Tải bản đầy đủ (.docx) (73 trang)

ẢNH HƯỞNG của THỜI GIAN TIẾP xúc GIỮA HUYẾT THANH với cục máu ĐÔNG và sự KHÁC NHAU của VIỆC sử DỤNG HUYẾT THANH, HUYẾT TƯƠNG CHỐNG ĐÔNG BẰNG HEPARIN LIÊN QUAN đến các CHỈ số xét NGHIỆM hóa SINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (605.33 KB, 73 trang )

B GIO DC V O TO

B Y T

TRNG I HC Y H NI

KIU TH HIấN

ảnh hởng của thời gian tiếp xúc giữa huyết thanh
với cục máu đông và sự khác nhau của việc sử
dụng
huyết thanh, huyết tơng chống đông bằng
heparin
liên quan đến các chỉ số xét nghiệm hóa sinh
KHểA LUN TT NGHIP C NHN Y KHOA
KHểA 2012 -2016
Ngi hng dn khoa hc:
1.
2.

TS. O HUYN QUYấN
PGS.TS. PHM THIN NGC


HÀ NỘI - 2016
LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên em xin gửi lời cảm ơn tới Ban giám hiệu, phòng Quản lý
đào tạo Đại học - Trường Đại học Y Hà Nội, bộ môn Hóa Sinh trường Đại
học Y Hà Nội đã tạo điều kiện để em thực hiện khóa luận tốt nghiệp này.
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất đến TS. BS.Đào
Huyền Quyên, PGS. TS Phạm Thiện Ngọc, những người thầy đã trực tiếp


hướng dẫn, dìu dắt, chỉ bảo cho em những ý kiến quý báu trong quá trình
thực hiện và hoàn thành khóa luận tốt nghiệp.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô, anh chị trong khoa Hóa Sinh Bệnh viện Bạch Mai,phòng xét nghiệm khoa Khám chữa bệnh theo yêu cầu
Bệnh viện Bạch Mai, đã luôn tạo điều kiện thuận lợi, tận tình giúp đỡ cho em
trong suốt thời gian làm khóa luận.
Cuối cùng em xin bày tỏ lòng biết ơn tới cha mẹ, cùng với những người
thân trong gia đình, bè bạn đã chia sẻ động viên giúp đỡ em trong suốt thời
gian học tập.
Hà Nội, tháng 5 năm 2016
Sinh viên
Kiều Thị Hiên


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đã tham gia nghiên cứu và hoàn thành khóa luận này một
cách nghiêm túc.
Các số liệu của bài khóa luận được lấy trung thực, chính xác và kết quả chưa
được công bố bởi bất kỳ tác giả nào. Các bài trích dẫn đều được lấy từ các tài
liệu đã được công nhận. Nếu có gì sai sót, tôi xin hoàn toàn chịu tránh nhiệm.
Hà Nội, tháng 5 năm 2015
Sinh viên

Kiều Thị Hiên


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
A. Uric

: Axit Uric


Cholesterol.T

: Cholesterol toàn phần

CK

: Creatin Kinase

EDTA

: Ethylen diamin tetraacetic acid

GOT

: Glutamate oxaloacetate transaminase

HT

: Huyết thanh

HTg

: Huyết tương

NaF

: Natri fluoride

NCCLS


: National committee for clinical laboratory standards

Protein.T

: Protein toàn phần


MỤC LỤC

PHỤ LỤC


DANH MỤC BẢNG


DANH MỤC BIỂU ĐỒ


DANH MỤC HÌNH, SƠ ĐỒ


9

ĐẶT VẤN ĐỀ
Xét nghiệm hóa sinh đóng một vai trò quan trọng trong lâm sàng y học,
góp phần không nhỏ trong việc chẩn đoán sớm, chính xác, định hướng cho
điều trị tiên lượng và theo dõi bệnh tật. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng, mặc
dù xét nghiệm chỉ chiếm 5% chi phí y tế nhưng 60-70% các quyết định lâm
sàng là dựa trên kết quả xét nghiệm và kết quả xét nghiệm quyết định loại
hình điều trị cho bệnh nhân [1]. Do đó chất lượng xét nghiệm gắn liền với

