BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ
TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU
LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ
TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU
TẬP I
(1930-1954)
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HÀ NỘI - 2000
Chịu trách nhiệm nội dung
BAN THƯỜNG VỤ TỈNH ỦY BÀ RỊA - VŨNG TÀU
Ban chỉ đạo
TRẦN VĂN KHÁNH - VÕ NGỌC MINH
PHẠM VĂN HY - LÊ THÀNH BA
LÊ VĂN THÂM - NGUYỄN VĂN NHÂN
NGUYỄN ĐÌNH THỐNG
Biên soạn:
ĐINH VĂN HẠNH - CAO THÁI BÌNH
NGUYỄN HỮU NGUYÊN - NGUYỄN ĐÌNH THỐNG
Với sự cộng tác của:
TRẦN NGỌC PHỤNG, TRẦN XUÂN THANH, VŨ ANH ĐỨC,
TRẦN XUÂN LÝ, TRẦN GIANG, NGUYỄN THÀNH
TS. TRÌNH MƯU, TS NGUYỄN QUÝ, GS-TS PHAN XUÂN BIÊN
1
LỜI NHÀ XUẤT BẢN
Trong cuộc kháng chiến trường kỳ, gian khổ, đầy hào hùng và rực rỡ chiến công
của dân tộc Việt Nam chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, tỉnh Bà Rịa - Vũng
Tàu là vành đai xung yếu bao quanh Sài Gòn, là nơi tranh chấp ác liệt giữa ta và địch.
Vốn có truyền thống yêu nước, chống giặc ngoại xâm, nhân dân Bà Rịa - Vũng Tàu dưới
sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng bộ tỉnh đã cùng nhân dân cả nước đứng lên kháng chiến,
dũng cảm vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, hy sinh, góp phần xứng đáng vào
thắng lợi vĩ đại của dân tộc, giải phóng quê hương, thống nhất đất nước.
Ngày nay, quân và dân toàn tỉnh đang đoàn kết phấn đấu thực hiện đường lối đổi mới,
xây dựng tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu phồn vinh, giàu đẹp trên vùng kinh tế trọng điểm phía
Nam Tổ quốc. Nhằm góp phần tuyên truyền, giáo dục truyền thống cách mạng vẻ vang,
nâng cao lòng tự hào và ý thức trách nhiệm trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa và thiết thực kỷ niệm 70 năm ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt
Nam; 25 năm ngày giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc; 110 năm ngày sinh Chủ
tịch Hồ Chí Minh; 55 năm ngày Cách mạng Tháng Tám và Quốc Khánh 2-9…, Ban
Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu và Nhà xuất bản Chính trị quốc gia tổ chức
biên soạn và xuất bản cuốn sách: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, tập I
(1930-1954).
Cuốn sách Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, tập I (1930-1954) ra đời
nhằm ghi lại quá trình xây dựng và phát triển của Đảng bộ tỉnh, sự lãnh đạo, chỉ đạo
của Đảng bộ với phong trào đấu tranh cách mạng của quân và dân trong tỉnh giai đoạn
1930-1954, một giai đoạn cực kỳ quan trọng và vẻ vang của lịch sử cách mạng tỉnh nhà.
Do các sự kiện lịch sử đã diễn ra quá lâu, trong điều kiện chiến tranh, tư liệu thành văn
thiếu thốn, nhiều nhân chứng lịch sử đã qua đời, nên cuốn sách khó tránh khỏi thiếu sót.
Chúng tôi rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của bạn đọc.
Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách với bạn đọc
Tháng 5-2000
NHÀ XUẤT BẢN
CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
2
CHƯƠNG MỞ ĐẦU
BÀ RỊA - VŨNG TÀU
VÙNG ĐẤT ĐỊA ĐẦUCỦA MIỀN ĐÔNG NAM BỘ
------------------------1.Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên của tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu:
Tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu được thành lập theo Nghị quyết kỳ họp thứ 9, Quốc hội
khoá VIII, ngày 12 tháng 8 năm 1991, gồm năm đơn vị hành chính: thành phố Vũng
Tàu, huyện Côn Đảo (thuộc Đặc khu Vũng Tàu-Côn Đảo) và các huyện: Châu Thành,
Long Đất, Xuyên Mộc (thuộc tỉnh Đồng Nai). Ngày 2 tháng 6 năm 1994, Thủ tướng
Chính phủ ban hành Nghị định 45/CP chia huyện Châu Thành thành ba đơn vị hành
chính là thị xã Bà Rịa, huyện Châu Đức và huyện Tân Thành.
Bà Rịa-Vũng Tàu là cửa ngõ phía Đông của Sài Gòn - Gia Định và miền Đông
Nam Bộ. Phần đất liền của Bà Rịa-Vũng Tàu được xác định trên toạ độ địa lý từ 10o20'
đến 10o45' vĩ Bắc và từ 107o đến 107o35' Kinh Đông, phía Bắc giáp tỉnh Đồng Nai, phía
Nam là biển Đông, phía Đông giáp tỉnh Bình Thuận và phía Tây giáp thành phố Hồ Chí
Minh. Quần đảo Côn Lôn với tên thường gọi là Côn Đảo bao gồm 16 hòn đảo, cách
Vũng Tàu 97 hải lý.
Diện tích toàn tỉnh là 2047,66 km2, tương đương với thành phố Hồ Chí Minh,
bằng một phần ba tỉnh Đồng Nai, chiếm gần 0,6% diện tích của cả nước, song tỉnh Bà
Rịa-Vũng Tàu còn quản lý hơn 100.000 km2 thềm lục địa Nam biển Đông, vốn có tiềm
năng kinh tế hết sức to lớn và quan trọng, đồng thời cũng là một vị trí chiến lược đối với
an ninh, quốc phòng. Thềm lục địa và vùng biển Côn Đảo, Vũng Tàu tiềm tàng nguồn
tài nguyên dầu khí, đồng thời là một ngư trường rộng lớn.
Bà Rịa -Vũng Tàu nằm trên các trục đường giao thông quan trọng về cả thủy, bộ
và nằm gần các trung tâm kinh tế của miền Nam, là cửa ngõ giao lưu kinh tế, văn hoá
của các vùng trong quá khứ cũng như hiện tại. Với địa thế ấy, Bà Rịa-Vũng Tàu ở vào
một vị trí rất năng động của khu vực, là đầu cầu quan trọng của vùng động lực, tam giác
kinh tế-văn hoá thành phố Hồ Chí Minh - Biên Hoà và Vũng Tàu. Ưu thế vị trí ấy được
nhân lên khi điều kiện tự nhiên, hệ sinh thái môi trường vốn cũng rất ưu đãi cho mảnh
đất Bà Rịa-Vũng Tàu.
Địa hình Bà Rịa-Vũng Tàu là sự chuyển tiếp giữa cao nguyên và đồng bằng cực
Nam Trung bộ với châu thổ đồng bằng sông Cửu Long nên địa thế không cao lắm và có
xu hướng thấp dần theo quá trình chuyển tiếp từ Bắc xuống Nam. Địa hình Bà Rịa-Vũng
Tàu có sự phân biệt địa hình rõ rệt qua ba dạng: vùng đồi núi thấp, bậc thềm phù sa cổ
và đồng bằng ven biển.
Miền đồi núi thấp của Bà Rịa-Vũng Tàu có độ cao từ 100 đến 300 mét so với
mực nước biển. Đó là phần cuối của miền cao nguyên đất đỏ cực Nam Trung bộ, thấp
dần từ huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai xuống. Vùng đồi núi thấp của Bà Rịa-Vũng Tàu
tập trung ở hai huyện Xuyên Mộc và Châu Đức. Xen lẫn giữa dãy đồi núi thấp ấy là
những núi đá hoa cương vươn cao như núi Mây Tàu cao hơn 700 mét, núi Dinh cao 504
mét, núi Thị Vải cao gần 470 mét. Côn Đảo, một huyện xa đất liền của tỉnh Bà RịaVũng Tàu, núi đồi chiếm hơn 80% diện tích. Núi An Hải cao nhất (577m). Rừng Côn
Đảo là vườn quốc gia, nằm trong khu bảo tồn thiên nhiên với nhiều loài động thực vật
3
quý hiếm1. Nguồn gốc tên gọi của các ngọn núi ấy gắn liền với những chiến công oai
hùng cùng những huyền thoại lưu truyền trong nhân dân địa phương. Rừng núi Bà RịaVũng Tàu là những căn cứ địa kháng chiến trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và
chống Mỹ.
Miền núi thấp của tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu thuộc hệ núi già, nhưng trong điều kiện
khí hậu phù hợp, miền đất ấy là môi trường tốt để các loại động thực vật sinh sôi và phát
triển. Bà Rịa-Vũng Tàu có hai khu vườn quốc gia là Côn Đảo và Bình Châu-Phước Bửu.
Điều đó nói lên giá trị của vùng đồi núi thấp Bà Rịa-Vũng Tàu, thuộc hệ sinh thái rừng
ven biển và hải đảo, vốn rất hiếm ở Việt Nam.
Bậc thềm phù sa cổ của Bà Rịa-Vũng Tàu có độ cao từ 50 đến 100 mét, là sự tiếp
nối giữa miền núi cao và miền đồng bằng ven biển, trải dài từ Tây sang Đông, từ Tân
Thành qua Châu Đức sang Long Đất và Xuyên Mộc. Đây là vùng đất cao khá bằng
phẳng, xen giữa là vùng đất đỏ Bazan màu mỡ, thích hợp với các loại cây công nghiệp
và cây ăn trái.
Đồng bằng ven biển Bà Rịa-Vũng Tàu được kiến tạo từ phù sa màu mỡ ven bờ
biển phía Nam, cao khoảng 50 mét so với mực nước biển. Đây chính là nơi dừng chân
đầu tiên của cộng đồng người Việt, trên đường khẩn hoang, lập nghiệp về phương Nam
từ hồi thế kỷ XVI - XVII. Nối tiếp nhiều thế hệ, họ đã tạo ra những ruộng lúa, những
đồng muối rộng lớn. Xen giữa những cánh đồng ấy là những cồn cát hay bãi sình lầy mà
ngày nay là những rừng dương mát rượi hay những đìa, ao đầm nuôi tôm, cua ...
Ven biển Bà Rịa-Vũng Tàu không hoàn toàn là đồng bằng. Những ngọn núi Minh
Đạm, Kỳ Vân, Núi Lớn, Núi Nhỏ, Núi Nứa xen giữa không gian bằng phẳng, án ngữ
bên bờ biển tạo nên cảnh quan thiên nhiên hấp dẫn, kỳ thú, đồng thời là một địa thế
chiến lược về quân sự. Đó cũng là địa bàn sinh trưởng của rừng cây nước mặn. Những
rừng cây nước mặn ấy không những tạo thế cân bằng sinh thái, làm cho miền đất này
giữ được vẻ nguyên sinh, huyền diệu, mà trong ba mươi năm chiến tranh giải phóng,
Rừng Sác là địa bàn hoạt động của lực lượng võ trang địa phương, đặc công thủy của
tỉnh và của miền, là căn cứ bàn đạp quan trọng để tiến công vào thị xã, thị trấn, vào
thẳng hậu cứ, sào huyệt của kẻ thù.
Bà Rịa-Vũng Tàu không có nhiều sông lớn và dài chảy qua, nhưng lại có hệ thống
sông suối nhỏ khá dày, tạo nguồn nước ngọt dồi dào cung cấp cho đời sống và sản xuất.
Đó là ba hệ thống sông Ray, sông Thị Vải và sông Dinh. Cửa Vũng Tàu - Cần Giờ là
nơi hội tụ của ba nguồn nước lớn sông Lòng Tàu, sông Đồng Nai và sông Sài Gòn đổ
về, tạo thế án ngữ cửa ngõ vào Sài Gòn và đồng bằng rộng lớn Nam Bộ.
Sông Ray là con sông lớn nhất, bắt nguồn từ nhiều con suối nhỏ thuộc vùng rừng
núi phía Bắc của tỉnh, chảy qua miền đồng bằng trù phú của huyện Long Đất với lưu
vực 1500 km2, bằng hai phần ba diện tích của tỉnh. Vùng thượng lưu Sông Ray là những
căn cứ đóng quân và căn cứ hậu cần quan trọng của các lực lượng cách mạng trong hai
cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Cửa lộc An phía hạ lưu có rừng Sác dày
che phủ, tiếp giáp với những cánh rừng già bạt ngàn Phước Bửu, Xuyên Mộc là nơi
được chọn làm bến bãi tiếp nhận vũ khí chi viện bằng đường biển từ miền Bắc vào miền
Đông Nam Bộ và Khu VI thời kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Đợt khảo sát từ trung tuần tháng 8 đến hết tháng 9-1999 của Viện Khảo cổ học thuộc Trung tâm khoa học xã hội và nhân
văn Quốc gia kết hợp với Sở Văn hóa Thông tin tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đã phát hiện gần 10.000 hiện vật thuộc 5 địa điểm
cư trú và một khu mộ táng của cư dân cổ Côn Đảo thuộc văn hóa Sa Huỳnh (cách đây khoảng 2500 đến 3000 năm).
1.
4
Sông Thị Vải có lưu vực hơn 700 km2, được tạo hợp từ sông Cả, suối Thái Phiên
và suối Phú Mỹ, chảy qua huyện Tân Thành, đổ ra Vịnh Ghềnh Rái. Sông không rộng,
không dài, nhưng sâu và có dòng chảy mạnh, mang nhiều phù sa, tạo cho vùng ven vịnh
Ghềnh Rái một bãi sình lầy rộng lớn, là môi trường sinh trưởng của thảm thực vật nước
mặn và các loại động vật nhuyễn thể: ốc, tôm, cua, sò... Phía cửa sông rộng, có độ sâu
trên 10 mét, thủy triều mạnh. Đó là một trong những điều kiện quan trọng để xây dựng
cảng Thị Vải, cảng lớn nhất của Nam Bộ, cho tàu có trọng tải hàng chục vạn tấn vào, ra
bốc xếp hàng hóa.
