Tải bản đầy đủ (.docx) (38 trang)

Các biện pháp can thiệp, dự phòng đái tháo đường ở người có yếu tố nguy cơ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (393.51 KB, 38 trang )

1

1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Theo nhận định của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), thế kỷ 21 là thế kỷ
của các bệnh không lây nhiễm. Ngày nay, khi các bệnh lây nhiễm từng bước
được khống chế và đẩy lùi thì các bệnh không lây như tim mạch, tăng huyết
áp (THA), tâm thần, ung thư,... đặc biệt là bệnh đái tháo đường (ĐTĐ) týp 2,
đang dần trở thành gánh nặng cho xã hội và sức khỏe của con người.
Theo ước tính của Liên đoàn Đái tháo đường Quốc tế (IDF) năm
2014, số người mắc bệnh ĐTĐ là 382 triệu người, dự kiến sẽ tăng lên 592
triệu người vào năm 2035, trong đó chủ yếu là ĐTĐ týp 2 chiếm 90%. Cùng
với đó là sự gia tăng nhanh chóng tỷ lệ người mắc tiền ĐTĐ, đây là nguồn bổ
sung cho sự bùng nổ tỷ lệ mắc bệnh ĐTĐ trong tương lai. Chỉ tính riêng số
đối tượng suy giảm dung nạp glucose (IGT) của năm 2013 là 316 triệu người
(6,9%), ước tính con số này sẽ tăng lên 471 triệu người (8,0%) vào năm 2035.
Do vậy, tiền ĐTĐ cũng đang trở thành vấn đề sức khỏe chính toàn cầu do
người tiền ĐTĐ có nguy cơ rất cao phát triển thành bệnh ĐTĐ thực thụ cũng
như nguy cơ tăng cao về các bệnh lý tim mạch.
Việt nam là một quốc gia đang phát triển, sự phát triển nhanh chóng về
kinh tế xã hội kéo theo sự thay đổi nhanh chóng về lối sống của mỗi người
dân, kết hợp với yếu tố giống nòi, đang làm gia tăng tỷ lệ mắc bệnh ĐTĐ týp
2. Theo điều tra quốc gia năm 2008, tỷ lệ người mắc bệnh ĐTĐ đã tăng trên
2,5 lần so với 10 năm trước. Tình hình bệnh đái tháo đường đang gia tăng
nhanh chóng đòi hỏi các chính sách về y tế phải tích cực chuyển sang tập
trung cho vấn đề dự phòng bệnh đái tháo đường hoặc làm chậm quá trình khởi
phát bệnh đái tháo đường týp 2.
Tiền ĐTĐ là tình trạng mức đường máu tăng cao nhưng chưa đủ để
được chẩn đoán mắc bệnh ĐTĐ. Theo nghiên cứu điều tra thì có 11% những


2



người được chẩn đoán tiền đái tháo đường sẽ chuyển thành đái tháo đường
týp 2 trong vòng 3 năm. Khi được phát hiện mắc bệnh ĐTĐ thì chức năng tế
bào bêta đã suy giảm hơn 50%, sự suy giảm này có từ khi người bệnh chưa
được chẩn đoán (thời kỳ tiền đái tháo đường). Dựa vào những bằng chứng xác
thực từ các thử nghiệm lâm sàng mà các tổ chức đái tháo đường trên thế giới
đều khuyến cáo nên phòng ngừa ĐTĐ ở các đối tượng tiền ĐTĐ thông qua
thay đổi lối sống như giảm cân và tăng cường hoạt động thể lực hoặc dùng
các thuốc làm tăng sự nhạy cảm insulin [10], [18].
Tuy nhiên các thông tin về hiệu quả can thiệp ở người tiền ĐTĐ, sự thay
đổi các chỉ số sinh học như chức năng tế bào bêta, độ nhạy insulin hoặc sự
thay đổi các yếu tố nguy cơ sau can thiệp vẫn chưa rõ ràng, nhất là ở người
Việt Nam.
Vì vậy chúng tôi nghiên cứu chuyên đề “Các biện pháp can thiệp, dự
phòng đái tháo đường ở người có yếu tố nguy cơ”. Chuyên đề này là một
phần trong các chuyên đề nhằm tìm hiểu những vấn đề về lý luận cho đề tài
nghiên cứu sinh: “Nghiên cứu sự thay đổi chức năng tế bào bêta, độ nhạy
insulin và hiệu quả phòng bệnh đái tháo đường týp 2 bằng can thiệp lối sống”
nhằm tìm hiểu, cập nhật những thông tin, dịch tễ học, lâm sàng, can thiệp dự
phòng ở các đối tượng tiền ĐTĐ.
Việc tìm kiếm tài liệu được thực hiện tại Thư viện Trường Học Viện
Quân Y; Thư viện Trường Đại học Y Hà Nội; Thư viện Quốc gia; các trang
mạng Medline; Pubmed; Mescape. Các tài liệu bao gồm tiếng Việt và tiếng
Anh được xuất bản từ năm 1990 đến năm 2014.


3

2. TIỀN ĐÁI THÁO ĐƯỜNG VÀ CÁC YẾU TỐ NGUY CƠ
2.1. Khái niệm tiền ĐTĐ

Khái niệm giảm dung nạp glucose được giới thiệu vào năm 1979 thay
cho thuật ngữ “đái tháo đường giới hạn”; giảm dung nạp glucose được WHO
và ADA xem là giai đoạn tự nhiên của rối loạn chuyển hóa carbohydrate.
Theo phân loại của WHO vào năm 1985, những khái niệm tăng glucose
máu khác chưa có nguy cơ biến chứng mạch máu nhỏ được xem như một thể
lâm sàng của rối loạn dung nạp glucose. Rối loạn glucose lúc đói (IFG) là
thuật ngữ được giới thiệu vào năm 1999. Sau đó, khái niệm tiền ĐTĐ đã được
cơ quan dịch vụ sức khỏe và con người của Mỹ (HHS) và Hiệp Hội Đái tháo
đường Mỹ (ADA) đưa ra vào tháng 3 năm 2002 nhằm nâng cao nhận thức của
cộng đồng về căn bệnh ngày càng lan rộng này. Năm 2008, tình trạng trên
được (ADA) có sự đồng thuận của WHO đã đặt tên chính thức là tiền đái tháo
đường (Pre-diabetes).
Các thuật ngữ khác trước đây cũng hay thường được dùng như “ Đái
tháo đường tiềm tàng”, “Đái tháo đường sinh hoá”, “Đái tháo đường tiền lâm
sàng” để chỉ các trường hợp rối loạn dung nạp glucose mà chưa có biểu hiện
lâm sàng. Những trường hợp này chỉ được phát hiện khi tiến hành nghiệm
pháp tăng gánh glucose bằng đường uống hoặc đường tĩnh mạch. Ngày nay
khái niệm “tiền đái tháo đường” được công nhận và sử dụng rộng rãi để chỉ
các hình thái rối loạn chuyển hoá carbonhydrat của cơ thể. Trong đó dựa
vào cách tiến hành xét nghiệm thì tiền ĐTĐ gồm hai tình huống là suy
giảm glucose lúc đói (Impaired Fasting Glucose - IFG) và Rối loạn dung
nạp glucose (Impaired Glucose Tolerance- IGF). Cả hai trạng thái này đều
có tăng glucose máu nhưng chưa đạt tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh đái tháo
đường cụ thể là:


4

Rối loạn dung nạp glucose (IGT), nếu xét nghiệm cho kết quả mức
glucose huyết tương ở thời điểm 2 giờ sau nghiệm pháp tăng glucose máu

đường uống từ 7,8mmol/l (140mg/dl) đến 11,0mmol/l (198mg/dl).
Suy giảm dung nạp glucose máu lúc đói (IFG), nếu lượng glucose
huyết tương lúc đói (sau ăn 8 giờ) từ 6,1 mmol/l (100mg/dl) đến 6,9mmol/l
(125mg/dl) và lượng glucose huyết tương ở thời điểm 2 giờ của nghiệm pháp
tăng đường máu từ 6,1 mmol/l (100mg/dl) đến dưới 7,8mmol/l (<140mg/dl).
Nhiều nghiên cứu đã cho thấy rối loạn chức năng tế bào bêta có ngay từ
khi người bệnh có rối loạn dung nạp glucose máu lúc đói. Giai đoạn đầu của
bệnh (tiền đái tháo đường), sự bài tiết insulin có thể tăng để cố gắng khắc
phục tình trạng kháng insulin. Sự đáp ứng tiết insulin của tuỵ với glucose máu
dần trở nên không thích hợp (insulin tiết không đủ), lúc này chức năng tế
bào bêta suy tương đối làm xuất hiện tình trạng tăng glucose máu. Thường
thì ngưỡng đường máu sau ăn cũng như đường máu lúc đói ở người tiền
đái tháo đường cao hơn bình thường nhưng chưa phải là mắc bệnh đái
tháo đường. Theo nghiên cứu điều tra thì có 11% những người được chẩn
đoán tiền đái tháo đường sẽ chuyển thành đái tháo đường týp 2 trong vòng
3 năm. Thường thì quá trình này tiến triển và dẫn đến đái tháo đường týp
2 trong vòng 10 năm.
Những người tiền đái tháo đường cũng đã có những nguy cơ tim
mạch hay đột quỵ, tuy nhiên nếu có thường là nhẹ. Người ta có thể phòng
hoặc kéo dài thời gian tiến triển đến đái tháo đường cũng như phòng các
bệnh tim mạch bằng can thiệp vào lối sống, chế độ ăn ngay từ giai đoạn
tiền đái tháo đường [6].


5

2.2. Tình hình dịch tễ học tiền ĐTĐ
Tiền ĐTĐ là tình trạng mức đường máu chưa tăng cao để được chẩn
đoán mắc bệnh ĐTĐ nhưng cũng đang trở thành vấn đề sức khỏe chính toàn
cầu do người tiền đái tháo đường có nguy cơ rất cao phát triển thành bệnh

ĐTĐ thực thụ cũng như nguy cơ tăng cao về các bệnh lý tim mạch. Theo ước
tính của IDF chỉ tính riêng các đối tượng suy giảm dung nạp glucose (IGT)
của năm 2013 là 316 triệu người (6,9%), ước tính con số này sẽ tăng lên 471
triệu người (8,0%) vào năm 2035 [10].
Điều tra của Trần Hữu Dàng và cộng sự tại Thành phố Huế ở lứa tuổi
>15 năm 1996 cho tỉ rối loạn dung nạp glucose (RLDNG) là 1,45%. Năm
2001 điều tra tại 4 thành phố lớn Hà nội, Hải phòng, Đà nẵng, TP.HCM cho
kết quả tỉ lệ mắc RLĐHLĐ, RLDNG chung là 5,9% [2]. Năm 2014 theo ước
tính của Liên đoàn Đái tháo đường Quốc tế, Việt Nam là quốc gia có số người
mắc đái tháo đường nhiều nhất trong số các quốc gia Đông Nam Á với 3,299
triệu người mắc đái tháo đường (IDF DIABETES ATLAS) [10].
Như vậy bệnh ĐTĐ đang thực sự trở thành gánh nặng kinh tế cho cả xã
hội, bản thân và gia đình người bệnh. Cần phải có những biện pháp điều trị và
dự phòng hiệu quả để làm giảm tỷ lệ mắc bệnh ĐTĐ và các biến chứng.
2.3. Chẩn đoán, phân loại tiền ĐTĐ
2.3.1. Các chỉ số để chẩn đoán tiền ĐTĐ
Để chẩn đoán tiền ĐTĐ chỉ bằng cách xét nghiệm máu để đánh giá các
chỉ số, cho đến nay các chỉ số được dùng để chẩn đoán tiền ĐTĐ bao gồm:
- Xét nghiệm glucose máu lúc đói, có thể lấy máu mao mạch hoặc máu
tĩnh mạch để định lượng chỉ số glucose.
- Nghiệm pháp dung nạp glucose đường uống: còn gọi đây là nghiệm
pháp tăng đường máu, được thực hiện vào buổi sang sau nhịn ăn từ 8 – 16


6

giờ; các đối tượng được cho uống 75g đường glucose loại Anhydrite hoặc
82,5 g đường glucose loại monohydrate; định lượng glucose máu ở nhiều thời
điểm khác nhau thường là (0, 30, 60, 90, 120 phút), theo khuyến cáo của
WHO và IDF lấy giá trị glucose máu ở thời điểm 0 và 120 phút sau khi uống

glucose để chẩn đoán.
- Sử dụng chỉ số HbA1c: có thể xét nghiệm vào thời gian bất kỳ, cần
chú ý các yếu tố ảnh hưởng đến nồng độ HbA1c như yếu tố di truyền huyết
học, thiếu máu,…; xét nghiệm phải được tiến hành trong một cơ sở xét
nghiệm sử dụng phương pháp xét nghiệm đã được Chương trình Chuẩn hóa
Glycohemoglobin Quốc gia (National Glycohemoglobin Standardization
Programme – NGSP) cấp giấy chứng nhận và chuẩn hóa theo kỹ thuật xét
nghiệm dụng trong nghiên cứu DCCT [4], [14].
2.3.2. Tiêu chuẩn chẩn đoán tiền ĐTĐ theo ADA
Chẩn đoán xác định tiền ĐTĐ khi có ít nhất một trong các tiêu chuẩn sau:
- Rối loạn dung nạp glucose (IGT): nếu mức glucose huyết tương ở thời
điểm 2 giờ sau nghiệm pháp tăng glucose máu đường uống từ 7,8 mmol/l
(140 mg/dl) đến 11,0 mmol/l (198mg/dl) và glucose huyết tương lúc đói <
126mg/dl (7mmol/l).
- Suy giảm dung nạp glucose máu lúc đói (IFG): nếu lượng glucose
huyết tương lúc đói (sau ăn 8 giờ) từ 5,6 mmol/l (100 mg/dl) đến 6,9 mmol/l
(125 mg/dl) và lượng glucose huyết tương ở thời điểm 2 giờ của nghiệm pháp
tăng glucose máu dưới 11,1 mmol/l (< 200 mg/dl).
- Chẩn đoán ĐTĐ khi chỉ số HbA1c từ 5,7% đến 6,4%. Xét nghiệm
phải được tiến hành trong một cơ sở xét nghiệm sử dụng phương pháp xét
nghiệm đã được Chương trình Chuẩn hóa Glycohemoglobin Quốc gia
(National Glycohemoglobin Standardization Programme – NGSP) cấp giấy