chất lượng chẩn đoán, điều trị, tiên lượng và chăm sóc sức khỏe bệnh nhân.
Kết quả xét nghiệm đạt độ tin cậy cao phụ thuộc vào các yếu tố trong cả ba giai
đoạn trước, trong và sau xét nghiệm. Trong đó, sai số ở giai đoạn trước xét
nghiệm là đáng kể nhất, chiếm 60-70% [2] sai số cả quá trình. Các yếu tố tác
động đến kết quả xét nghiệm hóa sinh ở giai đoạn trước xét nghiệm bao gồm:
thủ tục hành chính, viêc lấy mẫu và sử lý mẫu, thời gian lấy mẫu, sử dụng các
loại chất chống đông, thời gian bảo quản vận chuyển mẫu, thời gian tiến hành….
Trong đó thời gian tiếp xúc kéo dài giữa huyết thanh với cục máu đông và việc
sử dụng các loại chất chống đông khác nhau dùng trong xét nghiệm có thể gây ra
những biến đổi ảnh hưởng đến kết quả xét nghiệm hóa sinh.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường và sự phát triển của
khoa học công nghệ hiện đại thì nhu cầu về dịch vụ chăm sóc sức khỏe của
người dân ngày càng tăng cao, các dịch vụ như khám bệnh và xét nghiệm tại
nhà, tận nơi … ngày càng phổ biến. Tuy nhiên, trong những buổi đi lấy mẫu
xét nghiệm ở xa thời gian vận chuyển mẫu máu từ nơi lấy mẫu về phòng xét
nghiệm, hay từ các cơ sở y tế không có đầy đủ máy móc trang thiết bị làm xét
nghiệm lên các cơ sở y tế tuyến trên đôi khi mất một khoảng thời gian dài.
Theo NCCLS [3] khuyến cáo: sau khi lấy máu làm xét nghiệm, huyết thanh
và huyết tương nên được tách biệt tránh tiếp xúc với tế bào máu càng sớm


10

càng tốt, muộn nhất là trước 2 giờ sau khi lấy máu. Tuy nhiên mỗi chất phân
tích lại bị ảnh hưởng khác nhau bởi thời gian tiếp xúc kéo dài giữa huyết
thanh, huyết tương với các tế bào máu. Nhiều chất phân tích có thể ổn định
lâu hơn 2 giờ. Nếu yêu cầu vận chuyển quá khắt khe được đặt ra đối với tất cả
các chất phân tích hóa sinh thì nhiều khi những mẫu chấp nhận được sẽ bị loại
bỏ một cách không cần thiết. Vậy để đánh giá ảnh hưởng của một số yếu tố
tới kết quả xét nghiệm hóa sinh nhằm giảm sai số nâng cao chất lượng xét

nghiệm chúng tôi tiến hành nghiên cứu: “Ảnh hưởng của thời gian tiếp xúc
giữa huyết thanh với cục máu đông và sự khác nhau của việc sử dụng
huyết thanh, huyết tương chống đông bằng heparin liên quan đến các chỉ
số xét nghiệm hóa sinh” với 2 mục tiêu sau:
1.

Đánh giá sự thay đổi của một số chỉ số xét nghiệm hóa sinh : Glucose,
Creatinin, Albumin, Protein toàn phần, Cholesterol toàn phần, CK,
Amylase, GOT, Natri, Kali, Clo, khi tiếp xúc kéo dài giữa huyết thanh với

2.

cục máu đông.
So sánh sự khác nhau của một số chỉ số xét nghiệm hóa sinh : Glucose,
Creatinin, Albumin, Protein toàn phần, Clolesterol toàn phần, CK,
Amylase, GOT, Natri, Kali, Clo khi sử dụng huyết thanh và khi sử dụng
huyết tương ở ống chống đông bằng Heparin.


11

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN
1.1 Tổng quan về cơ chế đông – cầm máu
Đông – cầm máu là biểu hiện của quá trình sinh lý và sinh hóa, là sự
thay đổi tình trạng vật lý của máu do sự biến chuyển của protein hòa tan thành
dạng gel rắn (sợi huyết). Sự biến chuyển này nhằm mục đích cuối cùng là hạn
chế sự mất máu ở nới có tổn thương thành mạch. Quá trình đông - cầm máu
còn có sự tham gia toàn vẹn của mạch máu và tình trạng lỏng của máu .
Quá trình đông – cầm máu là sự tác động lẫn nhau giữa ba thành phần

cơ bản: thành mạch máu, tế bào máu và các protein huyết tương dưới hình
thức các phản ứng enzym.
1.1.1 Những yếu tố tham gia hoạt hóa quá trình đông – cầm máu [4].


Nội mạc và dưới nội mạc huyết quản
Khi có tổn thương thành mạch, lớp dưới nội mạc tiếp xúc với máu sẽ

hoạt hóa tiểu cầu và các yếu tố tiếp xúc.