Sông Dinh bắt nguồn từ nhiều con suối nhỏ hợp lưu về Sông Xoài, chảy ngang
qua vùng căn cứ địa Hắc Dịch - Châu Pha, đoạn chảy qua thị xã Bà Rịa mang tên Sông
Dinh, đổ ra thành phố Vũng Tàu vào vịnh Ghềnh Rái. Cùng tạo hợp với những kênh
rạch khác, sông Dinh góp phần kiến tạo nên những dải đất phù sa lớn ở phía Bắc Vũng
Tàu. Đây là địa bàn của rừng cây nước mặn và các loại động vật nhuyễn thể sinh sôi,
phát triển. Sông Dinh có lưu vực hơn 300 km2, vùng hạ lưu nước sâu đã tạo điều kiện
thuận lợi để hình thành một hệ thống cảng biển phục vụ cho kinh tế và quân sự.
Biển và bờ biển Bà Rịa-Vũng Tàu thuộc thềm lục địa phía Nam của Tổ quốc,
tiềm ẩn nhiều giá trị kinh tế và tiềm năng phát triển du lịch. Biển Bà Rịa-Vũng Tàu có
đặc tính nắng ấm quanh năm, nhiệt độ trung bình hàng năm từ 26 đến 29oC. Nước biển
sạch, độ mặn đạt gần 3,5% lại ở vào vùng ít bão, có dòng hải lưu chảy qua nên biển Bà
Rịa-Vũng Tàu là môi trường tốt cho các loại tôm cá sinh trưởng và phát triển.
Bà Rịa-Vũng Tàu có bờ biển dài trên 100 km, trong đó 72 km có nhiều vũng,
vịnh và bãi cát đẹp, lý tưởng với cơ sở dịch vụ-du lịch, nghỉ mát tiện nghi như Vũng
Tàu, Long Hải, Hồ Cốc, Hồ Tràm, Hồ Linh, Bình Châu... đã thu hút hàng triệu du khách
trong và ngoài nước mỗi năm. Thủy triều của biển Bà Rịa-Vũng Tàu theo chế độ bán
nhật triều tương đối ổn định, với biên độ tối đa 4-5 mét cũng tạo cho vùng biển này thêm
nhiều ưu thế. Biển và bờ biển Bà Rịa-Vũng Tàu không những ẩn chứa nhiều tài nguyên
về hải sản, muối, cát trắng, bãi tắm, cảnh quan du lịch và đặc biệt là dầu mỏ, khí đốt (trữ
lượng khoảng 1,5 tỷ tấn) mà còn có tầm quan trọng to lớn trong an ninh-quốc phòng và
giao lưu quốc tế.
Thổ nhưỡng của tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu có hai loại chính. Đó là hệ Peralit, chủ
yếu trên nền đá của vùng đồi núi thấp, chiếm khoảng 58% diện tích đất tự nhiên (113.000
ha). Loại đất này tập trung ở các huyện Tân Thành, Châu Đức, Xuyên Mộc và Côn Đảo.
Xen lẫn trong hệ đất này có đất đỏ Bazan, thích hợp với các loại cây công nghiệp như
cao su, chè, càfé, tiêu, điều... và các loại cây ăn quả nhiệt đới. Hệ phù sa được kiến tạo
từ sự bồi đắp của các con sông, suối và tập trung chủ yếu ở phía Nam tỉnh, chiếm hơn
42% diện tích đất tự nhiên (khoảng 83.000 ha). Những nhà nghiên cứu thổ nhưỡng Bà
Rịa-Vũng Tàu đã chia hệ phù sa này làm nhiều loại, nhằm tìm kiếm sự thích hợp để bố
trí các giống loại cây trồng, hầu mong thu được năng suất cao nhất từ nguồn tài nguyên
vốn không nhiều này của tỉnh. Đất phù sa mới bồi, phù sa cổ bạc màu, phù sa pha cát,
phù sa phèn, nhiễm mặn, đều có giá trị riêng khi biết đầu tư và khai thác hợp lý.
Rừng tự nhiên của tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu hiện nay còn lại khoảng 27.000 ha,
chiếm 13% diện tích toàn tỉnh. Đó là một con số khiêm tốn so với tổng số 113.000 ha
(58%) diện tích của đất đồi thấp hiện có. Trong một thời gian dài, đất rừng, thảm thực
vật Bà Rịa-Vũng Tàu bị chiến tranh tàn phá và sau đó là sự khai thác bừa bãi của con
người. Từ tháng 7 năm 1992, Ủy ban Nhân dân tỉnh đã ra chỉ thị "đóng cửa rừng" trên
phạm vi toàn tỉnh. Dẫu còn lại không nhiều, nhưng rừng Bà Rịa-Vũng Tàu chứa đựng
5
nhiều tài nguyên quý giá về cả động vật lẫn thực vật, nhất là ở hai rừng quốc gia: Bình
Châu-Phước Bửu (7720 ha) và Côn Đảo (6043 ha) còn lưu giữ nhiều động, thực vật quý
hiếm. Đó là những bảo tàng sống về hệ sinh thái môi trường rừng ven biển và động, thực
vật quí hiếm không những của tỉnh mà còn của cả khu vực.
Tài nguyên thiên nhiên, khoáng sản của tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu có một số loại
phân bố khá tập trung, với trữ lượng lớn và có giá trị kinh tế đặc biệt quan trọng. Dầu
mỏ và khí đốt ở thềm lục địa có trữ lượng lớn. Công việc thăm dò, khai thác đã và đang
được đẩy mạnh, thu hút sự chú ý của nhiều nhà đầu tư lớn trên thế giới. Đó là nguồn tài
nguyên khoáng sản chiến lược và đi tiên phong của Bà Rịa-Vũng Tàu. Hiện nay vùng
biển Bà Rịa-Vũng Tàu có nhiều công ty thuộc nhiều nước khác nhau trên thế giới đang
cùng hợp tác với Việt Nam thăm dò và khai thác dầu khí, đưa về cho ngân sách nhà
nước nhiều ngoại tệ. Ngoài dầu khí, Bà Rịa-Vũng Tàu còn có nguồn nước khoáng Bình
Châu, Suối Nghệ có giá trị chữa bệnh, giải khát và xuất khẩu. Cát trắng Bình Châu là
nguyên liệu để sản xuất các sản phẩm thủy tinh cao cấp, như pha-lê. Các dãy núi đá hoa
cương ở khu vực Núi Dinh - Thị Vải và khu vực núi Minh Đạm là nguyên liệu quan
trọng cho nhu cầu xây dựng rất lớn trong tỉnh.
Cảnh quan thiên nhiên được tạo lập từ bờ biển, rừng núi cũng là một tiềm năng
lớn của Bà Rịa-Vũng Tàu. Nằm trong vùng khí hậu cận xích đạo, gió mùa nóng, ẩm và
ổn định quanh năm, ít bão lụt, Bà Rịa-Vũng Tàu chịu ảnh hưởng trực tiếp của biển Đông,
nên khí hậu ôn hoà, mát lành hơn. Nhiệt độ trung bình của Bà Rịa-Vũng Tàu từ 26 đến
29oC. Biên độ nhiệt dao động thấp, từ 3 đến 5oC. Tháng tư là tháng nóng nhất ở Bà RịaVũng Tàu, nhiệt độ trung bình cũng chỉ vào khoảng 28oC. Tháng mát nhất là tháng
giêng, nhiệt độ trung bình ở mức lý tưởng của vùng Đông Nam Á là 24,5oC.
Bà Rịa-Vũng Tàu có chế độ gió mùa, tuy không gây biến động lớn cho chế độ
nhiệt, nhưng ảnh hưởng mạnh đến chế độ mưa. Trong mỗi năm, Bà Rịa-Vũng Tàu có 6
tháng mùa mưa và 6 tháng mùa khô. Mùa mưa kéo dài từ tháng 5 đến tháng 10, chịu
ảnh hưởng của gió mùa Tây - Nam thổi từ Ấn Độ Dương qua, gây mưa khá lớn, từ 1300
đến 1700mm. Mùa mưa thuận tiện cho việc sản xuất nông nghiệp và sinh hoạt. Mưa
nhiều nhưng không kéo dài, nên ít ảnh hưởng đến tham quan du lịch, vốn là ngành kinh
tế mũi nhọn của tỉnh.
Mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau, do tác động của gió mùa Đông - Bắc
(gió chướng). Gió mạnh có khi đạt cấp 5 cấp 6 gây khô hanh, trở ngại cho sản xuất nông
nghiệp, nhưng lại rất thuận tiện cho thế mạnh của tỉnh là làm muối, xây dựng, đặc biệt
là tắm biển và tham quan, du lịch... Vào mùa này, hầu hết các địa phương ở Nam Bộ
đều nắng nóng, vì thế, với những tiện nghi sẵn có, vùng biển Bà Rịa-Vũng Tàu là điểm
hẹn, là sự mong chờ kỳ nghỉ cuối tuần của hàng chục vạn du khách ở thành phố Hồ Chí
Minh và các tỉnh Nam Bộ.
Tóm lại, Bà Rịa-Vũng Tàu là một tỉnh ở vào vị trí cửa ngõ của miền Đông Nam
Bộ, với điều kiện thiên nhiên thuận lợi, có nhiều tiềm năng kinh tế to lớn, đã và đang
được khơi dậy. Bà Rịa-Vũng Tàu sớm hội nhập vào quỹ đạo phát triển chung, xứng
đáng là vùng động lực và cùng với thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, góp phần tạo nên
“đầu tàu kinh tế - văn hoá” của Nam Bộ và của cả nước.
2. Khái quát về quá trình hình thành, phát triển của vùng đất Bà Rịa-Vũng Tàu
Những phát hiện khảo cổ học gần đây ghi nhận sự có mặt của con người ở trung
tâm địa bàn tỉnh, có niên đại cách ngày nay chừng 2500-2700 năm. Những chủ nhân này
6
đã ở vào giai đoạn phát triển văn hoá khá cao. Họ sinh sống trên những ngôi nhà sàn,
biết tạo khuôn đúc đồng với nhiều nét hoa văn tinh tế, biết dùng bàn xoay để làm đồ
gốm, dùng đá, dùng đồng để làm đồ trang sức. Một loạt các di chỉ khảo cổ học khác
được phát hiện gần đây đã xác định nền văn hoá Óc Eo phát triển rực rỡ từ đầu công
nguyên đến thế kỷ VII, mà đồng bằng Nam Bộ là trung tâm.
Vùng đất Bà Rịa xưa là địa bàn người Việt đến cư ngụ sớm hơn so với những nơi
khác ở Nam Bộ. Cuối thế kỷ XVII, người Việt đã sinh sống rất nhiều ở xứ này. Mô Xoài
- Bà Rịa, là vùng đất địa đầu, một thời nổi tiếng giàu có, gạo tốt nước trong: “Cơm NaiRịa, cá Rí-Rang” như dân gian vẫn lưu truyền. Liên tục trong nhiều thế kỷ, những cư
dân từ miền Trung đến vùng đất mới Bà Rịa-Vũng Tàu, cùng đồng bào các dân tộc bản
địa đoàn kết một lòng, dựng làng, mở cõi, tạo nên những cánh đồng rộng lớn, xóm làng
trù phú, xanh tươi.
Bán đảo Vũng Tàu cũng là nơi cư dân người Việt dừng chân khá sớm. Trong
sách Phủ biên tạp lục (1776), Lê Qúy Đôn đã chép chuyện một người ở Nam Bố Chánh
(Quảng Bình) thường buôn bán vào Gia Định kể lại: “...Đến đầu địa giới Gia Định là xứ
Vũng Tàu, nơi hải đảo có cư dân. Tới đây, người ta thu xếp thuyền buồm để nghỉ ngơi
và để hỏi thăm nơi được mùa, mất mùa như thế nào. Sau khi đã biết chắc địa phương
nào được mùa lúa thóc, những người buôn mới cho thuyền vào nơi ấy”2. Như vậy, khi
Lê Qúy Đôn viết Phủ biên tạp lục, Vũng Tàu đã là một đầu mối giao thông, nơi dừng
chân của các thương thuyền, là đầu mối thông tin thương mại, giúp cho các thương nhân
nắm được tình hình sản xuất và nhu cầu của vùng đất Nam Bộ.
Sách Đại Nam nhất thống chí (Quốc sử quán triều Nguyễn) cũng cho biết, từ đầu
đời Trung hưng (1788), chúa Nguyễn đã cho lập Phong hỏa đài (đài quan sát, truyền tin)
ở núi Ngọa Ngưu (vị trí của Bạch Dinh bây giờ) để bảo vệ cửa biển và bán đảo quan
trọng này.
Nhiều tài liệu khác cho biết, nạn hải tặc là một mối đe dọa lớn đối với dân cư và
ghe thuyền buôn bán qua lại Vũng Tàu. Đầu đời vua Minh Mạng (1820), ba viên đội đã
được phái đến trấn ải, lập đồn binh, dẹp yên nạn cướp biển. Theo chính sách “ngụ binh
ư nông”, ông đội Phạm Văn Dinh lập làng Thắng Nhất; ông đội Lê Văn Lộc lập làng
Thắng Nhì; ông đội Ngô Văn Huyền lập làng Thắng Tam. Vũng Tàu thời ấy còn có tên
là Tam Thắng. Ba ông đội ngày nay còn được thờ trong ba ngôi đình của ba làng Tam
Thắng xưa.
Làng Núi Nứa hình thành muộn hơn, trong kháng chiến chống Pháp thường được
gọi là Bà Trao - Núi Nứa. Núi Nứa là tên núi, Bà Trao là tên một vùng đất phía đông
Núi Nứa, mang tên một người phụ nữ theo truyền thuyết, đã đến đây khai hoang, lập ấp
không thành. Đầu đời Minh Mạng (1820), một đồn binh được đặt tại Bến Đá, và người
Việt đến định cư quanh vùng Bến Đá, Bến Điệp, Rạch Già ngày càng đông. Vùng phía
Đông Núi Nứa còn hoang vu, cho đến năm 1900, ông Lê Văn Mưu (thường gọi là ông
Trần) về khai khẩn, lập ấp Bà Trao. Nhiều người dân ở các tỉnh miền Tây Nam Bộ đã
theo ông về đây định cư sinh sống.
