng, đặc
biệt ở vùng nông thôn và con em dân tộc thiểu số. Phụ huynh ở vùng nông thôn
nhận thức về việc chăm sóc giáo dục trẻ còn thấp, chưa chú ý đến việc giáo dục kỹ
năng sống cho trẻ . Vậy làm thế nào để đông đảo phụ huynh hiểu được tầm quan
10
trọng của công tác chăm sóc - giáo dục trẻ em ở lứa tuổi mầm non là cần thiết, điều
này đòi hỏi mỗi cán bộ, giáo viên trong các nhà trường phải tích cực, tăng cường
công tác tuyên truyền những kiến thức nuôi dạy trẻ theo khoa học tới toàn thể phụ
huynh và cộng đồng, tuyên truyền để họ hiểu được trẻ ở lứa tuổi càng nhỏ thì sự
tác động để phát triển trí tuệ, thể lực của trẻ sẽ tốt hơn so với trẻ lớn, từ đó họ sẽ
phối kết hợp với nhà trường để giáo dục trẻ.
Vì vậy, tôi đã chỉ đạo các lớp tích cực công tác tuyên truyền tới phụ huynh
và cộng đồng về nội dung chương trình chăm sóc, giáo dục trẻ;rèn cho trẻ những
kỹ năng sống phù hợp độ tuổi và có phương pháp nuôi dạy trẻ theo khoa học. Tôi
chỉ đạo các các lớp tuyên truyền bằng cách: Lập sổ kế hoạch tuyên truyền, viết bài
tuyên truyền hàng tháng, tuyên truyền trên thông tin đại chúng, xây dựng bảng
tuyên truyền của nhà trường, xây dựng góc tuyên truyền của các nhóm lớp, tổ chức
Hội thảo chuyên đề mới phụ huynh và các ban ngành đoàn thể về dự, tuyên truyền
qua buổi họp phụ huynh 2 lần/năm, yêu cầu giáo viên thường xuyên trao đổi nội
dung chăm sóc, giáo dục trẻ với phụ huynh trong giờ đón, trả trẻ.
Biện pháp 4: Dạy cho trẻ những thói quen tự phục vụ :
Trẻ ở tuổi mầm non có hành vi bắt chước rất lớn nhất là trẻ ở độ tuổi 3-4
tuổi, nếu như chúng ta rèn cho trẻ những thói quen lâu ngày sẽ thành kỹ năng. Vì
thế , tôi yêu cầu giáo viên khi giáo dục các kỹ năng sống cho trẻ phải biết dẫn dắt
từ những câu chuyện, bài hát ...Chẳng hạn, thông qua câu chuyện “Gấu con bị đau
răng ” giáo viên sẽ hỏi trẻ vì sao nên đánh răng ? Từ đó giúp trẻ ý thức được không
đánh răng sẽ bị đau răng như Gấu con . Ngoài ra phải dạy cho trẻ có những thói
quen như : Biết rửa tay sau khi đi vệ sinh, sau khi chơi, biết tự xúc cơm ăn, biết
mặc quần áo, biết trãi nệm gối khi ngủ… Để giúp trẻ hình thành thói quen , đối với
độ tuỏi 3-4 tuổi thì này tôi phải làm mẫu cho trẻ xem sau đó cho trẻ thực hiện dưới
sự quan sát của cô và có sự động viên tuyên dương kịp thời . Từ đó, sẽ hình thành
cho trẻ ở độ tuổi 4- 5 tuổi tự phục vụ bản thân, và trẻ 5-6 tuổi sẽ biết tự giác làm
11
những công việc nhẹ nhàng phục vụ bản thân mà không cần sự nhắc nhở, hướng
dẫn của cô
“Trẻ 4 tuổi biết tự trải chiếu khi đến giờ ngủ.”