Tiểu cầu
Chức năng chính của tiểu cầu là làm bền vững mạch máu, tạo nút cầm

máu ban đầu và tham gia vào quá trình đông máu huyết tương. Tiểu cầu thực
hiện những chức năng này nhờ các đặc tính sau:






Chức năng bám dính.
Chức năng ngưng tập tiểu cầu.
Chức năng phóng thích các chất từ tiểu cầu.
Các yếu tố đông máu huyết tương
Tên gọi của 12 yếu tố đông máu đã được xác định và ký hiệu bằng chữ số
La mã, hai yếu tố mới được xác định gần đây không mang chữ số La mã.



12



Các yếu tố đông máu đều là những glycoprotein, về phương diện chức
năng chúng thuộc những nhóm khác nhau tùy theo chúng là zymogen,
đồng yếu tố hoặc chỉ là cơ chất như fibrinogen.
Bảng 1.1. Các yếu tố đông máu huyết tương

Tên gọi cũ
I
II
III
IV
V
VII
VIII
IX
X
XI
XII
XIII

Tên gọi hiện nay
Fibrinogen
Prothrombin
Yếu tố tổ chức, thrombin
Ion calci (hiện nay không xếp vào yếu tố đông máu)
Proaccelerin, Plasma accelerator globulin
Proconvertin

Yếu tố chống hemophilia A
Yếu tố chống hemophilia B, yếu tố Christmas
Yếu tố Stuart
Yếu tố chống hemophiliac, Plasma thromboplastin antecedent
Yếu tố Hageman,yếu tố tiếp xúc
Yếu tố ổn định sợi huyết
Prekallikrein
Kininogen trọng lượng phân tử lớn

Các nhóm yếu tố:


Các yếu tố tiếp xúc gồm bốn yếu tố tham gia vào giai đoạn đầu - giai
đoạn do tiếp xúc đó là: yếu tố XI, XII, Prekallikrein, Kinninogen có đặc
tính không phụ thuộc vào vitamin K khi tổng hợp, không phụ thuộc vào
Ca2+ trong quá trình hoạt hóa, ổn định tốt trong huyết tương lưu trữ và



là những yếu tố bền vững.
Nhóm prothrombin gồm những yếu tố II, VII, IX, X. Đây là các yếu tố
phụ thuộc vitamin K khi tổng hợp cần có ion Ca 2+ trong quá trình hoạt
hóa. Trừ yếu tố II, các yếu tố còn lại không bị tiêu thụ trong quá trình



đông máu (có mặt trong huyết thanh), ổn định trong huyết tương lưu trữ.
Nhóm fibrinogen gồm các yếu tố I, V, VIII, XIII. Thrombin có tác dụng
qua lại với tất cả các yếu tố này. Các yếu tố bị tiêu thụ trong quá trình
đông máu (không có mặt trong huyết thanh), yếu tố V và VIII mất hoạt



13



tính trong huyết tương lưu trữ.
Yếu tố tổ chức
Sự tiếp xúc của máu với tổ chức dập nát sẽ phát động quá trình đông

máu, khởi phát do một lipoprotein gọi là yếu tố tổ chức hay thromboplastin
ngoại sinh. Các phần lipid và protein của yếu tố tổ chức đều cần thiết cho
đông máu nhưng tính đặc hiệu nằm trên phần protein.
Yếu tố tổ chức không có hoạt tính enzym nhưng tác động như một đồng
yếu tố trong hoạt hóa yếu tố VII, X.


Ion calci
Ion calci tạo thuận lợi cho các protein phụ thuộc vitamin K kết hợp với

Phospholipid. Nhưng ion này cũng can thiệp vào các phản ứng không có liên
quan đến protein phụ thuộc vitamin K và cũng cần thiết cho sự thể hiện hoạt
tính enzyme của yếu tố XIIIa, cho sự ổn định yếu tố V và phức hệ yếu tố VonWillebrand và yếu tố VIII: C.
1.1.2 Các giai đoạn của cơ chế đông cầm máu [4]







Giai đoạn cầm máu ban đầu
Đông máu huyết tương
Tiêu sợi huyết
Giai đoạn cầm máu ban đầu
Khi thành mạch bị tổn thương, lớp dưới nội mạc bị bộc lộ và tiểu cầu
dính vào lớp dưới nội mạc với sự có mặt của yếu tố von-Willebrand và



yếu tố tiểu cầu GPIb.
Tiểu cầu dính vào tổ chức dưới nội mạc và giải phóng ra các sản phẩm
ADP, serotonin, epinephrine và các dẫn xuất của prostaglandin, đặc biệt
là thromboxam A2. Một số sản phẩm này thúc đẩy quá trình ngưng tập
tiểu cầu.



