Tải bản đầy đủ (.doc) (93 trang)

vấn đề đạo đức kinh doanh và bài học ở một số doanh nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (348.03 KB, 93 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Trong những năm gần đây, ở Việt Nam, liên tiếp xảy ..ra những vụ bê
bối liên quan đến những hành vi thiếu trách nhiệm của các doanh nghiệp Việt
Nam đối với khách hàng, người tiêu dùng, cổ đông và toàn xã hội với những
hành vi tiêu biểu như: hành vi sản xuất và tiêu thụ các sản phẩm không an
toàn, kém chất lượng, gây tác hại cho sức khỏe người tiêu dùng, trong đó nổi
cộm là vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm...; hành vi thiếu minh bạch, thiếu
trung thực, thiếu trách nhiệm trong việc công bố các thông tin tài chính, thông
tin hoạt động của doanh nghiệp cho các cổ đông, cho công chúng nhà đầu tư,
đặc biệt là vấn đề công bố thông tin của các doanh nghiệp niêm yết trên thị
trường chứng khoán.... Những vụ bê bối ấy đang đặt ra nhiều câu hỏi về trách
nhiệm xã hội cũng như đạo đức kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam.
Liệu rằng khái niệm đó có thực sự tồn tại trong các doanh nghiệp? Nếu như
chúng tồn tại thì chúng đang đóng vai trò gì trong hoạt động của các doanh
nghiệp? Và làm thế nào để phát triển, phát huy vai trò của đạo đức kinh
doanh, trách nhiệm xã hội trong hoạt động của các doanh nghiệp Việt Nam?
Nhìn ra các nước phát triển trên thế giới, trong quá trình phát triển của
mình, họ đã đúc rút ra những bài học kinh nghiệm về vai trò, tầm quan trọng
của đạo đức kinh doanh, cũng như sự cần thiết phải áp dụng, phát triển vai trò
của chúng trong hoạt động của doanh nghiệp. Hiện nay, chính phủ và bản thân
doanh nghiệp ở những nước phát triển đã tích cực có những hành động, biện
pháp cụ thể nhằm đạt được mục tiêu trên.

1


Hiện nay, khái niệm đạo đức kinh doanh vẫn còn khá mới mẻ ở Việt Nam;
trong khi đó ở các nước phát triển, đạo đức kinh doanh đã trở thành một khái
niệm quen thuộc, và đã có những bước phát triển không ngừng. Chúng ta là
những người đi sau, có lợi thế là có thể học hỏi, đúc rút được những kinh nghiệm


từ quá trình phát triển của các quốc gia đi trước để tránh những sai lầm và thúc
đẩy quá trình phát triển của chính mình. Theo nguyên tắc này, người viết đã
mạnh dạn lựa chọn đề tài: “Vấn đề đạo đức kinh doanh ở một số quốc gia và
bài học kinh nghiệm cho các doanh nghiệp Việt Nam trong bối cảnh hội
nhập”, để góp phần phát triển đạo đức kinh doanh trong các doanh nghiệp

ở Việt Nam – một vấn đề rất bức thiết đối với Việt Nam hiện nay.
2. Mục đích nghiên cứu.
Thông qua nghiên cứu tìm hiểu sự phát triển của đạo đức kinh doanh
cũng như những biện pháp, cách thức mà Chính phủ, xã hội và bản thân các
doanh nghiệp ở một số quốc gia đã và đang tiến hành để nâng cao đạo đức
trong doanh nghiệp, người viết sẽ rút ra những kinh nghiệm, biện pháp phù
hợp cho Việt Nam để thực hiện mục tiêu xây dựng, nâng cao đạo đức kinh
doanh trong hoạt động của các doanh nghiệp Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hiện trạng và sự phát triển của đạo
đức kinh doanh ở ba quốc gia đó là: Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc. Lý do người
viết chọn ba quốc gia trên đó là Mỹ và Nhật Bản là hai cường quốc kinh tế
mạnh nhất trên thế giới, đồng thời cũng là những nước đã có sự phát triển cao
về thực hiện đạo đức kinh doanh trong doanh nghiệp; và Trung Quốc là một
đất nước đang phát triển đang trỗi dậy mạnh mẽ về kinh tế trên thế giới, bên
cạnh đó, bối cảnh cũng như các đặc điểm kinh tế - xã hội của Trung Quốc có

2


rất nhiều nét tương đồng đối với Việt Nam. Phạm vi nghiên cứu là các chính
sách, luật pháp của các Chính phủ, các chính sách của các công ty và các tài
liệu của tổ chức xã hội liên quan đến đạo đức kinh doanh.
4.


Phương pháp nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu để áp dụng chủ yếu là nghiên cứu phân tích

và tổng hợp tài liệu.
5. Bố cục.
Luận văn gồm 3 chương:
Chương I: Lý luận chung về đạo đức kinh doanh.
Chương II: Vấn đề đạo đức kinh doanh ở một số quốc gia.
Chương III: Một số bài học kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam.

3


CHƯƠNG I: Lý luận chung về đạo đức kinh doanh
1. Tổng quan về đạo đức kinh doanh.
1.1. Khái niệm đạo đức.
Theo quan niệm phương Tây, đạo đức được viết trong tiếng La-tinh là
từ Moralital (luân lý) có nghĩa là bản thân mình cư xử và trong tiếng Hi
Lạp là từ “Ethigos” (đạo lý) có nghĩa là người khác muốn ta hành xử và ta
muốn người khác như vậy.
Đối với quan niệm của người phương Đông mà tiêu biểu là trong văn
minh Trung Hoa, người ta quan niệm “đạo” là đường đi, đường sống của
con người, “đức” là các nguyên tắc luân lý, đức tính cần có của con người.
Như vậy, tổng kết lại, khái niệm đạo đức được hiểu là tập hợp các
nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội nhằm điều chỉnh, đánh giá hành
vi

của con người đối với bản thân và trong quan hệ với cá nhân khác,


với toàn xã hội.[Dương Thị Liễu, 2006]
Có thể nói, đạo đức ra đời từ rất sớm ngay trong những hình thái xã
hội đầu tiên của loài người.Trong xã hội, đạo đức thường được thể hiện
qua những chuẩn mực và quy tắc đạo đức được phân ra hai loại là tốt và
xấu như: lòng độ lượng, bác ái, tính thật thà, tham lam, lùa dối... Những
chuẩn mực và quy tắc này được hình thành trên nguyên tắc phải có sự thừa
nhận tự nguyện của cả cộng đồng xã hội. Nó được chấp hành dựa trên sức
mạnh của sự thôi thúc của lương tâm cá nhân, của dư luận xã hội, của tập
quán truyền thống và của giáo dục.. Thông qua hệ thống các chuẩn mực và
quy tắc đạo đức này, đạo đức quy định thái độ, nghĩa vụ, trách nhiệm của
mỗi người đối với bản thân, những người xung quanh và toàn xã hội. Qua

