Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

ẢNH HƯỞNG TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ CỦA QUỐC TẾ CỘNG SẢN ĐỐI VỚI CÁCH MẠNG VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (163.01 KB, 22 trang )

ẢNH HƯỞNG TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ CỦA QUỐC TẾ CỘNG SẢN
ĐỐI VỚI CÁCH MẠNG VIỆT NAM
TÓM TẮT
Bài viết trình bày những ảnh hưởng về tư tưởng chính trị của Quốc tế Cộng
sản đối với Đảng Cộng sản Đông Dương qua ấn phẩm của tác giả Hồ Thị Tố
Lương, trong đó những tác động ấy được thể hiện qua ba con đường: việc truyền
bá chủ nghĩa Mác - Lê-nin; thông qua các Nghị quyết Đại hội của QTCS và các
chỉ thị của Bộ Phương Đông; thông qua việc QTCS đào tạo và bồi dưỡng cho cách
mạng Việt Nam đội ngũ cán bộ cách mạng.
Đồng thời bài viết cũng trình bày những nhận định của tác giả đối với
những ảnh hưởng về tư tưởng và chính trị của QTCS đối với Đảng Cộng sản Đông
Dương.
1. Đặt
2.

vấn đề

Với khẩu hiệu “Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức, đoàn kết
lại!”, Quốc tế Cộng sản do V.I. Lê-nin sáng lập và lãnh đạo, trong suốt thời
gian tồn tại thì đây là một tổ chức cách mạng quốc tế rộng nhất. Gắn liền với
Quốc tế Cộng sản là một quá trình lịch sử hình thành và phát triển và củng
cố phong trào cộng sản, công nhân quốc tế và phong trào giải phóng dân tộc.
Quốc tế Cộng sản đã chỉ đạo và giúp đỡ việc thành lập các đảng cộng sản ở
các nước theo đảng kiểu mới của Lê-nin; đã xác định đường lối chiến lược
và sách lược cho phong trào cộng sản, công nhân và phong trào giải phóng
dân tộc.

3.

Quốc tế Cộng sản cũng đã phát triển toàn diện về vấn đề dân tộc và thuộc
địa trên cơ sở vạch ra con đường đấu tranh cho các dân tộc thuộc địa và phụ


thuộc, cũng như sự phối hợp giữa phong trào phong trào cộng sản đối với


phong trào giải phóng dân tộc. Với đường lối chính trị đúng đắn về vấn đề
dân tộc và thuộc địa, Quốc tế Cộng sản đã nêu cao tinh thần đoàn kết giữa
các dân tộc phương Đông với giai cấp vô sản phương Tây. Tuy có lúc phong
trào của giai cấp vô sản tạm thời thoái trào, song uy tín của Quốc tế Cộng
sản ngày càng gia tăng. Từ chỗ chỉ có 10 Đảng Cộng sản lúc ban đầu thành
lập, trong vòng 2 năm đã tăng lên 48 Đảng. Ngày 3/2/1930, Đảng Cộng sản
Việt Nam ra đời, nhanh chóng sau đó đã trở thành một chi bộ của Quốc tế
Cộng sản (4/1931), từ đây cách mạng Việt Nam hòa nhập vào dòng thác
cách mạng thế giới.
4.

Đối với Cách mạng Việt Nam, Quốc tế Cộng sản cũng đã có những ảnh
hưởng và đóng góp vô cùng quan trọng. Quốc tế Cộng sản đã có vai trò to
lớn đối với sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam, luôn theo sát, giúp đỡ và
chỉ đạo cụ thể đối với tình hình cách mạng Việt Nam. Nhờ đó mà Đảng
Cộng sản Việt Nam vượt qua nhiều khó khăn, thử thách và không ngừng
trưởng thành.

5.

Bằng nhiều hình thức khác nhau, Quốc tế Cộng sản đã gây được những ảnh
hưởng to lớn đến Đảng và Cách mạng Việt Nam, qua đó đã để lại những bài
học và giá trị không phai mờ, trong đó đáng chú ý là bài học về giải quyết
quan hệ giai cấp và dân tộc; về trách nhiệm dân tộc và nghĩa vụ quốc tế, về
đoàn kết trong Đảng, đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế; bài học xây dựng
Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức; và nhiều bài học khác nữa.
Nhưng đồng thời, bên cạnh những đóng góp tích cực, một số sai lầm, tiêu

cực cũng đã diễn ra và tác động đến Đảng và Cách mạng Việt Nam.
6. Ảnh

hưởng về tư tưởng chính trị của Quốc tế Cộng sản đối với cách

mạng Việt Nam.
6.1 Thông qua việc truyền bá Chủ nghĩa Mác - Lê-nin


7. Cùng với việc nghiên cứu và hoàn thiện chiến lược và sách lược về vấn
đề dân tộc và thuộc địa, Quốc tế Cộng sản đã tiến hành hàng loạt hoạt động truyên
bá tư tưởng cách mạng vô sản vào phương Đông trong đó có Việt Nam, nhằm thúc
đẩy phong trào yêu nước ở phương Đông đi theo khuynh hướng cách mạng vô sản.
8. Một trong những nỗ lực theo hướng đó là Quốc tế Cộng sản thành lập
những trung tâm truyền bá chủ nghĩa Mác – Lê-nin cho các nước phương Đông.
9. Ngay sau Đại hội II, Quốc tế Cộng sản đã chú ý việc truyền bá chủ nghĩa
Mác – Lê-nin vào Đông Dương. Trung tâm truyền bá chủ nghĩa Mác – Lê-nin ở
Viễn Đông sau khi thành lập đã vạch kế hoạch tuyên truyền cộng sản vào Trung
Quốc, Đông Dương, Singapore. Một bức điện đề ngày 25/4/1920 1 của Lãnh sự
Pháp tại Vladivostok báo cáo về Bộ thuộc địa Pháp là một cơ quan lãnh đạo việc
tuyên truyền của cộng sản đã được thành lập tại đây. Cơ quan này dự định sẽ tổ
chức các trung tâm tuyên truyền tại Thượng Hải, Sài Gòn và Singapore.
10. Để tuyên truyền chủ nghĩa Mác – Lê-nin, Quốc tế Cộng sản đã chỉ thị
cho các đảng cộng sản in các tài liệu mác-xít và chuyển về Việt Nam. Đảng Cộng
sản Pháp, phân bộ của Quốc tế Cộng sản, đã có những đóng góp vào việc truyền bá
chủ nghĩa Mác – Lê-nin vào Việt Nam2. Đảng Cộng sản Pháp đã in và gửi sang
Việt Nam hàng nghìn bản in những tác phẩm của các nhà kinh điểm chủ nghĩa Mác
– Lê-nin: Tuyên ngôn Đảng Cộng sản, Làm gì?, Hai sách lược của Đảng Dân chủ
- xã hội trong cách mạng dân chủ, Bệnh ấu trĩ tả khuynh trong phong trào cộng
sản; báo Nhân đạo, báo Người cùng khổ, tập san Những vấn đề của chủ nghĩa

Bôn-sê-vích; các văn kiện Các luận cương và nghị quyết của Đại hội lần thứ VI
Quốc tế Cộng sản, các văn kiện chỉ đạo và bí mật, … Với sự giúp đỡ, các nhà cách
mạng Việt Nam ở Pari đã xuất bản nhật báo Việt Nam hồn, hàng tháng xuất bản
5.000 bản bằng cả tiếng Pháp và Việt, phổ biến rộng rãi ở Đông Dương và Pháp.
1 TS.

