Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

CHUYÊN đề CHUYỂN KHOA MIỄN DỊCH dị ỨNG KHỚP TIẾP cận mề ĐAY mới KHỞI PHÁT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (793.22 KB, 30 trang )

BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO

BỘ Y TẾ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI

CHUYÊN ĐỀ CHUYỂN KHOA MIỄN DỊCH-DỊ ỨNG-KHỚP
TIẾP CẬN MỀ ĐAY MỚI KHỞI PHÁT

Học viên

: ĐINH THỊ HOA

Lớp

: BSNT Nhi khoa – khóa 42

Người hướng dẫn: PGS.TS. Nguyện Thị Diệu Thúy

Hà Nội – 2018


MỤC LỤC
ĐẶT VẤN ĐỀ...................................................................................................1
TỔNG QUAN...................................................................................................2
1. Định nghĩa..................................................................................................2
2. Phân loại.....................................................................................................3
2.1. Theo thời gian mắc bệnh......................................................................3
2.2. Theo cơ chế bệnh sinh..........................................................................4
2.2.1. Phản ứng qua trung gian Immunoglobulin E................................4
2.2.2. Tình trạng nổi mề đay liên quan đến thức ăn không qua IgE........5


2.2.3. Mề đay vật lý.................................................................................6
2.2.4. Mề đay liên quan đến thuốc...........................................................8
2.2.5. Nhiễm mề đay liên quan đến nhiễm trùng.....................................8
2.2.6. Mề đay liên quan đến tình trạng bệnh lý........................................9
2.2.7. Mề đay liên quan đến hormone......................................................9
2.2.8. Tình trạng nổi mề đay liên quan đến stress..................................10
2.2.9. Mề đay liên quan đến các tự kháng thể giải phóng histamine................10
3. Chẩn đoán mày đay..................................................................................10
3.1. Bệnh sử:.............................................................................................10
3.2. Khám..................................................................................................12
3.3. Cận lâm sàng......................................................................................12
3.3.1. Test các nguyên nhân dị ứng........................................................13
4. Chẩn đoán phân biệt.................................................................................13
5. Điều trị.....................................................................................................17
5.1. Các biện pháp chung..........................................................................17


5.2. Điều trị bằng thuốc.............................................................................17
5.3. Can thiệp chế độ ăn uống...................................................................19
5.4. Nổi mề đay nặng không đáp ứng với điều trị thông thường..............20
5.5. Điều trị trẻ em bị mề đay...................................................................20
KẾT LUẬN....................................................................................................22
TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC HÌNH
Hình 1.

Tổn thương da trong mày đay.........................................................3


Hình 2.

Vẽ nổi da.........................................................................................7

Hình 3.

Tổn thương da trong hội chứng Auriculotemporal........................14

Hình 4.

Tổn thương da trong hội chứng Sweet..........................................15

Hình 5.

Tổn thương da trong viêm da cơ địa.............................................15

Hình 6.

Tổn thương da trong viêm da tiếp xúc..........................................16

Hình 7.

Tổn thương da trong hồng ban đa dạng........................................17


1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Mày đay ( mề đay) là một bệnh phổ biến, cấp tính hay mạn tính, ảnh
hưởng đến 15-25% dân số vào một thời điểm nào đó trong cuộc sống của họ ,

và có xu hướng ngày càng gia tăng, dễ nhận biết nhưng lại rất khó tìm được
nguyên nhân mặc dù đã làm đầy đủ các xét nghiệm. Bệnh có cơ chế phức tạp,
trong đó có vai trò quan trọng của chất trung gian hóa học histamin
Ở trẻ em, mề đay thường cấp tính hơn mãn tính. Nổi mề đay cấp tính
thường do các phản ứng dị ứng qua trung gian IgE gây ra do thức ăn hoặc
nhiễm trùng cấp tính, thường là nhiễm trùng đường hô hấp do virus, do thức
ăn, thuốc, các tác nhân vật lý. Đôi khi nó là biểu hiện của bệnh lý tiềm ẩn
( bệnh hệ thống) khác. Có đến 50% các trường hợp mề đay không tìm được
nguyên nhân (gọi là mề đay tự phát).
Mề đay mạn tính được ước tính có ảnh hưởng từ 0 đến 1–3% trẻ em ở
Anh. Các yếu tố vật lý, chẳng hạn như áp lực và lạnh, là những kích thích phổ
biến nhất và trẻ em bị nổi mề đay mạn tính thường cũng có phù mạch. Đa số
các trường hợp, người bệnh sẽ cảm thấy rất ngứa, khi bị ngứa, bệnh nhân
thường có thói quen gãi. Tuy nhiên, gãi ngứa sẽ tạo nên vòng luẩn quẩn "ngứa
- gãi - ngứa", chỉ làm dễ chịu và “đã ngứa” nhất thời nhưng sẽ gây tổn thương
và để lại kích thích ở da. Ở trẻ em, hiện tượng gãi nhiều gây tổn thương dẫn
đến viêm nhiễm càng dễ gặp hơn do các bé không làm chủ được hành động
của mình.
Bệnh không trầm trọng và thường được điều trị ngoại trú, tuy nhiên lại
ảnh hưởng nhiều đến chất lượng cuộc sống của bệnh nhân.
Vì vậy chúng tôi xin tiến hành chuyên đề tìm hiểu về “ Tiếp cận mề đay
mới khởi phát”
.


