I. NGUYÊN TẮC KHÔNG PHÂN BIỆT ĐỐI XỬ CỦA TRONG WTO
1.1 Nguyên tắc Tối huệ quốc (MFN)
Tối huệ quốc, viết tắt theo tiếng Anh là MFN (Most Favoured Nation), là
nguyên tắc pháp lý quan trọng nhất của WTO. Tầm quan trọng đặc biệt của
MFN được thể hiện ngay tại Ðiều I của Hiệp định GATT (mặc dù bản thân
thuật ngữ ''tối huệ quốc'' không được sử dụng trong điều này). Nguyên tắc
MFN được hiểu là nếu một nước dành cho một nước thành viên một sự đối xử
ưu đãi nào đó thì nước này cũng sẽ phải dành sự ưu đãi không kém hơn cho
tất cả các nước thành viên khác.
Nguyên tắc này có vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh các hoạt
động thương mại đa biên, đặc biệt nó tạo nên một điều khoản mang tính ưu
tiên trong các Hiệp định về thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ và các
khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ. Khi nguyên tắc
MFN được áp dụng đối với tất cả các nước thành viên WTO một cách vô điều
kiện thì cũng đồng nghĩa với việc duy trì sự bình đẳng và không phân biệt đối
xử vì tất cả hàng hóa, dịch vụ,... đến từ các nước khác nhau sẽ đều được ''đối
xử ưu đãi'' như nhau. Nguyên tắc MFN trong WTO không có tính chất áp
dụng tuyệt đối. Hiệp định GATT 1947 quy định mỗi nước có quyền tuyên bố
không áp dụng tất cả các điều khoản trong Hiệp định đối với một nước thành
viên khác (Trường hợp không áp dụng MFN đối với Cuba mặc dù Cuba là
thành viên sáng lập GATT và WTO).
Nếu như nguyên tắc MFN trong GATT 1947 chỉ áp dụng đối với ''hàng
hoá'' thì trong WTO, nguyên tắc này đã được mở rộng sang thương mại dịch
vụ (Ðiều II Hiệp định GATS), và các khía cạnh thương mại liên quan đến
quyền sở hữu trí tuệ (Ðiều 4 Hiệp định TRIPs).
1
Mặc dù được tất cả các nước trong GATT/WTO công nhận là nguyên tắc
nền tảng nhưng thực tế cho thấy các nước phát triển cũng như đang phát triển,
không phải lúc nào cũng tuân thủ nghiêm túc nguyên tắc MFN và đã có rất
nhiều tranh chấp trong lịch sử của GATT liên quan đến việc áp dụng nguyên
tắc này. Thông thường thì vi phạm của các nước đang phát triển dễ bị phát
hiện và bị kiện nhiều hơn vi phạm của các nước phát triển.
1.2 Nguyên tắc Đối xử quốc gia (NT)
Nguyên tắc Đối xử quốc gia (National Treatment – NT), quy định tại
Ðiều III Hiệp định GATT, Ðiều XVII GATS và đều 3 TRIPs. Nguyên tắc NT
được hiểu là hàng hoá nhập khẩu, dịch vụ và quyền sở hữu trí tuệ nước ngoài
phải được đối xử không kém thuận lợi hơn so với hàng hoá cùng loại trong
nước. Phạm vi phạm áp dụng của nguyên tắc NT đối với hàng hoá, dịch vụ và
các khía cạnh thương mại liên quan tới quyền sở hữu trí tuệ có khác nhau. Ðối
với hàng hoá và các khía cạnh thương mại liên quan tới quyền sở hữu trí tuệ,
việc áp dụng nguyên tắc NT là một nghĩa vụ chung (general obligation), có
nghĩa là hàng hóa và quyền sở hữu trí tuệ nước ngoài sau khi đã đóng thuế
quan hoặc được đăng ký bảo vệ hợp pháp phải được đối xử bình đẳng như
hàng hoá và quyền sở hữu trí tuệ trong nước đối với thuế và lệ phí nội địa, các
quy định về mua, bán, phân phối, vận chuyển. Ðối với dịch vụ, nguyên tắc
này chỉ áp dụng đối với những lĩnh vực, ngành nghề đã được mỗi nước đưa
vào trong danh mục cam kết cụ thể của mình và mỗi nước có quyền đàm phán
đưa ra những ngoại lệ (exception).
Các nước, về nguyên tắc, không được áp đụng những hạn chế số lượng
nhập khẩu và xuất khẩu, trừ những ngoại lệ được quy định rõ ràng trong các
hiệp định của WTO, cụ thể đó là các trường hợp mất cân đối cán cân thanh
toán (Ðiều XII và XVIII.b); nhằm mục đích bảo vệ ngành công nghiệp non trẻ
trong nước (Ðiều XVIII.c); bảo vệ ngành sản xuất trong nước chống lại sự gia
tăng đột ngột về nhập khẩu hoặc để đối phó với sự khan hiếm một mặt hàng
trên thị trường quốc gia do xuất khẩu quá nhiều (Ðiều XIX); vì lý do sức khoẻ
và vệ sinh (Ðiều XX) và vì lý do an ninh quốc gia (Ðiều XXI).
Việc áp dụng nguyên tắc Đối xử quốc gia trên thực tế gây ra rất nhiều
tranh chấp giữa các bên ký kết GATT/WTO bởi một lý do dễ hiểu là nếu các
nước dễ chấp nhận nguyên tắc đối xử bình đẳng đối với các nước thứ ba thì
nước nào cũng muốn dành một sự bảo hộ nhất định đối với sản phẩm nội địa.
