CHƯƠNG 1: LỜI MỞ ĐẦU
Ngày 2 tháng 7 năm 1997, cơ quan tiền tệ Thái Lan tuyên bố họ không có khả năng giữ
giá đồng bath theo đồng đô la Mỹ nữa. Điều này có nghĩa là Thái Lan chủ trương phá giá đồng
bath, kết thúc một thời kỳ dài trong suốt 13 năm gìn giữ và mở đầu cho một cuộc khủng hoảng mới
– khủng hoảng tài chính tiền tệ và làm ảnh hưởng đến các thị trường chứng khoán, trung tâm tiền tệ
lớn và giá cả của những tài sản khác ở vài nước châu Á, nhiều quốc gia trong đó được coi như là
‘những con Hổ Đông Á‘. Indonesia, Hàn Quốc và Thái Lan là những nước bị ảnh hưởng mạnh nhất
bởi cuộc khủng hoảng này. Hồng Kong, Malaysia, Philippines cũng bị ảnh hưởng bởi sự sụt giá bất
thình lình. Nhật Bản cũng không bị ảnh hưởng nhiều bở sự khủng hoảng song nền kinh tế Nhật phải
kinh qua những khó khăn kinh tế dài hạn của chính bản thân mình.
Mặc dù được gọi là cơn khủng hoảng tài chính tiền tệ Thái Lan hay khủng hoảng tài chính
Đông Á nhưng ảnh hưởng của nó lại lan truyền toàn câu và gây nên sự khủng hoảng tài chính trên
toàn cầu, với những tác động lớn lao rộng đến cả các nước như Nga, Brasil và Hoa Kỳ.
Vậy tại sao bỗng dưng Thái Lan lại tự phá giá đồng bản tệ của mình để cho nền kinh tế lâm
vào một tình trạng khó khắn nghiêm trọng? Đằng sau cuộc khủng hoảng đó là gì, ảnh hưởng của nó
như thế nào đến nền kinh tế khu vực và trên thế giới? Quan trọng hơn, chúng ta cần tìm ra những
nguyên nhân dẫn đến cuộc khủng hoảng để từ đó rút ra bài học kinh nghiệm cho quốc gia mình.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề, nhóm chúng tôi xin mạnh dạn lựa chọn đề tài ‘Phân
tích cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ ở Thái Lan dưới góc nhìn của Bộ ba bất khả thi‘ để làm đề
tài tiểu luận cho nhóm.
CHƯƠNG 2:
2.1
GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT VỀ BỘ BA BẤT KHẢ THI
Hoàn cảnh ra đời bộ ba bất khả thi:
Trước khi đồng tiền chung châu Âu euro ra đời năm 1999 , các thành viên đã neo đồng nội
tệ của mình vào động mark của Đức và buộc phải dựa chính sách tiền tệ của Ngân hàng Trung
Ương Đức để điều chỉnh chính sách của riêng mình . Một số nước dễ dàng làm được điều này bởi vì
có các ngành kinh tế gắn bó chặt chẽ với Đức .
Tuy nhiên , có một số nước không thể duy trì sách tiền tệ như vậy . Năm 1992 , nền kinh tế
Anh đang rơi vào suy thoái trong khi kinh tế Đức bùng nổ khiển Anh buộc phải nhổ neo khỏi những
chính sách tiền tệ của Ngân hàng Trung Ương Đức .
Ngày nay , đồng nhân dân tệ của Trung Quốc cũng đang ở trong thể tiến thoái lưỡng nan .
Trung Quốc muốn mở cửa hoàn toàn cán cân vốn để tạo ra một hệ thống tài chính hiện đại trong đó
các lực đẩy của thị trường đóng vai trò định thay vìmệnh lệnh của Ngân hàng Trung Ương . Mùa hè
năm 2015 , Trung Quốc đã có những bước đi nhỏ trên hành trình này . Tuy nhiên , thả nổi tỷ giá
trong thời buổi kinh tế trì trệ không phải là một ý hay , làm dấy lên nỗi lo đồng nhân dân tệ sẽ rớt
giá thảm hại . Sau cú sốc mùa hè năm ngoái , Trung Quốc lại thắt chặt kiểm soát dòng chảy của vốn
.