4


đó, đạo đức điều chỉnh hành vi của con người trong xã hội. Đây chính là
chức năng cơ bản của đạo đức trong suốt các thời kì lịch sử.
Với bản chất là một hình thái ý thức xã hội, đạo đức có hai đặc điểm:
Đạo đức có tính giai cấp, tính khu vực, tính địa phương: Điều kiện,
hoàn cảnh sống có tác động trực tiếp, ảnh hưởng lớn lên cách thức sinh
sống, lên tư duy và quan niệm về các vấn đề xã hội của con người. So sánh
giữa quan niệm đạo đức của các dân tộc ở các khu vực địa lý khác nhau,
giữa các giai cấp khác nhau ta dễ dàng nhận thấy sự khác biệt.
Nội dung của các chuẩn mực đạo đức thay đổi theo điều kiện lịch sử cụ
thể: Qua từng giai đoạn phát triển khác nhau của các hình thái tổ chức xã
hội. Chúng ta dễ dàng nhân thấy sự khác biệt trong chuẩn mực đạo đức của
từng thời kỳ. Nếu như trong xã hội phong kiến, việc trung thành với quân
vương là tiêu chuẩn tiên quyết trong đánh giá tư cách đạo đức con người
thì đến các xã hội sau này, tiêu chuẩn này đã mất đi.
Trong các hình thái xã hội phát triển cao hơn về sau này, khi có sự xuất

hiện của Nhà nước, pháp luật đã được ra đời và cùng đóng vai trò điều
chỉnh hành vi của con người trong xã hội với đạo đức. Tuy nhiên, đạo đức
có những đặc điểm khác biệt mà pháp luật không có được:
 Sự điều chỉnh hành vi của đạo đức không mang tính cưỡng chế,
cưỡng bức như pháp luật mà mang tính tự nguyện. Các chuẩn mực đạo
đức cũng không được qui định thành văn.
 Phạm vi điều chỉnh của đạo đức rộng hơn so với pháp luật khi nó
không chỉ điều chỉnh những hành vi của con người như pháp luật mà còn
bao quát mọi lĩnh vực của thế giới tinh thần.

5


1.2. Khái niệm đạo đức kinh doanh.
1.2.1. Sự phát triển của khái niệm đạo đức kinh doanh trong các thời kì
lịch sử.
a) Sự phát triển của khái niệm đạo đức kinh doanh trước thời kì hiện đại.
Lịch sử xuất hiện của đạo đức kinh doanh gắn liền với sự ra đời và
phát triển của buôn bán, thương mại trên thế giới. Từ thuở ban đầu, trong
các hoạt động buôn bán, trao đổi người ta đã qui định, đòi hỏi với nhau
những nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức như: không được trộm cắp, phải
trung thực, sòng phẳng trong trao đổi; phải có chữ tín, tôn trọng các cam
kết thỏa thuận... Đây là những nguyên tắc ban đầu của đạo đức kinh doanh.

Trong giai đoạn đầu phát triển, những tín điều tôn giáo đóng vai trò
quan trọng trong việc hình thành và xây dựng ý thức tuân thủ các nguyên
tắc, chuẩn mực đạo đức của mọi người.
Ở phương Tây, trong Luật Tiên tri lâu đời đã có những lời khuyên như:
đến mùa thu hoạch, mọi người không nên gặt hái hết hoa màu mà nên dành
lại một phần để dành cho những người nghèo khó; hay mỗi tuần nên dành

một ngày để cho cả chủ và thợ được nghỉ ngơi... Đến thời Trung cổ, Giáo
hội La Mã đã có Luật đề ra những nguyên tắc của đạo đức kinh doanh như:
mọi người phải trung thực trong trao đổi, buôn bán theo nguyên tắc “thuận
mua vừa bán”; không nên trả lương quá thấp cho người làm công...

Ở phương Đông, những tư tưởng về đạo đức kinh doanh đã được tìm
thấy trong Luật Hồi giáo với những điều răn dạy ngăn cản việc cho vay lấy
lãi, trừ trường hợp bỏ vốn ra đầu tư, buôn bán thì được phép hưởng lợi và

6


đặc biệt là những tư tưởng của các học giả Trung Quốc thời cổ đại mà tiêu
biểu đó là Khổng Tử và Hàn Phi Tử. Nhắc đến Khổng Tử là nhắc đến tư
tưởng Đức trị được thể hiện qua Ngũ thường: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Dũng
của ông.
Nhẫn là biết yêu thương, giúp đỡ người khác và lấy đó làm phương
hướng rèn luyện của bản thân. Nhân là yếu tố quan trọng nhất, đóng vai trò
chi phối trong Ngũ thường.
Nghĩa là thấy việc gì đáng làm thì dốc sức làm không mưu lợi cá nhân
với cả phương châm “không thành công cũng thành nhân”. Quan điểm này
đã được phát triển thành tư tưởng “đạo đức vĩ mô” trong đạo đức phương
Tây thời gian sau này.
Lễ là hình thức của Nhân, chủ trương “điều mình không muốn làm cho
mình thì không nên làm cho người khác”.
Trí là có trí tuệ, biết mình, biết người.
Dũng là sự kiên cường, quả cảm vượt qua khó khăn để đạt được mục
đích đề ra, thậm chí là sẵn sàng hi sinh bản thân vì mục đích cao cả. Ở
phương Tây, triết lý quản lý của nhiều công ty coi rủi ro là một yếu tố tất
yếu trong quá trình hoạt động, ra quyết định và họ khuyến khích tinh thần

dám đối mặt và phấn đấu vượt qua thách thức, khó khăn.
Khác hẳn với Khổng Tử, Hàn Phi Tử lại chủ trương dùng pháp trị, coi
hình phạt là cách thức ngăn chặn những hành vi xấu hiệu quả nhất. Ông
đưa ra ba khái niệm trong học thuyết cai trị của mình đó là Thế, Pháp và
Thuật.