7

chứng nhận và chuẩn hóa theo kỹ thuật xét nghiệm dung trong nghiên cứu
DCCT [4], [14].
2.3.3. Tiêu chuẩn chẩn đoán tiền ĐTĐ theo WHO – IDF
- Rối loạn dung nạp glucose (IGT), nếu mức glucose huyết tương ở thời

điểm 2 giờ sau nghiệm pháp tăng glucose máu đường uống từ 7,8mmol/l
(140mg/dl) đến 11,0mmol/l (198mg/dl).
- Suy giảm dung nạp glucose máu lúc đói (IFG), nếu lượng glucose
huyết tương lúc đói (sau ăn 8 giờ) từ 6,1 mmol/l (100mg/dl) đến 6,9mmol/l
(125mg/dl).
Về cơ bản Ủy ban Chuyên gia của WHO đồng ý với các tiêu chí chẩn
đoán ĐTĐ, tiền ĐTĐ dựa vào HbA1c mà ADA đã cập nhật vào năm 2012;
tuy nhiên khuyến cáo sử dụng tiêu chí chẩn đoán tiền ĐTĐ là từ 6,0% đến
6,5%. Ủy ban cũng khuyến cáo thời điểm áp dụng tiêu chí HbA1c trong chẩn
đoán ĐTĐ, tiền ĐTĐ là tùy thuộc vào mỗi quốc gia.
2.3.4. Phân loại các hình thái tiền ĐTĐ
Các thuật ngữ khác trước đây cũng hay thường được dùng như “ Đái
tháo đường tiềm tàng”, “Đái tháo đường sinh hoá”, “Đái tháo đường tiền lâm
sàng” để chỉ các trường hợp rối loạn dung nạp glucose mà chưa có biểu
hiện lâm sàng. Hiện nay, khái niệm “tiền đái tháo đường” được công nhận
và sử dụng rộng rãi để chỉ các hình thái rối loạn chuyển hoá carbonhydrat
của cơ thể. Dựa vào cách tiến hành xét nghiệm thì tiền ĐTĐ gồm có các
tình huống sau:
Hình thái IGT: Rối loạn dung nạp glucose đơn thuần (Isolated - IGT),
nếu xét nghiệm cho kết quả mức glucose huyết tương ở thời điểm 2 giờ sau
nghiệm pháp tăng glucose máu đường uống từ 7,8mmol/l (140mg/dl) đến


8

11,0mmol/l (198mg/dl) và lượng glucose huyết tương lúc đói (sau ăn 8 giờ)
dưới 6,1 mmol/l (100mg/dl).
Hình thái IFG: Suy giảm dung nạp glucose máu lúc đói đơn thuần
(Isolated - IFG), nếu lượng glucose huyết tương lúc đói (sau ăn 8 giờ) từ 6,1
mmol/l (100mg/dl) đến 6,9mmol/l (125mg/dl) và lượng glucose huyết tương

ở thời điểm 2 giờ của nghiệm pháp tăng đường máu từ 6,1 mmol/l (100mg/dl)
đến dưới 7,8mmol/l (<140mg/dl).
Hình thái IGT/IFG: vừa có rối loạn dung nạp glucose vừa có Suy giảm
dung nạp glucose máu lúc đói, nếu lượng glucose huyết tương lúc đói (sau ăn
8 giờ) từ 6,1 mmol/l (100mg/dl) đến 6,9mmol/l (125mg/dl) và lượng glucose
huyết tương ở thời điểm 2 giờ của nghiệm pháp tăng đường máu từ 7,8
mmol/l (100mg/dl) đến dưới 11,1mmol/l (<140mg/dl).
Một số nghiên cứu chỉ ra rằng tùy từng hình thái tiền ĐTĐ khác nhau
sẽ có đặc điểm chức năng tế bào bêta, kháng insulin khác nhau. Do đó với
mỗi hình thái rối loạn glucose máu khác nhau ta sẽ cần phải có các biện pháp
dự phòng đặc trưng khác nhau .
2.4. Các yếu tố nguy cơ ở người tiền ĐTĐ
Để dự phòng bệnh ĐTĐ týp 2 có hiệu quả, các nghiên cứu chỉ ra rằng
phải can thiệp vào các YTNC ở người tiền ĐTĐ. Các YTNC ở người tiền
ĐTĐ có thể chia ra thành các nhóm YTNC có thể can thiệp được, nhóm
YTNC không thể can thiệp được.
2.4.1. Nhóm YTNC không thể can thiệp
Yếu tố tuổi: độ tuổi 45 trở lên là YTNC đầu tiên trong các YTNC của
bệnh ĐTĐ týp 2; theo WHO, ở lứa tuổi 70 trở lên, tỉ lệ mắc bệnh ĐTĐ týp 2
tăng gấp 3 - 4 lần so với tỉ lệ mắc bệnh ĐTĐ chung ở người lớn, khoảng 17%
số người 80 tuổi trở lên bị mắc bệnh ĐTĐ týp 2 [10].


9

Yếu tố chủng tộc: Tỉ lệ ĐTĐ týp 2 gặp ở tất cả các dân tộc, nhưng với
tỉ lệ và mức độ khác nhau. Ở các dân tộc khác nhau, tỉ lệ mắc bệnh ĐTĐ thai
kỳ cũng khác nhau, những dân tộc có tỉ lệ mắc bệnh ĐTĐ týp 2 cao, thì cũng
có tỉ lệ mắc bệnh ĐTĐ thai kỳ cao.
2.4.2. Nhóm YTNC có thể can thiệp

Yếu tố gia đình: những đối tượng có mối liên quan huyết thống gần gũi
với người mắc bệnh ĐTĐ týp 2, có nguy cơ mắc bệnh ĐTĐ týp 2 cao gấp 4 6 lần so với người bình thường trong gia đình không có người mắc bệnh ĐTĐ
týp 2; đặc biệt là những người mà cả bên nội và ngoại đều có người mắc bệnh
ĐTĐ týp 2, con cái có cả bố mẹ đều mắc bệnh ĐTĐ týp 2, thì 40% có nguy
cơ bị mắc bệnh ĐTĐ týp 2. Ngày nay yếu tố gia đình có thể được xếp vào
nhóm các YTNC có thể thay đổi được do sự phát triển của công nghệ gen.
Chế độ ăn và hoạt động thể lực: Thói quen dùng nhiều đường, ăn nhiều
chất béo sẽ có nguy cơ cao mắc tiền ĐTĐ, ĐTĐ týp 2. Những người có thói
quen uống nhiều rượu, có nguy cơ mắc bệnh ĐTĐ týp 2 lớn hơn những người
uống ít rượu. Các nghiên cứu trên thế giới đã cho thấy, việc tập luyện thể lực
thường xuyên có tác dụng làm giảm nồng độ glucose huyết tương, giảm
nguy cơ mắc bệnh ĐTĐ týp 2, ổn của lipid máu, huyết áp, cải thiện tình
trạng kháng insulin. Sự phối hợp hoạt động thể lực thường xuyên và điều
chỉnh chế độ ăn có thể giúp làm giảm nguy cơ mắc bệnh ĐTĐ týp 2 một
cách rất đáng kể.
Yếu tố môi trường và lối sống: Đô thị hoá có vai trò quan trọng thực sự
đóng góp cho sự gia tăng tỉ lệ bệnh ĐTĐ týp 2. Quá trình đô thị hoá làm thay
đổi lối sống, thói quen ăn uống truyền thống sang kiểu sống, thói quen ăn
uống của đô thị hiện đại.