Tình huống mà Anh và Trung Quốc gặp phải chính là hệ quả của bộ ba chính sách không thể
đồng hành cùng nhau trong điều hành kinh tế vĩ mô , hay còn gọi là bộ ba bất khả thi .
2.2
Khái niệm bộ ba bất khả thi:
Trong kinh tế học, bộ ba bất khả thi (còn gọi là Bộ ba chính sách không thể đồng
thời hoặc tam nan kinh tế, tiếng Anh: impossible trinity) chỉ một giả thuyết kinh tế cho rằng không
thể thực hiện đồng thời ba chính sách gồm chế độ tỷ giá hối đoái cố định, chính sách tiền tệ độc lập
để ổn định giá cả và tự do lưu chuyển vốn. Chỉ có thể thực hiện đồng thời hai trong ba chính sách
này mà thôi. Thuật ngữ này còn dùng để chỉ tình thế kinh tế dễ đổ vỡ khi mà một quốc gia cố tình
thi hành ba chính sách trên cùng lúc.
1
Theo lý thuyết bộ ba bất khả thi, ba chính sách gồm tự do dòng vốn (free capital flow), tỷ giá
hối đoái cố định (fixed exchange rate) và chính sách tiền tệ độc lập (sovereign monetary policy)
không thể thực hiện được đồng thời.
Ví dụ:
Giả sử một nước cố gắng thực hiện cả ba chính sách trên đồng thời. Khi kinh tế tăng trưởng
nhanh, vốn nước ngoài sẽ chảy vào trong nước gây ra áp lực tăng giá nội tệ. Khi đó, ngân hàng
trung ương muốn bảo vệ chế độ tỷ giá cố định thì phải thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng. Song
điều này có thể làm tăng lượng cung tiền trong lưu thông dẫn đến tăng tốc lạm phát. Muốn lạm phát
không tăng tốc, thì phải thực hiện chính sách thanh khoản đối ứng. Song như thế thì vốn nước ngoài
càng chảy vào nhiều.
Lý thuyết này được gọi là mô hình Mundell- Fleming được Robert Mundell và Marcus
Fleming phát triển trong những năm 1960. Vào năm những 1980, khi vấn đề kiểm soát dòng vốn tại
nhiều quốc gia bị thất bại do mâu thuẫn giữa việc neo tỷ giá và chính sách tiền tệ độc lập ngày càng
rõ ràng. Từ đó, Lý thuyết Bộ ba bất khả thi đã trở thành nền tảng cho kinh tế học vĩ mô quan trọng
trong điều hành kinh tế.
Nói một cách dễ hiểu trong điều hành một nền kinh tế thì họ không thể theo đuổi 3 mục tiêu
trên cùng một lúc. Ví dụ, khi tự do hóa dòng vốn, tức là các dòng ngoại tệ từ bên ngoài dễ dàng vào
và ra một nền kinh tế nào đó. Ngoại tệ vào và ra sẽ làm cho tỷ giá biến động. Nếu muốn ổn định tỷ
giá NHTW buộc phải mua bán ngoại tệ trên thị trường để giữ tỷ giá ổn định. Như vậy, rõ ràng muốn
ổn định tỷ giá thì chính sách tiền tệ phải phụ thuộc.
2.3
Sự kết hợp của bộ ba bất khả thi:
- Ổn định tỷ giá và tự do hóa dòng vốn được kết hợp bằng cách chọn lựa chế độ tỷ giá cố định
nhưng phải từ bỏ độc lập tiền tệ. Suy ra, chính phủ đã mất đi công cụ điều chỉnh lãi suất trong
nước độc lập với lãi suất nước ngoài .
- Độc lập tiền tệ và tự do hóa dòng vốn được kết hợp bằng cách lựa chọn chế độ tỷ giá thả nổi
nhưng phải từ bỏ ổn định tỷ giá. Suy ra, chính phủ có thể tự do ấn định lãi suất nhưng tỷ giá phải
vận hành theo những nguyên tắc thị trường .
2
- Ổn định tỷ giá và độc lập tiền tệ được kết hợp bằng cách lựa chọn thị trường vốn đóng. Suy ra,
chính phủ phải thiết lập kiểm soát vốn nhưng khi có kiểm soát vốn , mối liên hệ giữa lãi suất và
tỷ giá sẽ bị phá vỡ .