7


Thế là quyền thế, là sự coi trọng quyền lực. Theo ông, quyền lực phải
được tập trung và thưởng phạt là cách thức cai trị.
Pháp là pháp luật, là căn cứ để phân biệt đúng – sai, phải – trái, thể
hiện tính công bằng và phải được công khai, phổ biến rộng rãi.
Thuật là nghệ thuật cai trị. Ông cho rằng trong nghệ thuật cai trị bao
gồm 2 khía cạnh là kỹ thuật và tâm thuật. Kỹ thuật là cách thức tuyển
dụng, đánh giá, quản lý. Còn tâm thuật là các mưu mẹo, thủ thuật khống
chế, điều khiển hành vi.
Trong những giai đoạn về sau, khi xã hội loài người đã có những bước
phát triển lên các giai đoạn cao hơn đánh dấu với sự ra đời và hoan thiện
của Nhà nước thì các nguyên tắc của đạo đức kinh doanh được dần dần
đưa vào trong luật pháp để ngày càng có tính ràng buộc, có hiệu lực điều
chỉnh hành vi xã hội mạnh cao hơn.
b) Sự phát triển của khái niệm đạo đức kinh doanh hiện đại.
Sang đến thế kỷ XX, đạo đức kinh doanh đã có những bước phát triển
vượt bậc khi trở thành một lĩnh vực nghiên cứu thu hút sự quan tâm của
nhiều học giả, các công ty, Nhà nước và của cả xã hội. Đạo đức kinh doanh
đã trở thành một lợi thế cạnh tranh quan trọng đối với các doanh nghiệp.
Sự phát triển của đạo đức kinh doanh trong thế kỷ XX được phân chia
thành các giai đoạn như sau:
 Trước thập kỷ 60, đạo đức kinh doanh được khởi đầu bằng các vấn đề

chủ yếu do các Giáo phái đưa ra, đề cập chủ yếu đến mối quan hệ giữa
người lao động và các chủ doanh nghiệp như Đạo Thiên chúa giáo dành
nhiều sự quan tâm đến mức sống , quyền lợi của người công nhân...

8


 Trong thập kỷ 60, đối tượng những người tiêu dùng bắt đầu được chú
ý Các đạo luật về bảo vệ người tiêu dùng được ban hành. Năm 1963,
Tổng thống Mỹ đã đưa ra thông báo đặc biệt về quyền lợi người tiêu dùng.
Từ năm 1968 – 1970, một số luật có nội dung bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng được ban hành. Đây cũng là thập kỷ mà các vấn đề liên quan đến môi
trường sinh thái như vấn đề ô nhiễm, các chất độc hại cũng đã bắt đầu
được chú ý đến.
 Đến thập kỷ 70, đạo đức kinh doanh đã trở thành một lĩnh vực nghiên
cứu. Các trung tâm nghiên cứu về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp
được thành lập. Người ta đã đưa ra những khuyến nghị về những nguyên
tắc đạo đức kinh doanh cần được áp dụng trong hoạt động của doanh
nghiệp. Đặc biêt, khi những vấn đề như hối lộ, quảng cáo lừa gạt, an toàn
sản phẩm, hành vi thông đồng câu kết với nhau để áp đặt giá của một số
doanh nghiệp bị phát giác thì khái niệm đạo đức kinh doanh đã ngày càng
trở nên quen thuộc với người tiêu dùng và trở thành một đòi hỏi bức thiết
họ đối với các doanh nghiệp.
 Trong những năm 80, việc giảng dạy và nghiên cứu về đạo đức kinh
doanh đã có những bước tiến vượt bậc. Chỉ tính riêng ở Mỹ, đã có hơn 30
trung tâm nghiên cứu về đạo đức kinh doanh được thành lập. Các khóa học
về đạo đức kinh doanh tại các trường đại học của Mỹ đã tăng lên 500 khóa
và thu hút 70.000 sinh viên theo học. Các công ty lớn như:
Johnson&Johnson, Caterpiller đã thành lập những Ủy ban Đạo đức và
chính sách xã hội để giải quyết những vấn đề đạo đức trong công ty.

 Trong thập kỷ 90, đạo đức kinh doanh đã được thể chế hóa. Tháng
11/1991, Quốc hội Mỹ đã thông qua chỉ dẫn xử án đối với các tổ chức có

9


các hành vi vô đạo đức gây thiệt hại cho các bên được ghi thành luật và
những khuyến khích đối với các doanh nghiệp có những biện pháp ngăn
ngừa các hành vi phi đạo đức.
Bước sang thế kỷ XXI, vấn đề đạo đức kinh doanh tiếp tục được
nghiên cứu, xem xét đa dạng hơn từ nhiều góc độ khác nhau gồm luật
pháp, triết học và các khoa học xã hội khác. Đặc biệt khi yếu tố phát triển
bền vững ngày càng được các doanh nghiệp và cộng đồng xã hội chú trọng
thì vai trò của đạo đức kinh doanh trong doanh nghiệp càng được đề cao,
trở thành một nhân tố không thể thiếu trong hoạt động của doanh nghiệp
bở vì chỉ khi doanh nghiệp hoạt động có đạo đức, doanh nghiệp mới có thể
có được sự phát triển bền vững.
1.2.2. Khái niệm đạo đức kinh doanh.
Trên thế giới hiện nay, tồn tại rất nhiều định nghĩa về đạo đức kinh
doanh của các học giả, các nhà nghiên cứu dựa trên những góc độ và quan
điểm nhìn nhận khác nhau.
Khái niệm đơn giản nhất về đạo đức kinh doanh của các học giả
phương Tây đưa ra đó là định nghĩa của Brenner theo đó: “Đạo đức kinh
doanh là những nguyên tắc được chấp nhận để phân định đúng sai, nhằm
điều chỉnh hành vi của các nhà kinh doanh”.[TS. Nguyễn Hoàng
Ánh,2009]
Giáo sư người Mỹ Phillip V.Lewis đã dành thời gian điều tra, thu thập
185 định nghĩa về đạo đức kinh doanh được đề cập trong các sách báo,
các bài nghiên cứu. Qua đó, ông đã tổng hợp những định nghĩa này và đưa
ra định nghĩa đạo đức kinh doanh là: “Đạo đức kinh doanh là tất cả