2

TỔNG QUAN
1. Định nghĩa
Mày đay (cũng có nơi gọi là mề đay) là một phản ứng cấp hoặc mạn tính

của mao mạch do dị ứng gây phù ở da và niêm mạc. Những loại tổn thương
này có kích thước khác nhau từ 1 mm đến nhiều centimet - nổi sần trên mặt
da và thường ngứa. Chúng gây ra bởi các chất trung gian hoạt hóa, chủ yếu là
histamin, được giải phóng từ các tế bào mast. Trong phần lớn các trường hợp,
biểu hiện của bệnh là các dát đỏ, sẩn phù xuất hiện nhanh, mất đi nhanh và
thường không để lại dấu vết gì trên da. Nổi mề đay được phân biệt với 'phù
mạch', đó là sưng phù , xuất hiện trong cấu trúc da sâu hoặc ở mô dưới da và
gây ra chủ yếu bởi sản xuất bradykinin. Phù mạch không ngứa, nhưng có thể
gây đau .Khoảng 50% bệnh nhân nổi mề đay; khoảng 40% bệnh nhân nổi mề
đay xảy ra với phù mạch và khoảng 10% bệnh nhân phù mạch xảy ra một
mình [1]. Cả trẻ em và người lớn đều có thể bị nổi mề đay, với tuổi cao điểm
bắt đầu ở người lớn từ 20 đến 40 tuổi.
Mề đay được định nghĩa là 'cấp tính' nếu nó kéo dài dưới 6 tuần và 'mãn
tính' nếu nó kéo dài hơn 6 tuần. . Hầu hết các phản ứng nổi mề đay đều cấp
tính và tự giới hạn, những vết mề đay không nằm cố định một chỗ mà di
chuyển chỗ này qua chỗ khác, như một đám mây, rồi từ từ biến mất, có thể chỉ
trong vài giờ, tuy có thể tái phát lại; tuy nhiên, bệnh nhân có cơ địa dị ứng
thường mề đay mạn tính hoặc nổi mề đay từng phần [2]. Mô học cho thấy phù
nề của lớp hạ bì trên, giãn nở mạch máu và bạch huyết và thâm nhập tế bào ở
lớp hạ bì.
Khoảng 30% trẻ em bị nổi mề đay mạn tính có ASST dương tính và
khoảng 4% có kháng thể peroxidase tuyến giáp dương tính. Người ta cho rằng
chức năng tuyến giáp được theo dõi ở trẻ em bị nổi mề đay mạn tính và tự
kháng thể tuyến giáp dương tính, mặc dù chưa được xác định rõ ràng rằng


3

điều trị bệnh tuyến giáp, nếu cải thiện, sẽ cải thiện mề đay .Cũng đã có báo
cáo rằng trẻ em bị nổi mề đay mạn tính nghiêm trọng có tỷ lệ mắc bệnh celiac

cao hơn so với nhóm chứng.

Hình 1. Tổn thương da trong mày đay
2. Phân loại
2.1. Theo thời gian mắc bệnh
Mề đay (có hoặc không có phù mạch) thường được phân loại theo thời
gian tồn tại của nó:
Mề đay cấp tính - Mề đay được coi là cấp tính khi nó tồn tại dưới
sáu tuần.
Mề đay mạn tính - Mề đay được coi là mãn tính khi tái phát, có dấu
hiệu và triệu chứng định kỳ hầu hết các ngày trong tuần, trong sáu tuần hoặc
lâu hơn.


4

Thời gian sáu tuần chỉ đơn giản là một khung thời gian trong đó các trường
hợp mề đay mới khởi phát thường khỏi. Hơn hai phần ba số trường hợp tự giới
hạn (cấp tính) [2]. Các tổn thương của mề đay cấp tính và mạn tính giống hệt
nhau, do đó, khi lần đầu khởi phát, không thể phân biệt hai loại [1].
2.2. Theo cơ chế bệnh sinh

2.2.1. Phản ứng qua trung gian Immunoglobulin E (IgE)
Bệnh nhân có thể đã tiếp xúc lần đầu với rất nhiều tác nhân gây dị ứng
và tạo ra IgE (SIgE) cụ thể chống lại những chất này. Lần tiếp xúc tiếp theo


5

với tác nhân dị ứng có liên quan, hoặc chính tác nhân đó trên da hoặc qua

niêm mạc, có thể dẫn đến mề đay.
Nổi mề đay cấp tính do SIgE chống lại kháng nguyên protein thực phẩm
thường dễ bị xác định, đặc biệt là khi có triệu chứng tại môi miệng khi ăn
hoặc sau mỗi lần ăn thức ăn đó có thể dẫn đến phản ứng nặng hơn, phù mạch
và triệu chứng toàn thân [3],[4] . Tuy nhiên, khó xác định tác nhân hơn nếu
đây là chất gây ô nhiễm thực phẩm, chẳng hạn như nấm mốc , ve, mạt hoặc
nếu có thành phần không rõ trong thực phẩm.
Các nọc độc côn trùng, lông động vật và / hoặc nước bọt, penicillin,
enzyme protease trong chất tẩy rửa sinh học và protein kết dính là những
nguyên nhân phổ biến khác gây nổi mề đay do trung gian IgE. Bệnh nhân bị
dị ứng protein cũng có thể phản ứng với nhiều loại thức ăn khác nhau [5] vì
phản ứng chéo giữa kháng nguyên protein kết dính và kháng nguyên thực
phẩm hoặc, nếu nhạy cảm cao, có thể biểu hiện các triệu chứng sau khi ăn
thực phẩm đã được xử lý [6].
2.2.2. Tình trạng nổi mề đay liên quan đến thức ăn không qua IgE
Người ta cho rằng salicylat tự nhiên trong thực phẩm và phụ gia thực
phẩm ('E'), bao gồm chất tạo màu (azo và thuốc nhuộm không azo), chất bảo
quản (sulphit, nitrat và nitrit), chất chống oxy hóa [butylated hydroxyanisole
(BHA) và butylated hydroxytoluene (BHT) và aspartame (chất làm ngọt nhân
tạo) có thể gây nổi mề đay [7],[8], đặc biệt ở những bệnh nhân có triệu chứng
dị ứng cấp tính sau khi uống aspirin (acetylsalicylic acid) hoặc thuốc chống
viêm không steroid (NSAID); tuy nhiên, các thử nghiệm đối chứng ngẫu
nhiên còn thiếu . Thử nghiệm test lẩy da và xét nghiệm SIgE đối với thực
phẩm là vô ích, vì phản ứng không phải qua trung gian IgE.
Ở một số bệnh nhân, các loại thực phẩm như lòng trắng trứng, giáp xác