Các tiểu cầu dính vào với nhau, kết quả hình thành nút tiểu cầu mà bắt
đầu từ sự kết dính tiểu cầu vào lớp dưới nội mạc. Nút tiểu cầu nhanh


14

chóng lớn lên về mặt thể tích và sau một vài phút hoàn thành nút chỗ


mạch máu bị tổn thương.
Đây là quá trình phức tạp với phản ứng co mạch, kết dính tiểu cầu,
phản ứng giải phóng, ngưng tập tiểu cầu và làm hoạt hóa quá trình




đông máu.
Yếu tố 3 tiểu cầu là một phospholipid bề mặt được bộc lộ khi nút tiểu
cầu hình thành và tham gia thúc đẩy quá trình đông máu. Nút tiểu cầu
ban đầu chỉ đảm bảo cầm máu tạm thời ở những mạch máu nhỏ. Để
cầm máu ở những mạch máu lớn bị tổn thương cần phải có sự hình
thành cục đông qua từng bước của quá trình đông máu với sự tham gia
của yếu tố đông máu huyết tương.


15

Thành mạch bị tổn thương
Tiểu cầu
Dính vào collagen (lớp dưới nội mạc)
ADP, Ca2+, Mg2+…
Kết dính có hồi phục

yếu tố tiểu cầu

Thrombin TC
Kết dính không hồi phục
Thrombin huyết tương
Đinh cầm máu
Sơ đồ 1.1 Giai đoạn cầm máu ban đầu


Giai đoạn đông máu huyết tương
Sự hoạt hóa quá trình đông máu huyết tương có thể phát động bằng con


đường đông máu nội sinh do sự tiếp xúc của máu với bề mặt mang điện tích
âm (cấu trúc dưới nội mạc huyết quản in vivo, thủy tinh hoăc kaolin in vitro),
hoặc bằng đường ngoại sinh do sự can thiệp của yếu tố tổ chức. Cả hai con
đường đều dẫn đến hoạt hóa yếu tố X thành Xa là yếu tố tác động biến
prothrombin thành thrombin – một enzyme xúc tác chuyển fibrinogen thành
fibrin. Yếu tố XIII có nhiệm vụ ổn định fibrin mới được tạo thành. Các sợi
fibrin tạo thành dạng lưới chứa các đám dính tiểu cầu ở chỗ tổn thương, nút
tiểu cầu ban đầu không bền vững thành vững chắc và cuối cùng là cục máu ổn
định có đủ khả năng cầm máu.
Cả dòng thác các phản ứng enzyme với sự có mặt các yếu tố đông máu
xảy ra ở chỗ tổn thương. Trừ fibrinogen, các yếu tố đông máu khác là những


16

tiền enzyme hoặc đồng yếu tố. Tất cả các enzym, trừ yếu tố XIII đều là các
serin protease tức là các chất có khả năng thủy phân dây peptid. Đây là hệ
thống hoạt động mạnh: chỉ cần một phân tử gam yếu tố XI hoạt hóa, có thể
liên tục hoạt hóa yếu tố IX, X và prothrombin để đi đến hình thành 2×10 8
phân tử gam fibrin.
Quá trình đông máu huyết tương có thể chia thành 3 thời kỳ:


Hình thành thromboplastin hoạt hóa (phức hợp prothrombinase) bằng




hai con đường nội sinh và ngoại sinh.

Hình thành thrombin.
Hình thành fibrin.


a.

Hình thành thromboplastin hoạt hóa
Theo đường nội sinh
Năm protein gồm yếu tố XII, prekallikrein, yếu tố XI, kininogen trọng

lượng phân tử cao (H.M.W.K) và chất ức chế CI là những yếu tố quyết định
chính quá trình hoạt hóa và ức chế giai đoạn tiếp xúc đông máu.
Thành mạch bị tổn thương sẽ kích thích hoạt hóa bốn yếu tố nhóm tiếp
xúc XII, XI, prekallikrein, H.M.W.K làm hoạt hóa yếu tố IX. Sự hoạt hóa yếu
tố X được thực hiện với sự tham gia của một phức hợp bao gồm enzyme (yếu
tố IXa), một đồng yếu tố (yếu tố VIII: C), ion Ca 2+ và phospholipid của tiểu
cầu, và cuối cùng là sự hình thành thromboplastin (prothrombinase).
Yếu tố IXa không chỉ giới hạn tác dụng enzym trên yếu tố X, mà còn có
khả năng hoạt hóa yếu tố VII tạo nên mối liên hệ giữa đường nội sinh và
ngoại sinh.
b.