Hồ Tố Lương (2007), Quốc tế cộng sản với cách mạng Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội, tr.59-60
2 Viện Mác – Lê-nin: Sự hợp tác quốc tế giữa Đảng Cộng sản Liên Xô và Đảng Cộng sản Việt
Nam: Lịch sử và hiện tại, Nxb Sự thật, Hà Nội,1987, tr.74.


11. Sách báo mác-xít, tài liệu tuyên truyền có tác động to lớn đối với
phong trào cách mạng Việt Nam và tư tưởng các chiến sĩ cách mạng. Họ được vũ
trang bằng lý luận cách mạng và khoa học của giai cấp công nhân, nâng cao trình
độ nhận thức của họ và cải tạo họ trở thành những lực lượng cách mạng có thể đáp
ứng khả năng lãnh đạo phong trào cách mạng tại nước mình.
11.1 Thông qua các Nghị quyết, chỉ đạo cách mạng
12. Quốc

tế cộng sản có đóng góp to lớn với sự phát triển của phong trào

cach mạng thế giới, ngoài việc truyền bá chủ nghĩa Mác – Lê-nin, thành lập Đảng
cộng sản, và dẫn dắt phong trào cách mạng đi đúng hướng, thì Quốc tế Cộng gây
ảnh hưởng dựa trên các Nghị quyết của Đại hội Quốc tế Cộng sản, các chỉ thị của
các Bộ khu vực, đó là những cơ sở căn bản để lãnh đạo phong trào cách mạng ở
các nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam.
13. Trong

những năm hoạt động của mình tính Quốc tế Cộng sản đã tồn tại


24 năm và phát triển từ 1919-1943, Quốc tế Cộng sản đã tổ chức được 7 kỳ đại hội.
Thông qua các kỳ đại hội Quốc tế Cộng sản đã giúp các tổ chức cách mạng, các
đảng cộng sản, bằng những đường lối chỉ đạo của mình, trong đó Đại hội VI và
Đại hội VII của Quốc tế Cộng sản có những ảnh hưởng sâu sắc đến Đảng Cộng sản
Đông Dương và cách mạng Việt Nam.
14. Đề

cương về phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa và nửa thuộc

địa là văn kiện chính trị quan trọng đối với các dân tộc bị đế quốc thống trị. Đề
cương và các văn kiện khác của Đại hội Quốc tế Cộng sản được bí mật chuyển đến
Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên và đã ảnh hưởng trực tiếp đến phong trào
cách mạng Việt Nam trong những năm 1928 – 1930. Lúc này, nhiều thanh niên tiên
tiến trong tổ chức này và các tổ chức khác bước đầu tiếp thu lý luận chủ nghĩa Mác
– Lê-nin thông qua những tác phẩm của Nguyễn Ái Quốc, những bài giảng chính
trị của Nguyễn Ái Quốc và các văn kiện của Quốc tế Cộng sản, sách báo mác-xít.


15. Từ

giữa năm 1929 đến đầu năm 1930, do kết quả của việc truyền bá Chủ

nghĩa Mác – Lê-nin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước, ở Việt Nam
xuất hiện ba tổ chức cộng sản. Tuy nhiên trong một lúc sự xuất hiện của ba tổ chức
cộng sản hoạt động riêng lẻ đã dẫn đến sự xáo trộn nhất định, mặc dù tán thành Đề
cương về phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa của Quốc tế
Cộng sản và đều muốn Quốc tế Cộng sản công nhận mình. Điều đó cũng cho thấy
uy tín lớn lao của Quốc tế Cộng sản và ảnh hưởng của các nghị quyết Đại hội VI
của Quốc tế Cộng sản. Theo dõi sát tình hình, ngày 18/10/1929, Hội đồng Ban bí

thư phương Đông thuộc Ban chấp hành Quốc tế Cộng sản đã họp để thảo luận về
vấn đề Đông Dương. Sau khi xem xét các văn kiện của Hội Việt Nam cách mạng
Thanh niên và những thông tin về Đông Dương. Ban bí thư phương Đông quyết
định thảo ra Dự thảo Nghị quyết về việc thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương và
những nhiệm vụ sắp tới của những người cộng sản Đông Dương.
16.

Tiếp theo, ngày 27/10/1929, Quốc tế Cộng sản gửi cho những người

cộng sản ở Đông Dương tài liệu Về việc thành lập một đảng cộng sản ở Đông
Dương. Quốc tế Cộng sản khẳng định ở Đông Dương đã có đủ những điều kiện
khách quan cho một cuộc cách mạng tư sản dân chủ và “Sự trưởng thành của
phong trào cách mạng ở Đông Dương, lòng căm thù của quần chúng nhân dân
đông đảo đối với chủ nghĩa đế quốc Pháp, và đặc biệt là sự phát triển của phong
trào công nhân độc lập và sự tồn tại của các tổ chức cộng sản trong nước, đang
tạo ra những điều kiện cần thiết và sự cần thiết cấp bách là phải tổ chức một Đảng
Cộng sản Đông Dương”3.
17. Quốc

tế Cộng sản phê phán những hiện tượng bè phái, chia rẽ trong các

tổ chức cộng sản, thái độ lừng chừng trong việc thành lập ngay một đảng cộng sản,
bởi vì: “Việc thiếu một đảng cộng sản duy nhất trong lúc phong trào quần chúng
3 Đảng

tr.614.

Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảnh toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, t.1,



công nhân và nông dân ngày càng phát triển, đã trở thành một điều nguy hiểm vô
cùng cho tương lai trước mắt của cuộc cách mạng ở Đông Dương”4. Quốc tế Cộng
sản đã đề ra nhiệm vụ cấp bách là phải nhanh chóng thành lập một đảng cộng sản
duy nhất ở Đông Dương.
18. Trong

bản tài liệu đó, Quốc tế Cộng sản còn chỉ ra những nguyên tắc cơ

bản và biện pháp xây dựng đảng Mác – Lê-nin và hướng dẫn cách tiến hành hợp
nhất các phần tử cộng sản thành Đảng Cộng sản Đông Dương. Quốc tế Cộng sản
yêu cầu những người cộng sản Đông Dương phải gấp rút tiến hành những công tác
cụ thể trước mắt: thành lập ngay một ban liên hợp gồm các đại biểu của tất cả các
tổ chức thừa nhận Cương lĩnh, Điều lệ và Nghị quyết của Quốc tế Cộng sản và tích
cực hoạt động trong công nhân và nông dân. Ban đó làm nhiệm vụ của một Ban
chấp hành Trung ương lâm thời của Đảng Cộng sản Đông Dương, lam nhiệm vụ
tập hợp tất cả những người cộng sản lại thành mộ Đảng Cộng sản duy nhất và lãnh
đạo mỗi công tác của Đảng.
19. Quốc

tế Cộng sản chỉ thị những người cộng sản Đông Dương phải nỗ lực

phấn đấu nhanh chóng tiến tới Đại hội Đảng để bầu ra Ban chấp hành Trung ương
chính thức để đề ra đường lối chiến lược, sách lược cho toàn Đảng và đặt quan hệ
chính thức với Quốc tế Cộng sản.
20. Tài

liệu nói trên của Quốc tế Cộng sản là một văn kiện chính trị rất quan

trọng đối với cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ. Nó góp phần giải quyết những mâu
thuẫn nội bộ, chấm dứt sự gây chia rẽ trong hàng ngũ những nhóm cộng sản và

thúc đẩy việc thành lập một đảng cộng sản duy nhất trong cả nước. Đồng chí Trần
Phú nhận định: “Bức thư của Quốc tế Cộng sản có một ảnh hưởng quyết định
trong việc thống nhất Đảng”5.
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảnh toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, t.1,
tr.614.
5 Bùi Công Trừng: “Nhớ lại việc thống nhất Đảng”, Báo Nhân dân, ngày 10/12/1959, tr.2
4


21. Ngày

31/10/1929, Ban bí thư Phương Đông đã gửi cho các ủy viên Ủy

ban bản Nghị quyết về việc thành lập một đảng cộng sản Đông Dương. Ban bí thư
các nước phương Đông yêu cầu các đồng chí ủy viên nhận xét trước khi Ban bí thư
chính trị thông qua bản Nghị quyết chính thức 6. Sau đó, Tiểu ban chính trị của Ban
chấp hành Quốc tế Cộng sản đã ra nghị quyết đặt nhiệm vụ thống nhất các nhóm
cộng sản ở Đông Dương và đưa ra những kiến nghị tổ chức về các phương pháp và
biện pháp thành lập Đảng7.
22.

Sau cao trào của Xô viết Nghệ - Tĩnh, phong trào cách mạng Đông
Dương bị thực dân Pháp đàn áp và khủng bố một cách tàn khốc, nhiều cơ sở
cách mạng bị tan rã, phong trào tạm thời thoái lùi. Được sự giúp đỡ của Ban
phương Đông mà người đứng đầu là đồng chí V. Vasilievna, Ban chấp hành
Trung ương lâm thời đã công bố chương trình hành động của Đảng Cộng sản
Đông Dương. Văn kiện này được Quốc tế Cộng sản thông qua và đăng trên
tạp chí Quốc tế Cộng sản số 34-1932. Chương trình hành động là bản Cương
lĩnh hành động của Đảng ta ra đời trong hoàn cảnh tạm thời thoái trào của
cách mạng, văn kiện đã đề ra những nhiệm vụ trong tình hình mới. Bản

Chương trình hành động gồm có hai phần: những nhiệm vụ căn bản của cách
mạng Đông Dương và con đường cách mạng đấu tranh.

23.

Để giúp đỡ các đồng chí cách mạng Việt Nam trước khi trở về Tổ
quốc hoạt động, Tạp chí Quốc tế Cộng sản, số 4-1934, đã đăng bài Đàm
thoại với các đồng chí Đông Dương của tác giả Oóc-van, dưới dạng một bài
phỏng vấn gồm 24 câu hỏi và trả lời, tác giả nói lên những chỉ dẫn chính
thức của Ban phương Đông với cách mạng Việt Nam đang trong thời kỳ
phục hồi của phong trào.

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.1,
tr.621
7 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.5,
tr.464-465
6


Ngày 20/12/1934, Ban phương Đông Quốc tế Cộng sản đã gửi một

24.

bức điện nêu rõ, vì cân nhắc những đặc điểm đặc biệt của tình hình Đông
Dương, nên Ban phương Đông đã thông qua nghị quyết thành lập Ban Chỉ
huy ở ngoài của Đảng Cộng sản Đông Dương như một cơ quan lâm thời, tồn
tại song song với Trung ương, nhưng có nhiệm vụ đặc biệt: Liên lạc giữa
TW Đảng Cộng sản Đông Dương với Quốc tế Cộng sản; Tập hợp và đào tạo
cán bộ đảng cho đất nước; Xuất bản tạp chí Bônsơvích, cơ quan lý luận của
TW Đảng. Như vậy, lúc này Ban Chỉ huy hải ngoại của Đảng tồn tại song

song với Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Ban Chỉ huy hải ngoại phải thực
hiện việc đào tạo cán bộ, giáo dục đảng viên, đồng thời phải vạch ra phương
hướng sửa chữa sai lầm, thiếu sót trong công tác tổ chức, lãnh đạo phong
trào và chuẩn bị Đại hội lần thứ nhất của Đảng ta. Về danh nghĩa, Ban Chỉ
huy hải ngoại là cơ quan có quyền hạn cao hơn Ban chấp hành Trung ương,
chịu sự chỉ đạo trực tiếp từ Quốc tế Cộng sản, nhưng trong thực tế, Ban Chỉ
huy hải ngoại đã làm nhiệm vụ của Ban Chấp hành Trung ương lâm thời, vì
thế đó là tổ chức đặc biệt của Đảng ta trong thời kỳ thoái trào của cách
mạng.
25.

Trước bối cảnh nguy cơ chiến tranh đế quốc ngày càng xích gần sau
khi cuộc tổng khủng hoảng của chủ nghĩa tư bản diễn ra vào năm 19291933, đã phá vỡ sự ổn định của hệ thống tư bản chủ nghĩa, gây ra những
biến động toàn diện trong hệ thống thuộc địa. Chính ở chỗ cạnh tranh sâu
sắc về thị trường thuộc địa đã đẩy các nước đế quốc mâu thuẫn ngày càng
lớn. Cùng với sự mâu thuẫn giữa các cường quốc đang gay gắt, giai cấp tư
sản lũng đoạn đã đẩy cuộc tấn công chính trị, tăng cường đàn áp tất cả các
phong trào cách mạng, các đảng phái chính trị, các tổ chức quần chúng để
thủ tiêu quyền tự do dân chủ và chuẩn bị cuộc tiến công quân sự vào Liên


Xô và chia lại thị trường thế giới. Đứng trước bối cảnh phức tạp đó, vào
tháng 7/1935 Quốc tế Cộng sản đã quyết định triệu tập Đại hội lần thứ VII
để quyết định đường lối chiến lược và sách lược cho phong trào cộng sản
quốc tế và phong trào giải phóng dân tộc.
26.

