ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
PHÂN HIỆU TẠI KON TUM
LÊ THỊ KIỀU THIÊN
ĐỀ TÀI TỐT NGHIỆP
PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN - THỰC TIỄN TẠI
TAND HUYỆN ĐĂK TÔ
Kon Tum, tháng 6 năm 2019
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
PHÂN HIỆU TẠI KON TUM
ĐỀ TÀI TỐT NGHIỆP
PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN - THỰC TIỄN TẠI
TAND HUYỆN ĐĂK TÔ
GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN : CHÂU THỊ NGỌC TUYẾT
SINH VIÊN THỰC HIỆN
: LÊ THỊ KIỀU THIÊN
LỚP
: K915LK2
MSSV
: 15152380107102
2
Kon Tum, tháng 6 năm 2019
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành đề tài báo thực tập này trước hết em xin gửi đến quý thầy, cô giáo
trong Khoa sư phạm và dự bị Đại học trường Phân hiệu đại học Đà Nẵng tại Kon Tum lời
cảm ơn chân thành.
Đặc biệt, em xin gửi đến Giảng viên Châu Thị Ngọc Tuyết, người đã tận tình hướng
dẫn, giúp đỡ em hoàn thành đề tài báo cáo thực tập này lời cảm ơn sâu sắc nhất.
Em xin chân thành cảm ơn Ban lãnh đạo, các anh chị cán bộ Tòa án nhân dân huyện
Đăk Tô đã tạo điều kiện thuận lợi cho em được tìm hiểu thực tiễn trong suốt quá trình
thực tập tại Tòa.
Cuối cùng em xin cảm ơn các anh chị phòng Thư ký Tòa án nhân dân huyện Đăk
Tô, đặc biệt là Thư ký Đoàn Anh Phương đã giúp đỡ, hướng dẫn và cung cấp những số
liệu thực tế để em hoàn thành tốt đề tài thực tốt nghiệp này.
Đồng thời nhà trường đã tạo cho em có cơ hội được thực tập tại nơi mà em yêu
thích, cho em bước ra đời sống thực tế để áp dụng những kiến thức mà các thầy cô giáo
đã giảng dạy. Qua công việc thực tập này em nhận ra nhiều điều mới mẻ và bổ ích trong
chuyên ngành mình học để giúp ích cho công việc sau này của bản thân.
Vì kiến thức bản thân còn hạn chế, trong quá trình thực tập, hoàn thiện đề tài này
em không tránh khỏi những sai sót, kính mong nhận được những ý kiến đóng góp từ thầy
cô.
Xinh trân trọng kính chào!
MỤC LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT..........................................................................................iv
DANH MỤC CÁC BẢNG...............................................................................................v
3
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
STT
1
2
3
4
Tên viết tắt
BLDS 2015
BLTTDS 2015
TAND
TANDTC
Giải thích
Bộ luật Dân sự 2015
Bộ luật Tố tụng dân sự 2015
Tòa án nhân dân
Tòa án nhân dân tối cao
4
DANH MỤC CÁC BẢNG
Tên bảng
Bảng 1
Bảng 2
So sánh quy định của BLDS 2005 với BLDS 2015 về hợp đồng
vay tài sản
Thống kê về số vụ án tranh chấp hợp đồng vay tài sản được giải
quyết tài TAND huyện Đăk Tô (2016 – 2018)
5
Số
trang
17
29
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết
Chúng ta không thể phủ nhận vai trò đặc biệt của hợp đồng trong đời sống hiện đại.
Không phải ngẫu nhiên mà trong hệ thống pháp luật của bất kỳ quốc gia nào chế định
hợp đồng luôn được coi là một chế định quan trọng vào bậc nhất. Bởi hợp đồng tạo ra
những tiền đề pháp lý cho sự vận động linh hoạt các giá trị vật chất trong xã hội.
Hợp đồng vay tài sản có vị trí quan trọng trong đời sống xã hội, đặc biệt trong bối
cảnh kinh tế ngày càng phát triển, các giao lưu dân sự, thương mại ngày càng đa dạng.
Các quy định về hợp đồng vay tài sản được quy định trong BLDS đã góp phần đảm bảo
sự ổn định của xã hội, đảm bảo lợi ích chung của cộng đồng cũng như quyền và lợi ích
hợp pháp của các chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng vay.
Tuy nhiên, các quy định trong pháp luật dân sự quy định về hợp đồng vay tài sản
còn nhiều vấn đề cần giải quyết và thực tiễn áp dụng pháp luật không tránh khỏi những
vướng mắc. Trong thực tế, tranh chấp về hợp đồng vay tài sản ngày càng gia tăng. Trong
bối cảnh kinh tế xã hội ngày càng phát triển, yêu cầu hoàn thiện quy định pháp luật về
hợp đồng vay tài sản nhằm đảm bảo lợi ích cho các chủ thể được đề ra một cách cấp thiết
hơn.
Trong Nhà nước pháp quyền, tư pháp có vai trò đặc biệt quan trọng. Hoạt động của
Tòa án được xác định là trung tâm có vai trò quan trọng trong hệ thống cơ quan tư pháp
và là cơ quan duy nhất nhân danh Nhà nước tiến hành các hoạt động xét xử các loại án
nói chung và án dân sự nói riêng. Hoạt động xét xử trong những năm gần đây cho thấy
các vụ án dân sự ngày càng tăng về số lượng và tính chất ngày càng phức tạp, trong đó có
các loại án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản.
Hiện nay, việc giải quyết các tranh chấp về dân sự của Tòa án đã góp phần quan
trọng trong việc giải quyết được những mâu thuẫn trong các quan hệ dân sự. Hầu hết các
bản án, quyết định của Tòa án được ban hành đúng pháp luật, thấu tình, đạt lý và có tính
giáo dục ý thức tôn trọng pháp luật trong nhân dân. Điều này đã góp phần quan trọng vào
việc giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ lợi ích Nhà nước, quyền và
lợi ích hợp pháp của nhân dân và các tổ chức.
Vụ án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản ở TAND huyện Đăk Tô trong những năm
qua có xu hướng ngày càng tăng. Mỗi vụ án có nội dung đa dạng và tính phức tạp cũng
khác nhau nên việc giải quyết loại án này gặp không ít khó khăn, trong nhận thức vận
dụng pháp luật cũng như những khó khăn từ khách quan mang lại. Tuy nhiên, quá trình
giải quyết TAND huyện Đăk Tô đã đạt được những kết quả nhất định, góp phần vào việc
giải quyết số lượng án và nâng cao tỷ lệ giải quyết của đơn vị. Thông qua việc giải quyết
vụ án đã góp phần giải quyết các mâu thuẫn trong quan hệ dân sự, bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của đương sự, giữ gìn kỷ cương pháp luật, ổn định chính trị, trật tự an toàn
xã hội trên địa bàn huyện Đăk Tô.
Bên cạnh những mặt đã đạt được trong quá trình giải quyết các tranh chấp dân sự
vẫn còn những thiếu sót như có những vụ án còn để tồn đọng, kéo dài, vi phạm thời hạn
tố tụng, có những vụ án còn bị sửa, hủy, đặc biệt có những vụ án bị hủy nhiều lần, kéo dài
6
nhiều năm gây ảnh hưởng đến quyền lợi của các bên đương sự. Đây là một trong những
nguyên nhân dẫn đến tình trạng bức xúc, khiếu nại trong nhân dân. Tồn tại trên ảnh
hưởng tới quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền, xây dựng nền tư pháp vững mạnh,
trong sạch.