10


những quy tắc, tiêu chuẩn, chuẩn mực đạo đức hoặc luật lệ để cung cấp
chỉ dẫn về hành vi ứng xử chuẩn mực và sự trung thực (của một tổ chức)
trong những trường hợp nhất định”.[TS. Nguyễn Hoàng Ánh, 2009]
Một khuyết điểm lớn trong những định nghĩa về đạo đức kinh doanh
của Giáo sư Philip V.Lewis và các học giả trước đó đó là họ nêu ra đạo
đức kinh doanh bao gồm những chuẩn mực, qui tắc ứng xử để phân định
các hành vi đúng sai trong hoạt động kinh doanh nhưng lại chưa chỉ ra
được bằng cách thức nào để xác định điều gì là đúng và điều gì là sai
trong hoạt động kinh doanh.
Phát triển từ định nghĩa của Giáo sư Lewis, hai học giả Ferrels và
John Fraedrich đã đưa ra một định nghĩa đầy đủ hơn về đạo đức kinh
doanh đó là: Đạo đức kinh doanh bao gồm những nguyên tắc cơ bản và
tiêu chuẩn điều chỉnh hành vi trong thế giới kinh doanh. Tuy nhiên, việc
đánh giá một hành vi cụ thể là đúng hay sai, phù hợp với đạo đức hay
không sẽ được quyết định bởi nhà đầu tư, nhân viên, khách hàng,các
nhóm có quyền lợi liên quan, hệ thống pháp lý cũng như cộng đồng”.[TS.
Nguyễn Hoàng Ánh, 2009]
Còn ở Việt Nam, giữa các học giả nghiên cứu về đạo đức kinh doanh
hiện nay cũng có sự tồn tại đan xen của nhiều định nghĩa khác nhau về
đạo đức kinh doanh.
Theo tác giả Dương Thị Liễu trong cuốn sách “Bài giảng về văn hóa
kinh doanh” thì đạo đức kinh doanh được định nghĩa là: “Đạo đức kinh
doanh là một tập hợp các nguyên tắc, chuẩn mực có tác dụng điều chỉnh,
đánh giá, hướng dẫn và kiểm soát hành vi của các chủ thể kinh doanh.
[Dương Thị Liễu, 2006]


11


Còn theo GS.TS Nguyễn Mạnh Quân thì: “ Đạo đức kinh doanh bao
gồm những nguyên tắc và chuẩn mực có tắc dụng nhằm hướng dẫn hành
vi trong các mối quan hệ kinh doanh, chúng được những người hữu quan
(nhà quản lý, nhà đầu tư, người lao động, khách hàng, đối tác, các cơ
quan pháp lý, cộng đồng dân cư...) sử dụng để phát xét xem một hành
động cụ thể là đúng hay là sai, là hợp đạo đức hay phi đạo đức.”[GS. TS
Nguyễn Mạnh Quân, 2008]
Về bản chất, đạo đức kinh doanh cũng là một đạng đạo đức nghề
nghiệp. So với những tiêu chuẩn đạo đức trong các ngành nghề khác, đạo
đức kinh doanh có tính đặc thù của hoạt động kinh doanh vốn gắn liền với
các lợi ích kinh tế, nên khía cạnh thể hiện trong ứng xử về đạo đức có
những đặc điểm khác như: tính thực dụng, sự coi trọng hiệu quả kinh tế là
yếu tố dược chấp nhận trong đạo đức kinh doanh.. Tuy vậy, đạo đức kinh
doanh vẫn luôn phải chịu sự chi phối bởi một hệ giá trị và chuẩn mực đạo
đức xã hội chung.
Đạo đức kinh doanh có các nguyên tắc là:
Tính trung thực: Gồm trung thực với Nhà nước cụ thể là: trung thực
trong chấp hành pháp luật của Nhà nước, không làm ăn phi pháp, không
sản xuất và buôn bán những mặt hàng quốc cấm, thực hiện những dịch vụ
có hại cho thuần phong mỹ tục... và trung thực với đối tác, người tiêu dùng
cụ thể là: không dùng các thủ đoạn gian dối, xảo trá để kiếm lời, giữ lời
hứa, giữ chữ tín trong kinh doanh, nhất quán trong nói và làm...
Tôn trọng con người: Đối với cộng sự và những người dưới quyền thì
phải tôn trọng phẩm giá, quyền lợi chính đáng, tôn trọng hạnh phúc, tôn
trọng tiềm năng phát triển của nhân viên, quan tâm đúng mức, tôn trọng

12



quyền tự do cá nhân và các quyền hợp pháp khác. Đối với khách hàng:
phải tôn trọng nhu cầu, sở thích và tâm lý khách hàng. Đối với đối thủ
cạnh tranh thì phải tôn trọng lợi ích của đối thủ.
Gắn lợi ích của doanh nghiệp với lợi ích của khách hàng và xã hội,
coi trọng hiệu quả gắn với trách nhiệm xã hội.
Bí mật và trung thành với các trách nhiệm đặc biệt.
Đạo đức kinh doanh điều chỉnh các chủ thể trong hoạt động kinh
doanh bao gồm:
Tầng lớp doanh nhân thực hiện hoạt động kinh doanh: đạo đức kinh
doanh điều chỉnh hành vi đạo đức của tất cả các thành viên trong các tổ
chức kinh doanh ( hộ gia đình, công ty, tập đoàn, xí nghiệp) như ban giám
đốc, cán bộ nhân viên... Sự điều chỉnh này chủ yếu thông qua công tác
lãnh đạo, quản lý trong những tổ chức đó. Đạo đức kinh doanh chính là
đạo đức nghề nghiệp của họ.
Khách hàng và các đối tác kinh doanh của doanh nghiệp: Các khách
hàng khi thực hiện hoạt động mua hàng cũng đều xuất phát từ lợi ích kinh
tế của bản thân, đều có tâm lý muốn mua rẻ và được phục vụ chu đáo. Vì
vậy, nó cũng cần phải chịu sự điều chỉnh của đạo đức kinh doanh, tránh
tình trạng, khách hàng lợi dụng vị thế của mình để chèn ép, xâm phạm
danh dự, nhân phẩm của các doanh nhân.
So sánh đạo đức kinh doanh và trách nhiệm xã hội.
Khái niệm trách nhiệm xã hội.
Các học giả và các nhà nghiên cứu trên thế giới đã đưa ra rất nhiều
định nghĩa về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp.