Không phải cháu nào cũng có ý thức tự phục vụ bản thân. Tuy các cháu đa
số là người dân tộc thiểu sô nhưng cũng có những cháu là con cưng của gia đình
nên ở nhà mọi việc đều có ba mẹ làm giúp. Đến lớp cháu có thói quen để bạn làm
giúp mình . Biết được điều đó tôi dùng hình thức “ giao việc cho trẻ ” nhưng phải
vừa sức của trẻ. Khi trẻ thực hiện được tôi khen và động viên trẻ “ Cháu làm giỏi
lắm !”. Ngoài ra, tôi còn dạy cho trẻ văn hóa trong ăn uống như: Biết sử dụng đồ
dùng đúng như ca dùng uống nước, muỗng nhỏ dùng ăn cơm, dạy trẻ có hành vi
trong ăn uống như: Ăn không ngậm cơm, ăn không rơi vãi , ăn chuối không nên lột
hết cả vỏ mà ăn đến đâu lột đến đó , hoặc khi ăn trứng cháu biết tự bóc vỏ .Khi cô
đưa thức ăn cho trẻ phải biết nói: “ cảm ơn cô ”.
12
Trẻ 3 tuổi biết tự xếp hàng rửa tay trước khi ăn cơm
Biện pháp 5.Giúp trẻ luôn cảm thấy tự tin khi tiếp nhận các thử thách mới:
Thời buổi hiện nay, việc giả mạo người thân hoặc dụ dỗ các em nhỏ để bắt
cóc rất nhiều. Qua các buổi họp tôi chỉ đạo cho giáo viên dạy cho trẻ nhận biết
những hoàn cảnh không an toàn, cách giữ an toàn cho mình nơi công cộng (trong
sân trường, khi gặp người lạ,…)
Đầu năm học, khi xây dựng các kế hoạch tôi cũng chú trọng việc lồng ghép
kỹ năng sống, tiết kiệm năng lượng hay an toàn cho bé trong các chủ đề. Vì thế,
trong các hoạt động, tôi yêu cầu giáo viên lồng ghép cho phù hợp với chủ đề.
Chẳng hạn, với chủ đề “Gia đình” trẻ phải nói được địa chỉ nhà và tôi đặt trẻ trong
tình huống : Nếu như khi đi chơi bị lạc đường cháu sẽ làm gì ? Hoặc có người lạ
đến dẫn cháu đi cháu sẽ thế nào ? Chơi ở sân trường các cháu phải làm gì để tránh
té ngã ?
Từ đó giáo viên gợi ý cho trẻ cách xử lý khi gặp các tình huống đó như : Đi
lạc đường thì cháu sẽ gọi người giúp đỡ và nói tên bố mẹ , đọc tên của mình và nói
13
địa chỉ gia đình , hoặc không nên đi theo người lạ mà nhanh chóng tìm đến người
thân của mình.
Biệnpháp 6. Thông qua các họat động vui chơi:
Một trong những phương tiện có thể góp phần hình thành kỹ năng sống cho
trẻ đó là hoạt động vui chơi “ Học mà chơi, chơi mà học”. Nhiều nghiên cứu đã
chứng minh việc tổ chức hoạt động vui chơi cho trẻ không chỉ giúp hình thành khả
năng chơi đùa mà còn đặt nền tảng khá vững chắc để phát triển những kỹ năng
sống. Quan sát một trò chơi rất đơn giản mà trẻ em mẫu giáo có thể thực hiện như
trò chơi bán hàng, trẻ đã lĩnh hội được những giá trị nhất định khi phân vai cho
chính mình. Trẻ con luôn có xu hướng chọn vai người bán hơn là người mua vì lý
do rất đơn giản: trẻ muốn trở thành người lớn.