10

Béo phì: Từ năm 1985, bệnh béo phì đã được WHO ghi nhận là một
YTNC cao của bệnh ĐTĐ týp 2, trong đó bệnh béo phì dạng nam có vai trò
đặc biệt quan trọng.
Tăng huyết áp: Tăng HA được coi là YTNC phát triển bệnh ĐTĐ týp 2.
Tiền sử sản khoa: Trẻ mới sinh nặng trên 3600 gram là một YTNC của
bệnh ĐTĐ týp 2 cho cả mẹ và con. Các bà mẹ này có nguy cơ mắc ĐTĐ týp 2
cao hơn so với phụ nữ bình thường. Những trẻ này có nguy cơ béo phì từ nhỏ,

RLDNG và bị ĐTĐ týp 2 khi lớn tuổi.
Thói quen hút thuốc lá và các yếu tố Stress: Thói quen hút thuốc lá có
liên quan đến sự đề kháng insulin, là yếu tố nguy cơ của ĐTĐ týp 2 ở cả nam
lẫn nữ. Các Stress đặc biệt các Stress cấp có liên quan đến đề kháng insulin,
tuy nhiên sự đề kháng trong trường hợp này có khả năng hồi phục.
3. CÁC BIỆN PHÁP CAN THIỆP DỰ PHÒNG ĐTĐ
4. Những cơ sở khoa học của vấn đề nghiên cứu
- Bệnh ĐTĐ týp 2 là bệnh có yếu tố di truyền đa gen. Những người có
người thân trong gia đình cùng huyết thống mắc ĐTĐ, đặc biệt nếu là trực hệ
như bố, mẹ, anh chị em ruột mắc ĐTĐ thì các thành viên khác có nguy cơ
mắc ĐTĐ tăng từ 3-8 lần so với người bình thường. Vì vậy, căn cứ vào tiền sử
gia đình mắc bệnh ĐTĐ để xác định đối tượng có yếu tố nguy cơ, từ đó xét
nghiệm đường máu nhằm chẩn đoán, phát hiện sớm bệnh ĐTĐ.
- Người bị tăng HA, rối loạn chuyển hóa lipid, thừa cân- béo phì, mắc
bệnh tim mạch,… thường có hiện tượng đề kháng insulin, vì thế dễ mắc ĐTĐ,
cần phải sàng lọc, can thiệp dự phòng sớm ở các đối tượng này.
- Tiền ĐTĐ không được phát hiện và can thiệp, thường diễn biến đến đái
tháo đường thực sự. Theo nghiên cứu điều tra thì có 11% những người được
chẩn đoán tiền đái tháo đường sẽ chuyển thành đái tháo đường týp 2 trong


11

vòng 3 năm. Thường thì quá trình này tiến triển và dẫn đến đái tháo đường
týp 2 trong vòng 10 năm.

Diễn biến tự nhiên từ tiền ĐTĐ đến ĐTĐ thực thụ

Tăng kháng insulin/tăng glucose máu


Tiền
ĐTĐ
IFG

YTNC
Gen

Tăng
cân

RLLM

Tăng
HA

IGT

ĐTĐ

Tuổi

Biểu đồ 1: Diễn biến tự nhiên từ tiền ĐTĐ đến ĐTĐ thực thụ
* Nguồn: theo Lasalle J. Hosp Phys (2005); 41:37-46

- Tình trạng bắt đầu tăng glucose máu ở tiền ĐTĐ sẽ diễn biến đồng
thời với thương tổn chức năng tế bào beta và tăng đề kháng insulin ở ngoại
biên sẽ tăng nguy cơ biến chứng tim mạch. Thương tổn tim mạch có thể xảy
ra nhiều năm trước khi có biểu hiện rõ ràng lâm sàng của ĐTĐ. Khi glucose
máu được kiểm soát sớm, chức năng tế bào beta sẽ được bảo vệ và góp phần
giảm biến chứng tim mạch [3]



12

Tỷ lệ nguy cơ mắc các bệnh tim mạch tăng cao trước khi được chẩn đoán
mắc bệnh ĐTĐ týp 2

%
ng
uy

ti
m
mạ
ch

Bình thường

IGT

ĐTĐ mới

ĐTĐ cũ

Biểu đồ 2: Sơ đồ tỷ lệ nguy cơ tổn thương tim mạch trước đái tháo đường
* Nguồn: theo Hu F, et al. Diabetes Care. 2002; 25:1129-1134 [8]

- Người có tiền sử rối loạn đường huyết lúc đói, rối loạn dung nạp
glucose được gọi là người tiền ĐTĐ có nguy cơ cao chuyển thành mắc bệnh
thực sự.

- Người có tiền sử đẻ con to, cân nặng từ 3800g trở lên, hoặc mắc
ĐTĐ thai kỳ, sau này dễ mắc quá cân hoặc béo phì nên có nguy cơ cao mắc
bệnh ĐTĐ týp 2 sau này do đó cần phải sàng lọc, phát hiện sớm để can
thiệp kịp thời.
- Đái tháo đường là bệnh gây ra những hậu quả nghiêm trọng, là gánh
nặng cho gia đình và cộng đồng vì vậy mỗi quốc gia, mỗi địa phương phải có
chiến lược can thiệp làm giảm tỷ lệ mắc bệnh ĐTĐ.


13

- Bệnh ĐTĐ týp 2 là bệnh do tác động qua lại của cả 2 yếu tố là di
truyền và môi trường. Việc loại trừ các yếu tố nguy cơ hoàn toàn có thể ngăn
ngừa, làm chậm phát triển bệnh, làm chậm biến chứng bệnh như thay đổi lối
sống, kiểm soát tốt đường huyết, HBA1C huyết áp cao, rối loạn lipid máu đã
được chứng minh rõ ràng qua nhiều nghiên cứu khác nhau trên thế giới.