Vốn có nguồn gốc từ đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa, ra đời giữa thế kỷ XIX do Đức Bổn
Sư Ngô Lợi sáng lập, nhằm tập hợp lực lượng chống Pháp ở miền Tây Nam Bộ, ông Lê
Văn Mưu vừa tổ chức khai hoang, sản xuất, vừa truyền bá đạo Hiếu Nghĩa (dân trong
vùng quen gọi là đạo ông Trần). Sự truyền tụng về những nét khác lạ, kỳ thú của phong
2.
Lê Quý Đôn, Phủ biên tạp lục, Quyển 2.
7
tục, tập quán, những công trình kiến trúc và lễ hội sinh động ở Núi Nứa được nhân dân
nhiều tỉnh Nam Bộ biết tới. Quá trình khai phá cù lao Bà Trao - Núi Nứa, cùng với sự
hình thành và phát triển đạo ông Trần là một nét đặc sắc trong lịch sử hình thành vùng
đất Bà Rịa - Vũng Tàu.
Ở vào vị trí cửa ngõ của vùng đất Nam Bộ, Bà Rịa-Vũng Tàu có điều kiện phát
triển sớm và thuận lợi hơn nhiều nơi khác trong vùng. Suốt nhiều thế kỷ, mảnh đất Bà
Rịa-Vũng Tàu đã ghi dấu những biến đổi thăng trầm của miền đất mới Nam Bộ. Cùng
với quá trình khai phá, những đơn vị hành chính cơ sở của Bà Rịa-Vũng Tàu hình thành,
có ranh giới xác định. Dân số theo thời gian cũng dần dần tăng lên. Cuối thế kỷ XVIII,
vùng Mô Xoài, Bà Rịa đã có gần 60 làng, tập trung trong 7 tổng, số dân lên đến hàng
vạn người, trong đó có nhiều người các dân tộc thiểu số. Đó là kết quả của quá trình lao
động bền bỉ, lâu dài của nhiều thế hệ nối tiếp nhau, là kết quả của bản tính lao động cần
cù, sáng tạo, giàu lòng yêu quê hương đất nước và nghĩa hiệp của những người đi mở
đất. Truyền thống đó được lưu giữ và phát huy trong các thế hệ kế tiếp trên vùng đất Bà
Rịa-Vũng Tàu hôm nay.
Cùng với quá trình lao động, xây dựng quê hương đất nước, nếp sống văn hoá,
phong tục tập quán của quê hương xứ sở nơi quê cha đất tổ cũng được kế tục, phát triển
trên quê hương mới, trong hoàn cảnh lịch sử mới. Cư dân của mỗi làng đều dựng đình,
chùa, đền miếu. Đình là nơi sinh hoạt tinh thần của làng. Đền là nơi thực hiện những lễ
nghi đối với các nhiên thần và nhân thần - các vị anh hùng được tôn là thần thánh có
công với làng, với nước. Chùa là nơi sinh hoạt tín ngưỡng truyền thống. Một ngôi đình
Long Phượng hay một ngôi chùa Long Bàn, chùa Quan Lớn, Linh Sơn Cổ Tự, Phước
Lâm Tự đã lưu chút dấu ấn xưa còn đọng lại qua sự tàn phá khốc liệt của chiến tranh.
Cư dân sống bằng nghề biển, vốn có mặt sớm ở Bà Rịa-Vũng Tàu, họ lập miếu
thờ Bà, thờ ông Nam Hải, Quan Thánh Đế Quân hay Bà Ngũ Hành, là những bậc giàu
lòng nhân ái, sẵn sàng cứu khổ, cứu nạn cho người đi biển gặp chuyện không may. Ngày
nay, lễ tục ấy vẫn được gìn giữ và phát triển. Các lễ hội hàng năm ở Dinh Cô Long Hải,
miếu Bà Ngũ Hành, lăng Ông Nam Hải ở Thắng Tam (Vũng Tàu), Phước Tỉnh (Long
Đất) và lễ hội tại các đình thần ở hầu khắp các làng xã trong tỉnh, cầu cho xóm làng bình
yên, mưa thuận, gió hoà, được mùa tôm cá... phản ánh phần nào nét sinh hoạt văn hoá
đặc sắc, sôi động và có sức hấp dẫn đặc biệt của cư dân Bà Rịa-Vũng Tàu từ ngày xưa
cũng như hiện nay.
Trải qua nhiều thế kỷ, địa danh của tỉnh được thay đổi rất nhiều lần. Từ năm
1698, Bà Rịa, bao gồm cả Vũng Tàu thuộc huyện Phước Long, dinh Trấn Biên; năm
1808 là huyện Phước An, trấn Biên Hoà, thành Gia Định. Năm Minh Mệnh thứ 13
(1832), nhà Nguyễn cải cách hành chính, chia lại tỉnh, đặt quan cai trị từ trấn Quảng
Nam trở vào thành 12 tỉnh, vùng đất Bà Rịa - Vũng Tàu thuộc huyện Phước An của tỉnh
Biên Hòa, một trong sáu tỉnh của xứ Nam Kỳ.
Năm 1837, nhà Nguyễn đặt phủ Phước Tuy (thuộc tỉnh Biên Hoà) gồm hai huyện
Long Thành và Phước An. Năm 1838, phủ Phước Tuy kiêm nhiếp thêm huyện Long
Khánh; năm 1851 phủ Phước Tuy lại gồm hai huyện Long Thành và Phước An như năm
1837. Hiện trạng này được duy trì cho đến khi thực dân Pháp xâm lược các tỉnh miền
Đông Nam Bộ.
Năm 1865, thực dân Pháp chia toàn cõi Nam Kỳ thành 13 sở tham biện. Phủ
Phước Tuy của nhà Nguyễn bấy giờ là sở tham biện Bà Rịa. Năm 1876, thực dân Pháp
chia tỉnh Biên Hoà thành bốn tỉnh. Phủ Phước Tuy cũ là tỉnh Bà Rịa mới. Địa danh Bà
8
Rịa, với tư cách là tên gọi của một tỉnh tồn tại từ ngày đó đến năm 1956 mới đổi làm
tỉnh theo tên phủ cũ Phước Tuy.
Trong quá trình tồn tại và phát triển của vùng đất Bà Rịa - Vũng Tàu, với tư cách
là một đơn vị hành chính độc lập, từ đầu thế kỷ XIX đến nay, địa phận Vũng Tàu được
nhiều lần tách ra và nhập vào với Bà Rịa. Năm 1887, thực dân Pháp chia tỉnh Bà Rịa
thành Bà Rịa và Cap Saint Jacques. Ngày 1 tháng 5 năm 1895, thực dân Pháp thành lập
đô thị Cap Saint Jaques3. Kể từ đây Vũng Tàu phát triển độc lập theo mô hình, xu hướng
của một đô thị du lịch và nghỉ mát của chính quyền thực dân. Năm 1899, thực dân Pháp
lập lại tỉnh Bà Rịa, bao gồm cả Vũng Tàu. Năm 1929, Vũng Tàu lại được tách riêng
thành một tỉnh mới có tên Cap Saint Jacques. Tháng 10-1956, chính quyền Sài Gòn cải
tổ lại địa giới hành chính, nhập Vũng Tàu vào Bà Rịa, lập tỉnh mới, gọi theo tên phủ cũ
của nhà Nguyễn là tỉnh Phước Tuy.
Sau khi giành được chính quyền về tay nhân dân (tháng 8-1945) với sự ra đời của
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, chính quyền cách mạng ở Bà Rịa và Vũng Tàu cũng
đã nhiều lần thay đổi đơn vị hành chính thuộc phạm vi tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu, nhằm tạo
ra điều kiện, phạm vi phù hợp để tổ chức lãnh đạo nhân dân thực hiện kháng chiến,
chống xâm lược.
Tháng 8 năm 1945, chính quyền cách mạng thành lập tỉnh Bà Rịa và tỉnh Cap
(“Cấp”). Tháng 12-1945, tỉnh Cấp được nhập vào Bà Rịa. Từ tháng 5 năm 1951, tỉnh
Bà Rịa và các huyện Long Thành, Cần Giuộc, Cần Đước, Nhà Bè được sáp nhập thành
tỉnh Bà Rịa-Chợ Lớn (gọi tắt là tỉnh Bà-Chợ). Từ cuối năm 1954 đến ngày cuộc kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước kết thúc thắng lợi, địa bàn tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu nhiều lần
tách nhập cùng với tỉnh Biên Hoà, Long Khánh với nhiều tên gọi khác nhau. Năm 1955:
tỉnh Bà Rịa; năm 1963: tỉnh Bà-Biên; cuối năm 1963: tỉnh Bà Rịa; từ 1966-1967: tỉnh
Long - Bà - Biên; tháng 10 năm 1967: tỉnh Bà Rịa - Long Khánh; tháng 5 năm 1971:
phân khu Bà Rịa, tháng 8 năm 1972: tỉnh Bà Rịa-Long Khánh.
Ngày 8 tháng 4 năm 1975, Vũng Tàu được tách riêng, trở thành thành phố trực
thuộc Khu miền Đông. Từ năm 1976, địa phận tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu ngày nay thuộc
tỉnh Đồng Nai. Năm 1979, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam Việt
Nam thành lập Đặc khu Vũng Tàu - Côn Đảo, phần còn lại gồm Châu Thành, Long Đất,
Xuyên Mộc thuộc tỉnh Đồng Nai.
Năm 1991, Quốc hội thành lập tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu bao gồm các thành phố,
thị xã, huyện như hiện nay, mà đó cũng là địa bàn chủ yếu của phủ cũ Phước Tuy hay
tỉnh Bà Rịa xưa. Như vậy, suốt nhiều thế kỷ, cùng với những biến động không ngừng
của lịch sử, đơn vị hành chính Bà Rịa-Vũng Tàu có nhiều lần thay đổi bằng các tên gọi
khác nhau, song về cơ bản, vẫn được giới hạn như tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu ngày nay. Điều
đó phản ảnh một sự thống nhất trong quá trình tạo lập và phát triển trong đời sống kinh
tế cũng như văn hoá-xã hội và phong trào yêu nước, đấu tranh cách mạng của nhân dân
tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu từ trước đến nay.
Địa danh Bà Rịa - Vũng Tàu là tên gọi ghép của hai địa bàn xác định là Bà Rịa
và Vũng Tàu. Địa danh Vũng Tàu vốn là tên một vịnh biển nhỏ, là bến đỗ của tàu thuyền.
Vị trí của vịnh biển này được Đại Nam nhất thống chí xác định như sau: “Núi Lãi Kỵ ở
đông nam huyện Phước An 26 dặm, đầu ghềnh thường có con rái biển bơi lặn ở đấy,
nên gọi là Lãi Kỵ (Ghềnh Rái)... Đột khởi ba hòn núi đá đứng sững như trụ biểu ở giữa
3.
Commune mixte, đứng đầu là chức danh Résident maire (Đốc lý).
9
biển, nên làm tiêu chí cho ghe thuyền nam bắc qua lại (...). Đầu núi làm cửa hữu cho
Ngọc Tỉnh, cuối núi làm ngoại hình cho Cần Giờ, ở trong có vũng lớn tục gọi là Vũng
Tàu, vũng này bảo vệ cho ghe thuyền đậu nghỉ. Trên núi có suối nước ngọt, dưới có dân
chài nhóm ở đông đúc, làm chỗ cửa bể rất là xinh đẹp”4.
Địa danh Bà Rịa được Trịnh Hoài Đức chép trong Gia Định thành thông
chí, cuốn địa chí đầu tiên của triều Nguyễn viết về Bà Rịa: “Bà Rịa là ở đầu trấn Biên
Hòa, là đất có danh tiếng, cho nên các phủ phía Bắc có câu ngạn rằng: “Cơm Nai Rịa, cá Rí - Rang là lấy xứ Đồng Nai và Bà Rịa đứng đầu mà bao gồm cả Bến Nghé, Sài
Gòn, Mỹ Tho, Long Hồ cũng ở vào trong đó(...). Đất này dựa lưng vào núi, quay mặt ra
biển, rừng rậm tre cao, trên có tuần - trường để chiêu dụ bọn man - mạch đến đổi chác,
dưới có quan - tân để xem xét ghe thuyền lúc đi ra biển. Đường trạm thủy lục giao thông,
thổ sản núi rừng cung cấp. Chế ngự Đê - man phòng ngừa đạo tặc, có huyện, nha, đạo,
thủ chia giữ nhiệm vụ, vẫn là địa hạt xung yếu thứ nhất”5.
Đại Nam Nhất thống Chí (chính sử của triều Nguyễn) quyển XXVII, Tỉnh Biên
Hòa, mục Núi Sông có chép rõ chuyện việc nhà Nguyễn đã đầu tư vào việc khai phá
vùng đất Bà Rịa: “Sông Xích Lam: ở cách huyện Phước An 31 dặm về phía đông... Ở
bờ phía Đông trước kia bị úng hủy, không tiện cho việc nông, năm Minh Mệnh thứ 19
mới khơi cho nước úng theo sông mà tiêu, khẩn được hơn 300 mẫu ruộng hoang làm
ruộng công cho các xã thôn phụ cận.” 6
Sông Xích Lam được mô tả trong Đại Nam Nhất Thống Chí là Sông Ray mà hạ
lưu phía đông của nó bao gồm các xã vùng Long Điền, Đất Đỏ. Khu vực này xưa nhiều
bàu trũng với câu ca trao duyên “Bao giờ Bưng Bạc hết sình, Bàu Thành hết nước chúng
mình hết thương”.Trong mục Từ Miếu (đền miếu), Đại Nam Nhất Thống Chí còn cho
biết rõ: “ông Hộ phủ Phạm Duy Hinh là người chỉ huy đào sông Xích Lam, khơi úng
hủy”.
Đại Nam nhất thống chí còn ghi một số địa danh có tên Bà Rịa là: Chợ Bà Rịa,
núi Bà Rịa (gần thôn Hắt Lăng, huyện Long Điền - Đất Đỏ ngày nay), một đồn binh ở
làng Phước Bửu (huyện Xuyên Mộc hiện nay) trước đây cũng gọi là đồn Bà Rịa. Ngày
nay, Bà Rịa còn là tên của một ấp thuộc xã Phước Tân huyện Xuyên Mộc.