6

và dâu tây dường như kích hoạt giải phóng histamin trực tiếp từ tế bào mast

và các đợt mề đay có liên quan đến việc ăn các loại thực phẩm này. Một lần
nữa, thử nghiệm test lẩy da và xét nghiệm SIgE đối với thực phẩm là vô ích,
vì phản ứng không phải qua trung gian IgE.
Một nguyên nhân không liên quan đến thực phẩm không qua trung gian
IgE, nhưng được công nhận rõ ràng là nguyên nhân mề đay là ngộ độc
histamin, xảy ra nếu thực phẩm có chứa hàm lượng histamin rất cao. Ví dụ
nổi tiếng nhất là 'ngộ độc scombroid' là do ăn cá vây gai, chẳng hạn như cá
ngừ, cá thu và cá kiếm, chưa được lưu trữ đúng cách và vi khuẩn có histarine
decarboxyl hóa để tạo ra histamine. (Nuốt phải cá không bị hoại tử bao gồm
cá trích, cá mòi và cá cơm cũng có thể gây nhiễm độc histamin.) Các triệu
chứng thường bắt đầu trong vòng 1 giờ sau khi ăn cá và bệnh nhân biểu hiện
mày đay và các triệu chứng tiêu hóa. Trong trường hợp nặng có thể có co thắt
phế quản và hạ huyết áp [9].
2.2.3. Mề đay vật lý
Các yếu tố vật lý như lạnh, nóng, ra mồ hôi, tập thể dục, áp lực, ánh sáng
mặt trời, nước và rung đều có thể gây ra các phản ứng nổi mề đay. Các tổn
thương trong mề đay vật lý có xu hướng ngắn (ít hơn một giờ), ngoài những
mề đay áp lực chậm, phát triển trong một vài giờ và có thể mất đến 2 ngày để
biến mất. Tiêu chuẩn quốc tế để chẩn đoán các trường hợp mề đay đã được đề
xuất[10].
Nổi mề đay lạnh thường là vô căn, nhưng nó có thể xảy ra ở những bệnh
nhân có kháng thể phụ thuộc lạnh, chẳng hạn như cryoglobulin hoặc
agglutinin lạnh và có dạng mề đay gia đình rất hiếm xảy ra do lạnh gây
ra. Bệnh nhân biểu hiện ngứa, ban đỏ và nổi mề đay ảnh hưởng đến phần cơ
thể đã tiếp xúc với lạnh. Các triệu chứng có thể giảm đi khi khu vực tiếp xúc
được sưởi ấm. Ngâm trong nước lạnh có thể gây ra các triệu chứng nghiêm


7


trọng như hạ huyết áp và bệnh nhân nên được cảnh báo rằng bơi trong nước
lạnh có thể nguy hiểm. Nổi mề đay cục bộ do nóng gây ra hiếm gặp . Một số
bệnh nhân có thể bị mề đay khi tiếp xúc với cả nóng và lạnh . Tình trạng nổi
mề đay do nóng hoặc nổi mề đay 'cholinergic' gây ra do tập thể dục, đổ mồ
hôi và tắm nước nóng. Thuật ngữ 'cholinergic' được sử dụng vì tuyến mồ hôi
bị các sợi dây thần kinh cholinergic gây ra. Các tổn thương mề đay thường
nhỏ và ngứa dữ dội. Tình trạng nổi mề đay cholinergic rất nặng có thể gây hạ
huyết áp và do đó có thể có một số trùng lặp với hội chứng lâm sàng của phản
ứng do tập thể dục gây ra .
Ở một số bệnh nhân, áp lực lên da có thể gây ra sự giải phóng histamine
và phản ứng 'weal and flare', một tình trạng được gọi là vẽ nổi da. Cũng có thể
có phản ứng chậm với áp lực, nổi mề đay và / hoặc phù mạch xuất hiẹn vài
giờ sau khi kích thích áp lực .

Hình 2. Vẽ nổi da


8

Mề đay mặt trời là một chứng rối loạn hiếm gặp trong đó nổi mề đay
xuất hiện trên các vùng của cơ thể tiếp xúc với ánh sáng mặt trời. Ngứa và mề
đay có thể phát triển trong vòng vài phút và có thể tiến triển phù mạch. Các
triệu chứng thường thuyên giảm, biến mất sau vài giờ
Rất hiếm khi, bệnh nhân bị mề đay do nước 'aquagenic' nơi da của họ tiếp
xúc với nước (bất kể nhiệt độ của nó) hoặc nổi mề đay phản ứng với rung động.
Thông thường, nhiều hơn một loại mề đay vật lý có thể xảy ra ở bệnh
nhân và có thể khó khăn cho cá nhân tránh kích thích đó, do vậy điều trị mề
đay vật lý rất khó khăn và lâu dài
2.2.4. Mề đay liên quan đến thuốc
Nhiều loại thuốc khác nhau có thể gây ra mề đay. Các loại thuốc có chứa