Năm theo dõi

Biểu đồ 3: So sánh tỷ lệ mắc mới ĐTĐ giữa nhóm được can thiệp dự phòng
và nhóm không được can thiệp trong 20 năm từ nghiên cứu DaQing
* Nguồn: theo Guangwei Li, Lancet (2008); 371(9626):1783-9 [6]
- Nhiều nghiên cứu trên thế giới đã chứng minh được hiệu quả của thử
nghiệm can thiệp phòng chống ĐTĐ như: Thử nghiệm can thiệp phòng chống
ĐTĐ tại Nhật bản đã cho thấy kết quả giảm yếu tố nguy cơ từ 28% ở cộng
đồng người Ấn độ đến 67% ở cộng đồng người Nhật Bản; Nghiên cứu Daqing
ở Trung Quốc trong thời gian 14 năm cho thấy hiệu quả của can thiệp lối sống
có tính ổn định lâu dài đã được chứng minh giữa nhóm chứng và nhóm can



14

thiệp với chi phí thấp [15]. Chương trình nghiên cứu phòng chống ĐTĐ Mỹ
(Diabetes Prevention Programme – DPP) của nhóm nghiên cứu Trường Đại
học George Washington đã tiến hành can thiệp lối sống trong thời gian 2,8
năm ở bệnh nhân có rối loạn dung nạp glucose cho thấy: tỷ lệ phát triển thành
bệnh ĐTĐ là 11%; 7,8% và 4,8% lần lượt ở các nhóm chứng, nhóm sử dụng
metformin, và nhóm được can thiệp bằng lối sống và chỉ ra rằng biện pháp
can thiệp lối sống có hiệu quả hơn sử dụng metformin [11], [13].
4.1. Các phương pháp can thiệp phòng chống ĐTĐ
4.1.1. Các phương pháp can thiệp phòng chống ĐTĐ
Tiền ĐTĐ là giai đoạn chuyển tiếp từ bình thường sang đái tháo đường
thực thụ trong diễn biến tự nhiên của bệnh đái tháo đường týp 2, khi xuất hiện
tình trạng suy giảm dung nạp glucose lúc đói (IFG), rối loạn dung nạp glucose
hoặc cả hai tình trạng này. Mắc tiền đái tháo đường làm tăng các nguy cơ và
các biến cố tim mạch. Do vậy phát hiện, can thiệp dự phòng bệnh đái tháo
đường ngay ở giai đoạn tiền đái tháo đường đang là một trong những mục tiêu
quan trọng của chương trình phòng chống bệnh đái tháo đường ở nhiều quốc
gia trên thế giới. Dự phòng hoặc làm chậm quá trình khởi phát bệnh đái tháo
đường týp 2 thực thụ sẽ mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội rất lớn [9].
Các nghiên cứu kinh điển và nhiều nghiên cứu gần đây về can thiệp dự
phòng ở người tiền ĐTĐ đưa ra các bằng chứng khoa học, mở ra hy vọng mới
cho việc dự phòng bệnh đái tháo đường týp 2 bằng cách thay đổi lối sống, can
thiệp giảm cân ở người trưởng thành, hoặc can thiệp bằng thuốc ở những đối
tượng có yếu tố nguy cơ cao phát triển bệnh đái tháo đường týp 2.
4.1.1.1. Can thiệp cộng đồng

Phương pháp y tế nhằm can thiệp dự phòng bệnh đái tháo đường týp 2
lần đầu tiên được Rose G đưa ra bao gồm: một là, “tiếp cận yếu tố nguy cơ”



15

là chỉ tập trung tiếp cận, can thiệp vào các đối tượng có yếu tố nguy cơ cao
phát triển thành bệnh đái tháo đường týp 2; hai là, “tiếp cận cộng đồng” tập
trung tiếp cận, can thiệp vào cộng đồng và tiếp cận, can thiệp vào hệ thống y
tế nhằm làm giảm các yếu tố nguy cơ và/hoặc các nguyên nhân gây bệnh
trong cộng đồng. Cộng đồng ở đây cũng được xác định rõ là từng địa phương
hoặc từng nhóm những người có chung những đặc điểm hoặc chung các yếu
tố nguy cơ. Rose G cũng đã xác định được những lợi ích và bất lợi của các
phương pháp can thiệp này. Tiếp cận yếu tố nguy cơ mang lại chi phí - hiệu
quả cao cho từng cá nhân được tham gia dự phòng. Tiếp cận quần thể hay còn
gọi tiếp cận cộng đồng có thể mang lại lợi ích nhỏ hơn cho từng các nhân
nhưng có tiềm năng mang lại chi phí hiệu quả rất lớn cho cộng đồng. Trong
khi phương pháp can thiệp yếu tố nguy cơ chỉ tập trung làm giảm nhẹ các yếu
tố nguy cơ của từng các nhân thì phương pháp tiếp cận các yếu tố nguy cơ lại
tập trung vào giải quyết các nguyên nhân gây bệnh trong cộng đồng, tập trung
sức mạnh, trí tuệ, thói quen, văn hóa của cả cộng đồng. Sự tham gia của cộng
đồng ngay từ đầu chương trình can thiệp có ý nghĩa rất lớn tới sự thành công
của can thiệp. Thường thì cả hai phương pháp này đều được sử dụng để thực
hiện các chương trình can thiệp phòng chống bệnh đái tháo đường týp 2 [7],
[16], [5].
4.1.1.2. Tác động vào lối sống thông qua các tăng cường hoạt động thể lực:

- Hoạt động thể lực là một biện pháp can thiệp vào lối sống để phòng chống
ĐTĐ. Hoạt động thể lực được xác định là sự vận động của cơ thể được tạo ra bởi
sự co giãn của cơ xương và sự gia tăng tiêu thụ năng lượng trên mức cơ bản.
Theo Tổ chức Y tế Thế giới, hoạt động thể lực bao gồm 4 thành phần. Tập thể
dục thể thao, công việc chân tay, đi lại bằng phương tiện không có động cơ, một
số việc nhà như gánh nước, kiếm củi. Khối lượng thực sự hoạt động thể lực cần

thực hiện tùy thuộc vào mục tiêu thích hợp của mỗi người.


16

- Ảnh hưởng của hoạt động thể lực: Tập thể dục nhịp điệu và đi bộ cho
thấy kết quả giảm có ý nghĩa mức cholesterol máu 20%, đường 16%. Các bài
tập rèn sức bền thường xuyên có hiệu quả giảm béo cao. Trong các loại hình
vận động thì đi bộ nhanh là phương pháp giảm béo rất tốt. Đi bộ nhanh kết
hợp với chế độ ăn uống hạn chế thức ăn có chứa nhiều calorie sẽ có tác dụng
giảm cân nhanh hơn.
- Những khuyến cáo can thiệp về hoạt động thể lực: Quy trình luyện tập
thường là đi bộ nhanh 5-7 buổi/ tuần, mỗi buổi 40-60 phút trong 4-6 tháng, rồi
sau đó chuyển sang tập luân phiên giữa đi bộ nhanh và chạy bước nhỏ để tăng
cường phát triển chức năng của hệ thống tim mạch và hô hấp. Để giảm nguy
cơ bệnh tim, giảm cholesterol, giảm nguy cơ ĐTĐ người trưởng thành cần 30
phút hoạt động vừa phải trong hầu hết và tốt nhất là tất cả những ngày trong
tuần bằng các hoạt động như đi bộ nhanh, chạy bộ, đạp xe, bơi. Thời gian tập
thể dục trong một ngày có thể chia ra mỗi lần ít nhất 15 phút hoặc 10 phút.
Nếu cần cố gắng để duy trì cân nặng và dự phòng tăng cân, cần 60 phút hoạt
động từ vừa đến mạnh hầu hết những ngày trong tuần, đồng thời chú ý lượng
calorie thu vào chỉ cần vừa đủ để duy trì cân nặng, nếu cần để giảm cân nên
cố gắng hoạt động từ 60 phút đến 90 phút và thực hiện chế độ ăn giảm
calorie. Cần chọn những hoạt động dễ thực hiện và trở thành thói quen hàng
ngày, thuận lợi thời gian để duy trì hoạt động.
- Đi bộ: Trong số các loại hình thể dục thể thao có tác dụng củng cố và
nâng cao sức khoẻ thì đi bộ nhanh có vị trí quan trọng và có tính đại chúng
cao, đặc biệt là đối với những người cao tuổi. Đi bộ có ảnh hưởng tốt lên toàn
bộ cơ thể, đặc biệt là đối với hệ thống tim mạch, hô hấp, giảm cân, chữa bệnh;
cường độ vận động phụ thuộc vào số bước chân trong 1 phút: Rất chậm, từ 60