Sau Đại hội VII, Ban chấp hành Quốc tế Cộng sản chỉ thị cho Ban
Chỉ huy ở ngoài của Đảng ta cần chuyển ngay về trong nước để cùng Ban
Chấp hành Trung ương Đảng lãnh đạo phong trào cách mạng. Đồng chí Lê

Hồng Phong với tư cách là Ủy viên chính thức Ban chấp hành Quốc tế Cộng
sản được bầu ở Đại hội VII Quốc tế Cộng sản và là người đứng đầu Ban Chỉ
huy hải ngoại đã quyết định triệu tập Hội nghị Ban chấp hành Trung ương để
nghiên cứu, quán triệt Nghị quyết Đại hội VII Quốc tế Cộng sản, đề ra sự chỉ
đạo mới phù hợp với tình hình của cách mạng.

27.

Hội nghị Ban chấp hành Trung ương họp tháng 7/1936 tại Thượng Hải
do Lê Hồng Phong chủ trì. Hội nghị đã truyền đạt Nghị quyết Đại hội VII
Quốc tế Cộng sản, Báo cáo của Dimitrov và đề ra sự chuyển hướng chỉ đạo
chiến lược, thay đổi sách lược. Vận dụng tinh thần Nghị quyết Đại hội VII
Quốc tế Cộng sản, căn cứ vào tình hình cụ thể của cách mạng trong nước và
thế giới, Hội nghị đã bổ sung những thiếu sót của Nghị quyết Đại hội lần thứ
nhất của Đảng ta. Hội nghị chỉ rõ nhiệm vụ chiến lược chống đế quốc và
chống phong kiến vẫn không thay đổi so với Luận cương tháng 10/1930,
song căn cứ vào tình hình hiện tại thì đây không phải là nhiệm vụ trực tiếp
trước mắt, vì vậy Hội nghị tạm gác khẩu hiệu “đánh đổ đế quốc Pháp”, “Độc
lập dân tộc” và “Người cày có ruộng” để chĩa mũi nhọn vào bộ phận phản
động nhất là phát xít Pháp và phát xít quốc tế, bọn phản động thuộc địa và
tay sai. Đường lối đó là sự phối hợp với cuộc đấu tranh của nhân dân các
nước, trước hết là nhân dân Pháp, ủng hộ Mặt trận nhân dân Pháp, đòi chính


phủ ban hành và thực hiện các quyền tự do dân chủ cơ bản, cải thiện đời
sống cho nhân dân. Hội nghị cũng chủ động phê phán và ngăn ngừa với các
xu hướng tả khuynh và hữu khuynh, những quan niệm bảo thủ không nhạy
bén với sự phát triển của tình hình mới, bám lấy đường lối cũ, sách lược cũ.
28.


Đầu năm 1938, khi Mặt trận bình dân Pháp bị suy yếu, Chính phủ
Pháp nghiêng dần về phía hữu. Bọn thực dân Đông Dương quay trở lại đàn
áp phong trào cách mạng. Trước tình hình đó, ngày 16/9/1938, Ban bí thư
Ban chấp hành Quốc tế Cộng sả đã họp và đề nghị Ban chấp hành Trung
ương Đảng Cộng sản Pháp giúp đỡ Đảng Cộng sản Đông Dương bằng các
biện pháp8: Tăng cường công tác của các đại biểu trong nghị viện Pháp; Đẩy
mạnh chiến dịch đòi ân xá tù chính trị Đông Dương; Tổ chức thông tin các
vấn đề Đông Dương lên báo Nhân đạo và các báo cộng sản của Pháp; Giúp
Đảng Cộng sản Đông Dương bằng cách gửi sách báo.

29.

Tư sau Đại hội VII của Quốc tế Cộng sản cùng với sự cải tổ giao
quyền hạn nhiều hơn cho các Đảng Cộng sản (1938), sự hợp tác giữa Quốc
tế Cộng sản và Đảng Cộng sản Đông Dương giảm dần. Đến năm 1940 cùng
với tình hình phức tạp của Đông Dương mối liên lạc đã bị cắt đứt. Đảng
Cộng sản Đông Dương và những người cộng sản Việt Nam vẫn tiếp tục cuộc
tranh đấu của mình khi đã được trang bị bằng những Nghị quyết của Quốc tế
Cộng sản. Dưới sự lãnh đạo của đại biểu Quốc tế Cộng sản – Nguyễn Ái
Quốc, khi Người về nước năm 1941 đã triệu tập và chủ trì Hội nghị Trung
ương lần thứ 8 quyết định chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng ta
đúng với tình hình phát triển của đất nước và nhiệm vụ giải phóng dân tộc
được đặt lên hàng đầu.

29.1 Thông qua việc đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ
8 Đảng

Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.6,
tr.699-700



30. Một trong những điều kiện để tiến tới thành lập một đảng cách mạng
vô sản là phải có một đội ngũ cán bộ, hạt nhân của phong trào quần chúng công
nông. Họ là những người nắm được lý luận cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lê-nin và
biết vận dụng nó vào thực tiễn nước mình.
31. Nước Nga Xô viết với tư cách là Nhà nước công nông đầu tiên trên thế
giới đã tuân thủ những Nghị quyết của Quốc tế Cộng sản đó là thành lập Trường
Đại học phương Đông (1921 - 1938), Viện Nghiên cứu những vấn đề dân tộc và
thuộc địa và Trường Quốc tế Lê-nin, đào tạo đội ngũ cán bộ cách mạng cho các
nước làm hạt nhân cho phong trào cách mạng của quần chúng công nông.
32. + Trường Đại học Phương Đông, trong suốt thời gian hoạt động của mình,
Trường đã đào tạo nhiều nhà cách mạng chuyên nghiệp không những ở phương
Đông Xô viết mà còn cho cả các nước thuộc địa và nữa thuộc địa. Các học viên
được đào tạo những môn lý luận cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, kinh tế chính
trị học, lịch sử phong trào cách mạng các nước trên thế giới, lịch sử đảng công sản
(B) Nga, chủ nghĩa duy vật lịch sử, lịch sử Quốc tế Cộng sản, kinh tế chính trị và
xã hội Xô viết, chủ nghĩa Lê-nin, chủ nghĩa xã hội khoa học, chủ nghĩa duy vật
biện chứng, khoa học tự nhiên theo quan điểm duy vật. Các lớp dài hạn còn học
thêm kiến thức quân sự nhằm bồi dưỡng kiến thức và kỹ năng chuẩn bị tổ chức lực
lượng và chỉ đạo đấu tranh vũ trang khi cần thiết.
33. Những ấn phẩm của Trường đóng vai trò quan trọng trong việc trang bị cho
sinh viên những hiểu biết về các vấn đề có tầm chiến lược trong phong trào giải
phóng dân tộc và lịch sử, văn hóa của các dân tộc phương Đông.
34. Mục đích của Trường đào tạo cho những học viên nước ngoài, trang bị
những hiểu biết về các vấn đề có tầm chiến lược trong phong trào giải phóng dân
tộc và về lịch sử, văn hóa của các dân tộc phương Đông. Nguyễn Ái Quốc viết
“Việc thành lập Trường Đại học Phương Đông đánh dấu một kỷ nguyên mới; trong
khi tập hợp những người trẻ trung, hoạt bát, thông minh của các nước thuộc địa