13



Keith Davis (1973) đã đưa ra một khái niệm khá rộng về CSR đó là:
“CSR là sự quan tâm và phản ứng của doanh nghiệp với các vấn dề vuợt
ra ngoài việc thỏa mãn những yêu cầu pháp lý, kinh tế, công nghệ”.
Trong khi đó, Carroll (1999) cho rằng CSR còn có phạm vi lớn hơn
“là tất cả các vấn đề kinh tế, pháp lý, đạo đức, và những linh vực khác mà
xã hội trông dợi ở doanh nghiệp trong mỗi thời điểm nhất định.”
Theo Matten và Moon (2004): “CSR là một khái niệm chùm bao gồm
nhiều khái niệm khác nhu đạo đức kinh doanh, doanh nghiệp làm từ thiện,
công dân doanh nghiệp, tính bền vững và trách nhiệm môi truờng. Ðó là
một khái niệm rộng và luôn đuợc thử thách trong từng bối cảnh kinh tế,
chính trị, xã hội đặc thù.” [Nguyễn Thu Quỳnh, 2009]
Theo WB, trách niệm xã hội của doanh nghiệp là cam kết của doanh
nghiệp đóng góp cho sự phát triển kinh tế bền vững, thông qua việc tuân
thủ các chuẩn mực về bảo vệ môi trường, bình đẳng về giới, an toàn về
lao động, tôn trọng quyền lợi người lao động, trả lương công bằng, đào
tạo và phát triển nhân viên, phát triển cộng đồng...theo cách có lợi cho
doanh nghiệp cũng như sự phát triển chung của xã hội.[Dương Thị Liễu,
2006]
Trách nhiệm xã hội là nghĩa vụ mà một doanh nghiệp phải thực hiện
đối với xã hội. Có trách nhiệm với xã hội là tăng đến mức tối đa các tác
dụng tích cực và giảm tới mức tối thiểu các hậu quả tiêu cực với xã hội.
Các doanh nghiệp có thể thực hiện trách nhiệm xã hội của mình bằng cách
đạt một chứng chỉ quốc tế hay áp dụng những bộ quy tắc ứng xử.
Mối quan hệ giữa đạo đức kinh doanh và trách nhiệm xã hội.
Trên thực tế, khái niệm trách nhiệm xã hội được nhiều người hiểu là
một biểu hiện của đạo đức kinh doanh nhưng giữa hai khái niệm này có ý
nghĩa hoàn toàn khác nhau.

14



Nếu trách nhiệm xã hội là những nghĩa vụ một doanh ngiệp hay cá
nhân phải thực hiện đối với xã hội nhằm đạt được nhiều nhất những tác
động tích cực và giảm tối thiểu các tác động tiêu cực đối với xã hội, thì
đạo đức kinh doanh lại bao gồm các qui định và tiêu chuẩn đạo đức điều
chỉnh hành vi trong kinh doanh. Trách nhiệm xã hội là một cam kết với xã
hội, còn đạo đức kinh doanh lại bao gồm các qui định về các phẩm chất
đạo đức của các tổ chức kinh doanh và nó sẽ chi phối quá trình ra quyết
định của các tổ chức này.
Nếu đạo đức kinh doanh liên quan đến các nguyên tắc và qui định chi
phối các quyết định của các tổ chức kinh doanh thì trách nhiệm xã hội
quan tâm tới hậu quả của những quyết định mà các tổ chức kinh doanh
thực hiện. Đạo đức kinh doanh thể hiện những mong muốn, kì vọng xuát
phát từ bên trong, còn trách nhiệm xã hội thể hiện những mong muốn, kì
vong xuất phát từ bên ngoài.
Tuy có sự khác nhau nhưng giữa hai khái niệm này cũng có mối quan
hệ chặt chẽ với nhau. Đạo đức kinh doanh chính là sức mạnh trong trách
nhiệm xã hội vì chỉ khi bản thân các tổ chức có sự tuân thủ đạo đức thì họ
mới có thể thực sự có thành ý thực hiện tốt các trách nhiệm xã hội của
mình.
2. Các khía cạnh thể hiện của đạo đức kinh doanh trong doanh nghiệp.
2.1. Đạo đức trong quản trị doanh nghiệp.
Vấn đề đạo đức trong quản trị doanh nghiệp chủ yếu được thể hiện
trong các vấn đề cơ bản liên quan đến mối quan hệ giữa người chủ sở hữu
hay quản lý đối với nhân viên như sau:

15


Đạo đức trong tuyển dụng, bổ nhiệm, sử dụng lao động

Những vấn đề đạo đức trong quá trình tuyển dụng, bổ nhiệm lao động
thường gặp bao gồm:
Tình trạng phân biệt đối xử: Phân biệt đối xử là việc không cho phép
một người nào đó được hưởng những lợi ích nhất định xuất phát từ định
kiến về phân biệt biểu hiện ở các dạng như: phân biệt chủng tộc, giới tính,
tôn giáo, địa phương, tuổi tác....Trong tất cả các công việc luôn có những
tính chất, đặc điểm đòi hỏi người lao động phải có những đặc điểm về tuổi
tác, giới tính... nhất định, nhưng nhất thiết những yêu cầu này phải được
dựa trên những nguyên nhân hợp lý, theo đúng đòi hỏi thực tế của công
việc. Tuy vậy, có nhiều trường hợp quyết định tuyển dụng, bổ nhiệm nhân
sự của nhà quản lý lại dựa trên những định kiến về phân biệt đối xử. Họ
thường quyết định dựa trên cơ sở người lao động thuộc một nhóm người
nào đó, đặc điểm của nhóm người này sẽ được gán cho người lao động bất
kể họ có những đặc điểm đó hay không và dựa trên giả định là nhóm người
này kém cỏi hơn nhóm người khác. Đó là những định kiến như: phụ nữ
khó có thể đưa ra những quyết định hợp lý nên không thể làm được lãnh
đạo, người da màu kém thông minh hơn người da trắng... Những quyết
định như vậy không chỉ ảnh hưởng đến quyền lợi người lao động mà còn
ảnh hưởng đến chính bản thên doanh nghiệp khi họ có thể mất đi nguồn
nhân lực có chất lượng.
Tôn trọng quyền riêng tư cá nhân của người lao động: Việc yêu cầu
người lao động cung cấp các thông tin cá nhân cho doanh nghiệp để hoạt
động quản lý được dễ dàng là yêu cầu chính đáng. Tuy nhiên, ngược lại
doanh nghiệp cũng phải có trách nhiệm bảo mật thông tin cá nhân cho