3
CHƯƠNG 3:
TỔNG QUAN VỀ CUỘC KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH
Ở THÁI LAN
Vào giữa năm 1997, rõ ràng là Thái Lan, một đất nước từng được mô tả trên thế giới trong
Báo cáo của WB năm 1993 như là một mô hình cho phát triển kinh tế, đã đi vào hầu hết khủng
hoảng kinh tế nghiêm trọng kể từ Thế chiến II. Theo một nghĩa nào đó là sự trớ trêu của lịch sử mà
Thái Lan, nơi có luôn luôn được cho là chính thống tài chính của nó và ổn định kinh tế vĩ mô, sẽ
xuất hiện như “Liên kết yếu trong chuỗi tài chính châu Á”. Tháng 7 năm đó, có một nỗi sợ rằng
người Thái khủng hoảng tài chính có thể gây ra một cuộc khủng hoảng tài chính nghiêm trọng hơn
ở khu vực châu Á. Như chúng ta biết ngày nay, nỗi sợ hãi đó không phải là không có cơ sở và
“bahtulism” là truyền nhiễm, không chỉ đối với Philippines và Hàn Quốc nhưng nó cũng lan sang
Hồng Kông, Malaysia và Indonesia, mà thời đó được coi là khá an toàn.
Tại sao sau đó cuộc khủng hoảng tài chính bắt đầu nước Thái Lan? Làm thế nào là mất niềm
tin vào đồng baht biến thành một sự mất niềm tin vào Toàn hệ thống tài chính? Nhà nước Thái đã
làm gì làm gì? Quỹ tiền tệ quốc tế đã làm gì (IMF) làm gì? Các chi phí và hậu quả là gì của cuộc
khủng hoảng tài chính ở Thái Lan cho đến nay, và nó sẽ có tác động gì đối với triển vọng trung và
dài hạn đối với sự phát triển kinh tế xã hội trong nước?
Sự bất ổn chính trị, thiếu quyết đoán và sai lầm - Nhiều khoản đầu tư dựa trên tiền kích động
ở cấp chính trị và hành chính mượn ở nước ngoài. Do lãi suất cao trong đã đóng góp cho cuộc
khủng hoảng tài chính ở Thái Lan và chính sách tỷ giá hối đoái cố định liên kết Thái Lan, nhưng
các vấn đề cổ điển như tài chính baht sang đô la Mỹ, các nhà đầu tư nước ngoài đã mất cân bằng
háo hức và cung tiền quá mức là nhỏ nếu có tầm quan trọng. Như chúng ta sẽ thấy, vốn chính sách
tự do hóa thị trường trong thời gian đầu những năm 1990 cũng như sự ràng buộc của đồng baht
chống lại đồng đô la Mỹ đang tăng giá trị, thật không khôn ngoan. Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng tài
chính ở Thái Lan về cơ bản không phải là một trường hợp thất bại của nhà nước.
Cuộc khủng hoảng tài chính ở Thái Lan là một thất bại của khu vực tư nhân, một phần thể
hiện sự gia tăng các vấn đề tài khoản vãng lai, nhưng chủ yếu là cho vay / vay bất cẩn và tích lũy
các khoản vay không phù hợp trong lĩnh vực tài chính. Trong giai đoạn nền kinh tế thực sự có dấu
hiệu suy yếu với xuất khẩu chậm chạp và gia tăng thâm hụt tài khoản vãng lai, tiền nóng bỏng đã
chảy vào và bù đắp thâm hụt, nhưng cũng dẫn đến đầu tư bất cẩn. Tự do hóa tài chính trong một
lĩnh vực tài chính không được kiểm soát dẫn đến sự sai lệch và không khớp. Sự bất ổn chính trị,
4
thiếu quyết đoán và quản lý sai ở cấp chính trị và hành chính cũng góp phần vào cuộc khủng hoảng
tài chính ở Thái Lan
5
CHƯƠNG 4:
NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN CUỘC KHỦNG HOẢNG Ở
THÁI LAN DƯỚI GÓC NHÌN CỦA BỘ BA BẤT KHẢ THI
Sau khi đạt tốc độ tăng trưởng thuộc loại cao nhất thế giới từ 1985 đến 1995, với tốc độ
tăng trưởng trung bình 9% mỗi năm, sức ép lên việc duy trì đồng baht tại Thái Lan tăng lên, dẫn
đến cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997, lan rộng ra toàn khu vực Đông Á, bắt buộc chính phủ
phải thả nổi tiền tệ. Sau sự ổn định lâu dài ở mức giá 25 baht đổi 1 đô la Mỹ, đồng baht phá giá hơn
một nửa, chạm tới mức thấp nhất với 56 baht đổi 1 đô la vào tháng 1 năm 1998, các hợp đồng kinh
tế được ký kết bằng 10,2% năm trước. Chỉ số thị trường chứng khoán Thái Lan đã tụt từ mức 1.280
cuối năm 1995 xuống còn 372 cuối năm 1997, kinh tế năm 1997 tăng trưởng âm 20%.