lại, nhà trường đang tiến hành một sự nghiệp vĩ đại”9. Nguyễn Ái Quốc còn khẳng
định: “Có thể nói không ngoa rằng Trường Đại học phương Đông ôm ấp dưới mái
trường mình tất cả tương lai của các dân tộc thuộc địa”10.
35. Đối với Việt Nam, Trường Đại học phương Đông đóng vai trò vô cùng to
lớn trong việc đào tạo đội ngũ các chiến sĩ cách mạng chuyên nghiệp. Nguyễn Ái
Quốc đã theo một lớp ngắn hạn ở Trường Đại học phương Đông. Sau Nguyễn Ái
Quốc, những người Việt Nam nhập học ở Trường bằng hai con đường: từ Pháp và
Trung Quốc. Ở Pháp, Nguyễn Thế Truyền và Hoàng Quang Giụ là những người
giới thiệu những người Việt Nam cho Đảng Cộng sản Pháp gửi sang Liên Xô học11.
Việc tuyển chọn các học viên được Quốc tế Cộng sản lưu tâm, họ có các đặc phái
viên tại chỗ lo chuyện đấy, tại Pháp do A.L. Radumôva đảm nhận. Nhóm sinh viên
Việt Nam – Nguyễn Thế Rục, Nguyễn Thế Vinh đi học năm 1925, Nguyễn Văn Dị
và Ngô Đức Trì đi học năm 1926, Trần Đình Long Nguyễn Thế Thạch đi học năm
1928.
36. Ở Trung Quốc, Quốc Dân đảng đã tạo điều kiện thuận lợi cho người Việt
Nam bí mật sang Nga học, mãi khi xảy ra sự phản bội của Tưởng Giới Thạch
4/1927 thì ngừng. Sau đó Đảng Cộng sản Trung Quốc giúp đỡ, tạo điều kiện cho
các sinh viên Việt Nam sang Liên Xô. Tại Trung Quốc, M. M. Bôrôđin và Nguyễn
Ái Quốc tuyển chọn những thanh niên ưu tú nhất trong Hội Việt Nam Cách mạng
Thanh niên để gửi đến Trường Đại học Phương Đông. Trong đó có Trần Phú, Lê
Hồng Phong đi học 1926, và nhiều người sau đó nữa.
37. + Trường Quốc tế Lê-nin
38. Trường Quốc tế Lê-nin là trường dành đào tạo cho các lãnh tụ của các
phong trào cộng sản quốc tế, các khóa học được tổ chức bởi Ban Chấp hành Quốc
tế Cộng sản và được hướng dẫn bởi những người cộng sản nổi tiếng lúc bấy giờ,
9 Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, t.2, tr.123-124.
10 Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, t.1, tr.301.
11 Công văn của Sở Mật thám Đông Dương số 6783 ngày 10/12/1930 gửi từ Hà Nội cho

thám Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ, tr.5. Tài liệu lưu tại Viện Lịch sử Đảng.


sở Mật


căn cứ vào nghị quyết Đại hội V (1924) về việc quốc tế hóa các đảng cộng sản.
Các khóa học này đã trở thành “các khóa học đặc biêt của đảng”, thực hiện các bài
giảng trong lĩnh vực lý luận và thực tiễn của chủ nghĩa cộng sản12.
39. Trường Quốc tế Lê-nin có nhiệm vụ giúp các chi bộ của Quốc tế Cộng sản
trong việc nâng cao trình độ các cán bộ lãnh đạo, “kinh nghiệm cách mạng của họ,
một mặt, phải được đào sâu thêm qua việc đào tạo chung về chính trị chủ nghĩa
Mác – Lê-nin, mặt khác, kinh nghiệm ấy phải được mở rộng bằng con đường trực
tiếp và tích cực nghiên cứu kinh nghiệm tổ chức - chính trị của Đảng Cộng sản (B)
toàn Liên Xô, của phong trào cách mạng, cũng như kinh nghiệm và hoạt động hiện
tại của các Đảng Cộng sản ở nước khác – các đảng cộng sản ở những nước thuộc
địa”13.
40. Trường Quốc tế Lê-nin, chủ yếu là đào tạo những người cán bộ ở cấp
quy mô của đảng như: Trung ương, tỉnh, quận, trong các lĩnh vực công tác khác
nhau. Việc tuyển chọn những người học ở trường này khó hơn nhiều so với Trường
Đại học Phương Đông “Những người được gửi đến học Trường Quốc tế Lê-nin là
những người đã được kiểm tra trong công tác lãnh đạo của đảng, đã trải qua
trường học đấu tranh giai cấp, trường học công tác đảng ở các cơ sở và lãnh đạo
ở công tác đảng ở cơ sở; đồng thời ưu tiên dành cho thành phần công nhân” 14 và
những ứng cử viên vào trường này phải ấn định trình độ kiến thức nhất định khối
lượng tác phẩm cụ thể thuộc sách báo chính trị… cần biết một số thứ tiếng: Anh,
Pháp, Đức, Nga”15
41. Theo ghi nhận của các tài liệu lưu trữ, thì người Việt Nam duy nhất
được học tại Trường Quốc tế Lê-nin đó chính là Nguyễn Ái Quốc. Theo chỉ thị số
45 ban hành ngày 2/11/1934 thì sinh viên mang bí danh Lin chính thức được thừa
nhận là sinh viên của trường, và trong quá trình học tập Nguyễn Ái Quốc đã nghiên
12 Trung Tâm Lưu trữ và nghiên cứu các tài liệu lịch sử hiện đại Nga, tủ 495, hộp 19, hồ sơ 707.