đến 70 bước trong một phút (2,5-3km/giờ); Chậm, từ 70 đến 90 bước trong
một phút (3-4km/giờ); Nhanh, từ 120 đến 140 bước trong một phút (5,5-


17

6,5km/giờ); Rất nhanh, trên 140 bước trong một phút (trên 6,5 km/giờ). Đi bộ
với tốc độ lên đến 6,5 km/giờ thì cường độ vận động đã có thể đạt ở vùng có
hiệu quả rèn luyện (Số lượng mạch 120-130 lần/phút), và trong một giờ có thể
tiêu hao khoảng 300-400 kcal (khoảng 0,7 kcal/1kg thể trọng/trên 1km
đường). Đi bộ nhanh để củng cố và nâng cao sức khoẻ có thể áp dụng cho
những đối tượng có chống chỉ định đối với chạy, những đối tượng ở các độ
tuổi khác nhau mới bắt đầu tham gia tập luyện mà có tình trạng thể lực kém.
Cùng với sự gia tăng trình độ rèn luyện, các bài tập đi bộ sức khoẻ cần phải
được xen kẽ với tập chạy, chạy bước nhỏ.
- Chạy: là một loại hình rèn luyện phổ biến, có số lượng lớn người tham
gia, ở mọi lứa tuổi. Môn chạy là một loại hình vận động phổ cập nhất để tập
thể lực và nâng cao sức khoẻ. Trừ một số ngoại lệ, tất cả mọi người đều có thể
tập chạy, không phụ thuộc vào tuổi tác, giới tính, trình độ luyện tập. Môn
chạy rất tự nhiên và đơn giản đến mức không đòi hỏi huấn luyện kỹ thuật đặc
biệt, nhưng nó có ảnh hưởng cực kỳ tốt đối với cơ thể con người.
- Bơi: Tiêu hao năng lượng của cơ thể trong khi bơi có một loạt các đặc
điểm khác biệt. Ngay từ giây phút đầu khi người bơi xuống nước, chưa thực
hiện các động tác vận động, tiêu hao năng lượng của cơ thể đã tăng thêm 50%
so với bình thường để giữ tư thế trong nước, tiêu hao năng lượng đã tăng 2-3
lần, vì tính dẫn nhiệt của nước cao hơn của không khí 25 lần. Do lực cản và
tính chất dẫn nhiệt của nước lớn nên tiêu hao năng lượng khi bơi cao hơn
khoảng 4 lần so với đi bộ cùng tốc độ (3 kcal/kg/km; 0,7 kcal/kg/km tương
đương). Như vậy, tập bơi là một phương pháp tuyệt vời để giảm cân. Để đạt
được hiệu quả rèn luyện sức khoẻ của tập bơi, cần phải phát triển tốc độ bơi

đủ lớn để mạch đập đạt trên 130 lần/phút, tập bơi 3 buổi/tuần, mỗi buổi
khoảng 30 phút.


18

- Thể dục nhịp điệu: Để đạt được hiệu quả củng cố, nâng cao sức khoẻ
và can thiệp bệnh tật, chúng ta cần phải tham gia tập luyện thường xuyên, tối
thiểu tuần hai lần và mỗi lần 30 phút với cường độ cao, phù hợp với lứa tuổi
của mình, với yêu cầu có không dưới 2/3 số cơ của cơ thể tham gia vào quá
trình vận động.
- Lựa chọn hoạt động để thực hiện thành công một chương trình rèn
luyện cần lựa chọn một hoạt động hoặc những hoạt động phù hợp cho bản
thân, thuận lợi về thời gian và những lợi ích gì sẽ thu được từ hoạt động.
4.1.1.3.

Tác động vào lối sống thông qua thực hiện chế độ ăn, uống hợp lý

- Chế độ ăn: nên thực hiện chế độ ăn nhiều rau, trái cây, cá, thịt gia cầm
và ngũ cốc, làm giảm nguy cơ ĐTĐ týp 2. Số lượng lẫn chất lượng của chất
béo đều ảnh hưởng đến chuyển hóa glucose và sự nhạy cảm insulin. Thức ăn
có nhiều chất béo gây rối loạn chuyển hóa glucose bằng nhiều cơ chế khác
nhau như giảm khả năng gắn insulin vào thụ thể, gây rối loạn vận chuyển
glucose, giảm tổng hợp glycogen và tích tụ triglyceride ở cơ vân.
- Một số nghiên cứu cho thấy ăn nhiều carbohydrate làm tăng tần suất
mắc ĐTĐ. Đặc biệt có rất nhiều nghiên cứu chứng tỏ ăn nhiều carbohydrate
làm giảm HDL. Sự sản xuất insulin được kích thích liên tục bởi chế độ ăn
nhiều carbohydrate và sẽ dẫn đến làm giảm khả năng tiết insulin gây ra ĐTĐ
týp 2 khởi phát sớm. Có tác giả cho rằng đường cho vào thức ăn hay thức
uống đều có hại cho sức khỏe kể cả đường trắng hay đường nâu, mật ong, hay

syro có đường fructose cao, hoặc bất cứ loại nào thêm đường.
- Rượu bia: Lượng lớn alcohol tiêu thụ làm giảm hấp thụ glucose qua
trung gian insulin có lẽ do tác dụng độc của rượu trực tiếp lên tế bào đảo tụy
hay ức chế sự tiết insulin và tăng đề kháng insulin. Hơn nữa, dùng nhiều
alcohol làm tăng BMI và nguy cơ khác của ĐTĐ trong khi uống rượu ít hoặc
vừa làm giảm các nguy cơ này. Lượng rượu vừa phải có thể được xác định


19

bằng hoặc không nhiều hơn 1 cốc / ngày đối với phụ nữ và không nhiều hơn 2
cốc/ngày đối với đàn ông. Một đơn vị tương đương 1 lon bằng bia hoặc 1 ly
rượu vang hoặc 1 chén rượu mạnh như whisky.
4.1.1.4.