16


người lao động. Những trường hợp các nhà quản lý doanh nghiệp sử dụng
các thông tin cá nhân để phục vụ cho các ý đồ cá nhân như trả thù cá nhân,

nói xấu, trù đập, gây sức ép cho người lao động cần bị lên án và loại bỏ
trong doanh nghiệp.
Sử dụng và đãi ngộ người lao động hợp lý, xứng đáng: Doanh nghiệp
cần phải có chính sách sử dụng người lao động hợp lý, phù hợp với năng
lực của họ để họ có thể phát huy, đóng góp hết khả năng cho công ty. Bên
cạnh đó, bản thân các doanh nghiệp cũng phải có những sự đãi ngộ tương
xứng với công sức người lao động đã đóng góp cho doanh nghiệp. Làm tốt
công tác sử dụng lao động sẽ giúp doanh nghiệp hoạt động hiệu quả, tăng
trưởng lợi nhuận bền vững. Những hành vi chèn ép, bóc lột người lao động
là những trường hợp cần hết sức tránh trong hoạt động của doanh nghiệp.
Đạo đức trong đánh giá người lao động.
Hành vi hợp đạo đức của người quản lý trong đánh giá người lao động
là người quản lý không được đánh giá người lao động trên cơ sở định kiến
hay những tình cảm cá nhân. Những nhân tố như sự yêu ghét cá nhân, sự
ghanh ghét, đố kỵ... hay dùng ấn tượng của mình về một nhóm người mà
người lao động thuộc nhóm người đó để nhìn nhận họ là những điều người
quản lý phải hết sức tránh.
Đánh giá người lao động phải dựa trên những đóng góp thực tế của họ
cho doanh nghiệp một cách vô tư, công bằng thông qua sự giám sát của
các nhà quản lý. Sự giám sát này cũng phải được thực hiện một cách cẩn
trọng và tế nhị, trên nguyên tắc tôn trọng quyền cá nhân của người lao
động, tránh gây áp lực, tâm lý căng thẳng hay xâm phạm thô bạo quyền cá
nhân cho người lao động.

17


Đạo đức trong bảo vệ người lao động.
Vấn đề quan trọng nhất trong bảo vệ người lao động là đảm bảo điều
kiện cho người lao động có một môi trường lao động an toàn và lành

mạnh. Đây là quyền cơ bản của người lao động mà doanh nghiệp phải tuân
thủ. Mặt khác, nếu để xảy ra những tai nạn, rủi ro cho người lao động thì
bản thân các doanh nghiệp phải gánh chịu những ảnh hưởng xấu tác động
trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp phải
nhận thức rõ việc đảm bảo một môi trường làm việc an toàn, thuận lợi cho
người lao động cũng chính là đảm bảo cho tương lai phát triển bền vững
của doanh nghiệp. Tuy nhiên nhiều khi việc đảm bảo các yếu tố an toàn
cho người lao động làm doanh nghiệp mất một khoản chi phí không nhỏ
nên đã có những doanh nghiệp chỉ thực hiện một cách hình thức, nửa vời.
Những hành vi này cũng rất đáng bị lên án.
2.2. Đạo đức trong quan hệ với cổ đông.
Cổ đông là các cá nhân, nhóm cá nhân hay các tổ chức đóng góp một
phần hay toàn bộ nguồn lực vật chất, tìa chính cần thiết cho các hoạt động
của doanh nghiệp và có quyền sở hữu, kiểm soát nhất định đối với doanh
nghiệp thông qua giá trị đóng góp. Cổ đông có thể trực tiếp tham gia quản
lý công ty hay ủy quyền cho những nhà quản lý chuyên nghiệp.
Các vấn đề đạo đức nảy sinh trong mối quan hệ giữa doanh nghiệp
với các cổ đông chủ yếu phát sinh từ mối quan hệ giữa sở hữu và quản lý
doanh nghiệp thể hiện ở mâu thuẫn giữa nhiệm vụ của nhà quản lý đối với
các cổ đông với lợi ích của chính họ và lợi ích của xã hội. Về cơ bản lợi
ích của cổ đông là được bảo toàn và phát triển giá trị tài sản. Trên thực tế,
có những lúc nhà quản lý phải đứng trước sự lựa chọn, quyết định giữa

18


những hoạt động có thể đem đến nguồn lợi nhuận lớn cho các cổ đông
nhưng gây thiệt hại cho xã hội; hay làm lợi cho bản thân nhưng gây thiệt
hại cho các cổ đông... Các nguyên tắc đạo đức đề ra cho người quản lý
trong trương hợp này là phải có những hành động sáng suốt, vô tư nhất,

trung thực nhất để hài hòa lợi ích của cổ đông với lợi ích của xã hội và lợi
ích bản thân. Xét đến cùng, sự phát triển bền vững của doanh nghiệp xuất
phát từ những đóng góp của nó cho xã hội cũng sẽ đem lại lợi ích lâu dài
cho các cổ đông và bản thân các nhà quản lý.
2.3. Đạo đức trong quan hệ với khách hàng.
Khách hàng chính là đối tượng phục vụ, là người sử dụng hàng hóa,
dịch vụ, đánh giá chất lượng, tái tạo và phát triển nguồn lợi nhuận cho
doanh nghiệp. Những vấn đề đạo đức của doanh nghiệp liên quan đến
khách hàng thường là những thủ đoạn marketing phi đạo đức và vấn đề an
toàn sản phẩm. Nguyên nhân chủ yếu dẫn tới nảy sinh những vấn đề trên là
từ sự tồn tại của sự bất bình đẳng thông tin giữa người sản xuất và người
tiêu dùng: người sản xuất luôn nắm rõ thông tin về sản phẩm của mình,
còn người tiêu dùng luôn ở thế bị động, họ phải quyết định có nên mua sản
phẩm hay không dựa trên những nguồn thông tin hạn hẹp về sản phẩm.
Hậu quả dễ xảy ra là người tiêu dùng phải chịu những thiệt thòi lớn.
2.3.1. Những hoạt động marketing phi đạo đức.
Bản chất của hoạt động marketing là hoạt động nhằm hướng dòng lưu
chuyển hàng hóa và dịch vụ từ nhà sản xuất đến người tiêu dùng. Triết lý
của marketing là thỏa mãn tối đa nhu cầu của khách hàng nhờ đó tối đa lợi
nhuận cho doanh nghiệp và tối đa lợi ích cho xã hội. Nguyên tắc chỉ đạo
của marketing là tất cả các hoạt động marketing đều phải định hướng vào