cyclo-oxygenase (COX) như aspirin và NSAIDs là một nguyên nhân phổ
biến. Các thuốc phiện, kể cả codein, có thể kích hoạt giải phóng histamine
trực tiếp từ các tế bào mast [11]. Nhiều thuốc giảm đau khác nhau có chứa
aspirin, NSAID và / hoặc codeine và do đó, điều quan trọng là phải xác định
chính xác những bệnh nhân nào có thể hoặc không thể uống. Những phản ứng
này không phải thông qua IgE trung gian và IgE cụ thể đối với aspirin,
NSAID và opiates . Bằng chứng về sự giảm oxy hóa, thể hiện bằng cách tăng
lượng protein cacbonyl hóa và lipid peroxid hóa, và tăng hoạt động enzyme
chống oxy hóa đã được tìm thấy ở những bệnh nhân bị nổi mề đay liên quan
đến thuốc không qua IgE ; tuy nhiên, không biết liệu sự giảm oxy hóa này có
phải là nguyên nhân hay hậu quả của phản ứng. Thuốc ức chế men chuyển
Angiotensin (ACEI) và Statin thường gây phù mạch hơn so với mày đay.
2.2.5. Nhiễm mề đay liên quan đến nhiễm trùng
Một loạt các bệnh nhiễm trùng khác nhau, bao gồm viêm gan[12], nhiễm
trùng tăng bạch cầu đơn nhân [13], nhiễm trùng Helicobacter pylori [14],
nhiễm trùng răng, viêm xoang và nhiễm trùng đường tiểu, tất cả đều liên quan


9

đến mày đay. Tuy nhiên, ở người lớn đến khám tại phòng khám, tỷ lệ chung
của mề đay liên quan đến nhiễm trùng thấp. Ngược lại, trẻ thường phát triển
mày đay do nhiễm trùng đường hô hấp do virus. Mày đay này có thể nặng và
có thể liên quan đến các cơn phù mạch, nhưng nó thường biến mất sau vài
tuần. Trên toàn thế giới, nhiễm ký sinh trùng là một nguyên nhân phổ biến
của mày đay và gần như luôn luôn liên quan đến bạch cầu ưa acid.
2.2.6. Mề đay liên quan đến tình trạng bệnh lý
Các bệnh như lupus ban đỏ hệ thống (SLE) và hội chứng Sjögren có thể
liên quan đến mày đay mạn tính, nổi mề đay liên quan đến cryoglobulin hoặc
viêm mạch máu. Có một sự gia tăng tỷ lệ mắc bệnh tuyến giáp tự miễn ở

những bệnh nhân nổi mề đay mãn tính, đặc biệt là những người có các chất tự
kháng thể giải phóng histamin - 'mề đay tự miễn' [15]. Bệnh nhân trên lâm
sàng thường có biểu hiện bình giáp, nhưng cả suy giáp và cường giáp đều có
thể có mề đay. Mặc dù có báo cáo trường hợp nổi mề đay liên quan đến bệnh
ác tính, một nghiên cứu trên 1000 bệnh nhân cho thấy không có mối liên quan
giữa mề đay mạn tính và bệnh ác tính [16]. Ngược lại, mày đay- viêm mạch
có thể xảy ra ở những bệnh nhân bị bệnh bạch cầu hạt.
2.2.7. Mề đay liên quan đến hormone
Thỉnh thoảng phụ nữ nhận thấy rằng mề đay của họ dường như dao liên
quan đến chu kỳ kinh nguyệt của họ, và có một dạng mề đay hiếm hoi theo
chu kỳ, được gọi là mề đay progesterone tự miễn, xảy ra 7-10 ngày tiền kinh
nguyệt, mang thai thường sẽ cải thiện, nhưng có một tình trạng lâm sàng rõ
rệt được gọi là sự hình thành đa hình của thai kỳ hoặc 'u nhú ngứa và mề đay
mang thai' (PUPPP), trong đó phát ban bắt đầu như ngứa, mụn nhọt và mảng
bám ở trên bụng và đùi và sau đó lan toàn thân và chân tay. Nó thường khởi
phát ở ba tháng cuối và hay gặp ở lần mang thai đầu. Thụ tinh ống nghiệm
IVF với sự gia tăng cơ hội mang thai, đã làm tăng tỷ lệ mắc bệnh này. Điều trị
bằng các chất giữ ẩm, kháng histamines, steroid tại chỗ và đôi khi, trong


10

trường hợp nặng, steroid uống. Phát ban thường khỏi trong vòng ngày và
thường không tái diễn. Không có tác dụng phụ trên thai nhi. Nổi mề đay xảy
ra chỉ trong thời kỳ mang thai và tái phát trong thời kỳ mang thai tiếp theo đã
được báo cáo [17] .
2.2.8. Tình trạng nổi mề đay liên quan đến stress
Nổi mề đay cấp tính có thể xuất hiện liên quan đến một stress đặc biệt và
stress cũng có thể làm nặng thêm mề đay mạn tính. Bản thân tình trạng này
cũng làm giảm khả năng miễn dịch của cơ thể và làm giảm chất lượng cuộc