Do vậy, em nhận thấy việc nghiên cứu quy định của pháp luật dân sự về hợp đồng
vay tài sản, thực tiễn giải quyết tranh chấp hợp đồng vay tài sản tại TAND để có một
nhận thức toàn diện về vấn đề này là rất cần thiết. Với mong muốn nghiên cứu và phân
tích những tồn tại để đưa ra những giải pháp khắc phục nhằm góp phần giải quyết các
tranh chấp về hợp đồng vay tài sản ở TAND huyện Đăk Tô em đã chọn đề tài "Pháp luật
về giải quyết tranh chấp hợp đồng vay tài sản - thực tiễn tại TAND huyện Đăk Tô" làm đề
tài tốt nghiệp của mình.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và thực
tiễn của chế định hợp đồng vay tài sản, nêu lên những điểm mới của chế định hợp đồng
vay tài sản trong BLDS năm 2005 so với BLDS năm 2015. Qua thực tiễn áp dụng tại
TAND huyện Đăk Tô, nêu lên những hạn chế, những bất cập trong quy định. Từ đó, đưa
ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật dân sự về hợp đồng vay tài
sản.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận, nội dung
các quy định pháp luật về hợp đồng vay tài sản và việc giải quyết tranh chấp về hợp đồng
vay tài sản tại TAND huyện Đăk Tô. Nguyên nhân và những bất cập trong việc giải quyết
tranh chấp hợp đồng vay tài sản, từ đó đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng
xét xử và góp phần giải quyết tranh chấp về hợp đồng vay tài sản tại Tòa án ngày một tốt
hơn.
Phạm vi nghiên cứu: Các quan hệ vay tài sản được điều chỉnh bởi các văn bản quy
phạm pháp luật thuộc nhiều ngành luật khác nhau: dân sự, thương mại, ngân hàng, hình
sự,... Ở đề tài này, em chỉ trình bày những vấn đề về hợp đồng vay tài sản thuộc lĩnh vực
dân sự, mà không đi sâu vào hợp đồng vay tài sản thuộc các lĩnh vực khác
4. Phương pháp nghiên cứu
Để có được kết quả trình bày trong đề tài, em đã sử dụng các phương pháp nghiên
cứu sau:
- Phương pháp luận duy vật lịch sử: tiến hành nghiên cứu trên cơ sở quá trình hình
thành và phát triển của chế định hợp đồng vay tài sản ở Việt Nam;
- Phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp: đây là phương pháp quan trọng và
được sử dụng chủ yếu trong quá trình thực hiện đề tài.
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: sưu tầm và phân tích các vụ tranh chấp về hợp
đồng vay tài sản để làm rõ thực tiễn áp dụng chế định này.
5. Bố cục
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục từ viết tắt và danh mục tài liệu tham khảo,
nội dung của luận văn gồm hai chương:
7
Chương 1. Một số vấn đề lý luận về hợp đồng vay tài sản và quy định của pháp luật
về giải quyết tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Chương 2. Thực tiễn áp dụng pháp luật giải quyết các tranh chấp về hợp đồng vay
tài sản tại TAND huyện Đăk Tô và giải pháp hoàn thiện
8
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ ĐƠN VỊ THỰC TẬP
1.1. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA ĐƠN VỊ
1.1.1. Giới thiệu về đơn vị
Tên cơ quan thực tập: Tòa án nhân dân huyện Đăk Tô.
Địa chỉ: 151 Hùng Vương, thị trấn Đăk Tô, huyện Đăk Tô, Tỉnh Kon Tum
Điện thoại: 0603. 831. 293
1.1.2. Khái quát về lịch sử hình thành và phát triển của TAND huyện Đăk Tô
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công đã mở ra một kỷ nguyên mới đối với
đất nước - kỷ nguyên của độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Ngay từ những ngày đầu
giành được chính quyền, Đảng và Nhà nước ta đã khẩn trương xây dựng bộ máy nhà
nước, trong đó có hệ thống Tòa án nhằm trấn áp các phần tử phản cách mạng, bảo vệ
chính quyền nhân dân mới được thành lập.
Ngày 13/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh 33/SL thiết lập các Tòa án quân
sự, đánh dấu sự ra đời của ngành Tòa án Việt Nam. Để đáp ứng yêu cầu của công cuộc
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc qua các giai đoạn lịch sử, cùng với sự hoàn thiện của bộ
máy nhà nước, trong đó có ngành TAND, ngày 24/1/1946, Chủ tịch chính phủ lâm thời
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã ban hành sắc lệnh số 13 về tổ chức các Tòa án cấp
tỉnh, Tòa án cấp huyện và các ngạch Thẩm phán.
Trong hệ thống các tỉnh, thành phố nước ta, Kon Tum là một tỉnh thuộc vùng cực
Bắc Tây Nguyên của Việt Nam. Hiện nay tỉnh Kon Tum hiện có 1 thành phố và 9 huyện,
trong đó có huyện Đăk Tô. Đăk Tô là một huyện khá phát triển và có truyền thống lịch sử
vẻ vang của tỉnh Kon Tum. Năm 1990, TAND huyện Đăk Tô được thành lập và đặt trụ sở
tại 151 Hùng Vương, thị trấn Đăk Tô, huyện Đăk Tô. Việc thành lập TAND huyện Đăk
Tô đã đánh dấu một bước hoàn thiện về hệ thống ngành Tòa án nói chung cũng như đảm
bảo việc thực thi pháp luật được thực hiện triệt để hơn tại huyện Đăk Tô nói riêng.
Trong công tác tổ chức cán bộ, TAND huyện Đăk Tô không ngừng củng cố bộ máy
bố trí cán bộ quản lý, đào tạo chính trị, chuyên môn nghiệp vụ, nhằm xây dựng người cán
bộ làm công tác pháp luật phải "vừa hồng vừa chuyên". Đến nay, lực lượng Thẩm phán,
thư ký đều đạt trình độ cử nhân luật, một số Thẩm phán đã qua lớp chính trị cao cấp.
Kế thừa và phát huy những thành quả và kinh nghiệm hoạt động của Tòa án trong
cách mạng dân tộc, dân chủ, nhờ sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, sự giám sát thường
xuyên của Quốc hội, sự phối hợp chặt chẽ của các cơ quan Nhà nước, các đoàn thể, tổ
chức xã hội ở Trung ương và địa phương, sự đồng tình ủng hộ của nhân dân, TAND
huyện Đăk Tô đã không ngừng phấn đấu và trưởng thành trong việc thực hiện chức năng,
nhiệm vụ, góp phần giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, phục vụ nhiệm
vụ phát triển kinh tế- xã hội và bảo đảm các quyền dân chủ của nhân dân ở địa phương.
Để giữ vững những thành quả mà các đồng chí lãnh đạo ngành đã dày công xây dựng.
9
Trong thời gian tới TAND huyện Đăk Tô tiếp tục phấn đấu xây dựng ngành ngày càng
vững mạnh, thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ chính trị trọng tâm mà Đảng và Nhà nước đã
giao cho.
1.2. ĐẶC ĐIỂM, CHỨC NĂNG NHIỆM VỤ CỦA TAND HUYỆN ĐĂK TÔ
1.2.1. Đặc điểm
TAND huyện Đăk Tô là một TAND cấp huyện, được thành lập năm 1990 và đi vào
hoạt động cho đến nay. TAND huyện Đăk tô có chức năng thực hành quyền xét xử các vụ
án tại địa phương mình.
TAND huyện Đăk Tô là cơ quan duy nhất có chức năng xét xử sơ thẩm các vụ án tại
địa bàn khu vực huyện Đăk Tô
Từ những ngày đầu với trụ sở làm việc còn đơn giản, nghèo nàn với những khó
khăn về cơ sở vật chất, đời sống tinh thần của cán bộ và nhân dân còn nhiều gian khổ...
Đội ngũ cán bộ, Thẩm phán và thư ký của TAND huyện Đăk Tô đã từng bước nêu cao
tinh thần, khắc phục những khó khăn, ra sức thi đua phấn đấu hoàn thành tốt mọi nhiệm
vụ mà Đảng và ngành kiểm sát giao. Đến nay, TAND huyện Đăk Tô ngày càng được xây
dựng khang trang, đầy đủ tiện nghi về cơ sở hạ tầng, và ngày một vững mạnh về đội ngũ
cán bộ. TAND huyện Đăk Tô luôn quán triệt, thực hiện nghiêm túc chủ trương của Đảng,
Nghị quyết của Quốc hội, thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ của mình. Chất lượng của
đội ngũ cán bộ của đơn vị ngày càng được nâng cao. Công tác thực hiện quyền xét xử
trong hoạt động tư pháp ngày càng đạt hiệu quả cao.