13 A.A. XôCôLốp (1999), Quốc tế Cộng sản và Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia. Hà Nội, tr.35
14 A.A. XôCôLốp (1999), Quốc tế Cộng sản và Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia. Hà Nội, tr35
15 A.A. XôCôLốp (1999), Quốc tế Cộng sản và Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia. H, tr36


cứu công tác xây dựng đảng tại nhà máy bánh kẹo Moskva “Tháng Mười Đỏ, đi
tham quan các nông trường tập thể ở tỉnh Riadanxcaia.
42. + Viện Nghiên cứu các vấn đề dân tộc và thuộc địa: cơ quan này
trước đây là bộ phận trực thuộc Đại học phương Đông, nhưng sau đó tách làm cơ
quan độc lập. Trong bức thư ngày 23/6/1936, P.A. Miphơ quyền Hiệu trưởng Đại
học phương Đông đã gửi bức thư cho Bí thư Ban chấp hành Quốc tế Cộng sản
Đimitrov: “Vì lý do đảm bảo bí mật việc tách bộ phận ngoại quốc ra khỏi Đại học
phương Đông và chuyển đổi nó thành một trường cao đẳng độc lập được tiến hành,
trên phương diện hình thức, như là việc tách Hội nghiên cứu khoa học về các vấn
đề dân tộc và thuộc địa ra khỏi Đại học phương Đông. Trường cao đẳng quốc tế
đào tạo cán bộ cho các nước phương Đông ngoại quốc phải được công khai hợp
pháp hóa và trong tương lai phải tiếp tục tồn tại với tên gọi ngụy trang bề ngoài là
Viện nghiên cứu khoa học về các vấn đề dân tộc và thuộc địa”16.
43. Như vậy từ năm 1937, Viện nghiên cứu khoa học về các vấn đề dân tộc
và thuộc địa tách ra khỏi Đại học phương Đông. Viện này có các nhiệm vụ đào tạo
các sinh viên ngoại quốc.
44. Từ năm 1925 đến cuối thập niên 30 thế kỷ XX, ở ba cơ sở giáo dục:
Đại học phương Đông, Viện nghiên cứu các vấn đề dân tộc và thuộc địa, Trường
Quốc tế Lê-nin, có hơn 60 người Việt Nam theo học. Riêng Trường đại học
phương Đông, theo tài liệu thì có 47 người Việt Nam đã tốt nghiệp tại đây17.
45. Như vậy, các trường đại học và giáo dục của Quốc tế Cộng sản đã đóng
một vai trò to lớn trong việc đào tạo các thế hệ nhà hoạt động chính trị của Việt
Nam, họ được cung cấp về lý luận, về tư tưởng, về kỹ năng để có thể vận dụng vào
trong quá trình hoạt động thực tiễn của cách mạng Việt Nam. Những người theo
học các trường này là những chiến sĩ cách mạng đã phấn đấu suốt đời phụng sự

Trung tâm lưu giữ và nghiên cứu các tài liệu lịch sử hiện đại Nga, tủ 495, hộp 18, hồ sơ 1096,
tờ 176.
17 A. A. Xôcôlốp, Quốc tế Cộng sản và Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999, tr.139140.
16


cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân Việt Nam, trong số đó có các nhà lãnh đạo
Đảng như Trần Phú, Lê Hồng Phong, Nguyễn Thị Minh Khai; các nhà trí thức
khoa học như Trần Văn Giàu, Nguyễn Khánh Toàn; và nhân vật xuất sắc trong số
sinh viên Việt Nam được học tập và đào tạo tại các trường đại học và giáo dục của
Quốc tế Cộng sản đó là Nguyễn Ái Quốc – sau này là chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh
tụ của Đảng và Nhà nước Việt Nam.
46. 3.

Những điểm “hạn chế” được tác giả đề cập trong tác phẩm

47. Quốc

tế Cộng sản do I.V. Lê-nin sáng lập không những chỉ ra con đường

giải phóng mà còn giúp đỡ các dân tộc trong cuộc đấu tranh vì độc lập tự do. Tuy
nhiên, vì nhiều yếu tố khách quan và chủ quan, Quốc tế Cộng sản không tránh khỏi
những hạn chế về lý luận cũng như trong thực tiễn đã ảnh hưởng đến Đảng và
Cách mạng Việt Nam.
48. 1.

Trong Cương lĩnh và Chương trình Nghị sự, Quốc tế Cộng sản đã nêu

vấn đề cách mạng thuộc địa và coi việc giúp đỡ cách mạng thuộc địa là một trọng
tâm trong sự nghiệp hoạt động của mình. Nhưng trong thực tế, Quốc tế Cộng sản

chưa coi trọng đúng mức loại hình cách mạng. Một trong những nguyên nhân của
tình trạng đó là lý luận của Quốc tế Cộng sản về chiến lược và sách lược đối với
các nước thuộc địa còn có mặt hạn chế. Quốc tế Cộng sản cho rằng cách mạng
thuộc địa không thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc.
49. Quốc

tế Cộng sản nhận định như vậy vì những nhà lãnh đạo chưa có điều

kiện nghiên cứu thực tế ở các nước thuộc địa, không thấy hết khả năng cách mạng
của các dân tộc bị đế quốc áp bức, bóc lột.
50. 2.

Tại Đại hội VI Quốc tế Cộng sản đã đánh giá chưa chính xác đối với

giai cấp tư sản, đặc biệt là giai cấp tư sản dân tộc, nhấn mạnh mặt dao động của họ.
Nhận định này đã chi phối các hành động của các đảng. Một số đảng viên cộng


sản, thậm chí cả ở một số nước thuộc địa và nửa thuộc địa đã rút ra kết luận: chỉ
khi nào giai cấp tư sản bị gạt ra ngoài cương vị lãnh đạo phong trào thì cuộc đấu
tranh giải phóng dân tộc mới có thể thắng lợi.
51. 3.

Là một tổ chính trị cao nhất của phong trào cộng sản và công nhân

quốc tế, nhưng do áp dụng cơ chế tập trung quan liêu trong khi việc nắm thông tin,
hiểu biết thực tiễn còn bất cập do điều kiện đế quốc bao vây, lại không tính đến
từng đặc thù của các dân tộc, từng khu vực, từng thời kỳ, nên Quốc tế Cộng sản
không tránh khỏi những cứng nhắc, chưa sát thực tế, đã áp đặt giao điều trong việc
xác định đường lối. Đối với Đảng và Cách mạng Việt Nam, Quốc tế Cộng sản cũng

không tránh khỏi những vấn đề này.
52. 4.
53.

Một số góp ý đối với tác phẩm của tác giả Hồ Thị Tố Lương
Ấn phẩm của TS. Hồ Thị Tố Lương “Quốc tế Cộng sản với Cách

mạng Việt Nam” do Nhà xuất bản Chính trị Quốc Gia ấn hành năm 2007,
đây là một tác phẩm có chất lượng rất tốt, tác giả đã dày công sưu tầm và
nghiên cứu khá đầy đủ về mối liên hệ giữa Quốc tế Cộng sản đối với sự
nghiệp hoạt động cách mạng của Hồ Chủ tịch những năm 30 thế kỷ trước;
đồng thời cũng nêu khá đầy đủ về mối liên hệ giữa Quốc tế Cộng sản với
Cách mạng Việt Nam, những tác động, những ảnh hưởng của Quốc tế Cộng
sản đối với việc thành lập chính Đảng vô sản cho cách mạng Đông Dương,
sự giúp đỡ của Quốc tế Cộng sản trong việc phục hồi Đảng sau thời kỳ bị
khủng bố trắng, sự giúp đỡ của Quốc tế Cộng sản trong chuyển biến chỉ đạo
chiến lược kể từ Đại hội VII.
54.