sống [18].
2.2.9. Mề đay liên quan đến các tự kháng thể giải phóng histamine (mề đay tự miễn)
Khoảng 50% người lớn và trẻ em mề đay mạn tính có các chất tự kháng
thể giải phóng histamine. Đây là các kháng thể IgG có tác dụng chống lại tiểu
đơn vị α của thụ thể IgE trên các tế bào mast (và basophils) hoặc kháng thể
IgE liên kết với các tế bào mast (hoặc basophils). Những chất tự kháng thể
này gây ra sự suy giảm tế bào mast thông qua việc kích hoạt con đường bổ thể
cổ điển [19]. Xác định bằng test huyết thanh tự thân trên da (ASST). Tuy
nhiên, ASST không được thực hiện thường xuyên tại phòng khám và khoa
điều trị, do đó, những bệnh nhân này thường được phân loại là mề đay vô
căn. Bệnh nhân có mề đay tự miễn thường xuyên có phù mạch, phù mạch và
mề đay có xu hướng mãn tính hơn.
3. Chẩn đoán mày đay
Mề đay là một chẩn đoán lâm sàng, dựa trên bệnh sử chi tiết và khám
lâm sàng xác nhận sự hiện diện của tổn thương da đặc trưng].
3.1. Bệnh sử:
o Có các dấu hiệu và triệu chứng khác của phản ứng dị ứng hoặc sốc
phản vệ không? Bệnh nhân có thể không kể các dấu hiệu trừ khi được hỏi cụ
thể. Các bác sĩ lâm sàng nên hỏi về tức ngực hoặc khó thở, giọng khàn hoặc


11

đau cổ họng, buồn nôn, nôn, đau bụng dữ dội, chóng mặt, và các triệu chứng
khác của sốc phản vệ

o Trước đây bệnh nhân có phát ban không? Một số trẻ em bị mề đay cấp
tính sau khi nhiễm trùng. Người lớn có thể phát triển nổi mề đay sau khi uống
thuốc kháng viêm không steroid (NSAID) nhưng có thể không nhận ra sự liên
kết cho đến khi nó xảy ra nhiều lần. Bệnh nhân có rối loạn dị ứng khác

không?
o Có bất kỳ triệu chứng hoặc dấu hiệu nào gợi ý một bệnh hệ thống
không ? Cụ thể, gần đây bệnh nhân có sốt không rõ nguyên nhân, sụt cân, đau
khớp, viêm khớp, hoặc đau xương ?
o Có nguyên nhân rõ ràng không
- Gần đây bệnh nhân có bị ốm, nhiễm virus, vi khuẩn trước khi mề đay
xuất hiện ? Bệnh nhân có trải qua bất kỳ vấn đề sức khỏe nào gần đây, chẳng
hạn như chấn thương cơ xương mà anh ta phải dùng NSAID hoặc phải dùng
loại thuốc hoặc phương pháp điều trị trước đây chưa dùng?
- Bệnh nhân nên được yêu cầu xem xét lại các vấn đề trước khi mề đay


12

xuất hiện. Bệnh nhân đã ăn gì (thực phẩm, đồ uống, kẹo)? Bệnh nhân có tập
thể dục hoặc gắng sức không? Bệnh nhân có tiếp xúc với nóng, lạnh hoặc bị
côn trùng cắn? Các câu trả lời có thể tiết lộ manh mối cho các nguyên nhân dị
ứng hoặc loại của mề đay.
- Bệnh nhân nên được hỏi về bất kỳ loại thuốc hoặc thực phẩm chức
năng mới nào sử dụng trong những ngày trước hoặc tuần trước . Có bất kỳ
loại thuốc nào được uống trong vài giờ trước khi mề đay xuất hiện không?
- Gần đây có đi du lịch ở đâu không ( liên quan ký sinh trùng).
3.2. Khám
Tổn thương phải được quan sát trực tiếp để chẩn đoán chắc chắn.
Nếu bệnh nhân không có tổn thương tại thời điểm đánh giá, có thể cho
bệnh nhân xem ảnh mề đay và hỏi xem tổn thương của họ có giống vậy hay
không, mặc dù chẩn đoán sẽ cần được xác nhận lại tại một thời điểm sau đó.
Mề đay cục bộ thường xuất hiện và biến mất trong vòng 24h . Nếu bệnh
nhân không chắc chắn về thời gian của tổn thương, một tổn thương có thể
được khoanh tròn bằng bút và thời gian biến mất..

3.3. Cận lâm sàng
Các xét nghiệm thường bình thường ở những bệnh nhân không có tiền sử
hoặc các triệu chứng khác gợi ý một bệnh lý khác .
 Đối với bệnh nhân biểu hiện mày đay mới khởi phát (có hoặc không

phù mạch) trong đó bệnh sử và lâm sàng không gợi ý một rối loạn tiềm ẩn
hoặc viêm mạch mày đay, các tổ chức quốc tế, châu Âu và Anh quốc đều
khuyến nghị không cần làm xét nghiệm [20],[21],[22]. Một thử nghiệm lâm
sàng ở Mỹ cho thấy một só xét nghiệm có thể được xem xét ở những bệnh
nhân này, 1/3 số bệnh nhân có các bất thường trên xét nghiệm sẽ tiến triển
thành mày đay mạn tính. Trong nghiên cứu này, công thức máu, phân tích
nước tiểu, máu lắng, và các xét nghiệm chức năng gan. Tuy nhiên, cách tiếp