19


người tiêu dùng . Vì vậy, nguyên tắc đạo đức trong hoạt động marketing
đòi hỏi hoạt động này phải cung cấp thông tin một cách chính xác, trung
thực nhất cho người tiêu dùng cũng như tôn trọng quyền cá nhân của họ
giúp người tiêu dùng có những quyết định lựa chọn phù hợp và chính xác
nhất. Bất kỳ biện pháp marketing nào cung cấp những thông tin dẫn đến

quyết định sai lầm của người tiêu dùng đều là phi đạo đức.
Các vấn đề liên quan đạo đức liên quan đến marketing thường nảy sinh
chủ yếu trong quảng cáo và bán sản phẩm, định giá hay trong các kênh
phân phối điều khiển dòng sản phẩm từ nơi sản xuất tới tay khách hàng.
Các hình thức quảng cáo bị coi là phi đạo đức thường gặp như: quảng cáo
phóng đại, thổi phồng sản phẩm vượt quá mức hợp lý hoặc che dấu sự thật,
đưa ra những thông tin mơ hồ về sản phẩm tạo nên niềm tin sai lầm của
người tiêu dùng về sản phẩm, gây trở ngại cho người tiêu dùng trong việc
đưa ra quyết định lựa chọn tiêu dùng tối ưu, dẫn dắt người tiêu dùng đến
những quyết định lựa chọn lẻ ra họ không thực hiện nếu không có quảng
cáo; hay quảng cáo có hình thức khó coi, phi thị hiếu, không phù hợp với
văn hóa bản địa, nhắm vào những đối tượng nhạy cảm như trẻ em, trẻ vị
thành niên gây ảnh hưởng xấu đến hành vi, làm xói mòn nền văn hóa. Bên
cạnh đó là những chiêu thức bán hàng lừa gạt như bán hàng giảm giá
nhưng thực chất giá sản phẩm chưa hề được giảm mức nào, hoặc là ghi
nhãn “ sản phẩm giới thiệu” cho sản phẩm bán đại trà; hay bán cho người
tiêu dùng một sản phẩm với giá thấp nhưng để sử dụng được sản phẩm đó
khách hàng phải mua sản phẩm khác với mức giá cao hơn....gây thiệt hại
cho người tiêu dùng. Những hành vi như vậy cần được lên án mạnh mẽ từ
phía khách hàng, cũng như các tổ chức xã hội và cơ quan nhà nước.

20


2.3.2. Vấn đề an toàn sản phẩm.
Những biểu hiện của sản phẩm không an toàn là: những sản phẩm có
thể gây tai nạn cao khi có sự cố, những sản phẩm ảnh hưởng đến sức khỏe,
những sản phẩm mang nội dung độc hại, kích thích bạo lực... Trách nhiệm
của nhà sản xuất là phải đem đến cho người tiêu dùng những sản phẩm an
toàn. Tuy vậy, trong thực tế, có nhiều doanh nghiệp đa phần nằm ở các

nước đang phát triển khi sự kiểm soát của Nhà nước chưa đủ mạnh vẫn vì
lợi nhuận trước mắt mà cố tình lờ đi những qui định an toàn về sản phẩm,
sản xuất những mặt hàng có hại cho sức khỏe người tiêu dùng. Hậu quả
đối với những doanh nghiệp này sẽ là rất nặng nề. Vì vậy, để hướng tới sự
phát triển lâu dài, bền vững, các doanh nghiệp nhất thiết phải nhận thức rõ
trách nhiệm của mình, luôn giữ chữ tín trong sản xuất – kinh doanh.
2.4. Đạo đức trong quan hệ cạnh tranh trên thị trường.
Cạnh tranh là một nhân tố tất yếu trong hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp. Trong kinh doanh, nó được xem là một nhân tố tích cực
thúc đẩy các doanh nghiệp luôn cố gắng tự hoàn thiện, nâng cao chất
lượng sản phẩm của mình để có thể tồn tại, phát triển và thành công trên
thị trường. Có rất nhiều biện pháp cạnh tranh mà doanh nghiệp có thể áp
dụng để cạnh tranh với các đối thủ của mình bao gồm cả những biện pháp
cạnh tranh lành mạnh và cạnh tranh không lành mạnh. Những biện pháp
cạnh tranh lành mạnh tuy không thể mang lại hiệu quả tức thì cho doanh
nghiệp nhưng nó mang lại cho doanh nghiệp sự phát triển và thành công
bền vững khi uy tín kinh doanh của doanh nghiệp liên tục được duy trì và
nâng cao, doanh nghiệp luôn có hình ảnh đẹp trong mắt khách hàng và đối
tác kinh doanh. Mặc dù vậy, có nhiều doanh nghiệp chỉ nhìn thấy những
lợi ích trước mắt, muốn có được những hiệu quả tức thì đã áp dụng những

21


biện pháp cạnh tranh không lành mạnh nhằm chèn ép, giảm uy tín kinh
doanh để triệt hạ đối thủ kinh doanh. Họ có thể giành được nhanh chóng
nguồn lợi nhuận và thị phần cao, tuy nhiên hậu quả sau này sẽ khiến doanh
nghiệp bị xã hội tẩy chay và phải gánh chịu những hậu quả pháp lý nặng
nề.
Trong kinh doanh, cạnh tranh không lành mạnh thể hiện phổ biến nhất

là ở hành vi thông đồng, câu kết giữa các đối thủ cạnh tranh nhằm thao
túng thị trườn. Họ ngầm ký kết với nhau một hợp đồng, một thỏa thuận để
qui định giá cả, dịch vụ nhằm độc quyền kinh doanh để thu được lợi nhuận
kếch xù. Hành vi này sẽ bóp méo thị trường, gây thiệt hại rất lớn cho
người tiêu dùng và cả xã hội.
Một hành vi canh tranh không lành mạnh khác cũng hay được các
doanh nghiệp áp dụng là việc doanh nghiệp tập trung thu thập các thông
tin tấn công đối thủ cạnh tranh nhằm bôi xấu, hạ thấp uy tín kinh doanh
của họ để làm lợi cho bản thân. Điển hình là trong các cuộc đấu thầu giữa
các doanh nghiệp. Hành vi này sẽ tạo ra hoạt động kinh doanh không công
bằng, thiếu lành mạnh, cản trở sự phát triển của các doanh nghiệp làm ăn
chân chính trên thị trường.
Cạnh tranh không lành mạnh còn thể hiện ở hành vi ăn cáp bí mật
thương mại của đối thủ nhằm giành được những công nghệ tiên tiến,
những bí quyết sản xuất... để có thể đi trước đối thủ, giành được lợi nhuận,
thị phần một cách nhanh chóng .
Những hành vi cạnh tranh không lành mạnh như vậy chỉ thể hiện sự
yếu kém, sự thiếu tự tin của doanh nghiệp khi họ không thể cạnh tranh
sòng phẳng với các doanh nghiệp khác.