4.1
Nền tảng kinh tế vĩ mô yếu kém và chính sách kinh tế vĩ mô sai lầm – Bộ ba bất khả thi
Bảng dưới đây cho thấy xu hướng tổng sản phẩm quốc nội của Thái Lan theo thời giá thị
trường estimated theo Quỹ tiền tệ Quốc tế với số liệu tính bằng Baht Thái Lan.
Năm
GDP
1980
662.482
Tỷ giá hối đoái (USD/baht) Chỉ số lạm phát (2000=100)
20,47 Baht
41
1985 1.056.496
27,15 Baht
53
1990 2.191.100
25,58 Baht
64
1995 4.186.212
24,91 Baht
81
2000 4.922.731
40,11 Baht
100
2005 6.924.273
41,02 Baht
111
Có một sự thật lúc đó là nợ nước ngoài tại Thái Lan rất lớn, trong khi đó nguồn dự trữ ngoại
tệ không đủ lực để can thiệp vào tình hình tài chính tiền tệ quốc gia. Đáng lo ngại, nợ ngắn hạn
6
chiếm tỷ trọng cao, ví dụ ở Thái Lan nợ ngắn hạn chiếm 45% tổng nợ, trong khi đó cũng ở Thái Lan
dự trữ ngoại tệ liên tục giảm từ 31,6% so với GDP năm 1994 xuống 29,5% vào năm 1995 và năm
1996 xuống còn 26,6% so với GDP.
Trước khủng hoảng tài chính, nền kinh tế Thái Lan đã trải qua nhiều năm tăng trưởng kinh tế
nhanh do ngành chế tạo dẫn dắt với tốc độ tăng 9,4% trong một thập kỷ cho đến năm 1996. Các yếu
tố mang lại thành công kinh tế trong những năm đến 1997 là: nguồn tài nguyên thiên nhiên và lao
động dồi dào và rẻ, chủ nghĩa bảo thủ tài chính, các chính sách đầu tư nước ngoài cởi mở và sự
khuyến khích lĩnh vực tư nhân.
Hệ thống ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính khác phát triển quá nhanh và hoạt
động kém hiệu quả. Việc quản lý của nhà nước đối với khu vực này rất yếu kém, chất lượng tín
dụng của các ngân hàng thương mại thấp, nhất là những mạo hiểm trong việc sử dụng các nguồn
vốn vay ngắn hạn để cho vay đầu tư trung và dài hạn làm tăng rủi ro làm cho các khoản nợ khó đòi
của nhiều ngân hàng thương mại tăng quá mức cho phép. Tổng số nợ khó đòi so với GDP ở Thái
Lan là 20%.
4.1.1 Sai lầm của Thái Lan khi áp dụng chính sách kinh tế
Thái Lan và một số nước Đông Nam Á đã cố gắng thực hiện cái mà các nhà kinh tế gọi là Bộ
ba chính sách không thể đồng thời. Họ vừa cố định giá trị đồng tiền của mình vào Dollar Mỹ, vừa
cho phép tự do lưu chuyển vốn (tự do hóa tài khoản vốn). Kinh tế Đông Nam Á tăng trưởng nhanh
trong thập niên 1980 và nửa đầu thập niên 1990 đã tạo ra sức ép tăng giá nội tệ. Để bảo vệ tỷ giá cố
định, các ngân hàng trung ương Đông Nam Á đã thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng. Kết quả là
cung tiền tăng gây ra sức ép lạm phát. Chính sách vô hiệu hóa (sterilization policy) đã được áp dụng
để chống lạm phát vô hình trung đẩy mạnh các dòng vốn chảy vào nền kinh tế.