13

cận của tác giả là lấy các xét nghiệm này ở những bệnh nhân có triệu chứng
dai dẳng.
 Ở những bệnh nhân có định hướng đến các tác nhân cụ thể, các xét
nghiệm, test cần được thực hiện để xác nhận hay loại trừ nguyên nhân đó.
3.3.1. Test các nguyên nhân dị ứng
Một yếu tố được cho là tác nhân gây dị ứng khi các triệu chứng xuất hiện
sau khi tiếp xúc với tác nhân đó (thường là trong vòng 1-2 giờ). Nếu bệnh sử
gợi ý, test dị nguyên đặc là thích hợp, nếu có sẵn trên thị trường. Ví dụ, nếu
một bệnh nhân thường không ăn hải sản nhưng có biểu hiện mề đay trong
vòng 10 phút sau khi ăn bánh cua, sẽ là hợp lý khi làm test dị nguyên đặc hiệu
cho cua. Tuy nhiên, việc đánh giá các xét nghiệm dị ứng có thể đòi hỏi một số
chuyên môn. Một kết quả dương tính là gợi ý, mặc dù không chẩn đoán, dị
ứng, và kết quả âm tính không loại trừ dị ứng. Vì lý do này, chúng tôi đề nghị
bệnh nhân nghi ngờ bị dị ứng đến khoa Dị ứng- Miễn dịch để đánh giá thêm

khi có thể. Test dị nguyên với thực phẩm tươi sống, nên được thực hiện bởi
một chuyên gia dị ứng, có lẽ là cách thuận tiện nhất, rẻ tiền và nhạy để phát
hiện quá mẫn thực phẩm.
4. Chẩn đoán phân biệt
Sự hiện diện hoặc vắng mặt của ngứa là một triệu chứng lâm sàng hữu
ích có thể được sử dụng để thu hẹp chẩn đoán phân biệt.
Không ngứa
Các tình trạng không có điều kiện có thể giống như mề đay cấp tính bao gồm
phát ban do virus, sự thay đổi da trong hội chứng auriculotemporal, và hội
chứng Sweet.
 Ban do virus : thường gặp ở trẻ em và có thể xảy ra với nhiều bệnh
nhiễm trùng khác nhau, bao gồm nhiễm trùng ban đỏ (bệnh thứ năm), virus
Epstein-Barr, enterovirus và sởi. Tuy nhiên, ban do virus thường không ngứa


14

và thường bao gồm mụn nước tồn tại trong nhiều ngày. Sốt thường xuất
hiện. Các mụn nước tương đối cố định so với các tổn thương mày đay, với các
mụn nước mới xuất hiện khi các mụn nước cũ biến mất.
 Hội chứng Auriculotemporal - một tình trạng đỏ da và/hoặc mồ hôi

trên da trên má hoặc quai hàm (các vùng chi phối bởi dây thần kinh) xảy ra
thoáng qua sau khi ăn và có thể bị nhầm lẫn với mề đay liên quan đến dị ứng
thức ăn [23]. Nó có thể được gặp ở trẻ em hoặc người lớn và có thể xuất hiện
sau tổn thương dây thần kinh thứ cấp do nhiễm virus, phẫu thuật hoặc chấn
thương cục bộ khác. Thường chỉ xuất hiện một bên, mặc dù các trường hợp
biểu hiện cả 2 bên đã được báo cáo .

Hình 3. Tổn thương da trong hội chứng Auriculotemporal

 Hội chứng Sweet - là một bệnh không phổ biến đặc trưng bởi các đợt
tái phát của các khối u sưng đau, kéo dài và các mảng liên quan đến sốt, đau
khớp, và tăng bạch cầu ngoại vi. Có thể có tiền sử sốt từ một đến ba tuần
trước khi khởi phát tổn thương da trong một số trường hợp


15

Hình 4. Tổn thương da trong hội chứng Sweet
Ngứa
 Viêm da dị ứng - Viêm da dị bệnh phổ biến xuất hiện ban đầu là các
mảng hồng ban ngứa rất nhiều với mụn nước và vảy. Ở trẻ em các tổn thương
thường xuất hiện ở mặt, da đầu trong khi khu vực đóng bỉm ít có. Ở trẻ lớn
hơn và người lớn, các khu vực nếp gấp (cổ, khuỷu chân, khuỷu tay, bẹn)
thường bị nhiều nhất. Các vị trí khác bao gồm mặt, cổ tay và cẳng tay . Các
vùng dát đỏ tồn tại trong nhiều ngày, nhiều tuần và ranh giới khó xác định,
mụn nước và vẩy phát triển theo thời gian

Hình 5. Tổn thương da trong viêm da cơ địa
 Viêm da tiếp xúc - Viêm da tiếp xúc đề cập đến bất kỳ bệnh viêm da
nào phát sinh từ tiếp xúc trực tiếp của da với một chất. Viêm da là dị ứng hoặc


16

kích ứng, trong đó do kích ứng phổ biến hơn. Vùng tổn thương chỉ giới hạn
trong khu vực tiếp xúc trực tiếp với tác nhân

Hình 6. Tổn thương da trong viêm da tiếp xúc
 Phát ban do thuốc - Là các phản ứng thuốc ở da gioogns phát ban do

virus nhưng xảy ra do dùng thuốc. Những tổn thương trên da có thể hoặc
không ngứa và khởi đầu là những mụn nước , phỏng nước, lớn dần lên theo
thời gian.Các tổn thương dai dẳng, không giống như mày đay.
 Côn trùng cắn - Côn trùng cắn tạo ra tổn thương tồn tại trong nhiều
ngày trong hầu hết các trường .Tuy nhiên,vết đốt của một số loài côn trùng có
thể gây ra mề đay thực sự như là một phần của phản ứng dị ứng toàn thân.
 Pemphigoid ác tính - Ở những người lớn tuổi, pemphigoid có thể bắt
đầu bằng ngứa, có hoặc không có tổn thương da mề đay. Phồng là bằng chứng
để chẩn đoán phân biệt.
 Hồng ban đa dạng - Là một hội chứng đặc trưng bởi hồng ban,vùng
trung tâm đau bao quanh bởi vòng màu đỏ nhạt, còn được gọi là “tiêu điểm”,
“mống mắt”, có thể có mụn nước và các mụn phồng rộp có kích cỡ khác nhau
(túi mọng), nằm ở phần trên cơ thể, chân, cánh tay, lòng bàn tay, bàn tay hoặc
bàn chân, có thể mọc ở mặt hoặc môi, thường có cả hai bên (đối xứng). Tổn
thương kéo dài vài ngày, không giống như mày đay. Có thể kèm theo sốt và
tình trạng khó chịu.