Nhân dân ở địa phương còn có một cách giải thích khác về nguồn gốc địa danh
Bà Rịa, dựa theo truyền thuyết về một người phụ nữ tên là Rịa, quê ở miền Trung đã có
công khai phá vùng đất Mỹ Khê, Phước Liễu (nay thuộc xã Tam An, huyện Long Đất)
trong khoảng thời gian từ 1789 đến 1803. Tên gọi một vùng đất mà người Việt đã tới
lập nghiệp từ khi xuất hiện truyền thuyết ít nhất trên một thế kỷ trùng tên với một đấng
tiên hiền có công khai phá ở một làng thuộc vùng đất Mô Xoài có thể là sự trùng hợp
ngẫu nhiên của lịch sử.
Sau Hoà ước Nhâm Tuất (5-6-1862), thực dân Pháp từng bước thiết lập nền thống
trị của họ ở ba tỉnh miền Đông: Biên Hoà, Gia Định, Định Tường. Tỉnh Biên Hoà, từ
năm 1864 được chia thành 5 tỉnh hạt (sở Tham Biện) là: Thủ Dầu Một, Thủ Đức, Biên
Hoà, Long Thành và Bà Rịa. Tỉnh hạt Bà Rịa thâu tóm cả phần đất đai huyện Phước An
đời Minh Mạng.
Đại Nam nhất thống chí, tỉnh Biên Hoà.
Trịnh Hòai Đức: Gia Định thành thông chí, Tập Thượng, quyển 1 và 2, Nha Văn hóa Phủ Quốc vụ khanh (Sài Gòn) xuất
bản 1972, tr.35.
6.
Đại Nam Nhất Thống Chí, Viện Sử học và NXB Thuận Hóa, 1992, Tập V, tr 60.
4.
5.
10
Nghị định ngày 5 tháng 6 năm 1871 của Phó Đô đốc Dupré đã sắp xếp 25 tỉnh
hạt trong toàn cõi lục tỉnh lại thành 18 tỉnh hạt, trong đó, tỉnh hạt Bà Rịa bao gồm cả hai
tổng Thành Tuy Thượng và Thành Tuy Hạ. Từ khi Bà Rịa trở thành tên gọi một tỉnh
hạt, người ta mới chú ý tìm cách giải thích địa danh này và sự tích Bà Rịa cũng khởi đầu
từ đó. Vũng Tàu thuở đó với ba làng Thắng Nhất, Thắng Nhì, Thắng Tam thuộc tỉnh hạt
Bà Rịa, đến năm 1895, mới trở thành tỉnh hạt Vũng Tàu.
Từ năm 1956, cùng với việc thành lập tỉnh Phước Tuy gồm đất Bà Rịa, Vũng
Tàu và quần đảo Hoàng Sa, người ta không dùng địa danh Bà Rịa chỉ một tỉnh nữa.
Tháng 8 năm 1991 tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu được thành lập với cách gọi bằng tên ghép
của hai địa danh đã từng ghi trong cổ sử.
3. Chế độ thống trị của thực dân Pháp và phong trào yêu nước, đấu tranh
cách mạng ở Bà Rịa - Vũng Tàu trước năm 1930
Bà Rịa- Vũng Tàu được hình thành trong những điều kiện lịch sử đặc biệt của
quá trình khai phá của người Việt xuống phương Nam. Lao động gian khổ và đấu tranh
ngoan cường đã hun đúc những truyền thống tốt đẹp vốn có của người Việt nói chung
và con người Bà Rịa- Vũng Tàu nói riêng. Đó chính là lòng yêu quê hương, đất nước,
tinh thần lao động cần cù, đấu tranh anh dũng, ngoan cường và đoàn kết của nhân dân
Bà Rịa-Vũng Tàu suốt chiều dài lịch sử xây dựng và bảo vệ quê hương đất nước.
Năm 1858, thực dân Pháp do Trung tướng Rigault de Genouilly chỉ huy nổ súng
vào Cửa Hàn - Đà Nẵng, mở đầu cuộc tiến công xâm lược nước ta. Đà Nẵng được xem
là cửa ngõ quan trọng đánh vào kinh đô Huế. Nhưng chiến lũy Liên Trì, chiến thuật
vườn không nhà trống và khí hậu khắc nghiệt đã khiến Rigault de Genouilly thất bại
trong chiến lược đánh nhanh thắng nhanh.
Cuối cùng, Rigault de Genouilly đã quyết định đánh chiếm Nam Kỳ khi yêu cầu
tăng viện của Ông không được Napoléon 3 đáp ứng, vì triều đình Pháp đang mở cuộc chiến
chống Áo. Nam Kỳ trong mắt người Pháp là nguồn dự trữ lương thực của cả nước, Sài Gòn
là trung tâm buôn bán ngay giữa một vùng phì nhiêu nhất. Theo người Pháp, chiếm Sài Gòn
có thể chấm dứt sự xuất khẩu gạo và thuế, điều này giáng một đòn ác liệt vào triều đình
Việt Nam. Mặt khác, Sài Gòn lại nằm trên một con sông mà tàu chiến và tàu vận tải lưu
thông được, dễ dàng cho việc tiến quân. Đánh chiếm Nam Kỳ vào thời điểm ấy còn cắt đứt
ngay được ý đồ xuất hiện của người Anh trong vùng hoạt động của Pháp.
Ngày 2 tháng 2 năm 1859, Rigault de Genouilly đã đưa một phần lớn lực lượng
vào đánh chiếm Nam Kỳ. Sau 8 ngày chuyển quân, tối 9 tháng 2 năm 1859 (mồng 7 Tết
Kỷ Mùi), 12 chiếc thuyền do Đô Đốc Rigault de Genouilly chỉ huy tập kết ở Vịnh Hàng
Dừa (Bãi Trước) Vũng Tàu.
Suốt ngày 10 tháng 2 năm 1859, pháo đài Phước Thắng phòng thủ bờ biển bên
sườn Núi Lớn (khu vực Bạch Dinh ngày nay) đã nã đạn vào đoàn chiến hạm của Liên
quân thực dân Pháp - Tây Ban Nha, mở đầu cuộc kháng chiến của quân và dân Nam Bộ.
Thống chế Trần Đồng, Tổng chỉ huy lực lượng thủy, lục quân nhà Nguyễn đã huy động
toàn bộ lực lượng, anh dũng và kiên quyết đánh địch. Buổi chiều, Thống chế Trần Đồng
bị tử trận. Cuộc đấu pháo giữa pháo đài Vũng Tàu và liên quân Pháp-Tây Ban Nha đã
diễn ra quyết liệt, làm cho các chiến hạm Pháp suốt một ngày chỉ đi được 2km, tới cửa
Cần Giờ. Để đến được thành Gia Định, thực dân Pháp phải mất 7 ngày vì sự giáng trả
của quân, dân các địa phương đã noi gương Vũng Tàu.
11
Ngày 7 tháng 2 năm 1862, thực dân Pháp nổ súng đánh chiếm tỉnh lỵ Bà Rịa.
Tháng 6 năm 1862, thực dân Pháp chiếm trọn ba tỉnh miền Đông Nam Bộ, đánh dấu
một thời kỳ bị ngoại bang đô hộ, bóc lột và cũng là thời kỳ đấu tranh quật khởi của nhân
dân Bà Rịa-Vũng Tàu nói riêng và cả nước nói chung.
Trong con mắt của kẻ thực dân, Bà Rịa-Vũng Tàu không những là vị trí chiến
lược về khai thác nguồn lợi mà còn có ý nghĩa đặc biệt về quân sự. Bởi vậy, sau khi "ổn
định được tình hình", thực dân Pháp đã chú tâm xây dựng ở đây nhiều cơ sở hậu cần, cứ
điểm quân sự và hệ thống phòng tuyến kiên cố nhằm bảo vệ cửa ngõ Nam Bộ nói chung,
cũng như hậu cứ an toàn cho sự nghỉ ngơi, dưỡng bệnh và thông tin liên lạc của chúng
ở Vũng Tàu.
Thực dân Pháp đã tăng cường mộ phu và huy động sức tù - những người Việt
Nam yêu nước chống Pháp bị bắt, vào những công việc khổ sai nặng nhọc. Bà Rịa-Vũng
Tàu là khu vực thực dân Pháp xây dựng nhiều nhà tù nhất và sớm nhất Việt Nam bấy
giờ như Khám Bà Rịa, khám Vũng Tàu và đặc biệt là ngục Côn Đảo. Tại Côn Đảo, từ
năm 1862, thực dân Pháp đã xây một nhà tù đầu tiên với quy mô lớn ở xứ Đông Dương,
ngay trong lúc tiếng súng xâm lược còn đang nổ ở nhiều tỉnh Nam Bộ. Không chịu ách
nô lệ, nhân dân Bà Rịa-Vũng Tàu đã đoàn kết một lòng đứng lên đấu tranh chống Pháp.
Họ tích cực tham gia các cuộc kháng chiến chống Pháp do các sỹ phu yêu nước, là lực
lượng tiến bộ nhất bấy giờ, lãnh đạo.
Năm 1862, nhân dân Bà Rịa- Vũng Tàu tại nhiều địa phương đã gia nhập nghĩa
quân Trương Định chống Pháp. Nhân dân các làng Long Xuyên, Long Kiên, Long Lập,
Long Nhung (khi ấy thuộc tổng An Phú Hạ) đã ủng hộ tích cực cho cuộc khởi nghĩa
Trương Định, về cả sức người và sức của. Đây là khu vực có ưu thế về địa hình trong
tiến công và phòng thủ. Nhân dân địa phương đã góp sức cùng nghĩa quân dựng đồn,
đào hào, đắp lũy, đánh địch. Nghĩa quân Trương Định tại Bà Rịa- Vũng Tàu đã tổ chức
nhiều trận đánh lớn, làm cho thực dân Pháp phải hoảng sợ. Nổi bật là trận đánh ngày 1
tháng 1 năm 1863, từ căn cứ ở Khu vực Tứ Long, nghĩa quân đã xuất kích đánh địch,
tiêu diệt một bộ phận quan trọng của Tiểu đoàn pháo dã chiến Coquer Pháp tại Bà Rịa.
Những địa danh Xóm Lũy, Ruộng Đồn tại ấp Bắc xã Long Phước còn lưu lại chiến công
của quân và dân trong vùng từ ngày đầu đánh Pháp.
Phong trào kháng chiến chống Pháp do Tri phủ địa phương là Nguyễn Thành Ý
khởi xướng cũng được đông đảo nhân dân trong vùng hưởng ứng. Các phong trào yêu
nước chống Pháp của nhân dân Bà Rịa-Vũng Tàu cuối thế kỷ XIX mặc dù không thành
công, nhưng gây được tiếng vang lớn, uy hiếp được quân thù và quan trọng hơn là đã
tạo ra bước chuyển tiếp cho các phong trào chống Pháp ở những giai đoạn sau.
Đầu thế kỷ XX, phong trào chống Pháp của Nam Bộ nói chung, Bà Rịa-Vũng
Tàu nói riêng chuyển hướng bằng việc tổ chức các hội kín, nhằm bảo toàn lực lượng,
gây dựng cơ sở, điều kiện để chống Pháp lâu dài. Hội kín do Phan Văn Khoẻ tổ chức,
lãnh đạo hoạt động vũ trang chống Pháp trên địa bàn Long Điền - Đất Đỏ, Bà Rịa được
nhân dân địa phương tích cực ủng hộ, đóng góp nhiều sức người, sức của đã làm thực
dân Pháp phải nhiều phen khiếp sợ.
Ở Núi Nứa, vào đầu thế kỷ XX, với sự xuất hiện của “Đạo ông Trần” do ông Lê
Văn Mưu khởi xướng, thực chất cũng là một dạng hội kín tập hợp những nông dân lao
động yêu nước khắp nơi quần tụ về đây vừa làm ăn sinh sống, vừa tập dượt võ nghệ chờ
thời cơ đứng lên đánh Pháp. Đây là cơ sở để Núi Nứa trở thành chỗ dựa vững chắc cho
phong trào cách mạng trong suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ sau này.
12
Cũng vào thời điểm ấy, sư tổ Huệ Đăng (tên thật là Lê Quang Hóa) đã khởi công
xây dựng chùa Thiên Thai ở địa phận Long Điền. Lê Quang Hóa quê ở Bình Định, từng
tham gia phong trào Cần Vương chống thực dân Pháp, sau bị khủng bố, ông ông lánh
vào Nam tu hành, nhưng hoài niệm cứu nước và ý chí chống Pháp vẫn không nguôi.
Chùa Thiên Thai là một trong những trung tâm chấn hưng Phật giáo vào cuối những
năm 1920, đầu những năm 1930 với khuynh hướng đưa Phật giáo “nhập thế” cứu khổ
cứu nạn, gắn với số phận của chúng sinh đang quằn quại dưới ách áp bước bóc lột của
chủ nghĩa thực dân. Thiên Thai thiền giáo tông Liên hữu hội do sư tổ Huệ Đăng sáng
lập có nhiều đệ tử tăng ni yêu nước tham gia hai cuộc kháng chiến chống Pháp và kháng
chiến chống Mỹ.
Bà Rịa-Vũng Tàu vốn là địa bàn đặc biệt trong công cuộc khai thác thuộc địa của
Pháp. Đây không chỉ là vùng đất để thành lập các đồn điền cao su (dọc theo lộ 2), các
sở muối (ở Bà Rịa, Núi Nứa), các đội quân khai thác hải sản ven biển, mà còn là cửa
ngõ của Nam Bộ giàu có, thực dân Pháp đang tận lực khai thác, và là nơi nghỉ ngơi cho
đội quân viễn chinh và thực dân châu Âu. Chính vì vậy, Bà Rịa-Vũng Tàu là một nơi có
sức thu hút lao động lớn do thực dân Pháp điều tới. Trong một tài liệu, người Pháp đã
thú nhận: “Một phần lớn lãnh thổ (Vũng Tàu) gồm những công trình quân sự hoặc những
công trình xây dựng đường sá đã được tiến hành bởi nhân công dân sự”7.