Theo đường ngoại sinh

Yếu tố tổ chức (các lipoprotein từ tổ chức bị tổn thương) hoạt hóa yếu tố
VII. Yếu tố này trực tiếp hoạt hóa yếu tố X.


17


Tổ chức tổn thương, các chất hoạt hóa của tổ chức hoạt hóa đông máu đi
đến hình thành fibrin sẽ thúc đẩy nhanh con đường nội sinh bằng sự hoạt hóa
đồng yếu tố VIII và V.


Hình thành thrombin
Thromboplastin hoạt hóa (phức hợp prothrombinase) nội sinh và ngoại

sinh tác động chuyển prothrombin thành thrombin.
Thrombin đóng vai trò quan trọng trong các phản ứng của quá trình đông
máu, ảnh hưởng đến cơ chất và can thiệp vào nhiều khâu, chủ yếu là chìa
khóa của sự hình thành fibrin:


Thrombin chuyển fibrinogen thành fibrin, hoạt hóa yếu tố XIII làm ổn



định sợi huyết và tự làm tăng tốc độ hình thành chính thrombin.
Thrombin hoạt hóa yếu tố VIII: C và yếu tố VIII làm gia tăng tốc độ hình
thành yếu tố Xa bằng cả hai con đường nội sinh và ngoại sinh, đồng thời
hoạt hóa yếu tố V làm tăng hoạt hóa prothrombin bởi yếu tố Xa.



Thrombin tác động lên tế bào như chất kích tập tiểu cầu mạnh nhất
bằng cách cố định lên và hoạt hóa tế bào. Bị tác động, tế bào nội mạc
tăng sản xuất ra prostacyclin có tác dụng ức chế hoạt hóa plasminogen.
Thrombin cũng cố định lên nguyên bào xơ (fibroblast) và kích thích tế
bào này tăng sinh.




Hình thành fibrin
Thrombin tác động thủy phân fibrinogen thành fibrinopeptid A và B

(dạng fibrin monomer). Với sự thay đổi về điện tích và sự xuất hiện các lực
hút tĩnh điện, fibrin monome trùng hợp thành fibrin polymer.
Yếu tố XIII được hoạt hóa bởi thrombin và có ion Ca 2+ đã làm ổn định
Fibrin polymer. Fibrin được ổn định có đặc tính cầm máu có nghĩa là có khả
năng bịt kín vết thương ở thành mạch làm ngưng chảy máu. Cục sợi huyết là
những khối gel hóa được tạo thành bởi lưới Fibrin đường kính khoảng 1
micromet. Mạng lưới này bao bọc hồng cầu, bạch cầu và nhất là tiểu cầu.


18

Hình1.1. Quá trình đông máu huyết tương


Giai đoạn tiêu sợi huyết
Mục đích cơ bản của quá trình tiêu sợi huyết là làm tan fibrin và trả lại

sự thông thoáng cho mạch máu. Tiêu sợi huyết là phản ứng bình thường khi
thành mạch bị tổn thương Plasminogen là một β globulin ở dạng tiền enzym
trong máu và dịch tổ chức, được chuyển thành dạng enzyme tiêu protein là
plasmin, từ đó đươc phóng thích từ thành mạch (hoạt hóa nội sinh) hoặc tổ
chức (hoạt hóa ngoại sinh). Hoạt hóa quá trình tiêu sợi huyết phần lớn là theo
sự giải phóng chất hoạt hóa plasminogen từ tổ chức (tPA) từ tế bào nội mạc.
Plasmin có hoạt tính rộng hơn cả thrombin: có thể tiêu fibrinogen,