Nguyên tắc Đối xử quốc gia (NT) cùng với nguyên tắc Tối huệ quốc (MFN)
là hai nguyên tắc nền tảng quan trọng nhất của hệ thương mại đa phương mà
ý nghĩa thực sự là bảo đảm việc tuân thủ một cách nghiêm túc những cam kết
về mở cửa thị trường là tất cả các nước thành viên đã chấp nhận khi chính
thức trở thành thành viên của WTO.
Để kiểm tra một biện pháp của một nước có vi phạm nguyên tắc MFN
hay NT hay không, người ta thường tiến hành 3 bước để xác định (được
gọi là three tier test):
•
Liệu biện pháp gây tranh cãi có tạo ra một lợi thế, biệt đãi, đặc
•
•
quyền hay miễn trừ gì về mặt thương mại hay không?
Liệu sản phẩm liên quan có phải sản phẩm tương tự hay không?
Liệu lợi thế được tạo ra có trao cho tất cả các sản phẩm tương tự
ngay lập tức và vô điều kiện hay không?
Việc trả lời câu hỏi thứ nhất và thứ ba ở trên dường như rõ ràng và dễ rà
soát hơn, tuy nhiên để trả lời câu hỏi sản phẩm liên quan có phải là sản phẩm
tương tự hay không lại đưa chúng ta tới một phạm trù phức tạp đó là “sản
phẩm tương tự”. Tại sao cần phải phân định các sản phẩm có “tương tự” nhau
hay không, hay làm thế nào để chứng minh điều đó? Những vấn đề này sẽ
được lần lượt trình bày sau đây.
II. Ý NGHĨA CỦA VIỆC CHỨNG MINH SẢN PHẨM TƯƠNG TỰ
2.1 Thế nào là sản phẩm tương tự
Điều 2.6 Hiệp định thực thi điều VI của Hiệp định chung về thuế quan và
thương mại - GATT 1994 (ADA) có định nghĩa như sau về sản phẩm tương
tự: "sản phẩm tương tự sẽ được hiểu là sản phẩm giống hệt, tức là sản phẩm
có tất cả các đặc tính giống với sản phẩm đang được xem xét, hoặc trong
trường hợp không có sản phẩm nào như vậy thì sản phẩm khác mặc dù không
giống ở mọi đặc tính nhưng có nhiều đặc điểm gần giống với sản phẩm được
xem xét". Tuy nhiên định nghĩa này hết sức chung chung: thế nào là “giống
hệt”, “tất cả các đặc tính” bao gồm những gì hay thế nào là “có nhiều đặc
điểm gần giống”, định nghĩa này rõ ràng không cho ta một hệ thống cụ thể và
chính xác để dựa vào đó ta có thể xem xét tính tương tự của các sản phẩm.
Sản phẩm tương tự có thể là hàng hóa của các nước cùng xuất khẩu vào nước
nhập khẩu khi xem xét việc vi phạm nguyên tắc MFN; hoặc có thể là hàng
hóa của nước xuất khẩu và nước nhập khẩu khi xem xét việc vi phạm nguyên
tắc NT.
Vấn đề đặt ra là, dù khái niệm sản phẩm tương tự được đề cập tới nhiều
lần nhưng các hiệp định của WTO không đưa ra các tiêu chí cụ thể để làm rõ
khái niệm này. Một hiệp định khác giải thích khái niệm hàng hóa tương tự
(similar goods) là Hiệp định Trị giá hải quan. Theo Hiệp định Trị giá hải
quan, khi lô hàng đang làm thủ tục hải quan không đủ điều kiện xác định trị
giá tính thuế theo phương pháp trị giá giao dịch của hàng nhập khẩu thì cần
phải sử dụng các phương pháp thay thế kế tiếp như trị giá giao dịch của hàng
hóa giống hệt hay tương tự. Điều 15 Hiệp định này định nghĩa “Hàng hóa
tương tự là các hàng hóa dù không giống nhau về mọi khía cạnh nhưng có
những đặc điểm tương tự hoặc có thành phần cấu tạo tương tự cho phép
chúng thực hiện cùng một chức năng và có thể thay thế nhau về mặt thương
mại. Chất lượng, uy tín và nhãn hiệu nằm trong số các yếu tố cần xem xét khi
xác định sự tương tự của các hàng hóa.” Tuy nhiên, cách giải thích này không
được áp dụng khi xem xét các tranh chấp về phân biệt đối xử vì phạm vi của
nó rất hẹp, chỉ hướng tới sự tương đương về giá trị giữa hàng hóa nhập khẩu
và hàng hóa nhập khẩu tương tự.
2.2 Ý nghĩa của việc chứng minh sản phẩm tương tự
Sản phẩm tương tự hiện diện trong nhiều mặt của lĩnh vực thương mại
quốc tế. Ta cần phân định sản phẩm tương tự để áp dụng mức thuế quan phù
hợp với từng loại hàng hóa, định giá hàng hóa, các chính sách áp dụng,...
Trong khuôn khổ đề tài này, tác giả muốn đề cập tới việc xác định 2 sản phẩm
có là sản phẩm tương tự hay không trong một vụ tranh chấp có vai trò quyết
định tới chuyện có hay không việc một nước vi phạm nguyên tắc MFN hay
NT.
Bản thân việc xác định hàng hóa tương tự cũng có những khác biệt nhất
định qua từng hiệp định. Ngay trong Hiệp định GATT, nội hàm của khái niệm
này trong Điều I và Điều III cũng không hoàn toàn giống nhau. Trong đó,
đáng lưu ý là Điều III.2, câu số 2 mở rộng phạm vi hàng hóa tương tự tới mức
bao hàm cả các hàng hóa có tính cạnh tranh và thay thế trực tiếp đối với hàng
hóa nội địa.