Sức lao động của thường dân vẫn không đáp ứng đủ nhu cầu của người Pháp ở
Bà Rịa-Vũng Tàu. Vì thế, thực dân Pháp đã đưa tù nhân yêu nước, bị bắt về Vũng Tàu
xây dựng các trận địa pháo, các an dưỡng đường, các nhà nghỉ cho các quan chức thực
dân. Ngày 12-7-1891, Toàn quyền Đông Dương De Lanessan ban hành Nghị định nói
rằng: “Các phạm nhân có án sẽ được đưa đi bất cứ nơi nào trong toàn xứ Đông Dương
để dùng vào việc công ích”; “Hàng ngày từ 6 - 700 tù nhân ra khỏi nhà tù phơi mình
trên những xưởng khác nhau và mang lại những công trình đáng kể do tính liên tục, đều
đặn và kỷ luật nghiêm ngặt. Những tù nhân đã làm nên những cơ sở lớn và đem lại một
nguồn lợi lớn”8.
Đối với công nhân làm ở sở muối, ngoài công việc nặng nhọc, còn bị áp bức, lăng
nhục, bị xem như thú vật. Trong Bản án chế độ thực dân Pháp, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc
đã ghi lại rằng: “Tháng 3 năm 1922, một nhân viên nhà đoan ở Bà Rịa (Nam Kỳ) đã
đánh gần chết một phụ nữ An Nam làm phu đội muối, lấy cớ chị đã làm ồn ào dưới hiên
nhà hắn làm hắn mất giấc ngủ trưa. Tuyệt hơn nữa là người phụ nữ ấy còn bị đe dọa
đuổi khỏi công trường muối nếu chị kêu kiện”9.
Bà Rịa-Vũng Tàu là nơi có nhiều hải cảng của thực dân Pháp. Do đó, tập trung
một lực lượng đông đảo những thủy thủ người Việt làm việc cho Pháp. Họ bị cưỡng bức
làm đủ mọi thứ việc trên tàu và bị ngược đãi như nô lệ. Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đang
hoạt động ở Pari, qua các nguồn tin và báo chí đã ghi lại trong Bản án chế độ thực dân
Pháp: “Một viên tây đoan ở Bà Rịa (Nam Kỳ) cũng say rượu, phang một gậy trúng lá
lách một thủy thủ An Nam thuộc quyền hắn, làm anh ta chết tươi”10.
Đất Bà Rịa - Vũng Tàu vốn thích hợp cho các loại cây công nghiệp, nhất là cao
su, nguồn nguyên liệu cần thiết cho tư bản Pháp. Để có đất lập đồn điền, thực dân Pháp
đã cướp hàng ngàn hécta đất của nông dân và đồng bào dân tộc vùng Đông và Tây lộ 2,
7.
Monographie de la province de Baria et de la Ville du Cap Saint Jacques, Saigon, Impr, L. Ménard, 1902.
Nguyễn Ái Quốc, Bản án chế độ thức dân Pháp, NXB Sự Thật, Hà Nội, tr46.
9.
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 2, tr 106.
10.
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 2, tr 60
8.
13
vùng phía Bắc lộ 23 để lập đồn điền, đẩy nông dân và đồng bào dân tộc vào tình trạng
bần cùng. Một bộ phận nông dân còn lại, do mất mùa thường xuyên xẩy ra, mặt khác,
lại phải gánh chịu bao thứ sưu cao thuế nặng mà thực dân Pháp và chính quyền phong
kiến áp đặt, vì vậy cuộc sống rất cơ cực, lầm than.
Năm 1908, thực dân Pháp lập đồn điền cao su đầu tiên trên địa bàn Bà Rịa tại
Bình Ba, mang tên Gallia. Theo tài liệu của Công ty cao su Bà Rịa, tính đến năm 1930,
đồn điền Bình Ba có 1598 công nhân. Năm 1935, Đồn điền Bình Ba phát triển thêm các
phân xưởng Xà Bang, Xuân Sơn, Sông Cầu. Số lượng công nhân cao su tăng nhanh, từ
2 nguồn chính: đồng bào trong vùng bị cướp đất, bần cùng hoá và nguồn phu mộ từ các
tỉnh Bắc Kỳ. Tình cảnh cùng cực, lầm than của công nhân cao su đã được phản ánh sống
động trong những câu thơ đẫm lệ của Tố Hữu:
“Cha trốn ra Hòn Gai cuốc mỏ
Anh chạy vào Đất Đỏ làm phu
Bán thân đổi mấy đồng xu
Thịt xương vùi gốc cao su mấy tầng”.
Trong những năm 1918-1935, bọn chủ Pháp đã mộ phu, chặt hạ hàng ngàn ha
rừng già để mở rộng đồn điền, trồng cao su. Công cụ thô sơ, thiếu kinh nghiệm, nên số
người bị cây đổ đè chết hoặc gẫy chân, gẫy tay rất nhiều. Ngày nào cũng có những tốp
xe bò chở người bị thương từ rừng về sở và chở người chết ra chôn ở nghĩa địa Láng
Lớn. Bọn chủ Pháp bóc lột thậm tệ. Công nhân cạo mủ chỉ được hưởng 30 xu một ngày
(sau tăng 35 xu), trong khi chúng kí giao kèo là 50 xu/ngày. Những người làm việc tạp
vụ chỉ được nhận 20 xu/ngày, đó là chưa kể cúp, phạt và bị hành hạ đủ điều. Nhiều người
bị đánh chết chỉ vì bọn chủ thấy họ làm chưa đổ mồ hôi.
Khổ đau chồng chất, mang nặng mối thù giai cấp và dân tộc, công nhân cao su đã
sớm giác ngộ cách mạng, sát cánh cùng nông dân và nhân dân lao động chống thực dân
Pháp. Từ khi Chi bộ Cộng sản đầu tiên của tỉnh ra đời tại Phước Hải (1934), cùng với
Long Điền, Đất Đỏ, vùng công nhân cao su đã trở thành địa bàn hoạt động tin cậy của
Đảng, góp phần đắc lực vào việc phát triển phong trào cách mạng ở Bà Rịa-Vũng Tàu.
Kể từ cuối thế kỷ XVIII, cộng đồng người Việt định cư ở Bà Rịa-Vũng Tàu được
hình thành chủ yếu từ những nông dân gốc miền Trung, theo chính sách di dân và khẩn
hoang của các chúa Nguyễn. Vốn có truyền thống đoàn kết, trong quá trình "khai sơn
phá thạch", chinh phục thiên nhiên, nhân dân Bà Rịa-Vũng Tàu đã sát cánh trong cuộc
đấu tranh chống ngoại xâm.
Từ pháo đài Vũng Tàu, tiền đồn của miền Đông Nam Bộ, quân và dân Bà RịaVũng Tàu đã mở đầu cuộc kháng chiến chống Pháp ở Nam Bộ bằng trận tiến công đoàn
chiến hạm của Liên quân Pháp - Tây Ban Nha ngày 8 tháng giêng năm Kỉ Mùi (10-21859). Địa thế hiểm trở ở Bà Rịa-Vũng Tàu từng là nơi hoạt động hữu hiệu của nghĩa
quân Trương Định và những hội kín, nuôi dưỡng tư tưởng chống Pháp trong nửa cuối
thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX.
Công cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp, nhất là từ sau chiến tranh thế
giới lần thứ nhất đã làm biến đổi sâu sắc cơ cấu dân cư và phân hoá xã hội ở Bà RịaVũng Tàu. Đội ngũ công nhân cao su hình thành từ 1908 đã phát triển lên hàng ngàn
người vào năm 1930. Bên cạnh đó, lực lượng công nhân các trại cưa, công nhân xây
dựng các công trình quân sự, dân sự ở Bà Rịa-Vũng Tàu, Long Hải cũng phát triển ngày
càng đông đảo.
14
Một phần lớn trong lớp công nhân, lao động trong đợt di dân lớn lần thứ 2 này là
lực lượng phu mộ từ Bắc-Trung Kỳ. Đây là một lực lượng lao động mới: công nhân và
lao động dịch vụ ở Bà Rịa-Vũng Tàu. Vừa phải chịu ách áp bức nô dịch dân tộc, vừa
chịu sự bóc lột và áp bức trực tiếp của bọn chủ tư bản Pháp, công nhân và người lao
động Bà Rịa-Vũng Tàu chất chứa tinh thần phản kháng và sớm giác ngộ cách mạng, tích
cực đón nhận sự lãnh đạo của Đảng cộng sản.
Phụ lục 1:
DÂN SỐ CÁC TỔNG VÀ LÀNG THUỘC TỈNH BÀ RỊA NĂM 1901
TỔNG AN PHÚ THƯỢNG
Tên làng
Dân số
Long Điền
5726 người
Long Thạnh
1646 người
Long Hải
470 người
An Ngãi
1011 người
An Nhứt
1023 người
Hắt Lăng
487 người
Phước Trinh
1628 người
TỔNG PHƯỚC HƯNG THƯỢNG
Tên làng
Dân số
An Thới
181 người
Hội Mỹ
954 người
Lộc An
335 người
Long Mỹ
1402 người
Phước Hải
4324 người
Phước Trinh
173 người
Phước Hưng
327 người
Phước Liễu
150 người
TỔNG AN PHÚ HẠ
Tên làng
Dân số
Núi Nứa
1107 người
Hội Bài
584 người
Long Lập
3390 người
Long Hương
1301 người
Long Kiên
2026 người
Long Hiệp
362 người
Long Nhung
1035 người
Long Xuyên
1102 người
Mỹ Xuân
218 người
Phước Hoà
739 người
Phước Hữu
430 người
Phước Lễ
2479 người
Phước Hội
570 người
Phú Thạnh
405 người
Thạnh An
426 người
TỔNG PHƯỚC HƯNG HẠ
Tên làng
Dân số
Giả Thành
223 người
Hiệp Hòa
191 người
Long Hưng
243 người
Long Thới
417 người
Phước Bửu
805 người
Phước Hiệp
905 người
Phước Lợi
837 người
Phước Thọ
1993 người
Phước Tuỵ
1714 người
Thạnh Mỹ
473 người
Hưng Hoà
357 người
Xuyên Mộc
1045 người
TỔNG LONG XƯƠNG gồm các làng Anh Mao, Cụ Bị, Lâm Xuân, Hương
Sai, Thanh Toá, Xuân Sơn.
TỔNG AN TRẠCH gồm các làng: Bằng La, Cụ Khánh, Hích Dịch, La Vân,
Phước Chí, La Sơn.
TỔNG LONG CƠ gồm các làng: Bình Ba, Bình Giã, Điền Giả, Ngãi Giao,
Quạn Giao, Trình Ba.
Dân số các tổng Long Xương, An Trạch, Long Cơ khi đó theo thống kê tổng
cộng là 3.659 người, hầu hết là đồng bào dân tộc.
15
CHƯƠNG I
TRUYỀN BÁ CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN, XÂY DỰNG CHI BỘ ĐẢNG,
LÃNH ĐẠO QUẦN CHÚNG ĐẤU TRANH GIÀNH CHÍNH QUYỀN
(1930-1945)
1.Truyền bá Chủ nghĩa Mác - Lênin, xây dựng chi bộ cộng sản ở Bà Rịa Vũng Tàu
Ngày 3 tháng 2 năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, chấm dứt thời kỳ bế
tắc, khủng hoảng về đường lối hơn hai phần ba thế kỷ kể từ khi nước ta bị thực dân Pháp
xâm lược. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả của sự kết hợp chủ nghĩa Mác Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Sự ra đời của chi bộ
Đảng cộng sản Việt Nam ở Bà Rịa - Vũng Tàu cũng nằm trong quy luật chung đó.
Trước năm 1930, ở Bà Rịa đã có hoạt động của Thiên Địa Hội tuyên truyền và
tổ chức lực lượng chống Pháp mà một số nhân vật tiêu biểu là Hòa thượng Pháp Trí
(chùa Báo Ân, đệ tử của sư tổ Huệ Đăng), ông Hai Tâm (Long Điền), ông Của, ông
Khuê (Long Phước)... Từ năm 1930, các tổ chức quần chúng dưới ảnh hưởng của Đảng
cộng sản bắt đầu hình thành, gắn với các hoạt động truyền bá Chủ nghĩa Mác - Lênin và
xây dựng chi bộ Đảng cộng sản.
Người cộng sản đầu tiên của đất Bà Rịa - Vũng Tàu là Dương Bạch Mai, quê
ngoại ở Long Mỹ, sinh trưởng tại Phước Lễ (thị xã Bà Rịa), là con một điền chủ lớn ở
Bà Rịa, thư ký tòa Thống đốc Nam Kỳ. Tốt nghiệp Cao đẳng Thương mại Hà Nội (1924),
Dương Bạch Mai làm việc ở Nhà in Nguyễn Văn Của (Sài Gòn) rồi đi Pháp, hoạt động
trong phong trào công nhân ở Aix en Provence từ năm 1925, là đảng viên Đảng cộng
sản Pháp (1927), được Đảng Cộng sản Pháp giới thiệu sang Liên Xô học tại trường Đại
học Phương Đông (8-1929) với bí danh Bounov, trở về Sài Gòn (1931) và truyền bá chủ
nghĩa Mác - Lênin về Bà Rịa - Vũng Tàu qua những mối quan hệ thân quen.
Học cùng khoá với Dương Bạch Mai ở Đại học Phương Đông còn có Nguyễn
Văn Phải tự Thanh Phong, bí danh Gubin, quê ở Long Điền. Học xong, Nguyễn Văn
Phải về quê, tham gia chi bộ Bà Rịa (6-1945), là một trong những người lãnh đạo cuộc
cách mạng Tháng Tám 1945 tại Bà Rịa.
Theo tư liệu của Huyện ủy Cần Giờ, đồng chí Huỳnh Văn Hát, sinh trưởng tại
Cần Giờ11 là một thanh niên sớm được giác ngộ. Từ năm 1929 đồng chí đã tham gia
hoạt động trong Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, bị địch bắt và đày đi Côn Đảo.
Đồng chí Huỳnh Văn Hát được giác ngộ tại nhà lao và trở thành người đảng viên cộng
sản trong lao tù.
Sau khi đàn áp xong cuộc khởi nghĩa Yên Bái 1930, thực dân Pháp đưa một số
đơn vị lính khố xanh có liên quan đến cuộc khởi nghĩa về giam lỏng tại trại Bến Đình.