Năm 1994, nhà kinh tế Paul Krugman của trường đại học Princeton, (lúc đó còn ở MIT), cho
đăng bài báo tấn công ý tưởng về "thần kỳ kinh tế Đông Á". Ông ta cho rằng: Sự tăng trưởng kinh
tế của Đông Á, trong quá khứ, là do kết quả của đầu tư theo hình thức tư bản, dẫn tới sự tăng năng
suất lao động. Trong khi đó, năng suất tổng nhân tố lại chỉ được nâng lên ở một mức độ rất nhỏ,
hoặc hầu như giữ nguyên. Krugman cho rằng việc chỉ tăng trưởng năng suất tổng nhân tố không
thôi, mà không cần đầu tư vốn, đã có thể mang lại sự thịnh vượng dài hạn. Krugman có thể được
nhiều người coi như một nhà tiên tri sau khi khủng hoảng tài chính lan rộng, tuy nhiên chính ông ta
cũng đã từng phát biểu rằng ông ta không dự đoán cơn khủng hoảng hoặc nhìn trước được chiều sâu
của nó.
4.1.2 Sự thổi phồng trong bảng cân đối tài chính của Ngân hàng Trung ương Thái Lan
7
Bảng cân đối tài chính mà Ngân hàng Trung ương Thái Lan công bố đã thổi phồng quy mô
lượng dự trữ ngoại hối của mình – chắc chắn đây không phải là một ví dụ tốt về minh bạch tài
chính. Các nhà đầu cơ ngoại quốc đã chủ động đánh cược rằng đồng baht sẽ mất giá, và những
người bán khống bao gồm không chỉ các quỹ đầu tư mạo hiểm mà còn cả các ngân hàng đầu tư,
trong đó có một ngân hàng cùng lúc đó đang tư vấn cho chính phủ Thái Lan cách thức bảo vệ đồng
tiền của mình. Và khi tư vấn cho các nước Châu Á về cách quản lý cuộc khủng hoảng, IMF đã
phạm sai lầm – cũng nên nhắc rằng đây không phải là lần cuối – khi đi theo hướng thắt lưng buộc
bụng thái quá.
4.2
Các dòng vốn nước ngoài chảy vào
Chính sách tiền tệ nới lỏng và việc tự do hóa tài chính ở Mỹ, châu Âu và Nhật Bản cuối thập
niên 1980 đã khiến cho tính thanh khoản toàn cầu trở nền cao quá mức. Các nhà đầu tư ở các trung
tâm tiền tệ nói trên của thế giới tìm cách thay đổi danh mục tài sản của mình bằng cách chuyển vốn
đầu tư ra nước ngoài. Trong khi đó, các nước châu Á lại thực hiện chính sách tự do hóa tài khoản
vốn. Lãi suất ở các nước châu Á cao hơn ở các nước phát triển. Chính vì thế, các dòng vốn quốc tế
đã ồ ạt chảy vào các nước châu Á.
Ngoài ra, những xúc tiến đầu tư của chính phủ và những bảo hộ ngầm của chính phủ cho các
thể chế tài chính cũng góp phần làm các công ty ở châu Á bất chấp mạo hiểm để đi vay ngân hàng
trong khi các ngân hàng bắt chấp mạo hiểm để đi vay nước ngoài mà phần lớn là vay nợ ngắn hạn
và nợ không tự bảo hiểm rủi ro. (Hiện tượng thông tin phi đối xứng dẫn tới lựa chọn nghịch và rủi
ro đạo đức.)
4.3
Tấn công đầu cơ và rút vốn hàng loạt
Nguyên nhân trực tiếp của khủng hoảng tài chính Đông Á năm 1997 là những cuộc tấn công
đầu cơ và việc rút vốn đồng loạt khỏi các nước châu Á.