Fibrin, yếu tố V, VIII và nhiều protein khác. Chất hoạt hóa plasminogen tổ


19

chức bị ức chế bởi PAI 1, plasmin trong tuần hoàn bị ức chế bởi α2
antiplasmin và α2 macroglobulin.
1.1.3 Các chất ức chế đông máu sinh lý [4].
Sự tương tác của tiểu cầu và các yếu tố đông máu nhằm mục đích ngừng
chảy máu ở vết thương thành mạch nhưng lại có thể gây ra tắc mạch. Quá
trình đông máu không cần thiết ở tuần hoàn được ngăn ngừa bằng một hệ
thống tự vệ: (1) Các yếu tố đông máu được hoạt hóa tại chỗ sẽ bị pha loãng và
bị thải trừ qua gan, (2) Có những chất ức chế đông máu huyết tương bằng
cách bất hoạt các yếu tố đã được hoạt hóa hoặc làm thoái hóa một số đồng
yếu tố của các phản ứng enzyme. Vai trò của gan trong việc chống tắc mạch
chưa rõ ràng nhưng tầm quan trọng của một số chất ức chế sinh lý trong vấn
đề này không thể phủ nhận. Nếu thiếu hụt một trong những chất đó có thể gây
ra hiện tượng tắc mạch.
Chất ức chế đông máu được chia làm hai nhóm tùy theo cách thức
hoạt động.
Nhóm thứ I: gồm các chất ức chế serin protease. Các chất này tạo thành
phức hợp với các enzyme đông máu. Nhóm này gồm: anti thrombin III
(A.T.III), đồng yếu tố II của heparin, α-macroglobulin, α 1-antitrypain và chất
ức chế C1S.
Nhóm thứ II: gồm hai protein huyết tương (protein C và protein S) và một
protein màng là thrombomodulin. Hệ thống protein này can thiệp bằng cách làm
thoái hóa hai đồng yếu tố của phản ứng enzyme: yếu tố Va và VIII: C.

1.2 Tổng quan về huyết tương và huyết thanh
1.2.1 Huyết tương



20



Thành phần và chức năng của huyết tương
Thành phần của huyết tương: Huyết tương là dịch ngoại bào nằm trong

hệ thống các mạch máu. Huyết tương chính là phần dịch lỏng của máu (chiếm
khoảng 55% thể tích máu toàn phần). So với toàn bộ cơ thể, thể tích huyết
tương chiếm 5% trọng lượng cơ thể. Huyết tương có màu vàng chanh thành
phần tương tự như dịch kẽ (trong đó có 91,5% là nước và 8,5% là các chất hòa
tan). Tuy nhiên, nồng độ protein của huyết tương cao gấp ba lần của dịch kẽ
(khoảng 7,3g/dl). Các protein của huyết tương gồm: Albumin, globulin và
fibrinogen. Hầu hết protein của huyết tương do gan sản xuất cho nên khi chức
năng gan suy giảm sẽ làm giảm protein huyết tương. Bên cạnh protein trong
huyết tương còn có nhiều các chất hòa tan khác nhau như các chất điện giải, chất
dinh dưỡng, chất điều hòa như các enzyme, hormone, vitamin, chất khí (0 2,
CO2), các sản phẩm chuyển hóa đào thải như ure, acid uric, creatinine….[5]


21

Chức năng của huyết tương:
Bảng 1.2. Thành phần và chức năng của huyết tương
Thanh phần
Nước (91,5%)
Protein (7%)
Albumin (54%)

Globulin (38%)
Fibrinogen
Chất hòa tan (1,5%)
Na+, K+, Ca2+, Mg2+,
Cl-, HC03-.. Acid
amin, glucose, acid
béo, vitamin, muối
khoáng
Chất khí
Hormon, vitamin
(Coenzym)
Ure, acid uric,
creatinin, bilirubin,
ammoniac


Đăc điểm chức năng
Dung môi hòa tan, tạo điều kiện cho các hoạt động hấp thu,
vận chuyển và điều nhiệt.
Tạo áp suất keo, duy trì cân bằng dịch giữa máu và mô,
điều hòa thể tích máu.
Tạo áp suất keo, vận chuyển một số hormone steroid và
acid béo
Bảo vệ cơ thể, vận chuyển sắt, lipid,vitamin tan trong lipid
Do gan sản xuất, tham gia hình thành cục máu đông
Tạo điện thế màng, duy trì áp lực thẩm thấu, điều hòa thể
tích cơ thể, cân bằng acid – base, đông máu.
Cung cấp dinh dưỡng cho tế bào, tạo hình, dự trữ năng
lượng, tạo máu
Vận chuyển chủ yếu là CO2 (80%) và một ít O2

Điều hòa chuyển hóa, tăng trưởng và phát triển cơ thể.
Vận chuyển đến cơ quan bài tiết ra ngoài cơ thể

Cách tách huyết tương
Huyết tương là mẫu hay được sử dụng trong các xét nghiệm nói chung

và xét nghiệm hóa sinh nói riêng. Sử dụng huyết tương để tránh hoặc loại trừ
sai số có thể gặp do hoạt huyết và ngăn ngừa các chất khuếch tán từ hồng cầu
vào huyết tương. Các chất chống đông như heparin, NaF, EDTA, … thường
được cho sẵn vào ống đựng mẫu máu. Sau khi lấy máu cho vào cần lắc đều
liên tục để tránh máu đông lại. Ly tâm, lấy phần dịch ở trên đấy là huyết
tương [6].
1.2.2 Huyết thanh