22


3. Vai trò của đạo đức kinh doanh.
3.1. Đạo đức kinh doanh góp phần điều chỉnh hành vi của các chủ thể kinh
doanh.
Đạo đức kinh doanh cùng với pháp luật điều chỉnh các hành vi kinh
doanh theo các qui định của pháp luật và các chuẩn mực đạo đức xã hội.
Tuy nhiên, hành vi kinh doanh lại là kết quả của quá trình tư duy, ra quyết
định của những người chủ doanh nghiệp. Pháp luật dù có chặt chẽ, đày đủ

nhưng chỉ điều chỉnh được hành vi còn việc quyết định có tuân thủ luật
pháp hay không; hay có làm những hành vi trái pháp luật hay không lại
nằm trong suy nghĩ, nhân cách của người chủ doanh nghiệp. Chỉ có đạo
đức kinh doanh mới có thể có ảnh hưởng, tác động đến suy nghĩ, thức tỉnh
lương tâm, khuyến khích họ làm những điều tốt, điều thiện. mặt khác, pháp
luật càng đày đủ, chặt chẽ và được thi hành một cách nghiêm minh thì đạo
đức càng được đề cao. Những hình phạt nghiêm khắc dành cho những
người có các hành vi kinh doanh phi đạo đức sẽ ép buộc họ cư xử phải có
đạo đức và tuân theo pháp luật.
Một doanh nghiệp muốn phát triển lâu dài thì phải hoạt động có hiệu
quả, phải thu được lợi nhuận. Lợi nhuận này chỉ có thể có khi doanh
nghiệp có đựoc sự hợp tác, ủng hộ từ phí người tiêu dùng. Điều này không
chỉ được quyết định bởi chất lượng của sản phẩm mà còn được quyết định
bởi hành vi của doanh nghiệp với cộng đồng với xã hội. Doanh nghiệp có
hành vi phi đạo đức sẽ bị mọi người tẩy chay, lên án gây thiệt hại lớn cho
doanh nghiệp. Ngược lại, doanh nghiệp hoạt động có đạo sẽ nhận được sự
tín nhiệm từ phía người tiêu dùng và kết qaủ thể hiện ở nguồn lợi nhuận ổn
định, sự phát triển bền vững của doanh nghiệp.

23


3.2. Đạo đức kinh doanh góp phần làm tăng chất lượng quản lý của doanh
nghiệp.
Một doanh nghiệp có nền tảng đạo đức kinh doanh vững vàng với hệ
thống các chuẩn mực, qui tắc đạo đức rõ ràng có sức chi phối sẽ giúp cho
chất lượng hoạt động của doanh nghiệp được đảm bảo và thông suốt từ các
cấp lãnh đạo đến toàn thể nhân viên.
Việc xây dựng và truyền bá các tiêu chuẩn đạo đức nghề nghiệp của
doanh nghiệp thông qua việc thiết lập các chương trình đàog tạo về đạo

đức kinh doanh cho nhân viên, hay ban hành hệ thống tiêu chuẩn đạo đức
trong công ty...được tiến hành càng tốt bao nhiêu thì càng giúp cho hoạt
động của doanh nghiệp càng hiệu quả, giúp ngăn chặn những hành vi phi
đạo đức, trục lợi cá nhân, phá hoại từ bên trong doanh nghiệp. Các nhà
lãnh đạo có đạo đức sẽ gây dựng được bầu không khí làm việc hòa đồng,
thuận lợi cho tất cả mọi người, thu hút được nhiều sự đóng góp tích cực từ
các nhân viên. Đồng thời, họ cũng dễ dàng đi đến những sự đồng thuận
cho các vấn đề trên nền tảng đạo đức có lợi cho sự phát triển của công ty,
tránh các hành vi trục lợi cá nhân bất chính. Tương tự như vậy, các nhân
viên có nhận thức đạo đức tốt se giúp nâng cao năng suất, hiệu quả lao
động khi khả năng hợp tác, làm việc theo nhóm giữa các nhân viên trong
một phòng hay giữa các phòng ban được nâng cao bởi giữa họ có sự tin
tưởng tuyết đối với nhau trên nền tảng đạo đức. Đồng thời, khi các nhân
viên hành động theo các tiêu chuẩn đạo đức, họ sẽ tạo được thiện cảm
trong mắt khách hàng giúp mối quan hệ giữa khách hàng với công ty ngày
càng gắn bó, bền chặt. Thực chất, những người được lam việc trong một
môi trường đạo đức tin rằng họ sẽ phải tôn trọng tất cả các đối tác kinh
doanh của mình, không kể những đối tác ấy ở bên trong hay bên ngoài

24


công ty. Họ cần phải cung cấp những giá trị tốt nhất có thể có cho các
khách hàng và cổ đông.
3.3. Đạo đức kinh doanh góp phần vào sự cam kết và tận tâm của nhân
viên.
Chất lượng làm việc của nhân viên chính là yếu tố quyết định đến sự
hài lòng của khách hàng và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Các
nhân viên sẽ làm việc với khả năng cao nhất, sẽ trung thành, tận tâm đối
với doanh nghiệp khi họ nhận thấy rằng tương lai của họ gắn liền với

tương lai của doanh nghiệp và họ sẽ sẵn sàng hi sinh lợi ích cá nhân của
mình cho lợi ích chung của toàn công ty. Muốn được như vậy thì trước hết
doanh nghiệp phải cho thấy sự quan tâm, sự đối xử công bằng, có đạo đức
của mình đối với nhân viên. Một môt trường lao động an toàn, vui vẻ, hòa
đồng, có thù lao xứng đáng và được tôn trọng, được doanh nghiệp thực
hiện đày đủ các cam kết sẽ là yếu tố quyết định giúp doanh nghiệp thể hiện
được điều đó.
Bên cạnh đó, những hoạt động, đóng góp có đạo đức kinh doanh của
công ty cho cộng đồng không chỉ tạo nên hình ảnh tốt đạp của doanh
nghiệp trong mắt công chúng mà còn tạo nên nièm tự hào, sự gắn bó của
các nhân viên đối với công ty.
Một doanh nghiệp luôn quan tâm, chăm sóc các nhân viên của mình
sẽ không chỉ giữ chân được các nhân viên hiện tại mà còn thu hút thêm
được những nhân viên tài năng đóng góp cho công ty. Điều này sẽ tạo nên
lợi thế cạnh tranh to lớn giúp công ty thành công trên thị trường.
3.4. Đạo đức kinh doanh góp phần làm hài lòng khách hàng.
Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng các khách hàng thích mua các sản
phẩm của các công ty có danh tiếng tốt, luôn quan tâm đến lợi ích của

25


×