1.2.2. Chức năng, nhiệm vụ
a. Chức năng
Tòa án có chức năng xét xử, giải quyết các vụ việc và những nhiệm vụ khác theo
quy định của pháp luật. Các TAND địa phương thực hiện quyền xét xử và các hoạt động
tư pháp ở địa phương mình. Theo đó, TAND huyện Đăk Tô thực hiện quyền xét xử và
các hoạt động tư pháp khác trên địa bàn huyện Đăk Tô.
Trong phạm vi chức năng của mình, TAND huyện Đăk Tô có nhiệm vụ góp phần
bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của
nhân dân, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể, bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, tài sản,
tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân, bảo đảm để mọi hành vi xâm phạm lợi ích
của Nhà nước, của tập thể, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân đều phải được xử lý
theo pháp luật.
b. Nhiệm vụ
Thực hiện nhiệm vụ xét xử, giải quyết các vụ việc và những nhiệm vụ khác theo
quy định của pháp luật.
Thực hiện quyền tư pháp, để nhằm thực hiện một số việc về hạn chế quyền nhân
thân của công dân như quyết định đưa công dân vào trường giáo dưỡng, quyết định về
bắt buộc chữa bệnh,… mà hiện nay các việc này do cơ quan hành chính thực hiện.
10
Toà án có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa; bảo vệ chế độ xã hội chủ
nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân; bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể; bảo vệ
tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân.
Bằng hoạt động của mình, góp phần giáo dục công dân trung thành với Tổ quốc,
chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, tôn trọng những nguyên tắc của cuộc sống xã hội, ý
thức đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, các vi phạm pháp luật khác.
Trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình, TAND huyện Đăk Tô có trách
nhiệm phối hợp với các cơ quan Viện kiểm sát, Công an, Thanh tra, Tư pháp, các cơ quan
khác của Nhà nước, ủy ban Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên của Mặt trận, các
đơn vị vũ trang nhân dân để phòng ngừa và chống tội phạm có hiệu quả, xử lý kịp thời,
nghiêm minh các loại tội phạm và vi phạm pháp luật trong hoạt động tư pháp; tuyên
truyền, giáo dục pháp luật; xây dựng pháp luật; đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; nghiên cứu tội
phạm và vi phạm pháp luật.
1.3. CƠ CẤU TỔ CHỨC CỦA TAND HUYỆN ĐĂK TÔ
TAND huyện Đăk Tô hiện nay có 07 biên chế và 02 hợp đồng lao động gồm có:
02 Thẩm phán
04 Thư ký
01 Kế toán
02 hợp đồng lao động (01 nhân viên tạp vụ, 01 nhân viên bảo vệ)
Trong đó có 01 Thạc sĩ Luật, 05 cán bộ công chức đạt trình độ cử nhân Luật và 01
công chức đạt trình độ cử nhân chuyên ngành Kế toán. Có 02 đồng chí đã được đào tạo
trình độ trung cấp lý luận chính trị.
1.4. NHẬN XÉT SƠ BỘ VỀ ĐƠN VỊ THỰC TẬP
Cơ cấu tổ chức, bộ máy của đơn vị tương đối ổn định, phù hợp. Đội ngũ cán bộ đạt
chất lượng với những Thẩm phán và Thư ký dày dặn kinh nghiệm, tinh thần làm việc
nghiêm túc, trách nhiệm cao trong công việc, luôn nỗ lực hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Cơ sở vật chất của TAND huyện Đăk Tô tương đối tốt. Đơn vị có trang bị đầy đủ
các thiết bị phục vụ hoạt động của cơ quan và điều kiện làm việc của cán bộ như: bàn làm
việc, máy vi tính, máy in, máy photocopy, quạt. Đơn vị có sự sắp xếp, bố trí các phòng
làm việc phù hợp cho cán bộ trong đơn vị.
TAND huyện Đăk Tô luôn chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, thường
xuyên rà soát nghiệp vụ của cán bộ để có biện pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ
của đơn vị.
Đơn vị luôn cập nhật và năm bắt kịp thời các văn bản pháp luật, quán triệt đầy đủ và
thực hiện tốt các chủ trương, nghị quyết của Đảng và nhà nước. TAND huyện Đăk Tô
luôn thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình, đáp ứng được yêu cầu thực tiễn đấu
tranh và phòng chống tội phạm trong thời kì phát triển của đất nước, phù hợp với nhiệm
vụ lâu dài và nhiệm vụ chiến lược của Đảng và Nhà nước đề ra.
11
CHƯƠNG 2
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN VÀ QUY
ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG
VAY TÀI SẢN
2.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN
2.1.1. Lịch sử hình thành
a. Hợp đồng vay tài sản trong pháp luật dân sự Việt Nam qua các thời kỳ lịch
sử.
Quy định về hợp đồng vay tài sản trong pháp luật dân sự Việt Nam thời kỳ phong
kiến.
Về mặt pháp luật, dưới thời Lê, các quy định về khế ước được nằm trong bộ Quốc
Triều Hình luật. Một trong những khế ước tiêu biểu, phổ biến trong xã hội phong kiến, đó
là khế ước vay nợ. Qua nghiên cứu một số quy định trong Quốc Triều Hình luật thì thấy
rõ nguyên tắc phải thực hiện đúng cam kết đã vay là phải trả đủ. Ví dụ như quy định: bên
vay là hai vợ chồng, thì hai người này phải trả bằng của nổi. Nếu của nổi không đủ để trả
hoặc không có của nổi để trả cho bên cho vay, thì số nợ được chia làm hai phần bằng
nhau, cụ thể: phần nợ của người chồng được trả từ tài sản của người chồng, phần nợ của
người vợ được trả từ tài sản của người vợ.
Pháp luật từ thế kỷ XV đã dự liệu tới khả năng vợ chồng bị khánh kiệt thì phần nợ
vẫn còn đó và cha mẹ, họ hàng không phải trả thay. Bên cho vay có quyền đòi một phần
nợ, nếu chồng chết thì đòi vợ và ngược lại nhưng không được đòi cha mẹ, họ hàng, anh
em. Qua đó ta thấy nguyên tắc ai vay, người đó phải trả và không chuyển nợ sang cho
người thân thích.
Đồng thời Bộ luật này cũng có những chế tài đối với hành vi gian dối trong thực
hiện hợp đồng vay: “nợ đã trả rồi mà còn cố ý không trả văn tự, hay nói là văn tự đã đánh
mất, mà không cấp giấy làm bằng cho người trả nợ, thì xử phạt 50 roi, biếm một tư. Đã
giao giấy mà làm bằng rồi mà lại đem văn tự đòi nợ lần thứ hai, thì xử phạt 50 roi, biếm
một tư và bồi thường gấp đôi số tiền nợ cho người đã trả nợ” (Điều 589 Bộ Quốc triều
Hình luật). Nếu người vay nợ trốn mất, thì người đứng bảo lĩnh phải trả thay tiền gốc,
nếu trong văn tự có nói người nào trả thay thì người đó phải trả như người mắc nợ, nếu
kẻ mắc nợ có con thì được đòi con. Theo Điều 588: nếu chủ nợ để quá hạn 30 năm đối
với người trong họ, 20 năm đối với người ngoài họ mà không đòi được nợ, thì bị mất đòi
bên vay trả phải trả nợ. Đây là một chế định về thời hiệu miễn trừ nghĩa vụ theo cách
hiểu hiện nay.