17

Hình 7. Tổn thương da trong hồng ban đa dạng
 Phản ứng do thực vật gây ra – Độc cây thường xuân và cây sồi có thể
biểu hiện với các tổn thương giống như mày đay lúc đầu, sau sẽ phát triển
thành các tổn thương mụn nước .
5. Điều trị
5.1. Các biện pháp chung
Ban đầu phải giải thích cho bệnh nhân mề đay là gì. Bệnh nhân có thể
yên tâm rằng trong hầu hết các trường hợp không có bệnh lý nghiêm trọng
gây phát ban; rằng các phương pháp điều trị an toàn, hiệu quả có sẵn và tiên
lượng lâu dài thường tốt

Tiếp theo, nếu bất kỳ tác nhân gây kích hoạt rõ ràng nào đã được xác
định từ bệnh sử, tiền sử, những yếu tố này cần được loại bỏ khỏi bệnh nhân,
bất cứ khi nào có thể. Ví dụ, thức ăn cụ thể gây nên được loại trừ khỏi chế độ
ăn uống; điều trị bằng aspirin, NSAIDS và codeine nên dừng lại; các yếu tố
kích thích vật lý như nóng và lạnh nên tránh bất cứ khi nào có thể; và bệnh
tuyến giáp hoặc nhiễm trùng cơ bản được điều trị. Các loại kem dưỡng da
chống ngứa, làm mát da như kem dưỡng da calamine hoặc tinh dầu bạc hà 1%
trong dung dịch nước có thể giúp giảm ngứa.
5.2. Điều trị bằng thuốc
 Kháng histamine


18

Tiêu chuẩn là một liều kháng histamin H1 thế hệ 2. Những loại thuốc
này xâm nhập hàng rào máu não chỉ ở mức độ nhẹ và do đó gây ra ít tác dụng
phụ của hệ thần kinh trung ương hơn so với các thuốc kháng histamine thế hệ
1, mặc dù các triệu chứng như an thần và suy giảm tâm thần vẫn có thể xảy
ra. Bảy loại thuốc kháng histamine này được cấp phép sử dụng ở Anh:
Cetirizine,

desloratidine,

fexofenadine,

levocetirizine,

loratidine




mizolastine, tất cả đều được uống mỗi ngày một lần, và acrivastine được dùng
ba lần một ngày, và do đó có thể ít hiệu quả hơn và thuận tiện để sử
dụng. Cetirizine và levocetirizine và loratidine

có thể có các thuộc tính

'chống viêm' hữu ích về mặt lâm sàng ở liều điều trị. Cetirizine có thể gây
buồn ngủ ở một số bệnh nhân và mizolastine là chống chỉ định ở những bệnh
nhân bị bệnh tim; khoảng QT kéo dài; hoặc bệnh gan nặng. Giảm liều có thể
cần thiết nếu có suy thận.
Đáp ứng lâm sàng và khả năng dung nạp thuốc kháng histamine H1 thế
hệ thứ hai có thể khác nhau giữa các loại, vì vậy nếu không kiểm soát tốt triệu
chứng hoặc bệnh nhân nhận thấy tác dụng phụ của thuốc đầu tiên được chọn,
nên dùng thuốc thứ hai. Thông thường, kiểm soát triệu chứng được cải thiện
nếu liều kháng histamine tăng lên gấp hai lần. Đây là liều cao hơn mức
khuyến cáo được cấp phép; tuy nhiên, liều lượng 'off-label' được khuyến cáo
rộng rãi [20],[24] . Một liều ban đêm của kháng H1 thế hệ 1 chẳng hạn như
chlorphenamine hoặc hydroxyzine, có thể giúp bệnh nhân ngủ. Theo kinh
nghiệm, điều trị kháng histamine thường được quy định trong 3-6 tháng (hoặc
lâu hơn nếu bệnh nhân có phù mạch phù hợp với mề đay) và được giảm liều
dần dần.
Nếu nổi mề đay vẫn không đáp ứng với các thuốc kháng histamin H1
liều cao, có thể bổ sung điều trị kháng histamine H2 ở liều chuẩn. Đây không
phải là chỉ định của điều trị, nhưng có bằng chứng cho thấy điều trị kháng
histamin H1 và H2 kết hợp giúp kiểm soát triệu chứng tốt hơn so với điều trị