Cũng chính điều này đã giúp cho trẻ có cơ hội được thỏa mãn nhu cầu tự
khẳng định và nhu cầu làm người lớn của chính mình. Người bán hàng “trẻ con”
cũng tỏ ra khá “sắc sảo” và “khéo léo” trong khi bán hàng… Chính những bài học
này đã dạy cho trẻ có những kỹ năng sống rất cần thiết: biết lắng nghe, biết chia sẻ,
hợp tác, làm vui lòng người khác... Hãy xem thử một nhóm trẻ cùng chơi trò chơi
xây dựng, sẽ thấy được giá trị thật độc đáo của việc phát triển nhân cách hay hình
thành kỹ năng sống cho trẻ. Ở đó, xã hội trẻ em được hình thành một cách rất thú
vị. Có thủ lĩnh, có nhóm, có sự tương thân, tương trợ, có sự giúp đỡ lẫn nhau, có
những cơ hội để trí tưởng tượng của trẻ bay bổng và phát triển. Trong khi chơi, các
bé bầu ra nhóm trưởng, và biết phân công rạch ròi công việc cho từng thành viên
trong nhóm, như bạn này lấy gạch, bạn kia đi tìm cây xanh, các bạn còn lại sẽ tìm
vật làm cổng... Và không cần phải giải thích gì nhiều, khi một bé đã được công
nhận là trưởng nhóm thì các bạn khác sẵn sàng phục tùng và chấp nhận sự phân
công.
Nhiều nghiên cứu gần đây đã chứng minh rằng việc tạo cơ hội cho trẻ em
vui chơi nhiều hơn ngoài trời sẽ làm cho trẻ tự tin, năng động hơn và tích cực hơn.
Rõ ràng là khi được tiếp cận với thế giới, khi được khám phá thế giới, trẻ sẽ vượt
14
qua sự nhút nhát của mình. Bằng những kinh nghiệm có được trong khi vui chơi
ngoài trời, trẻ sẽ cảm nhận thế giới xung quanh thật gần gũi và như một phần của
cuộc sống.
Liên tục đặt câu hỏi cái gì đây, con gì vậy, dùng để làm gì, điều gì sẽ xảy
ra... là những câu hỏi xuất hiện khi tiếp xúc với thiên nhiên. Sự tìm tòi, khám phá,
sự tò mò và sự cởi mở... sẽ giúp trẻ chinh phục được thế giới, giúp trẻ làm chủ thế
giới dù rằng bằng chính những suy nghĩ rất non nớt, ngây thơ của mình.
Các cháu 5 tuổi chơi trò chơi xây dựng
15
Các é chơi “ Bé làm nội trợ”
Biện pháp 7.Thông qua các hoạt động lễ hội :
Để giúp trẻ phát huy tính mạnh dạn tự tin trong các hoạt động lễ hội ,tôi luôn
tạo điều kiện cho các cháu được tham gia văn nghệ ,giao lưu với khách mời như;
các chú bộ đội, các cô chú bên ủy ban xã.. . Đặc biệt nhà trường đã lên kế hoạch Tổ
chức lễ hội “ Bé vui đón Tết ” “ Đêm hội trăng rằm” thông qua hoạt động các trò
chơi dân gian đã giúp các cháu rèn kỹ năng sống rất hiệu quả .
dùng ngôn ngữ đề nghị, vỗ về trẻ.
Biện pháp 8. Cho trẻ được tư do và hành động theo suy nghĩ của trẻ:
Nếu có ai nói rằng “ cho trẻ hành động theo ý thích và suy nghĩ trẻ là sai
lầm” thì tôi nghĩ chính người nói như thế mới sai lầm. Bởi với vai trò là một người
lớn, một giáo viên thì nhiệm vụ chính của chúng ta là giúp trẻ gặp khó khăn, hướng
dẫn trẻ một cách kịp thời để luôn đi đúng hướng. Tuyệt đối không để ý nghĩ là
mình kêu trẻ làm gì thì trẻ làm đó, mọi việc là có người lớn chuẩn bị sẳn chỉ cần
làm theo y như vậy thì sẽ chẳng có chuyện gì xảy ra. Vô hình chung vì những suy
nghĩ này mà ta đã để lại sự chủ quan, ỷ lại vào người lớn nơi trẻ.