Dưới triều Nguyễn, sau khi lên ngôi năm 1802, Vua Gia Long đã chỉ dụ cho các đại
thần xem xét lại Bộ luật Hồng Đức và Luật Đại Thanh của Trung Quốc để soạn ra bộ luật
thích hợp. Năm 1812, Bộ Hoàng Việt Luật Lệ (còn gọi là Bộ luật Gia Long) được ban
hành. Trong Hoàng Việt luật lệ pháp luật chỉ quy định một số khế ước quan trọng, trong
đó có khế ước cho vay. Đối với sự vay nợ đơn thuần, hình thức của khế ước có thể chỉ là
một sự vay miệng, không làm giấy tờ, nếu số tiền hoặc số thóc cho vay không lớn, nhất là
vay ngắn hạn, tiền lãi trả mỗi ngày hoặc trả cùng với số vốn khi đáo hạn.
12
Hoàng Việt Luật Lệ cũng có những quy định về chế tài dân sự khi vi phạm nghĩa vụ
trả nợ. Ví dụ tại Điều 134 Hoàng Việt Luật lệ, khi đáo hạn nếu người thụ trái không trả
nợ họ sẽ bị phạt tùy theo số tiền nợ và sự chậm trả nợ, nhưng bao giờ cũng cho họ khất 1
hạn là 03 tháng để thi hành các nghĩa vụ đã cam kết trong khế ước. Hoặc tại Điều 23
Hoàng Việt Luật lệ quy định tiền phạt, tiền tịch thu, tiền bồi thường, tiền thiếu nợ đối với
công quỹ hay đối với tư gia. Đối với tư gia nếu số tiền thiếu nợ quá 30 lạng bạc, có thể
cầm tù đương sự trong thời hạn hơn một năm để cưỡng bách trả cho chủ. Quá hạn một
năm nếu quả thật đương sự không còn khả năng để hoàn trả số tiền thiếu thì tâu lên Vua
để tùy Vua định liệu. Trường hợp số tiền không tới 30 lạng bạc, sau khi người thụ trái bị
tạm giữ một năm, nếu quả thật họ không có đủ khả năng, họ sẽ không bị đòi nợ nữa mà
chỉ phải chịu trừng phạt theo quy định của pháp luật. 1
Dù chưa quy định một cách có hệ thống nhưng pháp luật phong kiến bước đầu đã
ghi nhận khế ước vay. Pháp luật đã quy định chi tiết các trường hợp của hợp đồng vay tài
sản: về hình thức, về chủ thể, về thời hạn cũng như chế tài áp dụng khi một trong các bên
không thực hiện đúng nghĩa vụ trả nợ. Đó cũng là sự tiến bộ của pháp luật Việt Nam.
Quy định về hợp đồng vay tài sản trong pháp luật dân sự Việt Nam thời kỳ Pháp
thuộc.
Thời Pháp thuộc, lần đầu tiên trong lịch sử nước ta, luật dân sự được ban hành với
tư cách là một ngành luật độc lập. Các bộ luật trong thời kỳ này gồm có Bộ Dân Luật
Giản yếu năm 1883, Bộ Dân luật Bắc Kỳ năm 1931 và Bộ Hoàng Việt Trung Kỳ hộ luật
năm 1936 – còn được gọi là Bộ Dân luật Trung Kỳ. Nhìn chung, các bộ luật này chịu ảnh
hưởng trực tiếp của Bộ dân luật Pháp 1804, nhưng có nhiều quy định được sửa đổi cho
phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội, phong tục tập quán của Việt Nam.
Theo quy định của pháp luật thời Pháp thuộc hợp đồng vay tài sản được ghi nhận
trong bộ luật, tuy chưa đầy đủ. Ví dụ như tại Bộ Dân luật giản yếu 1883 có quy định về
lãi suất trong hợp đồng cho vay. Theo đó, trong hợp đồng vay, chủ cho vay chỉ được ăn
lời mỗi năm mười hai phần trăm, tương đương cho vay một trăm đồng bạc, mỗi năm ăn
lời mười hai đồng. Trong Bộ Dân luật Bắc kỳ 1931, tại Quyển thứ hai, Thiên thứ hai,
chương IX – Nói về khế ước lập hội có Điều 1204 quy định: “Phàm những hội để dành
tiền và những hội cho vay lẫn nhau, như chơi họ, hội hiếu hỉ, hội tư văn, là tuân theo dân
luật, tục lệ, cùng khế ước của người đương sự lập ra”. Hay “Thể lệ luật này nếu không
trái gì với luật, lệ hay tục riêng về việc thương mại, thời cũng đem thi hành đối với các
hội buôn. Đối với các hội để dành tiền và những hội cho vay lẫn nhau như chơi họ cũng
vậy” (Điều 1435 Bộ Hoàng việt Trung kỳ hộ luật 1936-1939).
Các quy định về hụi, họ, biêu phường cũng được quy định từ rất sớm. Bộ luật dân
sự Bắc kỳ đã quy định như sau: “phàm những hội để dành tiền và những hội cho vay lẫn
nhau như chơi họ, hội hiếu hỉ, hội tư văn là tuân theo dân luật tục lệ, cùng khế ước của
người đương sự được lập ra” (Điều 1204) Bộ Luật Việt Trung kỳ hộ luật cũng ghi nhận
tại Điều 1435 “thể lệ luật này nếu không trái gì với luật lệ hay tục riêng về việc thương
1 Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, Giáo trình Lịch sử Nhà nước và Pháp luật Việt Nam, Hà Nội
13
mại, thời cũng đem thi hành đối với các hội buôn. Đối với các hội để dành tiền và những
hội cho vay lẫn nhau như chơi họ cũng vậy”.2
Quy định về hợp đồng vay tài sản trong pháp luật dân sự Việt Nam từ sau năm
1945 đến nay.
Thời kỳ nước ta mới dành được độc lập chưa có điều kiện ban hành văn bản pháp
luật để thay thế những bộ luật của chế độ cũ, Nhà nước thời bấy giờ đã cho phép tạm sử
dụng một số luật lệ đã ban hành ở Bắc - Trung - Nam với nguyên tắc: những luật lệ ấy
không trái với nguyên tắc độc lập của nước Việt Nam và chính thể dân chủ cộng hòa. Có
nghĩa là ba văn bản pháp luật: Dân luật giản yếu Nam kỳ 1883, Dân luật Bắc kỳ 1931 và
Hoàng Việt Trung Kỳ hộ luật 1936 được tiếp tục áp dụng. Tuy nhiên, trong thực tiễn xuất
hiện nhiều quy định trong bộ luật cũ không phù hợp với bản chất của Nhà nước mới, nên
ngày 22/ 5/1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh 97/SL “Sửa đổi một số quy lệ và
chế định trong dân luật”.
Sau khi có Hiến pháp mới 1959, TANDTC đã ra Chỉ thị số 772/CT-TATC về việc
đình chỉ áp dụng luật lệ của đế quốc, phong kiến. ở Miền Nam, tháng 12-1972, chính phủ
Nguyễn Văn Thiệu cũng công bố thi hành BLDS của chính quyền Sài Gòn. Sau khi thống
nhất đất nước, Nhà nước ta tiếp tục ban hành các văn bản pháp luật quy định rõ hơn về
các giao dịch dân sự trong đó có các văn bản pháp luật quy định về hợp đồng.
Khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường, pháp luật dân sự phát triển mạnh
mẽ, nhiều đạo luật quan trọng ra đời đã tạo nên khung pháp lý cho các hoạt động giao
dịch dân sự nói chung và hợp đồng phát triển. Đến năm 1995, BLDS được ban hành và
có hiệu lực kể từ ngày 01/07/1996 là một bước tiến quan trọng trong lĩnh vực lập pháp
của nước ta. BLDS có tầm quan trọng “sau hiến pháp” điều chỉnh các quan hệ xã hội đa
dạng, phức tạp, làm nền tảng và định hướng cho việc phát triển các quan hệ dân sự, kinh
tế.