Những nguyên nhân sâu xa nói trên rồi cũng bộc lộ. Thị trường bất động sản của Thái Lan đã
vỡ. Một số thể chế tài chính bị phá sản. Người ta không còn tin rằng chính phủ đủ khả năng giữ nổi
tỷ giá hối đoái cố định. Khi phát hiện thấy những điểm yếu chết người trong nền kinh tế của các
nước châu Á, một số thể chế đầu cơ vĩ mô đã tiến hành tấn công tiền tệ châu Á. Các nhà đầu tư
nước ngoài đồng loạt rút vốn ra.
Một nguyên nhân trực tiếp nữa của khủng hoảng là năng lục xử lý khủng hoảng yếu kém.
Nhiều nhà kinh tế cho rằng khi mới bị tấn công tiền tệ, đáng lẽ các nước châu Á phải lập tức thả nổi
đồng tiền của mình chứ không nên cố sức bảo vệ tỷ giá để đến nối cạn kiệt cả dự trữ ngoại hối nhà
nước mà lại càng làm cho tấn công đầu cơ thêm kéo dài.
8
Mất cân đối giữa các loại hình đầu tư quốc tế: Đầu tư FDI chỉ chiếm 20% tổng vốn đầu tư
nước ngoài, 80% còn lại các chủ đầu tư nước ngoài thực hiện đầu tư gián tiếp, ngắn hạn thông qua
việc mua cổ phần, cổ phiếu trên thị trường chứng khoán. Nên khi có dấu hiệu suy thoái kinh tế, các
nhà đầu tư nước ngoài đầu cơ, bán tháo chứng khoán và chuyển đổi thành ngoại tệ làm cho đồng
nội tệ bị sụt giá đột ngột và nhanh chóng.
9
CHƯƠNG 5:
5.1
Các biện pháp khác phục khủng hoảng
Đổi mới phương pháp quản lý kinh tế vĩ mô
Thái Lan đã và đang thực thi một chế độ tỷ giá hối đoái linh hoạt và cơ chế ổn định giá cả. Cụ thể,
từ bỏ chế độ tỷ giá hối đoái neo và hướng tới chế độ mục tiêu lạm phát. Đồng thời, nỗ lực gia tăng
lượng dữ trự ngoại hối nhà nước của mình. Từ 1997 đến 2005, năm nước bị ảnh hưởng nặng nhất
của khủng hoảng đã tăng lượng dự trữ ngoại hối của mình lên bốn lần, đạt 378 tỷ USD.
5.2
Hạ mức đầu tư và kỳ vọng tăng trưởng
10
Chính phủ Thái Lan hạ mức các khoản đầu tư đặc biệt là các khoản mục đầu từ nước ngoài làm
giảm đi rủi ro cũng như sự chi phối của những dòng tiền này trong thị trường tài chính, tránh quá
khứ của cuộc khủng hoảng lặp lại lần 2. Bên cạnh đó, việc giảm kỳ vọng tăng trưởng sẽ giảm áp lực
đè nặng lên nền kinh tế Thái Lan, đặc biệt là sau thời kì khủng hoảng, nhờ đó báo cào tài chính trở
nên minh bạch và đáng tin cậy hơn, tránh trường hợp thổi phồng bảng cân đối tài chính của ngân
hàng Trung ương Thái Lan.
Dù rằng những biện pháp này đã làm cho nền kinh tế Thái Lan thoát khỏi cuộc khủng hoảng nhưng
sự phát triển giờ đây không còn sôi động như trước nữa, chính phủ Thái Lan tập trung hơn về phát
triển bền vững cũng như duy trì thặng dư vãng lai và dự trữ ngoại tệ.
CHƯƠNG 6:
6.1
Bài học rút ra từ cuộc khủng hoảng
Tự do hóa thị trường vốn là một điều nguy hiểm
6.1.1 Tính cạnh tranh cao
Tự do hóa thị trường vốn đồng nghĩa với việc nền kinh tế của một quốc gia phải chịu sự cạnh tranh
cao hơn từ thị trường, vì vậy các công ty trong nước phải học cách điều chỉnh. Những công ty tại
các quốc gia đang phát triển có thể tận dụng lợi thế của họ như lưu lượng vốn lớn để phát triển
nhanh nhằm thâu tóm thị trường tài chính.