Ảnh hưởng của cuộc khởi nghĩa Yên Bái cùng luồng tư tưởng yêu nước của những nghĩa
quân này đã góp phần hun đúc thêm truyền thống yêu nước của các tầng lớp nhân dân
Bà Rịa - Vũng Tàu, nhất là trong thanh niên. Một số người trong binh lính khố xanh sau
Nay thuộc Thành phố Hồ Chí Minh. Khi ấy, tổng Cần Giờ và tổng Vũng Tàu thuộc đô thị Cap Saint Jacques (Commune
mixte).
11.
16
này đã được cơ sở binh vận của Xứ ủy Nam Kỳ giác ngộ, đã trở thành hạt nhân cho
phong trào cách mạng ở Vũng Tàu.
Vũng Tàu thời kỳ ấy là điểm trung chuyển tù chính trị từ Sơn La, Hoả Lò và
Khám Lớn-Sài Gòn ra Côn Đảo. Nhiều đoàn tù chính trị đã dừng chân tại khám Vũng
Tàu. Hình ảnh những đoàn tù chân xiềng, tay xích, đầu trần chân đất đi dưới ngọn roi
của bọn đao phủ đã gieo vào lòng người dân Vũng Tàu hình ảnh một dân tộc đau thương
nhưng không cam chịu nô lệ, đang vùng lên chống lại ách thực dân xâm lược.
Bà Rịa - Vũng Tàu còn là một trong những nơi thực dân Pháp lưu đày và khai
thác sức lao động khổ sai của tù nhân, trong đó có nhiều tù chính trị. Những chiến sĩ
cộng sản từ nhiều miền đất nước trên đường lưu đày qua đây và những người tù chính
trị bị giam ở đây là lớp người tiên phong truyền bá Chủ nghĩa Mác - Lênin vào Bà Rịa
- Vũng Tàu. Không ít lần, người dân Vũng Tàu được biết đến những truyền đơn cách
mạng, khẩu hiệu cách mạng và tận mắt nhìn thấy cờ đỏ búa liềm tung bay. Chuyến tàu
Claude Chape ngày 23 tháng 6 năm 1930 từ Hải Phòng lưu đày trên 200 tù chính trị,
trong đó có hơn 40 đảng viên cộng sản đã dừng chân tại cảng Rạch Dừa. Trong lúc
chuyển tù chính trị từ tàu Claude Chape sang tàu Harmand Rousseau (chở tù chính trị
từ Khám Lớn Sài Gòn ra Côn Đảo), những chiến sĩ cộng sản đã hiên ngang phất cao lá
cờ đỏ búa liềm, và đanh thép hô những khẩu hiệu cách mạng:
- Công nông binh đoàn kết lại!
- Phản đối bắn giết tù đày!
- Đả đảo đế quốc chủ nghĩa Pháp và phong kiến địa chủ!
- Đảng Cộng sản Đông Dương muôn năm!
- Cách mạng Đông Dương thành công muôn năm!
Hình ảnh lá cờ đỏ búa liềm cùng những khẩu hiệu cách mạng và khí phách hiên
ngang của các chiến sỹ cộng sản đã gieo vào lòng nhân dân một niềm tin vào một lực
lượng cách mạng mới sẽ lật đổ chế độ thống trị của thực dân Pháp, giành lại nền độc lập.
Là một đầu cầu, cửa ngõ trên con đường giao thông thủy bộ từ Bắc vào Nam, Bà
Rịa - Vũng Tàu từng lưu lại dấu chân của nhiều chiến sỹ cách mạng từ nhiều địa phương
về hội tụ, gieo những hạt giống cách mạng vào lòng những người dân lao khổ, trên một
mảnh đất đã từng đi đầu chiến đấu chống thực dân Pháp ở Nam Bộ.
Đồng chí Hồ Tri Tân là người đầu tiên xây dựng những tổ chức cách mạng ở Bà
Rịa. Hồ Tri Tân sinh năm 1908 tại Quảng Trị. Ông tham gia cách mạng từ năm 1929,
giác ngộ Cộng sản, trở thành liên lạc viên của Tỉnh ủy Việt Nam Cộng sản Đảng tỉnh
Quảng Trị. Đợt khủng bố trắng của thực dân Pháp tháng 5 năm 1931, trên 500 cán bộ
đảng viên và quần chúng ở Quảng Trị bị bắt. Tỉnh ủy Quảng Trị tan rã, các đảng viên
phải phân tán, tránh sự khủng bố của thực dân Pháp.
Cuối năm 1931, Hồ Tri Tân cùng hai người bạn thợ mộc là Lương Tống và Lương
Nậy từ Quảng Trị vào Bà Rịa làm ăn. Hồ Tri Tân sinh sống hợp pháp và mở một trại
cưa nhỏ tại Phước Hải, một làng đông dân, trù phú, nghề cá phát triển, quần tụ nhiều
ngư dân miền Trung. Mang theo được một số tài liệu bí mật gồm: Điều lệ tổ chức Công
hội, Nông hội, Phương pháp hoạt động bí mật ... Hồ Tri Tân đã tập hợp những người
tốt để giác ngộ cách mạng.
Mùa xuân 1932, Hồ Tri Tân cùng các anh Trần Văn Ý (thợ mộc) ở Long Hương,
Nguyễn Văn Lăng (vận tải xe bò) ở Lò Vôi Phước Tỉnh tổ chức lễ kết nghĩa tại chùa
Châu Viên, thề cùng nhau “hoạn nạn tương cứu, sinh tử bất ly”, gọi là nhóm Châu Viên
17
kết nghĩa. Mỗi người trong nhóm lại tìm bạn, tập hợp thêm Trần Văn Hóa, Trần Văn
Thiên, Hồ Thị Trinh, Mười Còn, Thợ Quy, Lương Xưởng... là những người lao động có
tinh thần chống Pháp vùng Đất Đỏ mở rộng thành Hội Châu Viên kết nghĩa. Năm 1933,
Hội Châu Viên kết nghĩa phát triển được 10 hội viên. Hồ Tri Tân từng bước giác ngộ,
đưa tài liệu bí mật cho anh em đọc và cùng thảo luận.
Đêm 13 tháng 7 năm 1933, Hội Châu Viên kết nghĩa đã treo được 6 lá cờ đỏ búa
liềm tại địa phận xã Long Hương, thị xã Bà Rịa; thị trấn Long Điền; Nhà kiểm lâm Đất
Đỏ; Nhà hội làng Long Nhung; Nhà hội làng Long Mỹ và đỉnh núi Hòn Ngang tại địa
phận ấp Lò Vôi, Phước Tỉnh12. Gần một ngàn truyền đơn ký tên Việt Nam cộng sản
Đảng đã được rải ở nhiều địa điểm từ thị xã Bà Rịa đến Long Điền, Đất Đỏ với các nội
dung: "Bỏ thuế thân; Giảm thuế điền thổ trạch; Chống tham quan ô lại; Công nông binh
liên hiệp lại.” Cờ đỏ búa liềm và truyền đơn cách mạng xuất hiện ở Bà Rịa, Long Điền
và Đất Đỏ ngay trong ngày Quốc khánh Pháp khiến bọn thực dân hết sức hoang mang,
còn những người yêu nước thì phấn khởi, hy vọng đón chờ.
Bà Rịa Vũng Tàu khi ấy là một trong những trung tâm Phật giáo lớn ở miền Đông
Nam Bộ. Phong trào Chấn hưng Phật giáo phát triển mạnh mẽ từ năm 1931 với sự ra
đời của các Hội nghiên cứu Phật học và các tạp chí Phật học ở khắp ba kỳ13 đã ảnh
hưởng sâu sắc đến giới tăng ni phật tử Bà Rịa. Thiên Thai cổ tự (Long Điền) là một
trong những trung tâm Phật giáo lớn ở Bà Rịa. Kế thừa tư tưởng yêu nước của Sư tổ
Huệ Đăng, các môn đệ Thiên Thai cổ tự sôi nổi tham gia cuộc tranh luận về Phật giáo,
hướng về quan điểm “Phật tự Tâm” của Sư Thiện Chiếu (chùa Linh Sơn, Sài Gòn) phê
phán thuyết “Thượng đế toàn năng”, phê phán sự u mê về thiên đường hay cõi Tây
phương cực lạc; hướng Phật giáo nhập thế với mục đích cứu khổ, cứu nạn chúng sinh.
Đó chính là khuynh hướng tích cực của phong trào Chấn hưng Phật giáo.
Hồ Tri Tân tổ chức Nhóm nghiên cứu Phật giáo gồm: Hồ Tri Tân, Trần Văn Cừ
(Ba Thẹo), Nguyễn Văn Long, Lương Tống, Trần Bá Thiên, Nguyễn Văn Lăng, Chín
Xướng và chị Tư Minh. Nhóm nghiên cứu Phật giáo là một hình thức hoạt động công
khai, vận động tăng ni phật tử theo chánh đạo, chống tà thuyết14, đồng thời là phương
thức hữu hiệu để Hồ Tri Tân, Trần Văn Cừ, Nguyễn Văn Long bí mật hoạt động cộng
sản. Trần Văn Cừ là đảng viên ở Cà Mau, Nguyễn Văn Long là đảng viên của hãng xe
buýt Sài Gòn, cả hai đang bị thực dân Pháp truy lùng, tạm lánh về Bà Rịa.
Sau một thời gian tìm hiểu, Hồ Tri Tân cùng Trần Văn Cừ, Nguyễn Văn Long đã
tổ chức cuộc họp tại nhà ông Trần Bá Thiên, xã Phước Hải (Đất Đỏ) vào tháng 2 năm
1934, tuyên bố thành lập chi bộ gồm 3 đảng viên: Trần Văn Cừ (bí thư), Nguyễn Văn
Long, Hồ Tri Tân. Nguyễn Văn Long tích cực tham gia vào Hội Phật học và phái Tịnh độ
Hồ Tri Tân: Hồi ký, bản đánh máy lưu tại Ban nghiên cứu Lịch sử Đảng tỉnh Đồng Nai, tr 5. Về thời gian, nhiều tài liệu
trước đây viết ngày 14-7-1931 là không chính xác, vì cuối năm 1931, đồng chí Hồ Tri Tân mới vào Long Điền. Lá cờ trên
đỉnh Hòn Ngang lớn nhất, do ông Lê Minh Châu (thợ may ở làng Phước Tỉnh) may và cùng các đồng chí của ông treo
trong đêm 13-7-1933.
13.
Năm 1931, Hội nghiên cứu Phật học Nam Kỳ ra đời và tháng 1-1932 xuất bản tạp chí Từ bí âm; Tháng 6-1933, nguyệt
san Viên âm ra đời ở Huế, là cơ quan nghiên cứu của Hội Phật học Trung kỳ; Hội Phật học Bắc kỳ thành lập tháng 11-1934
và năm sau ra tờ Đuốc Tuệ.
14.
Sáng lập ra Thiên Thai cổ tự là Hoà thượng Thích Huệ Đăng, tên thật là Lê Quang Hoá, từng tham gia phong trào Cần
Vương ở Bình Định, bị đàn áp phải lánh vào Bà Rịa tu hành và tiếp tục truyền bá tư tưởng yêu nước. Các đệ tử của ông
nhiều người tham gia Hội Phật giáo cứu quốc như Thích Minh Nguyệt, Thích Thiện Hào, Thích Pháp Trí... Thích Minh
Nguyệt là hạt nhân của Thiên Thai Thiền tông Liên hữu Hội, có nhiều đóng góp trong cuộc chấn hưng Phật giáo tại địa
phương, đấu tranh chống các quan điểm duy tâm, thần bí. Sau cách mạng tháng Tám 1945, ông tham gia kháng chiến, được
bầu làm Hội trưởng Hội Phật giáo Cứu quốc Nam Bộ.
12.
18
Cư sỹ, dựa vào triết lý Phật giáo để vạch rõ những bất công trong xã hội mà nguồn gốc từ
chế độ cai trị của thực dân Pháp xâm lược câu kết với bọn phong kiến phản động. Trần
Văn Cừ vận động công nhân cao su và nông dân vùng Tứ Long. Hồ Tri Tân vận động
giới thợ mộc, thợ hồ, quần chúng lao động và buôn bán ở Long Điền, Đất Đỏ. Trong một
thời gian ngắn, chi bộ Phước Hải kết nạp được chị Nguyễn Thị Sanh (Sáu Mười Mẫu) và
anh Minh Rỗ (công nhân cao su), chị Hồ Thị Trinh, anh Trần Văn Hóa (ở làng Phước
Hải), anh Võ Văn Thiết, anh Lê Công Cẩn (quê làng Long Mỹ, quận Đất Đỏ).
Cũng trong thời gian này, lực lượng tù chính trị bị giam ở các nhà tù Bà Rịa và
Vũng Tàu (Cap Saint Jacques) tiếp tục tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin, phát động
những cuộc đấu tranh chính trị, gây tiếng vang đối với quần chúng. Nhiều báo cáo của
mật thám Nam Kỳ đã báo động về việc tuyên truyền cộng sản và đấu tranh của tù chính
trị ở hai nhà tù này.
Báo cáo số 4097-S ngày 22 tháng 11 năm 1933 của mật thám Nam Kỳ gửi Thống
đốc Nam Kỳ cho biết, ngày 10 tháng 11 năm 1933, tại nhà tù Cap Saint Jacques, Nguyễn
Văn Sang và Lê Văn Cư cùng một số tù chính trị nổi tiếng bị kết án ngày 1 tháng 9 năm
1933 đã cổ vũ đồng phạm rời bỏ lao dịch... 14 tù chính trị đã tuyệt thực đến ngày 14
tháng 11 năm 1933. Một nhóm thứ hai gồm 16 tù nhân đã từ chối không đi làm (khổ sai)
vào sáng 12 tháng 11 năm 193315.
Bản báo cáo số 2120-S ngày 4 tháng 7 năm 1934 cho biết, 5 tù chính trị nổi tiếng
và 1 tù thường phạm đã từ chối không đi làm khổ sai. Bị phạt xà lim, họ đã tuyệt thực
từ 26 tháng 6 năm 1934 đến 30 tháng 6 năm 193416. Tại nhà tù Bà Rịa, 23 phạm nhân
vừa chuyển từ nhà tù Châu Đốc đến đã đấu tranh tuyệt thực chống lại việc phạt Trần
Văn Quân, Nguyễn Nanh, Nguyễn Văn Lợi và 3 tù khổ sai vào ngục.