Quy định về hợp đồng vay tài sản đã được quy định trong phần quy định về hợp
đồng BLDS năm 1995 từ Điều 467 đến Điều 475. Kể từ sau khi có BLDS, về cơ bản
chúng ta áp dụng các quy định trong đó để điều chỉnh các quan hệ hợp đồng dân sự phát
sinh sau khi BLDS ra đời. Tuy nhiên thực tiễn giải quyết tranh chấp dân sự tại Tòa án còn
nhiểu phức tạp, nhiều điều khoản còn chưa phù hợp thực tế cuộc sống của nhân dân. Sau
đó, Luật Thương mại ra đời (năm 1997) dẫn tới tình trạng tách rời chế định hợp đồng dân
sự và hợp đồng thương mại, việc áp dụng các nguyên tắc của dân luật để giải quyết các
tranh chấp hợp đồng phát sinh không được áp dụng ở nước ta. Điều này có điểm khác với
các nước trên thế giới theo truyền thống Civil Law. Để khắc phục tình trạng chưa thống
nhất trong việc áp dụng pháp luật, nhằm hoàn thiện hơn các quy định pháp luật dân sự
nói chung cũng như về giao dịch dân sự nói riêng, BLDS năm 2005 ra đời. Có thể nói
BLDS lần này có nhiều điểm ưu việt hơn, vì đã xóa bỏ được những điểm chưa hợp lý
trong các quy định luật đồng thời tiếp thu được những tinh hoa của pháp luật trước đó và
pháp luật quốc tế.
2 Viện nghiên cứu khoa học - Bộ tư pháp, “Một số vấn đề về pháp luật dân sự Việt Nam từ thế kỷ XV đến thời Pháp
thuộc”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
14
Đến ngày 21/11/2015 Bộ luật Dân sự năm 2015 (BLDS 2015) được Quốc hội khóa
XIII, kỳ họp thứ 10 thông qua, được Chủ tịch nước ký Lệnh công bố ngày 8/12/2015 là
một sự kiện pháp lý quan trọng của nước ta trong năm 2015. Từ 1995 đến nay chúng ta
áp dụng quy định về hợp đồng vay tài sản tại BLDS 1995, BLDS 2005 và BLDS 2015.
BLDS năm 2015 là đạo luật chung điều chỉnh quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản phát
sinh trong lĩnh vực quan hệ dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại, lao
động và cũng chấm dứt tình trạng chế định hợp đồng dân sự và thương mại tách biệt. Đối
với một số loại hợp đồng đặc thù ngành luật thương mại sẽ áp dụng luật chuyên ngành
trước khi áp dụng nguyên tắc chung của luật dân sự để giải quyết.3
b. Quy định về hợp đồng vay tài sản trong pháp luật một số nước trên thế giới.
Hầu hết BLDS của các nước trên thế giới đều có quy định về hợp đồng vay tài sản
vì đây là loại hợp đồng phổ biến và thường xuyên được sử dụng.
Trong pháp luật dân sự Pháp, cho vay là một vấn đề thực tại: Hợp đồng được giao
kết bằng cách chuyển giao tài sản từ người cho vay sang người vay. Cho đến khi chuyển
giao tài sản, các thỏa thuận đạt được giữa hai bên về việc cho vay chỉ mang tính chất của
một lời hứa cho vay. Nếu đã hứa mà lại không phát vay, người hứa cho vay chỉ có thể
buộc bồi thường thiệt hại. Luật Việt Nam không coi hợp đồng vay tài sản là hợp đồng
thực tại. Pháp luật của Pháp quy định về lãi suất cho vay: Lãi vay phải được thỏa thuận
bằng văn bản, dù hợp đồng vay là hợp đồng thực tại và có thể được chứng minh bằng
mọi phương tiện. Không có văn bản, thỏa thuận về lãi vay vô hiệu và hợp đồng vay được
thực hiện với lãi suất do pháp luật ấn định, trừ trường hợp người vay tự nguyện trả lãi
theo thỏa thuận mà không có kiện cáo. Điều này khác với quy định của BLDS của Việt
Nam về hình thức hợp đồng vay tài sản.
Ngoài ra trong luật của Pháp, điều khoản quy đổi từ tiền thành tài sản khác trong
hợp đồng vay chỉ được thừa nhận là có giá trị, nếu vật quy đổi có mối quan hệ trực tiếp
với hoạt động nghề nghiệp hoặc hoạt động đầu tư của người vay hoặc của người cho vay
hoặc với mục đích sử dụng tài sản vay. Ví dụ, tiền phát vay cho người kinh doanh ngành
ăn uống được thỏa thuận quy đổi theo giá của những chai nước khoáng. Có nghĩa rằng
các bên trong hợp đồng vay có kỳ hạn mà không có lãi chỉ có thể thỏa thuận về việc trả
lãi đối với nợ quá hạn với nội dung như trên. Nói cách khác, các bên chỉ có quyền thỏa
thuận về việc giảm nhẹ lãi suất đối với nợ quá hạn theo hợp đồng vay không có lãi,
không được quyền thỏa thuận về mức lãi cao hơn.
BLDS Nhật cũng có các quy định về hợp đồng vay. Theo hợp đồng vay, người cho
vay một khoản tiền hoặc một vật nhất định và có nghĩa vụ hoàn trả lại cùng khối lượng,
cùng chủng loại và chất lượng.
Tương tự như pháp luật Việt Nam, BLDS Nhật Bản quy định chặt chẽ về hợp đồng
vay. Theo đó, các quy định luật về ký kết hợp đồng vay, lãi suất trong hợp đồng vay cũng
như trách nhiệm của bên vay và bên cho vay…Ví dụ như BLDS Nhật bản quy định: “nếu
hợp đồng vay có xác định thời hạn thì người vay có nghĩa vụ hoàn trả vật đúng thời hạn.
3 Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội
15
Nếu hợp đồng không xác định thời hạn thì người nhận công trái có thể hoàn trả vật vào
bất cứ thời điểm nào, và người cho vay có thể yêu cầu hoàn trả sau khi đã định ra thời
hạn hợp lý với người vay”. Có thể thấy quy định này có điểm tương đồng với Luật dân sự
Việt Nam.
Đặc biệt, BLDS Nhật có quy định về thỏa thuận trước về vay. Theo đó, trong trường
hợp có thỏa thuận trước về vay thì người vay có quyền yêu cầu ký kết hợp đồng, còn
người cho vay có nghĩa vụ tương ứng. Tuy nhiên, nếu không có sự chuyển giao đối tượng
của hợp đồng thì hợp đồng không được ký kết. Nếu trong thời hạn sau khi có thỏa thuân
trước về vay và trước khi ký kết hợp đồng vay mà một bên phá sản thì thỏa thuận trước
về vay sẽ mất hiệu lực.
Qua nghiên cứu các quy định pháp luật về hợp đồng vay tài sản tronmg pháp luật
thời kỳ phong kiến đến hiện nay cũng như pháp luật một số nước trên Thế giới. Có thể
thấy rằng hợp đồng vay tài sản đã được quy định khá cụ thể. Điều đó chứng minh rằng
khế ước trong hợp đồng đã có từ lâu đời và có vai trò lớn trong mọi đời sống xã hội.
2.1.2. Khái niệm, đặc điểm về hợp đồng vay tài sản.
a. Khái niệm tài sản
Trong đời sống kinh tế - xã hội, nếu tài sản luôn được coi là điều kiện vật chất để
duy trì các hoạt động trong lĩnh vực kinh tế và trong đời sống của con người thì sự tồn tại
của các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ liên quan đến tài sản được coi là điều
kiện cần thiết để giải quyết các tranh chấp có liên quan đến các loại tài sản đó.
Tài sản ở đây hiểu theo định nghĩa của BLDS năm 2015 là: “Vật, tiền, giấy
tờ có giá và các quyền tài sản”. “Tài sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất
động sản và tài sản có thể là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai”. 4
b. Khái niệm hợp đồng vay tài sản
Trong cuộc sống hằng ngày cũng như trong các hoạt động sản xuất kinh doanh,
không thể tránh khỏi những rủi ro hoặc khó khăn tạm thời về kinh tế đòi hỏi phải vay
mượn tiền hay tài sản của người khác. Do đó hợp đồng vay tài sản là một trong những
phương tiện hữu hiệu nhất để thỏa mãn những nhu cầu đó.