III. CÁC CĂN CỨ ĐỂ CHỨNG MINH SẢN PHẨM TƯƠNG TỰ
3.1 Đặc tính vật chất của các hàng hóa
Đặc tính vật chất của hàng hóa có thể hiểu một cách đơn giản là một tập
hợp các đặc điểm của hàng hóa về hình thức bên ngoài, tính chất vật lý, thành
phần các chất trong hàng hóa, phương thức sản xuất,... Vì sự không thông
thống nhất và không có quy định cụ thể nào về việc phân định sản phẩm
tương tự, trong thực tế đã từng xảy ra rất nhiều vụ tranh chấp như vụ kiện
DS8, DS10, DS11 về sản phẩm đồ uống có cồn giữa Nhật Bản với một số
nước hay là vụ kiện số DS141 về sản phẩm khăn lạnh trải giường loại coton.
Bằng các phán quyết của mình, cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO đã
đưa ra những cách giải thích về "sản phẩm tương tự". Điển hình là trong vụ
việc DS8, DS10, DS11 mà sau đây gọi chung là vụ kiện về đồ uống có cồn và
DS 141.
Trong vụ kiện đó thì Ban Hội thẩm cho rằng việc giải thích nội hàm của
thuật ngữ "sản phẩm tương tự" cần theo nghĩa hẹp tùy thuộc vào từng Điều
luật và từng điều khoản nhất định; và Cơ quan Phúc thẩm cũng đồng ý với
quan điểm của Ban Hội thẩm về vấn đề này. Ban Hội thẩm cho rằng sản phẩm
vodka và shochu có nhiều đặc tính vật chất giống nhau, bởi vì chúng thường
được uống dưới dạng loãng và nồng độ cồn trong hai sản phẩm này không
loại trừ đặc tính giống nhau này.
Tuy nhiên từ những vụ việc này cũng khiến nảy sinh ra các tiêu chí khác,
và việc đánh giá tính tương tự của sản phẩm nhập khẩu và sản phẩm sản xuất
trong nước cần phải được xác định theo từng vụ kiện cụ thể. Đồng thời, Cơ
quan Phúc thẩm đã nhấn mạnh quan điểm này bằng việc so sánh giữa khái
niệm về sản phẩm tương tự và hình ảnh một cây đàn accoocdeong. Nó tùy
thuộc vào từng vụ việc cụ thể.
3.2 Mục đích sử dụng cuối cùng của sản phẩm
Trong vụ kiện DS141 thì Ban Hội thẩm đã tiến hành kiểm tra xem khăn
lanh trải giường loại cotton mà EC sản xuất và bán trên thị trường EC có phải
là sản phẩm tương tự với khăn lanh trải giường loại cotton xuất xứ tại Ai Cập,
Ấn Độ, Pakistan và xuất sang thị trường EC hay không. Đại diện của một số
bên liên quan đã cho rằng khăn lanh trải giường tẩy trắng cần được loại khỏi
phạm vi sản phẩm bị điều tra vì đây không thể xem là sản phẩm tương tự. Họ
lập luận rằng khăn lanh trải giường tẩy trắng khác loại khăn lanh trải giường
nhuộm hay in cả về kỹ thuật lẫn đối tượng sử dụng cuối cùng (khăn trải
giường nhuộm trắng chủ yếu sử dụng trong các bệnh viện và khách sạn). Ban
Hội thẩm thấy rằng EC có sản xuất sản phẩm khăn lanh trải giường tẩy trắng
và một số sản phẩm loại này không phải chỉ được sử dụng bởi một nhóm đối
tượng riêng biệt. Do đó, Ban Hội thẩm đã đi đến kết luận rằng mặc dù có sự
khác biệt nhất định giữa nhóm sản phẩm sản xuất tại EC và nhóm sản phẩm
được xuất sang EC hoặc bán tại thị trường nội địa nước xuất khẩu nhưng
không có sự khác biệt về các đặc tính cơ bản và cách thức sử dụng giữa các
sản phẩm khăn lanh trải giường thuộc các loại và chất lượng khác nhau. Vì
vậy các sản phẩm sản xuất và xuất khẩu bởi các nước bị điều tra và sản phẩm
sản xuất và bán tại EC được xem là sản phẩm tương tự. Như vậy yếu tố mục
đích sử dụng cuối cùng mà sản phẩm có thể phục vụ đã được dùng để làm căn
cứ xem xét tính tương tự của sản phẩm.
3.3 Thị hiếu tiêu dùng sản phẩm
Thị hiếu tiêu dùng sản phẩm phản ánh sở thích, thói quen mua sắm, sử
dụng các sản phẩm của người tiêu dùng tại những nơi khác nhau. Các yếu tố
như vị trí địa lý, khí hậu, văn hóa, lịch sử,... vô cùng đa dạng và phong phú đã
tạo nên thị hiếu tiêu dùng khác nhau của người dân mỗi khu vực. Hai sản
phẩm có tương tự hay không, có thể được xem xét dựa trên sở thích và thói
quen tiêu dùng 2 sản phẩm đó.
3.4 Mã số phân loại quốc tế của hàng hóa nhằm mục đích thuế quan
Trong báo cáo của Ban công tác WTO về Điều chỉnh thuế quan năm
1970, việc sử dụng cách phân loại trong các danh mục thuế quan làm tiêu chí
xác định tính chất tương tự của hàng hóa chưa được nhắc tới. Năm 1996,
trong vụ việc Nhật Bản - Các loại thuế đối với đồ uống có cồn, Cơ quan Phúc
thẩm mới chính thức công nhận việc sử dụng mã số HS như một tiêu chí để
xem xét tính chất tương tự của hàng hóa.