19


kháng histamin H1[25],[26] . Không giống như cimetidine, ranitidine không
ức chế chuyển hóa thuốc oxy hóa do oxy hóa và do đó ít có khả năng gây
tương tác thuốc.
 Thuốc đối kháng thụ thể Leukotriene (LTRA)
Một phương pháp điều trị thứ hai thay thế cho các kháng histamin H2 ở
những bệnh nhân vẫn nổi mề đay nặng mặc dù điều trị kháng histamin H1
liều cao, là một LTRA như montelukast hoặc zafirlukast. Điều trị LTRA có thể
đặc biệt hiệu quả nếu bệnh nhân nhạy cảm với aspirin hoặc có ASST dương
tính . Tuy nhiên, mề đay không phải lúc nào cũng cải thiện với LTRA và, rất
thường xuyên, bệnh nhân nhận thấy sự phát ban tăng lên, trong trường hợp
này họ nên ngừng điều trị. LTRA độc lập không được sử dụng cho mề đay.
 Corticosteroid
Ở những bệnh nhân nổi mề đay cấp tính rất nghiêm trọng, có phù mạch
hoặc triệu chứng toàn thân, một liệu trình ngắn ngày của steroid uống được
chỉ định. Liều lượng và thời gian điều trị được xác định bởi cân nặng và đáp
ứng lâm sàng của bệnh nhân. Cần tránh các đợt steroid kéo dài hàng ngày bất
cứ khi nào có thể, và nếu điều trị steroid lâu dài là cần thiết, bệnh nhân cần
được theo dõi thường xuyên và điều trị dự phòng chống loãng xương do
steroid ở giai đoạn sớm . Steroid đường uống có thể cần thiết cho viêm mạch
mề đay hoặc mề đay do áp lực nghiêm trọng.
5.3. Can thiệp chế độ ăn uống
Một thử nghiệm khách quan về chế độ ăn salicylate thấp có thể được chỉ
định ở những bệnh nhân có tiền sử rõ ràng bị nổi mề đay nặng, hoặc thậm chí
phù mạch hoặc co thắt phế quản, sau khi uống aspirin hoặc NSAID và đặc
biệt nếu bệnh nhân cũng đáp ứng với điều trị LTRA . Điều quan trọng là giải
thích cho bệnh nhân rằng chế độ ăn uống không nên ảnh hưởng nhiều đến
cuộc sống hơn các triệu chứng mày đay, và có thể dễ dàng với bệnh nhân hơn


20


khi dùng liều kháng histamin thường xuyên so với việc tiếp tục với chế độ ăn
kiêng nghiêm ngặt.
Ở trẻ em, một thử nghiệm khách quan về chế độ ăn hàm lượng E thấp có
thể hữu ích, đặc biệt nếu tiền sử gợi ý rằng các đợt mề đay có thể liên quan
đến việc ăn các loại thức ăn có hàm lượng E cao.
5.4. Nổi mề đay nặng không đáp ứng với điều trị thông thường
Ở một số rất nhỏ bệnh nhân nổi mề đay nặng, có thể phù nề đường hô
hấp, co thắt phế quản và hạ huyết áp mặc dù điều trị bằng thuốc kháng
histamine

H1

liều

cao; kháng

histamine

H2



/

hoặc

LTRA; corticosteroid; và/ hoặc can thiệp chế độ ăn uống. Những bệnh nhân
này thường có mề đay tự miễn và điều trị cyclosporin đã chứng minh hiệu quả
trong khoảng 65% số bệnh nhân như vậy trong một nghiên cứu mù đôi ngẫu

nhiên [27], tuy nhiên, liều lượng tối ưu và thời gian điều trị vẫn chưa được
xác định.
Tacrolimus và mycophenolate mofetil cũng đã có hiệu quả trong một số
nghiên cứu.
Kết quả điều trị immunoglobulin tĩnh mạch ở một số ít bệnh nhân đã đưa
ra khuyến nghị là không nên sử dụng globulin miễn dịch tĩnh mạch trừ khi tất
cả các liệu pháp khác đều thất bại. Nếu bệnh nhân cần điều trị miễn dịch, nên
gửi đến một trung tâm chuyên khoa.
5.5. Điều trị trẻ em bị mề đay
Cũng như với người lớn, nên xác định các yếu tố gây khởi phát và nếu
có thể thì tránh các yếu tố đó.
Thuốc kháng histamin H1 thế hệ 2 là thuốc điều trị đầu tiên. Tất cả các
loại thuốc này được cấp phép cho trẻ em trên 12. Giới hạn về tuổi tác và liều
lượng khác nhau đối với các loại thuốc khác nhau ở trẻ nhỏ. Cetirizine,
desloratidine, levocetirizine và loratidine đều có sẵn như xi-rô, với
desloratidine được cấp phép cho nhóm tuổi trẻ nhất (1–5 tuổi). Ở trẻ em dưới


21

1 tuổi, chỉ có các thuốc kháng histamin H1 an thần chlorphenamine và
hydroxyzine được cấp phép. Điều trị liều cao, hoặc kết hợp hai kháng
histamin H1 không an thần khác nhau, hoặc kết hợp thuốc kháng histamin H1
không an thần vào buổi sáng, với một thuốc kháng histamine H1 an thần vào
ban đêm có thể cần thiết.
Nếu các triệu chứng vẫn chưa được kiểm soát tốt, một chất đối kháng thụ
thể H2 và / hoặc một LTRA có thể được thử. Montelukast được cấp phép dự
phòng bệnh hen suyễn ở trẻ em từ 6 tháng tuổi và có sẵn dưới dạng gói và
dạng


viên thuốc nhai cho trẻ nhỏ cũng như ở dạng viên nén tiêu

chuẩn. Zafirlukast được cấp phép dự phòng bệnh hen suyễn ở trẻ em từ 12
tuổi trở lên và chỉ có sẵn ở định dạng viên chuẩn.
Cuối cùng, nếu các thuốc kháng histamin H1 liều cao, các thuốc đối
kháng thụ thể H2 và LTRA không hiệu quả, có thể cần phải dùng steroid
đường uống; Tuy nhiên, ngay cả steroid uống có thể không có hiệu quả nếu
trẻ bị nổi mề đay vật lý nghiêm trọng.
Gửi trẻ đến một trung tâm chuyên khoa được đề nghị nếu trẻ có các triệu
chứng rất nghiêm trọng.


×