Thành phần của huyết thanh


22

Huyết thanh là huyết tương đã lấy đi các yếu tố đông máu (fibrinogen).
Khi huyết thanh và huyết tương được tách ra từ máu, huyết tương vẫn giữ
fibrinogen tham gia vào quá trình đông máu còn huyết thanh là một phần của
huyết tương sau khi fibrinogen này được lấy ra. Thành phần của huyết thanh
tương tự như của huyết tương bao gồm nước, albumin, globulin, điện giải,
acid amin glucose, acid béo, vitamin, hormon, ure, acid uirc... ngoại trừ yếu tố
đông máu fibrinogen.


Cách tách huyết thanh

Mẫu máu để xét nghiệm hóa sinh bao gồm ba loại: máu toàn phần,

huyết thanh, huyết tương. Sau khi lấy máu nếu có sự tiếp xúc lâu dài giữa
huyết thanh, huyết tương với tế bào máu sẽ ảnh hưởng đến một số chỉ số xét
nghiệm hóa sinh [7], [8] tuy nhiên khi sử dụng huyết thanh theo thời gian các
chất phân tích sẽ ổn định lâu hơn. Trong quá khứ các vấn đề liên quan đến sự
ổn định của các chất cần phân tích trong huyết thanh là một mối quan tâm lớn
và huyết thanh là một mẫu ưa thích hay được sử dụng ở hầu hết các phòng xét
nghiệm. Tuy nhiên hiện nay các phòng xét nghiệm hóa sinh hay sử dụng
huyết tương hơn huyết thanh vì huyết tương cung cấp ít nhất hai lợi thế sau:
Đầu tiên, thời gian giữa việc thu thập và phân tích được rút ngắn vì khi máu
sử dụng chất chống đông thời gian ly tâm sẽ nhanh hơn, không phải mất thời
gian chờ đợi cho quá trình hình thành cục máu đông nhờ đó có thể rút ngắn
thời gian làm xét nghiệm. Thứ hai việc sử dụng huyết tương có thể tránh hoặc
loại trừ sai số có thể gặp do hoại huyết và ngăn ngừa các chất khuyếch tán từ
hồng cầu vào huyết tương [7].
Sau khi lấy máu vào ống nghiệm, đậy nắp ống nghiệm bằng nút cao su
rồi để ở nhiệt độ phòng trong vài giờ. Nếu cần có huyết thanh nhanh để phân
tích thì có thể cầm ống nghiệm trong lòng bàn tay hoặc có thể để ống nghiệm
ở tủ ấm giữ cho máu ở nhiệt độ 30o C. Như vậy cục huyết sẽ hình thành một


23

cách tự nhiên và tiết ra nhiều huyết thanh nhất. Khi cục máu đã đông, dùng
que thủy tinh nhỏ hoặc sợi bạch kim nhẹ nhàng tách phần cục huyết dính vào
thành ống. Cục huyết sẽ dễ co lại, và nhanh tiết ra huyết thanh. Nếu huyết
thanh lẫn hồng cầu đem ly tâm lại (3000 vòng/phút trong 5 phút), lấy phần
huyết thanh. Một số xét nghiệm cần lấy huyết thanh ngay (ví dụ định lượng
Glucose, kali...) thì ly tâm ngay sau khi cục huyết được hình thành và tách cục

huyết khỏi dính vào thành ống, thời gian không nên quá 1 giờ [6].
1.3 Một số chất chống đông thường được sử dụng trong phòng xét nghiệm
1.3.1 Ống lấy huyết thanh
Nếu xét nghiệm cần dùng huyết thanh thì dùng ống máu không chống
đông. Huyết thanh hay được sử dụng trong các xét nghiệm hóa sinh, miễn
dịch, xét nghiệm làm nhóm máu và các phản ứng chéo trong truyền máu [6].
Có hai loại ống dùng để tách huyết thanh: [9]



Ống không chứa các hạt silica micronised ,không chứa các chất chống đông.
Ống chứa các hạt silica micronised, không chứa các chất chống đông.
Sau khi cho máu vào ống này đậy nắp trộn đều ống nghiệm lên xuống

nhẹ nhàng mạng lưới fibrin – tế bào nhanh chóng bao phủ các hạt silica
micronised tạo thành cục máu đông. Huyết thanh được tách ra một cách
nhanh chóng thay vì phải đợi quá trình đông máu bình thường như ở ống tách
huyết thanh không có hạt silica micronised. Sau khi ly tâm các hạt silica
micronised ngăn cách riêng biệt huyết thanh ở phía trên, cục máu đông ở phía
dưới ngăn chặn sự chao đổi chất giữa tế bào máu và huyết thanh, giữ cho các
thành phần hóa học của huyết thanh không bị thay đổi trong thời gian dài.
1.3.2 Ống nghiệm chứa chất chống đông
Được dùng cho các xét nghiệm sử dụng huyết tương, máu toàn phần.