Trong phán quyết của mình, Cơ quan Phúc thẩm nhận định “việc phân
loại thống nhất trong các biểu thuế quan dựa trên Danh mục Hài hòa (HS)
được ghi nhận trong thực tiễn thực thi Hiệp định GATT 1947 như một cơ sở
quan trọng khi xác định tính chất tương tự của hàng hóa.” Tuy nhiên, Cơ quan
này cho rằng có sự khác biệt quan trọng giữa Danh mục HS và các cam kết về
thuế quan được các thành viên WTO thực hiện theo Điều II của Hiệp định
GATT 1994. Bởi lẽ nhiều thành viên xây dựng các dòng cam kết theo cách
bao hàm rất nhiều sản phẩm thuộc nhiều mã HS khác nhau. Thí dụ, Jamaica
cam kết hầu hết sản phẩm nông nghiệp ở mức thuế 50%; Peru cam kết các sản
phẩm phi nông nghiệp ở mức thuế 30%. Điều này không phản ánh sự tương
tự của các hàng hóa được xếp chung trong một dòng cam kết mà chỉ cho thấy
kết quả đàm phán của các thành viên WTO. Do đó, Cơ quan Phúc thẩm kết
luận “việc sử dụng các dòng cam kết thuế quan có phạm vi quá rộng như một
công cụ xác định hàng hóa tương tự sẽ tiềm ẩn nhiều rủi ro.”
Như vậy, theo quan điểm của Cơ quan Phúc thẩm ở thời điểm năm 1996,
dù Công ước HS đóng vai trò nhất định trong việc xác định tính chất tương tự
của hàng hóa nhằm mục đích giải quyết tranh chấp trong WTO, vai trò này
chỉ được xem xét một cách gián tiếp thông qua các Biểu cam kết. Chỉ khi nào
các dòng cam kết “mô tả hết sức chính xác hàng hóa,” chúng mới được xem
xét như một “chỉ dẫn quan trọng” khi xác định tính chất tương tự của hàng
hóa.
Mức độ quan trọng của từng tiêu chí trong 4 tiêu chí trên sẽ được xác
định trong từng tranh chấp cụ thể (case by case basis). Trong nhiều trường
hợp, tính cạnh tranh của các sản phẩm đang xem xét trở thành yếu tố tiên
quyết, trong khi cả bốn yếu tố trên chỉ mang tính chất tham khảo.
3.5 Case study: Hàn Quốc – Thuế áp dụng đối với đồ uống có cồn
3.5.1 Bối cảnh vụ việc
Ngày 04/04/1997, Cộng đồng Châu Âu đưa ra đề nghị xét xử đối với
Hàn Quốc về việc nước này áp dụng thuế nhập khẩu với mặt hàng thức uống
có cồn dựa theo luật thuế đối với rượu và luật thuế giáo dục. EC cho rằng luật
thuế đối với rượu của Hàn Quốc và luật thuế giáo dục không phù hợp với
những nghĩa vụ bắt buộc của nước này chiếu theo điều III: 2 của GATT 1994.
Vào ngày 23/05/1997, Hoa Kỳ yêu cầu mở phiên tòa xét xử đối với Hàn Quốc
về vấn đề tương tự như EC. Hoa Kỳ cũng cho rằng hành động của Hàn Quốc
đi ngược lại quy định tại điều khoản III: 2 của GATT 1994.
DSB đã thành lập Ban Hội Thẩm vào cuộc họp ngày 16/10/1997 sau yêu
cầu lần thứ hai từ phía EC và Hoa Kỳ. Canada và Mexico tham gia vào vụ
tranh chấp này với tư cách là bên thứ ba.
Ngày 05/12/1997, Ban Hội Thẩm được thành lập với cơ cấu rõ ràng. Báo
cáo của Ban Hội Thẩm được đưa đến các thành viên vào ngày 17/09/1998.
3.5.2 Giai đoạn Hội thẩm
a.
•
Lập luận của bên bị đơn
Đặc điểm vật chất của các loại đồ uống chưng cất có cồn
Phía Hàn Quốc cho để chưng cất rượu, đầu tiên phải cho lên men các
nguyên liệu thô. Các nguyên liệu lên men được đưa vào trong một quá trình
chắt lọc và cô đọng, hay còn gọi là chưng cất. Các đồ uống được chưng cất
theo phương pháp này nói chung sẽ tạo ra “cồn”, và cồn chính là sản phẩm
chính trong trường hợp này.
Thêm vào đó, Hàn Quốc còn lập luận rằng rượu chưng cất được tạo nên
từ các nguyên liệu rất đa dạng như lúa, ngô, gạo, hoa quả, đường mía hay củ
cải đường, khoai tây hoặc thậm chí bột sắn. Việc lựa chọn nguyên liệu thô để
chưng cất sản xuất ra đồ uống có cồn tùy thuộc vào từng khu vực địa lý, văn
hóa và yêu cầu của khách hàng, và điều đó đóng vai trò quan trọng quyết định
chất lượng của sản phẩm đầu ra cuối cùng.
Hàn Quốc đặc biệt lưu ý rằng có một cách phân biệt khác dựa vào màu
cồn là “nâu” hay “trắng”. Theo Hàn Quốc, cách phân biệt này liên quan tới
quy trình sản xuất cũng như vẻ bề ngoài của đồ uống: cồn nâu được xếp là
loại rượu nâu (VD: whisky hay congac); cồn trắng được xếp là rượu trắng
(VD: soju hay gin). Hàn Quốc còn lập luận thêm rẳng rượu nâu thường được
ủ trong thùng gỗ và chính điều này cùng với các nguyên liệu ban đầu tạo nên
hương vị đặc trưng của chúng. Trong khi đó rượu trắng không được ủ trước
khi đóng chai, thay vào đó chúng được thêm nếm hương vị trong suốt quá
trình chưng cất làm nên hương vị đặc trưng của chúng. Mỗi loại rượu khác
nhau được tạo nên từ những nguyên liệu khác nhau (VD: hương vị đặc biệt
của rượu gin được tạo nên từ cây dâu).