16
Vì thế cho nên với vai trò là Phó hiệu trưởngtôi triển khai với giáo viên
trong lúc sinh hoạt chuyên môn là hàng tuần trước khi nghỉ ngày thứ 7 và chủ nhật
giáo viên nên giao trẻ một nhiệm vụ để trẻ được vừa chơi với hai ngày nghỉ đồng
thời trẻ chứng tỏ với ba mẹ ở nhà những gì trẻ đã được hướng dẫn từ cô giáo và
bây giờ khi nói với ba mẹ trẻ lại một lần nữa được học cách nói chuyện, cách trình
bày của chính người thân của trẻ. Và xem như đây ta đã giúp cho trẻ được rất nhiều
qua hình thức trẻ được giao tiếp, trao đổi với nhiều người lớn và học được cách
trình bày ngôn ngữ của bản thân một cách mạnh dạn, tư tin. Ví dụ: cô giao cho trẻ
đề tài “ bé hãy nói một nghề mà bé biết. Đồng thời nói lên : ước mơ của chính bản
thân mình sau này thích làm nghề gì. Tại sao?” Với đề tài này cô giáo cho bé được
về nhà hỏi những người thân quen về một nghề hoặc yêu cầu bố, mẹ dẫn đi quan
sát, thậm chí cả việc trò chuyện với người đang làm các nghề để trẻ được trực tiếp
quan sát rồi suy nghĩ và nêu được lý do khi chọn một nghề sau này. Qua những
việc mà trẻ đã làm sẽ có vốn kiến thức rất nhiều và cứng từ đây chính là nền tảng
để trẻ mạnh dạn, tự tin, phát triển những lời nói của mình một cách hồn nhiên ngây
thơ nhưng rất thiết thực từ những gì trẻ đã và đang thực hiện và sẽ hình thành cho
trẻ những kỹ năng sống phù hợp
Biện pháp 9.Luôn thay đổi môi trương chơi cho trẻ:
Bản thân tôi luôn chú ý đến việc xây dựng môi trường giáo dục đa dạng,
phong phú nhằm tạo hứng thú, kích thích trẻ tham gia vào các hoạt động học tập,
vui chơi, sinh hoạt. Môi trường chơi của trẻ luôn luôn phải ở trong trạng thái mở,
biến đổi phù hợp với từng chủ đề, chủ điểm, từng góc chơi, có nhiều góc mở kích
thích sự tò mò, ham học hỏi khám phá của trẻ. Môi trường hoạt động mang tính
phát triển chính là việc chuẩn bị môi trường chơi nhằm đáp ứng khả năng chơi của
trẻ hiện tại và trong tương lai phát triển hoạt động chơi của chúng. Nhờ có sự bổ
sung, thay đổi đồ chơi, vật liệu chơi cho trẻ một cách thường xuyên phù hợp giúp
cho trẻ có điều kiện tiếp xúc, làm quen với thế giới đồ chơi kỳ diệu tạo cho trẻ có
cơ hội được chơi, được biến đổi những vật liệu chơi thành sản phẩm chơi của
17
mình. Điều đó, khuyến khích trẻ tích cực chủ động và có sáng kiến khi chơi, giúp
trẻ được tự trải nghiệm tự cảm trôi qua, tôi thiết nghĩ rằng để trẻ có thể tự tin tham
gia vào các hoạt động, phát triển hồn nhiên, vui vẻ, có những kỹ năng sống cần
thiết điều đó phụ thuộc rất nhiều vào giáo viên người cần sưu tầm, bổ sung thêm
kiến thức về chuyên môn, các trò chơi câu đố để thu hút trẻ vào hoạt động. Không
chỉ thế, mỗi giáo viên cần sáng tạo ra thêm nhiều hình thức giáo dục trẻ phong phú
đa dạng tránh trùng lặp để khỏi tạo sự nhàm chán cho trẻ. Giáo viên cần có biện
pháp phối kết hợp cùng phụ huynh trong lớp, đồng nghiệp trong trường
Tóm lại : Nội dung giáo dục Kỹ năng sống cho trẻ hết sức đơn giản và gần gũi
với trẻ. Sự hợp tác, tự kiểm tra, tính tự tin, tự lập, tò mò, khả năng thấu hiểu và
giao tiếp . Nếu các giáo viên biết sử dụng các biện pháp tôi nêu ra một cách hài
hòa thì sẽ mang lại kết quả khả quan về rèn dục kỹ năng sống cho trẻ trong trường
mầm non
18
Chương 4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm:
- Qua một năm thực hiện những biện pháp như trên tôi nhận thấy các cháu
hầu như mạnh dạn tự tin hơn trong các hoạt động
- Đa số các cháu biết hòa đồng chơi cùng bạn , biết quan tâm đến các bạn .