Mặc dù đã cố gắng phân tích và luận chứng một cách khoa học, tuy
nhiên, ấn phẩm của tác giả không phải là không có khuyết điểm. Vì thế,
nhóm em xin góp ý một số điểm, hy vọng có thể vấn đề sáng tỏ và trở nên
đúng đắn hơn.


55.

1. Trong ấn phẩm, tác giả nhận định rằng lý luận của Quốc tế Cộng
sản về chiến lược và sách lược đối với các nước thuộc địa và nửa thuộc địa
còn có mặt hạn chế là đúng đắn. Song việc nhận định Quốc tế Cộng sản

chưa coi trọng đúng mức loại hình cách mạng thuộc địa và nửa thuộc địa 18 là
nhận định hơi mang tính chủ quan. Tác giả chưa thể làm sáng tỏ những mặt
hạn chế thực sự này của Quốc tế Cộng sản, bỏ qua các tiến bộ về mặt nhận
thức của Quốc tế Cộng sản đối với các vấn đề dân tộc và thuộc địa trong quá
trình hoạt động của tổ chức này từ Đại hội II đến Đại hội VI, những nhân tố
khách quan ảnh hưởng đến quan điểm và nhận thức của Quốc tế Cộng sản.

56.

Ngày 9/8/1926, đoàn đại biểu Đảng cộng sản Indonesia trong chuyến
làm việc với Quốc tế Cộng sản đã có dịp hội đàm với Stalin – khi đó là Ủy
viên Đoàn chủ tịch Quốc tế cộng sản - về tình hình cách mạng Indonesia .
I.V. Stalin nói: “… công nghiệp ở các nước đồng chí còn ít phát trển, giai
cấp công nhân còn nhỏ bé, đảng của các đồng chí còn trẻ, nhân dân
Indonesia chủ yếu là nông dân. Sự khác nhau về giai cấp đã xuất hiện
những phân hóa nhưng chưa sâu sắc. Do đó, chỉ có một mình đảng của
những người cộng sản làm cách mạng, không liên minh với các thành phần
dân tộc có xu hướng tiến bộ thì không thể giải quyết được sự nghiệp to lớn
của mình. Đảng cộng sản phải trở thành lãnh tụ của dân tộc, có đông đảo
quần chúng tham gia, chịu sự lãnh đạo của đảng cộng sản. Đảng cộng sản
hoạt động trong điều kiện không hợp pháp, không thể trở thành một lực
lượng nếu ít tính quần chúng”19. Đây là một cách tiếp cận vấn đề dân tộc có
thể được xem là tiến bộ nhất trong Quốc tế Cộng sản. Cấp tiến ở chỗ ông
nhận thấy và đặt ra vấn đề phải có một mặt trận liên minh rộng rãi không chỉ

18 TS.

Hồ Tố Lương (2007), Quốc tế cộng sản với cách mạng Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội, tr.168.
19 Nguyễn Thành, Quốc tế Cộng sản với vấn đề dân tộc và thuộc địa, Nxb Sách giao khoa Mác –

Lê-nin, Hà Nội, 1987


của giai cấp công nhân và nông nhân, còn phải có tiểu thương, trí thức và
các thành phần dân chủ trong giai cấp tư sản bản xứ để thành lập một mặt
trận dân tộc thống nhất đấu tranh cho độc lập. Song quan điểm này còn hạn
chế, nó không thể phổ quát cho các nước nửa thuộc địa có tính chất đặc biệt
như Việt Nam, một nước thuộc địa – nửa thuộc địa có đại đa số là nông dân,
nền nông nghiệp lạc hậu, canh tác manh mún, chế độ thuộc địa của thực dân
Pháp chưa phát triển cao độ, giai cấp địa chủ và phú nông bị phân hóa sâu
sắc, mâu thuẫn đối kháng chủ yếu mâu thuẫn nhân dân Việt Nam với đế
quốc Pháp.
Nguồn gốc là do quan điểm của I.V. Stalin và đại bộ phận cán bộ đến

57.

từ thuộc địa của Ban phương Đông Quốc tế Cộng sản là do góc độ tiếp cận
vấn đề dân tộc và thuộc địa chỉ mới dừng ở những kiểu mẫu Trung Quốc, Ấn
Độ, Indonesia, nơi mà các dân tộc này đã trãi qua cuộc cách mạng dân chủ
tư sản; chế độ thuộc địa phát triển cao độ làm mâu thuẫn cao độ sự đối
kháng giữa giai cấp nông dân và địa chủ; giai cấp địa chủ phong kiến các
quốc gia này đã tỏ ra bộ mặt phản động ủng hộ các thể chế thực dân. Do hạn
chế khách quan này, mà trong quá trình xây dựng các chiến lược và sách
lược cho Cách mạng Đông Dương, các ủy viên của Ban Bí thư phương
Đông – mà đa số không xuất thân từ thuộc địa nửa phong kiến có tính chất
nông nghiệp lạc hậu như Việt Nam, đã chưa thể có một sự nhận thức đầy đủ
và chính xác về tình hình cho nên những Nghị quyết của Ban phương Đông
còn nhiều mặt hạn chế như vậy.
58. 2.


Nhận định của tác giả về những biểu hiện tả khuynh của Đảng Cộng

sản Đông Dương trong những chỉ thị “thanh đảng” hồi tháng 4/1931 của Xứ ủy
Trung kỳ là do ảnh hưởng từ những nhận định tả khuynh đối với giai cấp tư sản,
đặc biệt là tư sản dân tộc tại Đại hội VI của Quốc tế Cộng sản. Nội dung của chỉ thị


Thanh Đảng của Xứ ủy Trung kỳ là đưa ra khỏi Đảng những ai xuất thân là trí
thức, giàu có hoặc con em quan lại lớn nhỏ. Trong đó có câu “Thanh trừ trí phú địa
hào, đào tận gốc trốc tận rễ”.
59. Có

thể khẳng định rằng, những chỉ thị đó của Xứ ủy Trung kỳ đã mang

đậm màu sắc tả khuynh. Nguồn gốc là do sự nhận thức không đúng đắn về vấn đề
giai cấp và về sự tập hợp các giai cấp khác đặt dưới sự lãnh đạo của giai cấp vô
sản. Song, việc quy kết ngược lại cho rằng nguồn gốc là do những nghị quyết của
Quốc tế Cộng sản có tính tả khuynh trong Đại hội VI Quốc tế Cộng sản lại là điều
tương đối bất hợp lý.
60. Vì

nội dung căn bản phê phán giai cấp tư sản của Quốc tế Cộng sản tại

Đại hội VI Quốc tế Cộng sản không phải là việc tập hợp giai cấp tư sản đặt dưới sự
lãnh đạo của giai cấp vô sản, mà là vấn đề giai cấp vô sản hay giai cấp tư sản lãnh
đạo cuộc cách mạng ở thuộc địa20. Việc phê phán tính dao động của giai cấp tư sản
là nhằm cho thấy giai cấp này không thể là giai cấp lãnh đạo phong trào giải phóng
dân tộc được, chứ hoàn toàn không liên quan gì đến các chiến sĩ cộng sản xuất thân
thành phần trí thức, tư sản, địa chủ trong Đảng cả. Trong Nghị quyết của Đại hội
VI Quốc tế Cộng sản viết rất rõ phần kết của việc phê phán giai cấp tư sản dân tộc:

“…không giải phóng quần chúng lao động khỏi ảnh hưởng của giai cấp tư sản và
chủ nghĩa dân tộc cải lương, thì không thể đạt được mục tiêu chiến lược cơ bản
của phong trào cộng sản trong cuộc cách ạng dân chủ tư sản: vai trò lãnh đạo của
giai cấp vô sản. Nếu không có sự lãnh đạo của giai cấp vô sản, thì không thể thực
hiện được đến cùng cuộc cách mạng dân chủ tư sản, đừng nói chi đến cách mạng
xã hội chủ nghĩa, bởi vì địa vị lãnh đạo của Đảng Cộng sản là một bộ phận không
thể tách rời của vai trò lãnh đạo của giai cấp vô sản”21.
20 Đi-a-cốp, Xớc-kin, Quốc tế Cộng sản với vấn đề dân tộc và thuộc địa, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1960,
tr.61-66. Phần III Chiến lược và sách lược của các Đảng Cộng sản Trung Quốc, Ấn Độ và các nước
thuộc địa tương tự, mục 17,18,19.
21 Đi-a-cốp, Xớc-kin, Quốc tế Cộng sản với vấn đề dân tộc và thuộc địa, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1960,
tr.66-67.


61. Trong

tác phẩm, tác giả cũng đã viết rõ rằng Đại hội VI Quốc tế Cộng

sản rút kết luận rằng22: chỉ khi nào giai cấp tư sản bị gạt ra ngoài cương vị lãnh đạo
phong trào thì cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc mới có thể thắng lợi.
62. Như

vậy, thái độ tả khuynh của Xứ ủy Trung kỳ phần lớn là xuất phát từ

sự nhận thức chưa đầy đủ và suy diễn sai lệch từ các Nghị quyết của Đại hội VI
Quốc tế Cộng sản, trong đó nhận thức chưa rõ ràng về sự khác biệt giữa nguồn gốc
xuất thân từ giai cấp tư sản và là giai cấp tư sản. Như chúng ta biết, lãnh tụ quốc tế
vô sản Engels xuất thân từ giai cấp tư sản, hay Lenin xuất thân từ gia đình quan
chức có địa vị cao thời Sa hoàng, nhưng họ vẫn là lãnh tụ của giai cấp vô sản và là
đội ngũ tham gia lãnh đạo phong trào cách mạng vô sản.

63. Kết

luận

64. Quốc

tế Cộng sản đã có những ảnh hưởng to lớn đối với Cách mạng Việt

Nam và ảnh hưởng đến tư tưởng của đông đảo cán bộ của Đảng Cộng sản Đông
Dương thông qua nhiều hình thức khác nhau: từ tuyên truyền chủ nghĩa Mác – Lênin bằng sách, báo chí, tài liệu tuyên truyền, ấn phẩm mác-xít,…; từ những Chỉ thị,
Nghị quyết của Quốc tế Cộng sản - trong việc căn cứ những vấn đề chung của
phong trào dân tộc tại các nước thuộc địa và nửa thuộc địa; từ việc đào tạo cán bộ
tại các trường đại học và cơ sở giáo dục của Quốc tế Cộng sản.
65. Song,

bên cạnh sự ảnh hưởng có tính chất tích cực góp phần vào việc

phát triển Đảng Cộng sản Đông Dương và đội ngũ cán bộ cách mạng Việt Nam có
thể đáp ứng phong trào cách mạng Việt Nam thì bên cạnh đó cũng còn những biểu
hiện tiêu cực, chưa đúng đắn. Trong đó, có những sai lầm đến từ chính đội ngũ cán
bộ cách mạng Việt Nam vì sự nhận thức về lý luận cách mạng còn chưa đủ, đồng
thời cũng có sai lầm đến từ Quốc tế Cộng sản và các phân bộ của nó là Ban
22 TS.

Hồ Tố Lương (2007), Quốc tế cộng sản với cách mạng Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội, tr.171.


phương Đông, trong một số trường hợp cụ thể đã có những chỉ đạo và nhận định
sai lệch, chưa sáng tạo trong việc nhận định đúng đắn tính chất cách mạng ở một

xứ thuộc địa, nửa phong kiến có trình độ nông nghiệp lạc hậu và chế độ thuộc địa
chưa phát triển.


66. TÀI

LIỆU TRÍCH DẪN

67. 1. Công văn của Sở Mật thám Đông Dương số 6783 ngày 10/12/1930 gửi từ Hà Nội

cho sở Mật thám Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ, tr.5. Tài liệu lưu tại Viện Lịch sử Đảng
68. 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảnh toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà

Nội, 2002, t.1
69. 3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà

Nội, 2002, t.5
70. 4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà

Nội, 2000, t.6
71. 5. Đi-a-cốp, Xớc-kin, Quốc tế Cộng sản với vấn đề dân tộc và thuộc địa, Nxb Sự thật,

Hà Nội, 1960
72. 6. Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, t.1
73. 7. Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, t.2
74. 8. TS. Hồ Tố Lương (2007), Quốc tế cộng sản với cách mạng Việt Nam, Nxb. Chính

trị quốc gia, Hà Nội.
75. 9. Viện Mác – Lê-nin: Sự hợp tác quốc tế giữa Đảng Cộng sản Liên Xô và Đảng


Cộng sản Việt Nam: Lịch sử và hiện tại, Nxb Sự thật, Hà Nội,1987
76. 10. A.A. XôCôLốp (1999), Quốc tế Cộng sản và Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia.

Hà Nội
77. 11. Nguyễn Thành, Quốc tế Cộng sản với vấn đề dân tộc và thuộc địa, Nxb Sách giao

khoa Mác – Lê-nin, Hà Nội, 1987
78. 12. Bùi Công Trừng: “Nhớ lại việc thống nhất Đảng”, Báo Nhân dân, ngày

10/12/1959
79. 13. Trung Tâm Lưu trữ và nghiên cứu các tài liệu lịch sử hiện đại Nga, tủ 495, hộp

19, hồ sơ 707
80. 14. Trung tâm lưu giữ và nghiên cứu các tài liệu lịch sử hiện đại Nga, tủ 495, hộp 18,

hồ sơ 1096, tờ 176



×