Can thiệp bằng thuốc

Mặc dù thay đổi lối sống có hiệu quả cao để phòng ngừa TĐTĐ - ĐTĐ týp
2 đã được chứng minh có hiệu quả nhưng các nghiên cứu không ngừng tìm kiếm
các thuốc mới có hiệu quả hơn để phòng chống ĐTĐ. Vào thập niên 80, thuốc
được sử dụng Sulphonylurea, Tolbutamide cho những người có rối loạn dung
nạp glucose. Những năm gần đây Metformin, thuốc ức chế glucosidase là
Acarbose, chất ức chế lipase dạ dày ruột là Orlistat và Thiazolidinediones
(TZDs) được nghiên cứu dự phòng ĐTĐ ở người tiền ĐTĐ.
Các can thiệp bằng thay đổi lối sống thường có hiệu quả làm giảm >50%
tỷ lệ mắc mới ĐTĐ. Các thuốc có thể dự phòng ĐTĐ ở người tiền ĐTĐ bao
gôm:
- Metformin: Được sử dụng trong nghiên cứu phòng chống ĐTĐ Mỹ DPP, kèm theo thực hiện thay đổi lối sống. Các đối tượng được uống 850 mg
hai lần mỗi ngày, liều khởi đầu 1 viên/ngày, sau một tháng tăng lên 2
viên/ngày [11].

- Troglitazone: cũng được sử dụng trong nghiên cứu DPP, đối tượng
nghiên cứu được uống 400 mg Troglitazon mỗi ngày, tuy nhiên sau 2 năm thì
phải dừng lại do phát hiện thuốc này độc với gan và có liên quan đến một số
trường hợp tử vong trong thời giant ham gia nghiên cứu [11], [12].
- Acarbose: được sử dụng trong nghiên cứu STOP – NIDDM, 1429 đối
tượng đưa vào nghiên cứu được cho uống thuốc ức chế men alpha glucosidase
(Acarbose) hoặc giả dược. Kết quả nghiên cứu giảm được 25% nguy cơ mắc
mới ĐTĐ ở nhóm sử dụng acarbose so với nhóm chứng [12].


20

- Thiazolidinedione: được sử dụng trong nghiên cứu TRIPOD nghiên
cứu can thiệp trên 236 phụ nữ tuổi trung bình 55 tuổi, có tiền sử đái tháo
đường thai kỳ có nguy cơ mắc bệnh ĐTĐ týp 2, được theo dõi sau 2,5 năm
cho thấy kết quả tỷ lệ mắc ĐTĐ của nhóm được can thiệp bằng thuốc là
12,1% so với nhóm giả dược là 5,4% [12].
- Các thuốc khác: một vài nghiên cứu can thiệp, theo dõi về bệnh tim
mạch theo dõi chỉ ra rằng các thuốc ức chế men chuyển cũng có tác dụng dự
phòng bệnh ĐTĐ týp 2 như: nghiên cứu HOPE (Heart Outcome Protection
Evaluation) cho thấy giảm 34% tỷ lệ mắc mới ĐTĐ ở nhóm có sử dụng
Ramidin so với nhóm giả dược, hoặc nghiên cứu LIFE (Losartan Intervention
For endpoint Reduction in Hypertention) cũng cho thấy giảm tỷ lệ mắc mới
ĐTĐ ở nhóm sử dụng Losartan so với nhóm giả được. Tuy nhiên cả hai
nghiên cứu này đều không được thiết kế để đánh giá tình trạng ĐTĐ khi kết
thúc nghiên cứu nên số liệu chỉ biết được do bệnh nhân cung cấp hoặc duy
nhất chỉ số đường máu lúc đói ≥ 7 mmol/l [12].
4.2. Một số nghiên cứu can thiệp phòng chống ĐTĐ trên thế giới
Chuyên đề được hình thành qua sự tham khảo các nghiên cứu can thiệp
dự phòng hoặc làm chậm quá trình phát triển thành bệnh đái tháo đường týp 2

hoặc các can thiệp thay đổi, điều chỉnh các yếu tố nguy cơ bằng phương pháp
tiếp cận yếu tố nguy cơ và / hoặc tiếp cận cộng đồng.
Trong quá trình tìm hiểu chuyên đề này chúng tôi đã tìm thấy nhiều bài
báo công bố các kết quả nghiên cứu can thiệp phòng chống ĐTĐ ở nhiều
quốc gia trên thế giới, các bài báo được lựa chọn thường có số lượng trích dẫn
lớn. Ở bài chuyên đề này chúng tôi chủ yếu trình bày một số nghiên cứu lớn,
các bài báo được công bố ở một số tạp chí có uy tín quốc tế từ năm 1990 đến
2014 như The New England Journal of Medicine, Diabetes Care, the Lancet,


21

The Journal of General Internal Medicine, Diabetic Medicine, Clinical
Science và một số công trình tại Việt Nam đã được xuất bản dưới dạng sách
chuyên khảo hoặc đã được công bố trên các tạp chí trong nước. Kết quả cho
thấy các nghiên cứu sử dụng nhiều cách thức can thiệp khác nhau, ở mỗi
nghiên cứu chúng tôi sẽ mô tả tóm tắt phương pháp nghiên cứu, cách thức
tiếp cận, và kết quả chính của các phương pháp can thiệp, những ưu nhược
điểm hoặc khuyến cáo.
Các nghiên cứu can thiệp lối sống thường theo hướng tiếp cận khuyến
khích các đối tượng tham gia tuân thủ chế độ dinh dưỡng nhằm làm giảm cân
nặng đối với các đối tượng thừa cân béo phì, và tăng cường hoạt động thể lực.
4.2.1. Nghiên cứu Daqing Trung Quốc
Nghiên cứu Daqing được thực hiện tại thành phố DaQing Trung Quốc.
DaQing là thành phố khai thác dầu mỏ với tốc độ gia tăng dân số và đô thị hóa
nhanh chóng. Chỉ trong vòng 20 năm dân số đã tăng từ 280.000 lên 2,7 triệu
người. Nghiên cứu bắt đầu từ năm 1985 và kéo dài trong thời gian 14 năm.
Tổng số 110.660 người trưởng thành từ 25-75 tuổi được sàng lọc, tìm ra
được 630 người ĐTĐ, 577 người có rối loạn dung nạp glucose. Các đối tượng
tiền ĐTĐ được lựa chọn ngẫu nhiên vào thử nghiệm lâm sàng thuộc nhóm

chứng hoặc một trong 3 nhóm điều trị tích cực: nhóm chỉ can thiệp bằng chế
độ dinh dưỡng (130 đối tượng), hoặc chỉ can thiệp bằng chế độ luyện tập thể dục
(141 đối tượng), hoặc là chế độ ăn cộng với luyện tập thể dục (126 đối tượng), số
đối tượng nhóm chứng (133 đối tượng). Quá trình can thiệp, theo dõi được thực
hiện trên lâm sàng tại các phòng khám và được thực hiện như sau:
Nhóm chỉ thực hiện chế độ ăn: Những đối tượng có BMI<25 kg/m2
được kê đơn chế độ dinh dưỡng 25-30 kcal/kg trọng lượng cơ thể, tỷ lệ
đường, đạm, mỡ cân đối. Các đối tượng được chuyến khích tăng cường ăn rau
xanh, hạn chế alcohol, giảm ăn các loại đường. Các đối tượng có BMI ≥ 25