•
Hành vi và thị hiếu của khách hàng
Hàn Quốc lập luận rằng nhu cầu của khách hàng về đồ uống có cồn thay
đổi tùy thuộc vào từng quốc gia khác nhau. Một số quốc gia có đồ uống đặc
trưng riêng. Ví dụ, theo Hàn Quốc lập luận, ở Pháp thì rượu là loại đồ uống
quốc gia, ở Đức thì đó là bia và ở Nhật Bản đó là rượu sake. Phía Hàn Quốc
còn thêm rằng một số đồ uống của các quốc gia gần như không được biết đến
ở các nước khác. Theo Hàn Quốc, trong trường hợp rượu soju của người Hàn,
hầu như không được biết tới ở ngoài khu vực Bắc Á và cộng đồng người Hàn
Quốc tại nước ngoài.
Hàn Quốc cho rằng các loại đồ uống này phản ánh những nét văn hóa
khác nhau và sự đa dạng về truyền thống của các nước trên thế giới. Hơn nữa,
khí hậu, ẩm thực và lịch sử của một nước cũng góp phần tạo nên thói quen sử
dụng đồ uống có cồn của cư dân nước họ. Chẳng hạn ở các nước nóng họ
uống đồ có cồn để giải khát, trong khi một vài nước có khí hậu lạnh, họ lại
uống để giữ ấm cho cơ thể. Một vài nước khác lại coi đồ uống có cồn đơn
thuần là để giải trí hoặc để dùng kèm với bữa ăn.
Theo phía Hàn Quốc, người tiêu dùng có thể uống một đồ uống có cồn
riêng hoặc trộn lẫn chúng với nhau, dùng thêm đá hoặc không, nóng hoặc
lạnh hay thậm chí kết hợp cả hai. Theo họ, rượu soju của Hàn Quốc không
bao giờ được uống lẫn lộn, trong khi đó các rượu khác như whisky, vodka hay
shochu của Nhật Bản thường được dùng theo cách uống riêng hoặc trộn lẫn.
Hàn Quốc cho rằng Cộng đồng các nước châu Âu EC và Mỹ, trong yêu
cầu gửi Ban Hội thẩm, đã nhắc tới mức thuế quan ưu đãi khác nhau dành cho
rượu soju và các loại rượu khác cùng thuộc nhóm 2208 trong danh mục HS.
Hàn Quốc cho rằng họ đã không phân biệt rõ ràng việc này.
Theo họ, những cách giải thích khác nhau của từ ngữ đang xung đột với
quyền lợi chính đáng của họ. Nước này lập luận, nhóm HS 2208 phân loại
thuế quan rất rộng, bao gồm rất nhiều loại đồ uống có cồn khác nhau, cả đồ
uống phương Đông như koryangu, rượu soju của Hàn Quốc, Insam ju,
shocchu của Nhật Bản,… Nhưng điều lạ là cả Mỹ và EC chỉ nhắc tới “đồ
uống có cồn phương Tây”, trong khi đó HS 2208 còn bao gồm cả những “đồ
uống có cồn không của phương Tây”. Điều này xét trên một khía cạnh nào đó
rõ ràng không công bằng, và Mỹ và EC đang đấu tranh chỉ vì quyền lợi của
mình mà thôi.
Hàn Quốc yêu cầu Ban Hội thẩm giới hạn phạm vi các sản phẩm được
đưa vào tranh chấp. Theo họ, chỉ những loại rượu nhập khẩu mà chịu mức
thuế quan khác với rượu soju nội địa như whisky, brandy, vodka, gin và rum.
Theo Hàn Quốc, một số loại rượu được nhận biết rõ ràng trong yêu cầu của
Mỹ gửi Ban Hội thẩm. Tuy nhiên họ cũng cho rằng các bên tham gia tranh
chấp tuyệt đối không được đơn phương thay đổi yêu cầu ban đầu và không
được mở rộng phạm vi sản phẩm tranh chấp.
b.
Lập luận của bên nguyên đơn
EC phản đối ý kiến của Hàn Quốc cho rằng họ đơn phương mở rộng
phạm vi sản phẩm tranh chấp. Theo EC, yêu cầu ban đầu của họ gửi lên Ban
Hội thẩm nhắc tới “những loại rượu cụ thể nằm trong nhóm HS 2208”. Họ
cho rằng, nhóm HS 2208 không chỉ bao gồm “cồn” mà còn cả “các biến thể
của rượu có nồng độ cồn ít hơn 80%” và các loại đồ uống có cồn khác không
thuộc bất cứ nhóm nào trong phân mục 22 của HS.
Trong vụ tranh chấp này, Mỹ và EC còn đưa ra các phán quyết của Ban
Hội thẩm và Cơ quan Phúc thẩm trong một số án lệ đã xảy ra từ trước, như vụ
Nhật Bản - thuế áp dụng cho đồ uống có cồn II. Theo một trong những kết
luận cuối cùng trong các án lệ đó, “những sự khác biệt nhỏ về mùi vị, màu sắc
và những đặc tính khác (bao gồm cả nồng độ rượu khác nhau) thì không ảnh
hưởng đến việc xem xét các sản phẩm có là sản phẩm tương tự hay không”.