Theo quy định của BLDS năm 2015 thì “Hợp đồng vay tài sản là sự thỏa thuận giữa
các bên, theo đó bên cho vay giao tài sản cho bên vay; khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn
trả cho bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi
nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định”.5
c. Đặc điểm của hợp đồng vay tài sản
Hợp đồng vay tài sản là một dạng thức trong hợp đồng dân sự nên vừa có những
đặc điểm chung của hợp đồng dân sự vừa có những đặc điểm đặc trưng:
Về phương diện chủ thể: Tham gia ký kết và thực hiện hợp đồng vay tài sản bao
gồm 2 bên: Bên cho vay và bên đi vay. Bên cho vay trong hợp đồng vay tài sản là các tổ
chức, cá nhân có tài sản hoặc có đủ điều kiện theo luật định đối với những hợp đồng tín
4 Điều 105 BLDS 2015
5 Điều 463 BLDS 2015
16
dụng. Bên đi vay là những cá nhân, tổ chức cần đến sự giúp đỡ về vật chất của bên cho
vay.
Về đối tượng của hợp đồng vay tài sản: Thông thường, đối tượng của hợp đồng vay
tài sản là một khoản tiền. Tuy nhiên, trong thực tế, đối tượng của hợp đồng cho vay có
thể là vàng, kim khí, đá quý hoặc một số lượng tài sản khác. Đối tượng của hợp đồng vay
tài sản được chuyển từ bên cho vay sang bên vay làm sở hữu. Bên vay có quyền định
đoạt đối với tài sản vay. Khi hết hạn của hợp đồng vay tài sản, bên vay có nghĩa vụ trả
cho bên kia một tài sản khác cùng loại với tài sản đã vay hoặc số tiền đã vay.
Ngoài ra, hợp đồng vay tài sản có những đặc điểm pháp lý sau đây:
Thứ nhất, hợp đồng vay tài sản thường là hợp đồng đơn vụ. Hợp đồng đơn vụ là
hợp đồng mà trong đó chỉ có một bên có nghĩa vụ, bên kia chỉ hưởng quyền mà không
thực hiện nghĩa vụ gì. Xét về nguyên tắc, hợp đồng cho vay là đơn vụ đối với những
trường hợp cho vay không có lãi suất, bên cho vay có quyền yêu cầu bên vay phải hoàn
trả vật cùng loại tương ứng với số lượng, chất lượng của tài sản cho bên cho vay. Bên vay
không có quyền đối với bên cho vay. Tuy nhiên, đối với hợp đồng cho vay có lãi suất thì
bên cho vay có nghĩa vụ chuyển tiền đúng thời hạn, nếu vi phạm phải chịu trách nhiệm
dân sự.
Thứ hai, hợp đồng vay tài sản là hợp đồng chuyển quyền sở hữu đối với tài sản từ
bên cho vay sang bên vay, khi bên vay nhận tài sản. Vì vậy bên vay có toàn quyền đối với
tài sản vay, trừ trường hợp vay có điều kiện sử dụng.
Thứ ba, hợp đồng vay tài sản là một hợp đồng có tính đền bù hoặc không có tính
đền bù. Tính chất đền bù của hợp đồng vay tài sản thể hiện ở việc trả lãi. Theo tinh thần
của Điều 463 BLDS 2015 thì hợp đồng vay tài sản sẽ không đền bù nếu như các bên
không có thỏa thuận gì về việc trả lãi. Việc trả lãi được coi là ngoại lệ và chỉ được áp
dụng nếu như trong hợp đồng có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định. Trong trường
hợp các bên chỉ thỏa thuận về việc trả lãi nhưng chưa xác định rõ lãi suất hoặc có tranh
chấp về lãi suất thì áp dụng lãi suất cơ bản do Ngân hàng nhà nước công bố tương ứng
với thời hạn vay tại thời điểm trả nợ (Khoản 2 Điều 468 BLDS 2015).
Thứ tư, hợp đồng vay tài sản là một hợp đồng ưng thuận hoặc hợp đồng thực tế.
Hợp đồng phát sinh hiệu lực tại thời điểm giao kết, tức là vào thời điểm bên đề nghị nhận
được trả lời chấp nhận đề nghị hoặc nếu hợp đồng được giao kết bằng miệng thì thời
điểm giao kết là thời điểm các bên thỏa thuận về nội dung hợp đồng hoặc thời điểm bên
sau cùng kí vào văn bản.
2.1.3. Phân loại hợp đồng vay tài sản
Theo quy định tại các Điều 469 và Điều 470 BLDS năm 2015 thì hợp đồng vay tài
sản gồm có 02 loại là hợp đồng vay tài sản không có kỳ hạn và hợp đồng vay tài sản có
kỳ hạn.
Hợp đồng vay tài sản không có kỳ hạn là hợp đồng không thỏa thuận về kỳ hạn, bên
cho vay có quyền yêu cầu bên vay thực hiện hợp đồng bất kỳ thời điểm nào. Trong hợp
đồng vay không có kỳ hạn bao gồm: Hợp đồng không kỳ hạn không có lãi và hợp đồng
vay không kỳ hạn có lãi.
17
-
Hợp đồng vay tài sản có kỳ hạn là hợp đồng có thỏa thuận về kỳ hạn. Trong hợp
đồng vay tài sản có kỳ hạn bao gồm hai loại là hợp đồng vay có kỳ hạn không có lãi và
hợp đồng vay có kỳ hạn có lãi.
2.2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN VÀ GIẢI
QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN
2.2.1. Các quy định của BLDS năm 2015 về hợp đồng vay tài sản
a. Đối tượng của hợp đồng vay tài sản
Thông thường, đối tượng của hợp đồng vay tài sản là một khoản tiền. Tuy nhiên,
trong thực tế, đối tượng của hợp đồng vay tài sản có thể là vàng, kim quý hoặc đá quý
hoặc một số lượng tài sản khác.
Đối tượng của hợp đồng vay tài sản được chuyển từ bên cho vay sang bên vay làm
sở hữu. Bên vay có quyền định đoạt đối với tài sản vay. Khi hết hạn của hợp đồng vay tài
sản, bên vay có nghĩa vụ trả cho bên kia một tài sản khác cùng loại với tài sản đã vay
hoặc số tiền đã vay
b. Kỳ hạn hợp đồng vay tài sản
Hợp đồng vay tài sản có thể có hoặc không có kỳ hạn (xác định, không xác định).
Hợp đồng vay tài sản không có kỳ hạn: Bên cho vay có quyền yêu cầu bên vay phải thực
hiện hợp đồng bất kỳ thời điểm nào. Tuy nhiên, để tạo điều kiện cho bên vay chuẩn bị
tiền hoặc tài sản khi trả, bên cho vay phải báo cho bên vay một thời gian hợp lý để thực
hiện hợp đồng. Hết thời gian đó, bên vay buộc phải thực hiện nghĩa vụ của mình. 6
Nếu hợp đồng không có kỳ hạn thì bên vay có thể thực hiện hợp đồng vào bất cứ
thời gian nào, bên cho vay không được từ chối tiếp nhận việc thực hiện nghĩa vụ của bên
vay. Xác định thời diểm chấm dứt hợp đồng vay có ý nghĩa quan trọng trong việc xác
định trách nhiệm dân sự của các bên và thời hiệu của hợp đồng.
- Hợp đồng vay tài sản có kỳ hạn: Bên cho vay có quyền yêu cầu bên vay phải thực
hiện hợp đồng bất kỳ thời điểm nào đối với trường hợp vay có kỳ hạn và không có lãi.
Tuy nhiên, để tạo điều kiện cho bên vay chuẩn bị tiền hoặc tài sản khi trả, bên cho vay
phải báo cho bên vay một thời gian hợp lý để thực hiện hợp đồng. Hết thời gian đó, bên
vay buộc phải thực hiện nghĩa vụ của mình.