22

kg/m2 được khuyến khích ăn giảm lượng ca lo ri để làm giảm cân nặng từ từ
với tốc độ giảm cân 0,5-1,0 kg mỗi tháng cho đến khi đạt chỉ số BMI là 23
kg/m2. Các đối tượng được cung cấp bảng thực đơn tính sẵn để thực hiện
hoặc bảng thực phẩm tương đương thay thế. Các đối tượng được các bác sĩ tư
vấn theo từng nhóm nhỏ mỗi tuần 1 lần trong thời gian 1 tháng, tiếp theo 1
tháng một lần trong thời gian 3 tháng, sau đó cứ 3 tháng 1 lần.
Nhóm chỉ thực hiện luyện tập: Các đối tượng được hướng dẫn và khuyến
khích thực hiện luyện tập thể dục với cường độ khác nhau tùy thuộc vào độ
tuổi và có hoặc không có bệnh lý tim mạch hoặc về khớp. Quá trình theo dõi
và tư vấn cũng được thực hiện về thời gian giống nhóm thực hiện chế độ ăn.
Nhóm kết hợp chế độ ăn và luyện tập: thực hiện kết hợp chế độ ăn và
luyện tập cũng như lịch trình tư vấn và theo dõi tương tự như cả 2 nhóm trên.
Nhóm chứng: chỉ được cung cấp kiến thức chung về tiền ĐTĐ và phòng
chống ĐTĐ.
Các can thiệp viên bao gồm bác sĩ, y tá, cộng tác viên đều được tập huấn
2 ngày/ năm về các kỹ năng can thiệp phòng chống ĐTĐ. Kết quả can thiệp
được thực hiện đánh giá vào năm thứ 6 như sau: trong số 577 người được đưa

vào nghiên cứu có 530 đối tượng kết thúc nghiên cứu, 7 người từ chối tiếp tục
tham gia, 29 người bỏ cuộc chủ yếu do chuyển chỗ ở, 11 người chết.


23

Biểu đồ 4: So sánh tỷ lệ mắc ĐTĐ giữa các nhóm nghiên cứu trong
nghiên cứu DaQing
* Nguồn: theo Pan XR và cs (1997); Diabetes Care. 20(4): 537-544 [15]
Tỷ lệ mắc mới ĐTĐ tích lũy trong 6 năm ở nhóm chứng là
67,7% (95% CI, 59,8-75,2), so với nhóm chỉ can thiệp chế độ ăn là 43.8%
(95% CI, 35.5-52.3), nhóm chỉ can thiệp chế độ luyện tập thể dục là 41.1%
(95% CI, 33.4-49.4), và nhóm thực hiện kết hợp chế độ ăn và luyện tập là
46.0% (95% CI, 37.3-54.7), với (P < 0.05). Có sự khác nhau về tỷ lệ mắc mới
ĐTĐ giữa nhóm chứng và các nhóm can thiệp tích cực, p<0,05. Như vậy sau
6 năm thiệp dự phòng đã giảm nguy cơ tiến triển thành ĐTĐ týp 2 ở cả 3
nhóm lần lượt là 31%, 46% và 42% [15].
Cho đến nay người ta vân cho rằng nghiên cứu DaQing là nghiên cứu
kinh điển và bài bản nhất về phòng chống ĐTĐ. Hiệu quả lâu dài của can
thiệp lối sống làm giảm nguy cơ phát triển thành bệnh ĐTĐ týp 2 đã được


24

nghiên cứu này chứng minh và được kiểm chứng bởi một số nghiên cứu sau
này như: Nghiên cứu phòng ngừa đái tháo đường Phần Lan (2001), Chương
trình nghiên cứu phòng chống đái tháo đường Mỹ (2002); Nghiên cứu ở Nhật
Bản (2005), Nghiên cứu ở Ấn độ (2006).
4.2.2. Chương trình nghiên cứu phòng chống ĐTĐ Mỹ
Can thiệp phòng chống đái tháo đường có thể theo nhiều cách khác

nhau, tùy từng nghiên cứu người ta có thể can thiệp vào một hay nhiều yếu tố
nguy cơ, dùng thuốc hoặc chỉ sử dụng biện pháp can thiệp lối sống.
Từ năm 1996, một chương trình nghiên cứu phòng chống đái tháo
đường của Trường Đại học George Washington ở bệnh nhân có rối loạn dung
nạp glucose (The Diabetes Prevention Program - DPP) được Viện Sức khỏe
Mỹ tài trợ được tiến hành ở 27 trung tâm khác nhau trên toàn nước mỹ. Đây
là một chương trình thử nghiệm phòng chống đái tháo đường lớn nhất, rộng
nhất trên nhiều khía cạnh, nhiều cách can thiệp khác nhau được công bố cho
đến nay. Hơn 3.800 đối tượng suy giảm dung nạp glucose có tuổi trên 25, chỉ
số BMI ≥ 24 (đối tượng thuộc chủng tộc Châu Á có thể lấy BMI≥22); mức
đường máu lúc đói từ 5,3-6,9 mmol/l, đường máu sau nghiệm pháp từ 7,8 đên
11,0 mmol/l. Các đối tượng được lựa chọn ngẫu nhiên chia là 4 nhóm thử
nghiệm đó gồm nhóm can thiệp tích cực hoặc nhóm can thiệp truyền thống
kết hợp với một trong các thuốc sau: giả dược, metformin (850 mg hai lần
mỗi ngày, liều khởi đầu 1 viên/ngày, sau một tháng tăng lên 2 viên/ngày
Treatment with metformin was initiated at a dose of 850 mg, hoặc
troglitazone (400 mg mỗi ngày). Các đối tượng tham gia được khuyến khích
thực hiện chế độ ăn theo Tháp thực phẩm, tương đương chương trình giáo dục
Cholesterol Quốc gia Mỹ, chế độ ăn bước 1.


25

Tỷ
lệ
mắ
c
mới
tích
lũy

ĐT
Đ
(%)

Năm theo dõi

Biểu đồ 5: So sánh tỷ lệ mắc ĐTĐ tích lũy giữa các phương pháp can thiệp ở
nghiên cứu DPP
* Nguồn: theo Knowler WC (2002); N Engl J Med. 346(6): 393403 [11]
Mục tiêu can thiệp lối sống cho các đối tượng tham gia cần đạt được
giảm 7% cân nặng thông qua chế độ ăn giảm lượng calo, giảm chất béo, tăng
cường hoạt động thể lực ở mức độ trung bình ít nhất 150 phút/tuần. Các đối
tượng được tham gia 16 bài học trong 24 tuần đầu về chế độ dinh dưỡng,
luyện tập thể dục và thay đổi lối sống để đạt được mục tiêu.


×