6.1.2 Đầu tư nước ngoài cao
Tự do hóa thị trường vốn kích thích các nguồn đầu tư từ nước ngoài. Đầu tư trực tiếp nước ngoài
(FDI) sẽ đổ vào các quốc gia đang cần vốn, giúp cải thiện năng suất và thúc đẩy tăng trưởng ở các
nước đang phát triển. Tuy nhiên, nếu xảy ra khủng hoảng kinh tế thì sự tháo chạy của nguồn vốn
này ra khỏi quốc gia là rất nhanh chóng.
Chính phủ nhiều nước đang phát triển cho rằng các dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài và
vốn vay ngân hàng nước ngoài có thể đem lại những tác động bất lợi với nền kinh tế của họ. Do đó,
nhiều chính phủ đã ban hành những quy chế nhằm điều tiết các dòng vốn này.[
Ở nhiều nước đang phát triển, những chuyển đổi như vậy thường bị hạn chế nghiêm ngặt bởi
hàng loạt quy chế. Mục đích của sự hạn chế này là để giữ tiết kiệm ở lại trong nước và phục vụ
cho đầu tư trong nước, tránh để nền kinh tế của đất nước bị ảnh hưởng bởi những cú sốc từ bên
11
ngoài. Tuy nhiên, từ thập niên 1970 và thập niên 1980, ngày càng nhiều quốc gia nhận ra rằng
chỉ tiết kiệm trong nước không đủ để đáp ứng nhu cầu tài chính cho đầu tư trong nước. Vì thế, họ đã
huy động cả tiết kiệm ngoài nước dưới hình thức cho phép đầu tư trực tiếp nước ngoài và đầu tư
gián tiếp. Khi chiều chuyển đổi tài sản tài chính ở nước ngoài thành tài sản tài chính ở trong nước
được chấp nhận, tự nhiên các nước này bị đòi hỏi phải chấp nhận cả chiều ngược lại với lý do là để
bảo vệ lợi ích của các nhà đầu tư nước ngoài. Đây chính là tự do hóa tài khoản vốn.
Tự do hóa tài khoản vốn làm cho vốn tự do luân chuyển qua biên giới quốc gia. Nó giúp cho
nền kinh tế quốc gia trở nên linh hoạt hơn, hội nhập sâu hơn vào kinh tế khu vực và thế giới. Song,
nó cũng làm cho nền kinh tế quốc gia trở nên dễ bị tổn thương hơn.
6.2
Cho phép tỷ giá hối đoái linh hoạt hơn
Việc cho phép tỷ giá linh hoạt hơn, tránh ràng buộc bởi đồng USD. Hiện nay đồng Baht đang
có giá trị thấp hơn 12% so với thời điểm neo vào đồng USD, biến Thái Lan trở thành một địa điểm
hấp dẫn đầu tư nước ngoài. Cho đến lúc này, những xáo trộn chính trị trong nước đã không ngăn
cản sự phục hồi từ từ của đồng Baht kể từ khi đồng nội tệ này chạm mức thấp khoảng 55 Baht đổi 1
USD hồi khủng hoảng.
Thái Lan cũng đang có thặng dư vãng lai lớn, dự trữ ngoại hối hiện tương đương 3,5 lần nợ
nước ngoài ngắn hạn, vào khoảng gần 180 tỷ USD. Bên cạnh đó, tính minh bạch trong các báo cáo
tài chính cũng được cải thiện. Việc tham gia điều phối chính sách với các quốc gia khác cũng được
tiến hành.
6.3
Cần một thể chế đáng tin cậy trong thời kỳ hội nhập hiện nay
Khủng hoảng tài chính-tiền tệ Thái Lan làm người ta nhận thức rõ hơn sự cần thiết phải có
một hệ thống tài chính - ngân hàng vững mạnh, minh bạch. Điều này thôi thúc Quỹ Tiền tệ Quốc tế
và Ngân hàng Thanh toán Quốc tế đổi mới các quy chế về ngân hàng và các tổ chức tín dụng nói
chung.
12
PHỤ LỤC
13