95 % cháu biết tự phục vụ bản thân.
100% cháu có nề nếp thói quen vệ sinh cá nhân .
- Đa số các cháu biết tự giới thiệu bản thân .
- Cháu chậm phát triển về ngôn ngữ cũng tiến bộ rõ rệt .
- 100% Cháu thực hiện tốt nội quy trường lớp .
- Đa số trẻ đã được hình thành những kỹ năng ứng phó trong cuộc sống đơn
giản .
19
C. KẾT LUẬN, ĐỀ XUẤT VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ Mầm non là nhằm giúp trẻ có kinh nghiệm
trong cuộc sống . Biết được những điều nên làm và không nên làm trong cuộc sống
. Khơi gợi khả năng tư duy sáng tạo của trẻ, đặt nền tảng cho trẻ trở thành người có
trách nhiệm và có cuộc sống hài hòa trong tương lai.
Kỹ năng sống không phải là một vấn đề mới nảy sinh mà là nhu cầu từ lâu
nhưng chưa thật sự được quan tâm đúng mức trong trường học. Giáo dục kỹ năng
sống cho các cháu ngay từ lứa tuổi Mầm non là vấn đề đòi hỏi sự quan tâm, đánh
giá đúng của ngành Giáo dục và toàn xã hội. Từ đó có giải pháp phù hợp từng cấp
học, từng mục tiêu, nội dung môn học và bối cảnh dạy học nhằm giúp cho tất cả
học sinh phát triển đồng thời các kiến thức, thái độ, kỹ năng cần có trong cuộc
sống và học tập, góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện .
- Giáo viên phải có sự thống nhất với nhau về biện pháp cũng như kế hoạch
đề ra mà tôi đã đề ra
- Biết kết hợp với Ban chi hội lớp và phụ huynh một cách linh hoạt .
- Thống nhât bàn bạc với Ban giám hiệu nhà trường và đồng nghiệp .
- Rèn kỹ năng sống cho trẻ không phải một ngày một giờ là xong mà đòi hỏi
một thời gian dài nên giáo viên phải biết cách sử dụng các biện pháp cho phù hợp
với từng lứa tuổi , không rập khuôn máy móc.
2. Đề xuất và kiến nghị
- Phối hợp, trao đổi thường xuyên với giáo viên, tuyên truyền với
các bậc phụ huynh rèn cho trẻ tính tự lập, tự phục vụ khi ở nhà
- Tổ chức các hoạt động vui chơi cho bé như “ Đêm hội trăng
rằm”…
- Tăng cường cho giáo viên lồng ghép kỹ năng sống vào trong tiết dạy
Trên đây là những biện pháp tôi đã thực hiện và mang lại kết quả
tốt trong lớp trong trường, rất mong được sự góp ý của các cấp lãnh đạo.
20
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Sa Loong, ngày .... tháng .... năm 2014
Người viết
Phạm Thị Thành
21
D. PHỤ LỤC
- Trang m.go.vn – Phát triển kỹ năng sống cho trẻ tuổi lên 3
- Chỉ thị số 3399/CT – BGD – ĐT ngày 16/8/2010
22