Viện Nghiên cứu Rượu Whisky Scotch đã tiến hành những phân tích và
chỉ ra rằng soju và vodka có quy trình sản xuất và tính chất vật lý tương tự
nhau, chẳng hạn cùng lên men từ một nguồn cacbonhidrate tương tự, đều
chưng cất để tạo nên cồn, đều không ủ trong thùng gỗ, không có nhiều bã và
không bị đục…
Cũng theo các bên nguyên đơn, rượu soju của Hàn Quốc giống với rượu
shochu Nhật Bản, mà phán quyết cuối cùng trong vụ Nhật Bản - thuế áp dụng
cho đồ uống có cồn II cho rằng rượu shochu “tương tự” vodka.
c.
Phán quyết của ban Hội thẩm
Ban Hội thẩm kết luận, vodka và soju là sản phẩm tương tự bởi chúng có
chung tính chất về vật lý và chúng giống nhau về mục đích sử dụng cuối
cùng.
Ban Hội Thẩm chỉ ra rằng:
• Rượu Soju (cả pha loãng và chưng cất), là mặt hàng cạnh tranh trực
tiếp và thay thế cho những loại thức uống có cồn được chưng cất nhập khẩu
như whisky, brandy, rum, gin, vodka, tequila…
• Hàn Quốc đã đánh thuế nhập khẩu các sản phẩm một cách không giống
nhau và sự khác biệt giữa thuế đạt hơn mức tối thiểu, và được áp dụng để bảo
hộ sản xuất trong nước.
• Ban Hội Thẩm kết luận rằng Hàn Quốc đã vi phạm điều III:2 của
GATT 1994.
Vào ngày 20 tháng 10 năm 1998, Hàn Quốc thông báo ý định kháng cáo
một số vấn đề pháp luật và diễn giải pháp lý của Ban Hội thẩm.
3.5.3 Giai đoạn Phúc thẩm
a.
•
Lập luận của bên bị đơn
Tính chất sản phẩm
Phía Hàn Quốc nhấn mạnh rằng Ban Hội Thẩm đã chỉ ra “tất cả các sản
phẩm… đều phải có những đặc điểm cần thiết của đồ uống có cồn chưng cất”.
Về bản chất, Ban Hội thẩm xem xét khía cạnh này đủ để đưa ra một giả định
rằng tất cả các đồ uống có cồn chưng cất là “đồ uống cạnh tranh trực tiếp hoặc
thay thế”. Hàn Quốc không đồng ý rằng một tuyên bố chung chung như vậy
có thể làm phát sinh một giả định của loại hình này. Ban hội thẩm đã sai lầm
khi loại bỏ tầm quan trọng của hương vị trong một trường hợp liên quan đến
đồ uống. Hương vị của sản phẩm là một trong những quan tâm hàng đầu của
khách hàng khi chọn mua đồ uống và sự phân biệt các loại hương vị được cho
là không đúng đắn nếu đứng từ góc nhìn của người tiêu dùng.
Ban Hội Thẩm chú trọng vào sự thật rằng tất cả những đồ uống có cồn
trong vụ kiện này đều được sản xuất bằng công nghệ chưng cất. Điều này gây
phát sinh ra một câu hỏi là liệu những sản phẩm công nghiệp hoặc sản phẩm
thuốc có bị cho là sản phẩm cạnh tranh trực tiếp hoặc thay thế đối với những
đồ uống này. Sự giống nhau trong nguyên liệu thô và phương thức chế biến
của sản phẩm không ảnh hưởng đến việc xác định sản phẩm này có là sản
phẩm cạnh tranh trực tiếp hoặc thay thế đối với sản phẩm khác.
Việc Ban Hội Thẩm áp dụng “tiêu chuẩn kép với bằng chứng” được thể
hiện trong việc từ chối của họ, mặt khác, về các sản phẩm đóng chai và bọc
giấy của Hàn Quốc, được nước này là đã chứng minh rằng sự giống nhau về
mặt vật lý không phải lúc nào cũng có thể là bằng chứng chứng minh cho mối
quan hệ cạnh tranh hoặc thay thế giữa các mặt hàng. Mặt khác, Ban Hội Thẩm
dựa vào ví dụ của Hoa Kỳ về thuốc giảm đau mang nhãn hiệu nổi tiếng đã
cho thấy tính chất vật lý giống nhau lại là điều kiện xem xét quan trọng. Hơn
thế nữa, Ban Hội Thẩm bác bỏ ví dụ của Hàn Quốc về sản phẩm nước đóng
chai vì nó liên quan đến các sản phẩm khác nhau ở các quốc gia khác nhau.
Dù vậy, ở phần khác của báo cáo, Ban Hội Thẩm cho rằng bằng chứng từ
“những quốc gia khác” là hợp lý.
•
Thị hiếu của người tiêu dùng
Trước những báo cáo của Ban Hội Thẩm, phía Hàn Quốc đã chỉ ra rằng,
ở nước này việc sử dụng rượu soju là không thể thiếu trong các bữa ăn trong
khi thói quen uống rượu của các nước phương tây là không uống kèm trong
bữa ăn. Tuy nhiên, Ban Hội Thẩm đã chỉ ra rằng sự phân biệt này không đủ để
bảo về các sản phẩm khỏi việc bị cho là cạnh tranh trực tiếp hoặc thay thế.
Hàn Quốc tin rằng phán quyết của Ban Hội Thẩm là sai, cả việc áp dụng điều
luật III: 2 và việc yêu cầu chứng minh cho việc chấp nhận rằng các đồ uống
trong trường hợp này đều được sử dụng với chung mục đích, quan hệ xã hội
và giải trí.