(BáoL`Inpatial ngày 15 tháng 12 năm 1933 đã đưa tin trên trang 8 cột 1).
Các cuộc đấu tranh chống lao dịch và tuyệt thực ở các nhà tù Bà Rịa và Vũng
Tàu sôi nổi trong những năm 1934-1935. Trương Văn Bang, nguyên Bí thư Xứ ủy Nam
Kỳ (1932) và một số người bị coi là cầm đầu các cuộc đấu tranh này đã bị chuyển về
Khám Lớn (Sài Gòn).
2. Phát triển các tổ chức quần chúng, phát động đấu tranh dân sinh dân chủ,
thành lập Ban cán sự Đảng tỉnh Bà Rịa
Ngày 3 tháng 5 năm 1936, Mặt trận nhân dân Pháp giành thắng lợi lớn trong cuộc
bầu cử Quốc hội Pháp. Tháng 6 năm 1936, Chính phủ phái tả của Mặt trận nhân dân
Pháp lên cầm quyền do Lêông Bơlum (Léon Blum) làm Thủ tướng và Mariuýt Mutê
(Marius Moutet), đảng viên Đảng Xã hội làm Bộ trưởng Bộ Thuộc địa. Ra đời trong cao
trào nhân dân đấu tranh chống phát xít, Chính phủ phái tả đã giải quyết một số quyền
lợi cho quần chúng lao động trong nước và các thuộc địa theo cương lĩnh của Mặt trận
nhân dân Pháp. Lợi dụng tình hình chính trị đang thuận lợi, ngày 26 tháng 7 năm 1936
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng ta quyết định thành lập Mặt trận thống nhất
nhân dân phản đế Đông Dương và chủ trương chuyển hình thức hoạt động bí mật sang
hoạt động công khai, nửa hợp pháp nhằm tập hợp, hướng dẫn quần chúng đấu tranh đòi
quyền dân sinh, dân chủ, chống thực dân và bè lũ tay sai.
15.
16.
Tài liệu của Cục lưu trữ Trung ương Đảng, Hà Nội, khối tài liệu chính quyền cũ, Đơn vị bảo quản 186, tờ 22.
Tài liệu đã dẫn, tờ 29.
19
Những hoạt động công khai, hợp pháp của một số đảng viên như Nguyễn Văn
Tạo, Nguyễn Văn Nguyễn, Dương Bạch Mai ở Sài Gòn, kết hợp với nhà trí thức yêu
nước Nguyễn An Ninh trong những năm 1935-1936 đòi tự do dân chủ, cải tiến thể chế
chính trị ở thuộc địa, có ảnh hưởng tích cực đối với phong trào cách mạng ở các tỉnh
Nam Bộ nói chung, ở Bà Rịa nói riêng. Qua báo chí tiến bộ, Đảng ta đã đưa ra 12 yêu
cầu đòi quyền tự do dân chủ cho các tầng lớp nhân dân, đòi đại xá tù chính trị. Trung
ương Đảng gửi thư kêu gọi cả nước thành lập Ủy ban hành động để tập trung lực lượng
trong các tầng lớp nhân dân, tích cực chuẩn bị Đại hội Đông Dương.
Ngày 13 tháng 8 năm 1936, Ủy ban trù bị Đại hội Đông Dương được thành lập
tại Sài Gòn. Trong vòng 2 tháng, tháng 8 và tháng 9 năm 1936, toàn Nam Bộ có trên
600 Ủy ban hành động. Cuộc vận động Đông Dương Đại hội khởi xướng từ Sài Gòn
giữa năm 1936 đã nhanh chóng lan về Bà Rịa.
Hưởng ứng phong trào Đông Dương Đại hội do Đảng ta phát động, Hồ Tri Tân
tổ chức Ủy ban hành động17 gồm: Hồ Tri Tân, Trần Văn Cừ, Trần Văn Hoá, Trần Bá
Thiên, Nguyễn Thị Sanh. Trụ sở của Ủy ban đóng tại Phước Hải. Ủy ban in nhiều truyền
đơn phát hành công khai, cổ động quần chúng nhân dân tập hợp nguyện vọng, chuẩn bị
cử đại biểu đưa lên phái đoàn thanh tra của Mặt trận nhân dân Pháp sắp sang Đông
Dương điều tra.
Nhiều Ủy ban hành động ở các huyện lần lượt được thành lập. Ủy ban hành động
Long Điền gồm các đồng chí Nguyễn Văn Phải, Nguyễn Văn Lê..., Ủy ban hành động
Đất Đỏ gồm các đồng chí Võ Văn Thiết, Lê Công Cẩn, Đỗ Văn Nhàn (Bảy Nhàn)...
Cùng với việc tập hợp nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân, Ủy ban hành động còn
tích cực vận động nhân dân đấu tranh đòi dân sinh dân chủ, đòi giảm thuế, nhất là thuế
thân, thuế muối.
Hội Lỗ Ban tương tế được tổ chức công khai theo sáng kiến của Hồ Tri Tân vào
ngày 2-9-1936 (17-7 âm lịch), ngày cúng Lỗ Ban tiên sư, ông tổ của ba ngành thợ mộc,
thợ nề, thợ cưa. Điều lệ do Hồ Tri Tân dự thảo theo nguyên tắc của Điều lệ Công Hội
đỏ. Tên hội công khai được đặt là Lỗ Ban tự tương thân tương tế Hội 18, sử dụng Lỗ Ban
tự (nơi thờ tự Lỗ Ban) làm trụ sở hoạt động công khai và tương thân tương tế làm nội
dung vận dụng tổ chức các hội biến tướng. Ban trị sự công khai gồm: ông Trần Văn
Hữu, thợ mộc ở Phước Lễ làm Hội trưởng; ông Lê Văn Tập, thợ mộc ở Phước Lễ làm
Hội phó; ông Hồ Tri Tân, thợ mộc ở Phước Hải làm thư ký kiêm thủ quỹ.
Ban trị sự chịu sự lãnh đạo của Ban chỉ đạo Lâm thời tỉnh Bà Rịa gồm có Hồ Tri
Tân, Nguyễn Thị Sanh (công nhân cao su), Nguyễn Văn Lăng (đánh xe bò), Nguyễn
Văn Nhàn (Năm Nhàn, thợ nề ở Phước Hải) và Lê Văn Viết (thợ mộc ở Phước Lễ). Mỗi
làng, tổ chức công khai một phân hội, có phân hội trưởng và thư ký, có sổ thu tiền hội
phí hàng tháng. Cuộc họp mặt ngày giỗ tổ 2 tháng 9 năm 1936 (17-7 âm lịch) tổ chức
công khai tại nhà ông Lê Văn Tập (Phước Lễ) có trên 300 người tới dự. Lần đầu tiên,
ba giới thợ (thợ mộc, thợ cưa, thợ nề) họp mặt thờ chung một ông tổ, thảo luận Điều lệ
của Lỗ Ban tương thân tương tế Hội, sau đó có 150 người tự nguyện ghi tên, đóng hội
phí và nhận điều lệ. Thực chất, đó là một cuộc mít tinh của giới thợ Bà Rịa, tuyên truyền
ý thức giác ngộ giai cấp, đoàn kết đấu tranh chống áp bức bóc lột.
Tên công khai là Ủy ban hành động Long Phước với ý nghĩa là đại diện cho các làng khởi đầu bằng chữ Long và chữ
Phước.
18.
Một số sách thường viết là Hội Lỗ Ban tiên sư.
17.
20
Ngoài các chi hội thợ mộc, thợ nề, thợ cưa công khai như Điều lệ Hội được tham
biện tỉnh cho phép, Ban chỉ đạo còn chọn những thanh niên tốt, hăng hái hoạt động, tổ
chức ra các chi hội bí mật, cứ ba người lập một chi hội theo giới thợ, hoạt động bí mật
theo sự chỉ đạo trực tiếp của Tỉnh Hội. Làng nào có hai ba giới thợ thì tổ chức hai hoặc
ba chi hội. Trong năm 1936, hai hệ thống Phân hội (công khai) và Chi hội (bí mật) đã
song song hình thành:
Phân hội (công khai) có:
1- Phân hội Long Điền: ông Sáu Đô, chủ xưởng thủ công là Phân hội trưởng;
2- Phân hội Phước Tuy 1: ông Lê Văn Tập là Phân hội trưởng, Lê Văn Viết là
thư ký;
3- Phân hội Phước Tuy 2: ông Trần Doanh là Phân hội trưởng;
4- Phân hội Phước Hải: ông Nguyễn Văn Nhàn (Năm Nhàn), thợ nề là Phân hội trưởng;
5- Phân hội An Nhứt: ông Sáu Ngói (Sáu Môn) là Phân hội trưởng;
6- Phân hội Phước Thọ;
7- Phân hội Ngư nghiệp Phước Tỉnh: ông Hai Cận (Hai Tròn) là Phân hội trưởng;
Chi hội (bí mật) gồm:
1- Chi hội thợ nề Phước Hải: ông Nguyễn Văn Nhàn (Năm Nhàn) là Chi hội trưởng;
2- Chi hội thợ mộc Phước Hải: ông Trần Đình Xướng là Chi hội trưởng;
3- Chi hội thợ mộc Phước Tuy 1: ông Trần Văn Viết là Chi hội trưởng;
4- Chi hội thợ mộc Phước Tuy 2: ông Trần Ngọc Trân là Chi hội trưởng;
5- Chi hội thợ mộc An Nhứt: ông Ngói là Chi hội trưởng;
6- Chi hội thợ cưa Long Điền: ông Lê Văn Tư là Chi hội trưởng;
7- Chi hội thợ mộc Phước Thọ;
8- Chi hội thợ mộc Long Nhung;
9- Chi hội thợ mộc Long Lập;
Lỗ Ban tương thân tương tế Hội làm nòng cốt cho phong trào đấu tranh đòi quyền
sống ở vùng Bà Rịa, Long Điền, Đất Đỏ, quy tụ cả bà con nông dân, các ngành nghề, phu
làm muối, chị em buôn bán ở các chợ Phước Hải, Long Điền. Nhiều hội nghề nghiệp trực
thuộc Ban chỉ đạo tỉnh được thành lập như: Hội tương tế nấu rượu lậu ở Long Mỹ (5 người)
do ông Võ Văn Thiết phụ trách; Hội tương tế thợ may Phước Tỉnh do ông Ba Cụt (tức Lê
Minh Châu) phụ trách; Hội tương tế vận tải Phước Tỉnh do ông Nguyễn Văn Lăng phụ
trách. Cuối năm 1936, số hội viên các chi hội, phân hội tăng lên trên 200 người.
Theo báo cáo ngày 25 tháng 9 năm 1936 của hương lý làng Phước Hải, tổng
Phước Hưng, chủ tỉnh Bà Rịa báo cáo Thống đốc Nam Kỳ (ngày 26-9-1936): “Trong
làng Phước hải, tổng Phước Hưng có tên Hồ Tuy, 28 tuổi, quán làng An Long, tổng Bích
La, tỉnh Quảng Trị, mang thẻ căn cước số A. 120.583, còn có tên là Tri Tân, vợ là Hồ
Thị Trinh, lập Ủy ban hành động, đề nghị cho trục xuất.”19
Tập Hồ sơ IIA.45/181 về hoạt động của phong trào Đông Dương Đại hội, hiện
lưu trữ tại Trung tâm Lưu trữ Nhà nước II cho biết, tỉnh trưởng các tỉnh đã tổ chức theo
dõi rất sát hoạt động của Ủy ban hành động tại địa phương.
19.
Nguyễn Thành: Cuộc vận động Đông Dương Đại hội năm 1936, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh 1985, tr: 96-97.
21
Công văn số 115c ngày 8 tháng 9 năm 1936 của Chủ tỉnh Bà Rịa Bartoli báo cáo
Thống đốc Nam Kỳ, mật thám thường xuyên theo dõi một người tên là Trần Văn Thiên,
vì hoạt động chuyên nghiệp. Thiên bị bắt đưa đi tạm giam vì rải truyền đơn bí mật.
Ngoài ra, còn có Nguyễn Văn Trúc và Trần Văn Ngữ đồng lõa giúp Thiên tên Hồ Tuy,
hoạt động hăng hái. Hồ Tuy tức Tri Tân (Bắc kỳ) là phần tử xấu (có đầu óc xấu), từ khi
đến tỉnh Bà Rịa, đề nghị cho trục xuất y ra khỏi Nam Kỳ.
Công văn 131c ngày 25 tháng 9 năm 1936 của Chủ tỉnh Bà Rịa Bartoli báo cáo
tiếp: Trần Văn Thiên vừa bị tòa án Bà Rịa xử 4 tháng tù và 5 năm quản thúc. Trong suốt
thời gian căng thẳng của tên Trần Văn Thiên, Hồ Tuy tức Hồ Tri Tân, tỏ ra hoạt động
hăng, vận động trong tỉnh và Sài Gòn nhằm tha cho Thiên. Đề nghị đuổi Hồ Tuy về
nguyên quán.
Công văn 154c ngày 16 tháng 10 năm 1936 cho biết thêm: Trần Văn Thiên, Hồ
Tuy tức Tri Tân và Nguyễn Thị Sanh, lập các Ủy ban hành động ở tỉnh. Ngày 20 tháng
9 vừa rồi, ở căn nhà thuê ở Phước Hải, Nguyễn Thị Sanh đã có mặt trong cuộc họp, nêu
các yêu sách, khoảng 20 người đứng chung quanh. Vì không xin phép, Sanh bị nhà cầm
quyền bản xứ bắt. Trần Văn Thiên đã bị xử 4 tháng tù và 5 năm quản thúc. Còn Hồ Tuy
đề nghị trục xuất.