Đối với trường hợp vay có kỳ hạn và có lãi thì bên vay có quyền trả lại tài sản trước
kỳ hạn, nhưng phải trả toàn bộ lãi theo kỳ hạn, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc
luật có quy định khác.7
Trường hợp hết hạn hợp đồng mà bên vay không trả được thì phải chịu trách nhiệm
dân sự do vi phạm hợp đồng. Nếu là vay có lãi thì bên vay còn phải trả lãi trên nợ gốc và
lãi quá hạn theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời hạn
vay tại thời điểm trả nợ.8 Nếu vay không có lãi thì bên vay phải trả lãi đối với khoản nợ
6 Điều 469 BLDS 2015
7 Điều 470 BLDS 2015
8 Khoản 5 Điều 466 BLDS 2015
18
chậm trả theo lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 BLDS 2015 tương ứng với thời hạn
chậm trả tại thời điểm trả nợ, nếu có thỏa thuận.9
c. Lãi suất trong hợp đồng vay tài sản
Lãi suất trong hợp đồng vay tài sản là tỷ lệ nhất định mà bên vay phải trả thêm vào
số tài sản hoặc số tiền đã vay tính theo đơn vị thời gian. Lãi suất thường được tính theo
tuần, tháng hoặc năm do các bên thỏa thuận hoặc do pháp luật quy định. Căn cứ vào lãi
suất, số tiền vay và thời gian vay mà bên vay phải trả một số tiền nhất định (tiền lãi). Số
tiền này tỉ lệ thuận với lãi suất, số tiền đã vay và thời gian vay. Lãi suất cho vay cụ thể sẽ
do các bên thoả thuận. Tuy nhiên, nhằm ngăn ngừa hiện tượng cho vay nặng lãi và cũng
tạo cơ sở pháp lý để giải quyết các tranh chấp về lãi suất hoặc trong trường hợp không có
cơ sở xác định rõ mức lãi đã thỏa thuận, BLDS 2015 được xem là hợp lý và tiêu chuẩn
được đó là mức lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố đối với loại cho vay
tương ứng.
Lãi suất chậm trả trong hợp đồng vay không có lãi
Khoản 4 điều 466 BLDS năm 2015 quy định: “ Trường hợp vay không có lãi mà khi
đến hạn bên vay không trả nợ hoặc trả không đầy đủ thì bên vay phải trả lãi đối với
khoản nợ chậm trả theo lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 BLDS 2015 tương ứng với
thời hạn chậm trả tại thời điểm trả nợ, nếu có thỏa thuận”.
Quy định này nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi đối với bên cho vay tài sản. Theo
quy định này thì điều kiện để tính lãi là: Vay không có lãi mà có thỏa thuận về việc tính
lãi đối với số tiền chậm trả và dến hạn trả mà bên vay không trả hoặc trả không đầy đủ.
Đối tượng tính lãi là khoản nợ chậm trả. Lãi suất để tính lãi là lãi suất cơ bản do
Ngân hàng Nhà nước công bố tại thời điểm trả nợ. Thời hạn để tính lãi là khoảng thời
gian từ thời điểm trả nợ đến thời điểm giải quyết việc trả nợ. Nếu vụ việc do Tòa án giải
quyết thì thời hạn tính đến ngày xét xử sơ thẩm hoặc ngày Tòa án hòa giải thành, các bên
đương sự thỏa thuận được với nhau.
Trong thực tế, khi thực hiện quy định tại khoản 4 Điều 466 BLDS năm 2015 đã có
trường hợp vay không có lãi, bên vay và bên cho vay không thỏa thuận việc tính lãi đối
với số tiền chậm trả, nhưng khi giải quyết, Tòa án vẫn buộc bên vay phải chịu lãi đối với
số tiền chậm trả. Nguyên nhân của thiếu sót này là do người có thẩm quyền giải quyết đã
“bỏ quên” cụm từ “ nếu có thỏa thuận” ghi ở cuối cùng trong khoản 4 Điều 466 BLDS
2015.
Lãi suất trong hợp đồng vay có thỏa thuận lãi
Khoản 5 Điều 466 BLDS năm 2015 có quy định:
“ Trong trường hợp vay có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả hoặc trả không đầy
đủ thì bên vay phải trả lãi như sau: Lãi trên nợ gốc theo lãi suất thỏa thuận trong hợp
đồng tương ứng với thời hạn vay mà đến hạn chưa trả; trường hợp chậm trả thì còn phải
trả lãi theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật này; Lãi trên nợ gốc
quá hạn chưa trả bằng 150% lãi suất vay theo hợp đồng tương ứng với thời gian chậm trả,
trừ trường hợp có thỏa thuận khác.”.
9 Khoản 4 Điều 466 BLDS 2015
19
Quy định này nhằm bảo vệ quyền lợi của bên vay tài sản trong trường hợp mức lãi
suất cho vay cao hơn mức lãi suất cơ bản do Ngân hàng nhà nước công bố tại thời điểm
trả nợ. Vì trong thực tế vẫn có nhiều trường hợp người cho vay tài sản chỉ lấy lãi bằng
với lãi suất tiền gửi tiết kiệm hoặc lãi suất cho vay cao hơn lãi suất tiền gửi tiết kiệm
không thời hạn, nhưng lại thấp hơn lãi suất quy định trong BLDS tại thời điểm trả nợ.
d. Hiệu lực của hợp đồng vay tài sản
Thời điểm có hiệu lực:
Về nguyên tắc hợp đồng có hiệu lực từ thời điểm giao kết. Tuy nhiên thời điểm có
hiệu lực của hợp đồng vay tài sản còn được xác định theo sự thỏa thuận hoặc theo sự quy
định của pháp luật.10 Vì vậy hợp đồng vay tài sản được coi là có hiệu lực vào một trong
các thời điểm sau đây:
- Hợp đồng bằng miệng hoặc bằng các hành vi cụ thể có hiệu lực tại thời điểm các
bên đã trực tiếp thỏa thuận với nhau về những nội dung chủ yếu của hợp đồng.
- Hợp đồng bằng văn bản thường, có hiệu lực tại thời điểm bên sau cùng ký vào văn
bản hợp đồng.
- Hợp đồng bằng văn bản có chứng nhận, chứng thực, đăng ký hoặc xin phép có
hiệu lực tại thời điểm hợp đồng đó được công chứng, chứng thực, đăng ký hoặc cho
phép.
Ngoài ra hợp đồng còn có thể có hiệu lực sau thời điểm nói trên nếu các bên đã tự
thỏa thuận với nhau hoặc trong trường hợp pháp luật đã quy định cụ thể
Việc xác định thời điểm có hiệu lực của hợp đồng có ý nghĩa rất quan trọng, xác
định được thời điểm có hiệu lực của hợp đồng là xác định được thời điểm phát sinh
quyền và nghĩa vụ của các bên với nhau, và đặc biệt là khi giải quyết các tranh chấp về
tài sản trong hợp đồng mà quy ra thành tiền thì xác định giá trị của tài sản đó theo thời
giá thị trường tại thời điểm hợp đồng có hiệu lực. Đồng thời hiệu lực của hợp đồng cũng
là một trong những căn cứ để xem xét về tính hợp lệ và thời hiệu khởi kiện trong vụ án
dân sự.
Điều kiện có hiệu lực:
Để một hợp đồng vay tài sản có hiệu lực thì bản thân hợp đồng đó phải tuân thủ các
điều kiện có hiệu lực của một hợp đồng dân sự, các điều kiện đó tùy theo tính chất, đặc
điểm của các hợp đồng mà sẽ có sự khác nhau. Có ba điều kiện cơ bản để một hợp đồng
vay tài sản khi đáp ứng các điều kiện đó sẽ có hiệu lực theo luật định là điều kiện về mặt
chủ thể; điều kiện về mặt nội dung và điều kiện về mặt hình thức.
- Về chủ thể: hợp đồng vay tài sản có hiệu lực khi người tham gia kí kết hợp đồng
có năng lực hành vi dân sự.
- Về mục đích, nội dung: mục đích và nội dung của hợp đồng không vi phạm điều
cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội; người tham gia ký kết hợp đồng là hoàn
toàn tự nguyện, không bị lừa dối, cưỡng ép.