Đối đãi từ phía Ban Hội Thẩm đối với chiến lược marketing của các
công ty Hàn Quốc đã một lần nữa khẳng định sự ảnh hưởng của “tiêu chuẩn
kép của bằng chứng”. Ban Hội Thẩm cho rằng chiến lược marketing đã hỗ trợ
cho việc tìm ra một sản phẩm là “sản phẩm tương tự” hay sản phẩm “cạnh
tranh trực tiếp hoặc thay thế”, chính vì vậy đã trở thành một bằng chứng quan
trọng. Đồng thời, Ban Hội thẩm cũng bác bỏ những bằng chứng từ các chiến
lược marketing không có giá trị chứng minh như trên.
Ban Hội thẩm cũng đã sai lầm khi đánh giá các bằng chứng liên quan
đến trình phụ gia. Hàn Quốc tranh luận dựa trên sự thật phát sinh trong nghiên
cứu thị trường rằng soju pha loãng và soju chưng cất được tiêu thụ ngay ở
Hàn Quốc (không giống như một số các đồ uống nhập khẩu đã nêu trong
trường hợp này). Sự phân biệt giữa cocktails soju với soju chưng cất và soju
pha loãng đã phản ánh những điều luật liên quan đến thuế áp dụng cho mặt
hàng này tại Hàn Quốc. Nước này cho rằng sự hiện diện của rượu soju pha
loãng trong phụ gia không thể hỗ trợ một phát hiện tương tự với các đồ uống
khác được tiêu thụ bằng một hình thức khác nhau, cũng giống như sự tồn tại
của Bailey không phải là bằng chứng cho thấy rượu luôn là một hỗn hợp gây
say xỉn. Giống như rượu Bailey và Whisky, soju loại chưng cất, pha loãng hay
cho thêm phụ gia là những đồ uống khác nhau và đều không bị phân biệt đối
xử chiếu theo luật về thuế đánh vào rượu. Ban Hội Thẩm đã sai lầm khi bác
bỏ ý kiến của Hàn Quốc về các loại rượu cho thêm phụ gia.
b.
•
Lập luận của bên nguyên đơn
Tính chất của sản phẩm
Theo Ủy ban Châu Âu EC, việc Hàn Quốc cho rằng hương vị là một
trong những cân nhắc đầu tiên của khách hàng khi chọn đồ uống là không xác
đáng. Nếu hai loại sản phẩn được nhận biết gần giống nhau thì sự lựa chọn
của khách hàng trong số chúng sẽ cần thiết phải chú ý đến những khác nhau
nhỏ. Ví dụ, nguyên nhân duy nhất cho việc chọn ca vát màu xanh thay vì chọn
cái màu đỏ là vì màu sắc. Vì vậy, màu sắc chính là đặc điểm nhỏ của chiếc ca
vát và sự khác nhau ở màu sắc không thể không đủ đê phủ nhận việc coi 2
hàng hóa này là cạnh trạnh trực tiếp và thay thế.
Phía Hàn Quốc cũng nhận định rằng, Ban Hội thẩm đã sai khi dựa vào
“tính thông thường của nguyên liệu thô” và tính tương tự trong quy trình sản
xuất là tiêu chuẩn quyết định. Theo Ủy ban Châu Âu, Hàn Quốc đã phân tích
không đúng lập luận của Ban Hội thẩm. Ban Hội thẩm đưa ra những điều
khoản không thể chối cãi về “tính thông thường của nguyên liệu thô” là một
yếu tố có liên quan, nhưng không phải là yếu tố quyết định. Và Ban Hội thẩm
cũng không cho rằng tính tương tự trong quy trình sản xuất cũng không có
tính quyết định.
•
Thị hiếu người tiêu dùng
Ủy ban Châu Âu lập luận rằng nghiên cứu Nielsen bác bỏ khẳng định
của Hàn Quốc trên mô hình tiêu thụ rượu soju và phong cách kiểu phương
Tây. Nó cho thấy một số người tiêu dùng đã uống rượu với bữa ăn và rượu
soju không phải lúc nào cũng được dùng uống trong bữa ăn. Cuộc khảo sát
Trendscope xác nhận rằng “phong cách kiểu phương Tây” đôi khi được tiêu
thụ trong bữa ăn. Ban Hội thẩm đã không căn cứ vào kết luận rằng soju và
kiểu phương Tây có đặc tính sử dụng cuối cùng giống nhau trong những phát
hiện từ nghiên cứu của Nielsen là 6 phần trăm người tiêu dùng đã uống rượu
trong bữa ăn của họ. Thay vào đó, Ban Hội thẩm đã bác bỏ sự liên quan đến
sự phân biệt khắt khe giữa tiêu thụ trong bữa ăn và không dùng với các bữa
ăn, và cũng giữa tiêu dùng với các “món ăn nhẹ”; hoặc với “bữa ăn”.
EC không đồng ý với Hàn Quốc rằng có một sự mâu thuẫn trong điều
chỉnh chiến lược marketing của Ban hội thẩm. Mặc dù ban nói rằng chiến
lược marketing có thể được sử dụng để tạo ra sự khác biệt giữa các sản phẩm
chủ yếu là nhận thức, họ cũng nói rằng các chiến lược marketing có thể là
công cụ hữu ích để phân tích nếu họ làm nổi bật được sự khác biệt sản phẩm
hoặc những tương đồng cơ bản. Ban Hội Thẩm sau đó dựa vào chiến lược
marketing làm nổi bật những nét tương đồng cơ bản giữa các sản phẩm.