Ngày 15 tháng 10 năm 1936, Quận trưởng Long Điền Vivan gửi báo cáo số 28c Báo
cáo chủ tỉnh việc theo dõi các Ủy ban hành động như sau: “Tiếp theo báo cáo mật số 22c
ngày 30 tháng 9 năm 1936, cung cấp thêm về các Ủy ban hành động Long Điền và Phước
Hải, do các tên: Nguyễn Văn Thiên (tức Trần Văn Thiên) đã bị kết án vì “lang thang”
(không nghề nghiệp) ngày 22 tháng 9 năm 1936 (4 tháng tù và 5 năm quản thúc). Hồ Tuy
tức Tri Tân, nguyên quán Quảng Trị và Nguyễn Thị Sanh nguyên quán Tân Uyên (Biên
Hòa), nhưng không thể hoạt động vì đã có những biện pháp kiên quyết chặn kịp thời.
(...) Ủy ban hành động Xà Bang - Ngãi Giao được ghi trên truyền đơn màu xanh
là do Nguyễn Thị Sanh tạo ra, dùng danh nghĩa culi Bắc kỳ, Trung kỳ và Nam Kỳ làm
ở đồn điền Trần Kim Tỵ, mà chồng là Huỳnh Văn Sinh làm xu ở đồn điền bên cạnh Xà
Bang thuộc hãng Gallia (Sosiété Gallia) nhằm tỏ lòng đoàn kết với Ủy ban (hành động)
Trung ương ở Sài Gòn. Truyền đơn này in ở nhà in Bảo Tồn, phân phát cho công nhân
đồn điền và vùng xa trung tâm (Tổng Mọi ở Cơ Trạch), cách Long Điền 31km và cách
Toà bố Bà Rịa 33 km.
Tôi đã đến nhà Nguyễn Thị Sanh, nơi Thị Sanh khai hoang và trồng 4 ha thuộc
làng Ngãi Giao không xin phép, men theo lộ số 2 và có thể dính với nhượng địa của Ô.
Caffort để thu thập tin tức, nhưng không gặp Thị Sanh. Tôi buộc phải sang đồn điền
Trần Kim Tỵ, ở cùng làng cách 3 km. Tại đây tôi đã gặp Thị Sanh và chồng, họ đã khẳng
định 13 tên ghi phía dưới truyền đơn là công nhân đồn điền, không ghi rõ địa chỉ.
Xu Sinh khẳng định với tôi rằng, từ khi biết những hoạt động của vợ kể trên, cảnh
sát đã theo dõi Sanh, cho nên y phải đưa vợ về ở cạnh và ngăn thị đừng quan tâm những gì
không dính tới mình (Nguyễn Thị Sanh đã bị tạm giữ một đêm ở nhà việc Phước Hải vì có
âm mưu hội họp công cộng). Ủy ban Ngãi Giao, Xà Bang, Bà Rịa chỉ kí tên trên giấy”.
Ngày 28 tháng 10 năm 1936, Chủ tỉnh Bartoli gửi Công văn số 164c báo cáo với
Thống đốc Nam Kỳ: Hiện Trần Văn Thiên đã bị đưa đi tù 4 tháng và 5 năm quản thúc;
Hồ Tuy bị canh chừng ngặt ở tỉnh, thỉnh thoảng đi Sài Gòn liên lạc với Ủy ban hành
động Trung ương; Nguyễn Thị Sanh ở đồn điền cũng bị bắt về ở nhà, không cho liên hệ
chính trị.
22
Trần Văn Cừ và Trần Văn Hoá bị chính quyền thực dân Pháp bắt giam ở khám
Bà Rịa, khép vào tội “du thủ du thực” với lý do hai người vừa lưu lạc từ nơi khác tới,
chưa có công ăn việc làm. Ủy ban lâm thời Đông Dương Đại hội ở Sài Gòn cũng như
Ủy ban hành động ở các địa phương bị đình chỉ hoạt động. Tuy nhiên, Đảng ta vẫn chỉ
đạo đẩy mạnh phong trào đấu tranh đòi các quyền dân sinh dân chủ, thành lập các tổ
chức nghiệp đoàn, tương tế, ái hữu, tiến tới thành lập một Mặt trận nhân dân thống nhất
chống phản động thuộc địa, chống phát xít, đòi tự do, cơm áo, hòa bình.
Cuối năm 1936, đồng chí Lê Văn Sô, tù chính trị ở Côn Đảo mãn án, bị thực dân
Pháp đưa về chỉ định an trí ở Bà Rịa. Trong thời gian tìm nơi cư trú và việc làm, thực
dân Pháp cho đồng chí tạm trú tại khám Bà Rịa. Lê Văn Sô liên lạc được với Trần Văn
Cừ và Trần Văn Hoá đang bị giam ở đây, nhờ đó liên lạc với Hồ Tri Tân, hoạt động
trong chi bộ Phước Hải, đẩy mạnh việc phát triển cơ sở Đảng và các đoàn thể quần
chúng. Vận dụng những kinh nghiệm chỉ đạo phong trào ở miền Tây Nam Bộ và những
kinh nghiệm tích lũy được trong nhà tù Côn Đảo, Lê Văn Sô đã góp phần nâng cao chất
lượng và đẩy mạnh các hoạt động của chi bộ Phước Hải20.
Làm phu cho một chủ xe đò đưa cá, mắm từ Phước Hải lên bán ở các chợ vùng
cao su lộ 2, Lê Văn Sô đã cùng chị Nguyễn Thị Sanh và anh Minh Rỗ xây dựng nhiều
hội tương tế trong công nhân cao su. Hồ Ngọc Hạ (em ruột Hồ Tri Tân) cũng được giác
ngộ và được cử đi cùng Lê Văn Sô phát triển cơ sở trong công nhân cao su. Chi bộ liên
sở cao su Bình Ba - Xà Bang - Láng Lớn được thành lập gồm các đồng chí Nguyễn Thị
Sanh (Sáu Mười Mẫu), Minh Rỗ, Hồ Ngọc Hạ do đồng chí Lê Văn Sô trực tiếp chỉ đạo.
Trong vai người đi buôn cá, Lê Văn Sô vừa trực tiếp hoạt động, vừa giữ mối liên lạc
giữa Phước Hải với vùng cao su.
Các đảng viên được Xứ ủy phân công chỉ đạo phong trào đấu tranh công khai
thường xuyên theo dõi và chỉ đạo hoạt động của Ủy ban hành động Bà Rịa, trực tiếp là
các đồng chí Dương Bạch Mai, Nguyễn Văn Lộng (tức Chùa). Dương Bạch Mai hoạt
động công khai trong giới báo chí, trí thức, nghị trường, được phân công chỉ đạo địa bàn
vùng Biên Hòa, Bà Rịa.
Qua sự giới thiệu của Dương Bạch Mai, Hồ Tri Tân liên lạc được với đồng chí
Nguyễn Văn Phải (tức Thanh Phong), đảng viên Đảng cộng sản Pháp đang hoạt động ở
thị trấn Long Điền và phát triển thêm được nhiều cơ sở mới như Chín Thừa (Phước
Tỉnh), Nguyễn Văn Lê (An Ngãi), Đỗ Văn Nhàn (Bảy Nhàn ở Tam Phước). Nhóm của
Nguyễn Văn Lê (Ba Lê ở An Ngãi) tập hợp thêm Ba Cụt (Lê Minh Châu, ở Phước Tỉnh),
Hai Khai và nhiều thanh niên hăng hái ở Long Điền.
Cuối năm 1936, Lê Văn Sô và Hồ Ngọc Hạ được điều về Mỹ Tho hoạt động.
Những nỗ lực của Hồ Tri Tân cùng những đóng góp tích cực của Lê Văn Sô đã góp phần
củng cố các cơ sở Đảng. Năm 1937, Chi bộ Phước Hải phát triển thêm nhiều đảng viên
như Trần Văn Hoá, Hồ Thị Trinh, Hồ Thị Tường, Lương Tống (ở Phước Hải); Lê Văn
Hay tức Hà Du (Long Điền), Võ Văn Thiết, Lê Công Cẩn, Trương Văn Tân (Long Mỹ).
Chi bộ Long Mỹ được thành lập do Võ Văn Thiết làm Bí thư.
Đầu năm 1937, đồng chí Trương Văn Bang vừa ra tù, được Liên Tỉnh ủy miền
Đông cử về củng cố các cơ sở Đảng ở Biên Hòa và Bà Rịa. Trương Văn Bang từng bị
bắt giam ở Khám Lớn (Sài Gòn), khám Vũng Tàu, khám Bà Rịa, từng tổ chức nhiều
Lê Văn Sô nguyên là học sinh trường Collège de Cần Thơ, được đi dự lớp huấn luyện của đồng chí Nguyễn Ái Quốc ở
Quảng Châu (1927), là Ủy viên Ban Chấp hành Đặc Ủy hậu Giang An Nam cộng sản Đảng (1930).
20.
23
cuộc đấu tranh của tù chính trị Bà Rịa và Vũng Tàu. Ban cán sự lâm thời tỉnh Bà Rịa
được thành lập giữa năm 1937, Trương Văn Bang làm Bí thư, Ban cán sự có Võ Văn
Thiết, Hồ Tri Tân, Nguyễn Văn Tư, Lương Tống, Nguyễn Thị Sanh21... Khi ấy, trên địa
bàn Bà Rịa - Vũng Tàu đã có ba chi bộ: chi bộ Phước Hải, Chi bộ Long Mỹ, chi bộ Bình
Ba - Xà Bang - Láng Lớn và một số đảng viên lẻ ở Long Điền. Hầu hết các làng vùng
Long Điền, Đất Đỏ, Long Hương, Phước Lễ, khu Tứ Long, Khu vực lộ 2 đã có các cơ
sở Đảng và các Hội tương tế.
Trần Thị Vân, Hồ Ngọc Hạ, Hồ Thị Trinh thường làm giao liên, đưa Trương Văn
Bang đến các cơ sở Đảng. Trục giao liên chính là con đường từ nhà Hồ Tri Tân (Phước
Hải) đến nhà Võ Văn Thiết (Long Mỹ) và nhà Nguyễn Thị Sanh (Bình Ba). Võ Văn
Thiết tiếp tục đưa Trương Văn Bang đến các cơ sở vùng Long Điền, Đất Đỏ. Nguyễn
Thị Sanh đưa Trương Văn Bang đi tuyên truyền, phát triển cơ sở trong công nhân cao
su. Hai vợ chồng chị đều là đảng viên, rất tích cực hoạt động.
Ban chỉ đạo phong trào đấu tranh dân sinh dân chủ và tổ chức các nghiệp đoàn ở
Bà Rịa được củng cố lại gồm 5 người: Nguyễn Văn Tư là thư ký, Hồ Tri Tân, Nguyễn
Văn Nhàn (Năm Nhàn), Võ Văn Thiết và chị Tư Móm. Hồ Tri Tân và Nguyễn Văn
Nhàn phát triển các chi hội thợ mộc, thợ nề, thợ cưa; Võ Văn Thiết phụ trách tổ chức
các hội tương tế khác; chị Tư Móm phụ trách tổ chức các hội phụ nữ buôn gánh bán
bưng ở chợ Phước Hải. Hội phụ nữ tương tế đầu tiên được thành lập ở Phước Hải do chị
Tư Móm phụ trách; Nguyễn Văn Tư phụ trách việc liên lạc với Sài Gòn.
Đầu năm 1937, Xứ ủy cử một số đảng viên hoạt động công khai để chỉ đạo phong
trào dưới danh nghĩa là Ban Công đoàn. Ban Công đoàn lúc đó gồm: Nguyễn Thị Phụng,
Nguyễn Văn Lộng tự Chùa, Nguyễn Thành A, Nguyễn Công Trung, Nguyễn Công Trực,
Văn Công Khai, sau đó bổ sung thêm đồng chí Trần Văn Cừ, từng hoạt động ở Bà Rịa.
Qua đồng chí Nguyễn Văn Lộng, đồng chí Nguyễn Văn Tư nhận chỉ thị của Xứ ủy về
việc phát động một phong trào đấu tranh ở các địa phương phối hợp với phong trào ở
Sài Gòn.
Tháng 6 năm 1937, Ban chỉ đạo tỉnh đã phát động cuộc đấu tranh trong giới thợ
cưa Bà Rịa. Bà Rịa khi ấy có nhiều trại cưa, trại cưa Thủ Lựu lớn nhất, có khoảng 100
thợ; Long Điền có trại cưa của Giáo Tòng và vài trại nhỏ tổng cộng khoảng 100 thợ;
Phước Hải có 2 trại nhỏ hơn; Đất Đỏ có vài trại cưa lẻ; Bà Rịa còn có trại Ba Chim,
nhưng lúc đó ít hoạt động. Ba Chim đang trúng thầu nhiều công trình xây cất các nhà
nghỉ ở Long Hải. Các trại cưa lúc đó đều đã có chi hội tương tế.
Trên 200 thợ cưa ở hầu hết các trại cưa Thủ Lựu, Long Điền, Phước Hải đã đồng
loạt hưởng ứng cuộc bãi công với yêu sách nâng giá cưa gỗ dầu từ 0,10đ/m2 lên 0,12
đ/m2, gỗ sao từ 0,13 đ/m2 lên 0,15 đ/m2. Đồng chí Hồ Tri Tân trực tiếp chỉ đạo cuộc đấu
tranh này. Các chi hội thợ mộc, thợ nề đều hưởng ứng bằng dư luận, sẵn sàng hỗ trợ
cuộc bãi công. Nhờ sự đoàn kết đấu tranh của giới thợ cưa và sự khéo léo của đồng chí
Hồ Tri Tân (cũng là một chủ trại cưa), sau ba ngày bãi công, các chủ trại cưa đã họp lại,
nhất trí nhượng bộ giới thợ.
Cuộc ra quân qui mô của giới thợ cưa thắng lợi đã thôi thúc giới thợ mộc, thợ nề.
Ngay sau đó, các chi hội thợ mộc, thợ nề sở Ba Chim ở Long Hải tổ chức đấu tranh với
các yêu sách: “Thi hành Luật lao động, ngày làm 8 giờ; Tăng lương 10%; Phản đối
đánh đập thợ; Phản đối cúp lương thợ ”.
21.
Hồi ký của đồng chí Trương Văn Bang lưu tại Ban nghiên cứu Lịch sử Đảng tỉnh Đồng Nai, tr 3
24