Heparin [9],[10]


24


Hiện nay các phòng xét nghiệm hay sử dụng ống máu chống đông bằng
heparin để làm các xét nghiệm hóa sinh cơ bản.
– Cấu trúc:
• Là một amino mucopolysaccharid hoặc glycosaminoglycan.
• Trọng lượng phân tử 17000 Dalton.
• Trong cấu trúc phân tử có nhóm sulfat và nhóm carbocylic.
– Cơ chế chống đông:

Ức chế chuyển Prothrombin thành Thrombin.

Tạo phức với antithrombin III (AT III) thúc đẩy nhanh phản ứng
antithrombin – thrombin và cả phản ứng antithrombin với các
yếu tố kể trên gấp 1000 lần khi không có mặt của heparin. Nhóm
sulfat cần thiết cho sự gắn AT III với thrombin nhờ tích điện âm
do chứa nhiều gốc SO42- nên Heparin làm thay đổi hình dáng của



thrombin với prothrombin.

Heparin được tồn tại dưới dạng muối với amon, Li, Na, K
Ý nghĩa:
• Thường sử dụng cho các xét nghiệm hóa sinh cơ bản, không ảnh


hưởng đến điện giải, nếu nồng độ chống đông phù hợp.
Không thích hợp cho các xét nghiệm huyết học vì làm thay đổi




hình thái tế bào.
Heparin nước có thể gây sai số do pha loãng mẫu máu, điều này
có thể khắc phục bằng cách làm đông khô Heparin.




NaF (Natri fluoride)
Cơ chế chống đông [11]:
• NaF liên kết với Ca2+ làm ngăn cản quá trình đông máu. NaF còn
có tác dụng ức chế hiện tượng đường phân vì nó tạo phức hợp
với Mg2+ cần thiết cho hoạt động của một trong số enzym gây
phân hủy glucose, do vậy NaF hay được dùng trong xét nghiệm


glucose máu.
NaF ức chế enzym enolase trong quá trình đương phân kèm sự
giảm pyruvat, ATP và tích tụ 2- phospho enolpyruvate.


25



Tuy NaF có tác dụng làm ổn định nồng độ glucose trong ống
nghiệm nhưng nó không có ảnh hưởng nào đến tốc độ giảm nồng





độ glucose trong 1 giờ đầu sau lấy máu.
– Ý nghĩa :
Thường được sử dụng để định lượng glucose máu, lactate máu
NaF ức chế enzym enolase trong con đường đương phân bảo quản nồng độ
glucose trong máu ổn định đến 48 giờ. Tuy nhiên nếu tiến hành định lượng
glucose ngay trong vòng 1 giờ thì không cần sử dụng đến ống NaF.



EDTA (muối ethylen diamin tetraacetic acid) [9]
Cơ chế chống đông:
• Là một amino acid dùng để cô lập ion kim loại có hóa trị II và
III, EDTA kết hợp với ion kim loại bở 4 nhóm carboxylate và 2





nhóm amin.
Tạo phức hợp đặc biệt mạnh với 4 nhóm Mn (II), Cu (II), Fe



(III), Co (III).
Tube EDTA thương dùng trong các phòng xét nghiệm y khoa là

EDTA-K2 hay EDTA-K3.
Ý nghĩa:
• Thường dùng trong các xét nghiệm huyết học vì EDTA bảo tồn



hình dạng, khối lượng tế bào máu trong một thời gian dài.
Hiện nay xét nghiệm HbA1c hay sử dụng ống EDTA để lấy máu
toàn phần làm xét nghiệm. Tuy nhiên xét nghiệm HbA1c cũng có
thể lấy máu toàn phần chống đông bằng các chất chống đông
khác như Heparin, NaF... cũng không ảnh hưởng đến kết quả xét



nghiệm [12].
Không sử dụng cho các xét nghiệm điện giải đồ vì: EDTA tạo
phức với Ca2+, Fe2+ làm kết quả Ca2+, Fe2+ trong máu giảm giả
tạo. Tube EDTA-K2, EDTA-K3 chứa K+ làm kết quả K+ trong
máu tăng giả tạo.



Các loại chất chống đông khác


×