EC nhắc lại rằng bên khiếu nại viện dẫn bằng chứng trước Ban Hội thẩm
rằng một số loại đồ uống là pha sẵn bao gồm soju, qua đó bác bỏ tuyên bố của
Hàn Quốc rằng soju luôn luôn là rượu có thể gây tình trạng say xỉn. Cho dù
hỗn hợp được coi là soju hay rượu phục vụ cho các mục đích phân loại thuế
đều hoàn toàn không thích hợp. Hỗn hợp rượu “gin và thuốc bổ”, “rượu
whisky và cola”; sẽ không được phân loại như whisky, gin hay rượu rum. Tuy
nhiên, sự tồn tại của chúng tạo thành bằng chứng không thể chối cãi rằng một
số người tiêu dùng thích uống những loại hỗn hợp đồ uống không cồn.
c.
Phán quyết của cơ quan Phúc thẩm
Báo cáo của Cơ quan Phúc thẩm được ban hành tới các thành viên ngày
18 tháng 1 năm 1999 Cơ quan Phúc thẩm giữ nguyên kết quả của Ban Hội
Thẩm trên tất cả các điểm.
DSB đã thông qua bản báo cáo của Ban Hội Thẩm và Ban Phúc Thẩm
vào ngày 17/02/1999.
Tại cuộc họp ngày 27 /01/ 2000, Hàn Quốc quyết định sẽ thực hiện đầy
đủ các phán quyết và khuyến nghị của DSB bằng cách sửa đổi Luật Thuế
Rượu và Luật thuế Giáo dục để áp đặt giá phẳng thuế rượu 72% và thuế giáo
dục 30% trên tất cả các cất đồ uống có cồn được chưng cất trên cơ sở không
phân biệt đối xử.
IV.MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VỚI DOANH NGHIỆP VÀ NHÀ NƯỚC VIỆT
NAM
4.1 Trong việc bảo vệ sản xuất trong nước
Là thành viên trong tổ chức thương mại thế giới WTO vừa mang tới
nhiều cơ hội cho nền kinh tế Việt Nam, vừa khiến các doanh nghiệp trong
nước phải đối mặt với sức ép từ sự nhập khẩu tràn lan hàng hóa nước ngoài.
Sản phẩm sản xuất trong nước đang ngày càng mất chỗ đứng ngay trong thị
trường nội địa vì tính cạnh tranh không cao cả về chất lượng và mẫu mã sản
phẩm. Chính vì vậy, việc hiểu và xác định đúng hàng hóa tương tự để đưa ra
những chính sách thương mại đúng đắn và kịp thời là việc làm cần thiết để
bảo vệ sản phẩm trong nước. Hơn thế nữa, những hiểu biết, phân tích rõ ràng
về khái niệm sản phẩm tương tự còn giúp hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam trong
việc mở rộng thị trường ra ngoài biên giới quốc gia.
4.2 Trong việc tham gia tranh tụng
Là một nước đang phát triển khi tham gia thương mại quốc tế, Việt Nam
phải đối mặt với nhiều thách thức. Việc tham gia tranh tụng trong thương mại
quốc tế không chỉ tiêu tốn chi phí lớn mà kết quả của mỗi vụ còn có ảnh
hưởng lớn tới kinh tế, chính trị nước ta. Như vậy, để bảo vệ nền kinh tế quốc
gia khỏi những xâm phạm trái quy tắc của các nước khác đặc biệt là những
nước phát triển, các luật gia cần có những hiểu biết chuyên sâu về luật thương
mại quốc tế khi tham gia tranh tụng, khởi kiện.
KẾT LUẬN
Có thể thấy WTO là sân chơi chung thiết lập nên một môi trường với rất
nhiều yếu tố thuận lợi cho các quốc gia thành viên tham gia cùng phát triển.
Bên cạnh những lợi ích, không thể phủ nhận vẫn còn những khó khăn, trở
ngại, khúc mắc dẫn tới phát sinh nhiều tranh chấp. Những trường hợp điển
hình trên đây về vấn đề sản phẩm tương tự có thể được nhắc đến và phân tích
như những bài học quý giá, không chỉ cho Việt Nam chúng ta mà còn cho rất
nhiều các quốc gia khác. Việc nắm rõ các nguyên tắc không chỉ giúp các nước
có cái nhìn rõ ràng hơn về sân chơi mà mình tham gia, mà còn là yếu tố thiết
yếu và trực tiếp hỗ trợ thúc đẩy nền kinh tế quốc gia phát triển. Cũng có thể
thấy rất nhiều vụ tranh chấp xảy ra do cách đánh giá và nhìn nhận cùng một
vấn đề giữa các nước là rất khác nhau, đặc biệt đối với phạm vi “sản phẩm
tương tự” còn chưa thực sự rõ ràng, vì vậy, đó cũng là điều các quốc gia cũng
như các doanh nghiệp cần lưu ý khi quyếtđịnhđưa sản phẩm của mình ra thị
trường quốc tế.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.
Bộ Tài chính, Hiệp định về xác định trị giá tính thuế hải quan
Đinh Khương Duy, 2013, Một số vướng mắc khi áp dụng công ước HS
3.
4.
vào giải quyết tranh chấp trong WTO
Nguyễn Thị Mơ, 2011, Giáo trình Pháp luật Thương mại quốc tế
Báo cáo của ban Hội thẩm trong vụ kiện số hiệu WT/DS75/R và
5.
6.
WT/DS84/Rngày 17/09/1998
Báo cáo của ban Hội thẩm vụ kiện số WT/DS141/R ngày 30/10/2000
Báo cáo của cơ quan Phúc thẩm trong vụ kiện số hiệu WT/DS75/AB/R
7.
và WT/DS84/AB/R ngày 18/01/1999
Báo cáo của cơ quan Phúc thẩm trong vụ kiện số hiệu WT/DS8/AB/R
ngày 04/10/1996