- Về hình thức: tuân thủ đúng quy định về hình thức của hợp đồng theo quy định
của pháp luật.
đ. Thực hiện hợp đồng vay tài sản
10 Điều 401 BLDS 2015
20
Thực hiện hợp đồng vay tài sản là việc các bên tiến hành các hành vi mà mỗi bên
tham gia hợp đồng phải thực hiện nhằm đáp ứng những quyền dân sự tương ứng bên kia.
Nguyên tắc thực hiện hợp đồng vay tài sản theo đúng như nguyên tắc thực hiện hợp
đồng dân sự: các bên phải tuân theo các nguyên tắc như thực hiện đúng hợp đồng, đúng
đối tượng, chất lượng, số lượng, chủng loại, thời hạn, phương thức và các thoả thuận
khác. Thực hiện một cách trung thực, theo tinh thần hợp tác và có lợi nhất cho các bên,
bảo đảm tin cậy lẫn nhau. Không được xâm phạm đến công cộng, lợi ích hợp pháp của
người khác.
Sau khi các bên đã giao kết hợp đồng vay tài sản dưới một hình thức nhất định phù
hợp với pháp luật và đáp ứng đủ các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng đã quy định tại
Điều 117 BLDS năm 2015 thì hợp đồng vay tài sản có hiệu lực đối với các bên. Từ thời
điểm này các bên có nghĩa vụ dân sự với nhau.
BLDS năm 2015 đã quy định cụ thể về việc thực hiện hợp đồng vay không kỳ hạn
tại Điều 469 và thực hiện hợp đồng vay có kỳ hạn tại Điều 470.
e. Họ, hụi, biêu, phường
Họ, hụi, biêu, phường là các tên gọi khác nhau của một hình thức giao dịch về tài
sản theo tập quán, tồn tại từ lâu và khá phổ biến ở nước ta. ở miền Bắc thường gọi là họ,
ở miền Nam gọi là hụi, còn miền Trung thì hay gọi là biêu, là phường.
Nguyên tắc chung của chơi họ là nhiều người (nhà con) cùng tham gia một dây họ
bầu ra nhà cái (người thu tiền của nhà con và chuyển cho nhà bốc (bát) họ. Hàng tháng,
mỗi nhà con phải góp một khoản tiền nhất định cho nhà cái. Lần lượt theo thứ tự bốc
thăm hoặc theo thỏa thuận đến kì hạn bốc họ, một nhà con sẽ nhận về số tiền từ nhà cái,
số tiền này do các nhà con khác góp họ. Theo thứ tự bốc họ, khi người cuối cùng bốc họ
thì dây họ chấm dứt.
Bản chất truyền thống của họ là những người chơi họ giúp đỡ tương trợ lẫn nhau.
Dưới hình thức góp họ, thành viên góp họ có được số vốn tập trung để có điều kiện kinh
doanh hoặc sử dụng vào những công việc cần chi tiêu lớn. Những hình thức chơi họ có
tính chất lành mạnh được nhà nước khuyến khích. Ngược lại, pháp luật cấm lợi dụng
hình thức “chơi họ” để nhằm mục đích cho vay nặng lãi giữa “nhà cái” với “nhà con”,
các hình thức chơi họ nhằm lừa đảo hoặc các hình thức biến tướng của chơi họ là đánh
bạc. Những trường hợp này, tùy theo mức độ vi phạm nặng nhẹ mà sẽ bị xử lí hành chính
hoặc hình sự.
BLDS năm 2015 đã quy định tại Điều 471:
“1. Họ, hụi, biêu, phường (sau đây gọi chung là họ) là một hình thức giao dịch về
tài sản theo tập quán trên cơ sở thoả thuận của một nhóm người tập hợp nhau lại cùng
định ra số người, thời gian, số tiền hoặc tài sản khác, thể thức góp, lĩnh họ và quyền,
nghĩa vụ của các thành viên".
2. Việc tổ chức họ nhằm mục đích tương trợ trong nhân dân được thực hiện theo
quy định của pháp luật.
3. Trường hợp việc tổ chức họ có lãi thì mức lãi suất phải tuân theo quy định của Bộ
luật này.
4. Nghiêm cấm việc tổ chức họ dưới hình thức cho vay nặng lãi”.
21
Đối với các dây họ có lãi thì lãi suất đối với phần họ phải tuân theo quy định tại
Điều 468 của BLDS năm 2015. Điều đó có nghĩa lãi suất đối với phần họ là do các thành
viên thoả thuận nhưng không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay.
Tuy nhiên, quy định của pháp luật về vấn đề này vẫn còn hạn chế. Đó là, pháp luật
dân sự chưa quy định rõ khái niệm hụi, họ, biêu, phường một cách chi tiết và trong
trường hợp cho vay nặng lãi thì sẽ được xử lí như thế nào. Đây là những vấn đề còn thiếu
sót của luật cần được bổ sung hoàn thiện hơn.
2.2.2. So sánh quy định của BLDS 2005 với BLDS 2015 về hợp đồng vay tài sản
Nội dung
Chủ thể
Nghĩa vụ của bên
cho vay
Mức lãi theo thỏa
thuận
Hệ quả pháp lý khi
thỏa thuận vượt
quá mức lãi giới
hạn
Nghĩa vụ trả lãi
BLDS 2005
Hợp đồng vay tài sản phải có ít
nhất từ hai bên trở lên, các chủ
thể của hợp dồng vay tài sản
phải có tư cách chủ thể (bao
gồm cá nhân, pháp nhân, hộ gia
đình, tổ hợp tác) và phải đáp
ứng các điều kiện theo quy
định của pháp luật đối với một
chủ thể của quan hệ dân sự.
Khoản 3 Điều 473 quy định:
Không được yêu cầu bên vay
trả lại tài sản trước thời hạn, trừ
trường hợp quy định tại Điều
478.
Khoản 1 Điều 476 quy định:
Lãi suất vay do các bên thoả
thuận nhưng Không được vượt
quá 150% của lãi suất cơ bản
do Ngân hàng Nhà nước công
bố đối với loại cho vay tương
ứng.
Việc xác định mức lãi suất cơ
bản không đơn giản đối với
một số chủ thể không có cơ hội
tiếp cận đến hay không biết
đến.
Nội dung trên không thiết
thực, khó đi vào cuộc sống
BLDS 2015
Quy định rộng hơn về chủ thể
của pháp luật dân sự đó là Nhà
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, cơ quan nhà nước ở
trung ương, ở địa phương trong
quan hệ dân sự, các tổ chức
không có tư cách pháp nhân
trong quan hệ pháp luật dân sự.
Khoản 3 Điều 465 quy định:
Không được yêu cầu bên vay trả
lại tài sản trước thời hạn, trừ
trường hợp quy định tại Điều
470 của hoặc luật khác có liên
quan quy định khác.
Trường hợp các bên có thỏa
thuận về lãi suất thì lãi suất theo
thỏa thuận không được vượt quá
20%/năm của khoản tiền vay,
trừ trường hợp luật khác có liên
quan quy định khác. (khoản 1
Điều 468)
Đảm bảo sự mềm dẻo, linh
hoạt, tùy thuộc vào điều kiện
hoàn cảnh, thực tế.
Khoản 1 Điều 4468 quy định:
Trường hợp lãi suất theo thỏa
thuận vượt quá lãi suất giới hạn
Không quy định
được quy định tại khoản này thì
mức lãi suất vượt quá không có
hiệu lực.
Khoản 4 Điều 474 quy định: Khoản 2 Điều 468 quy định:
22
chậm trả trong
trường hợ vay
không có lãi
suất/không xác
định rõ lãi suất
Mức lãi chậm trả
Trong trường hợp vay không
Trường hợp các bên có thỏa
có lãi mà khi đến hạn bên vay
thuận về việc trả lãi, nhưng
không trả nợ hoặc trả không
không xác định rõ lãi suất và có
đầy đủ thì bên vay phải trả lãi
tranh chấp về lãi suất thì lãi suất
đối với khoản nợ chậm trả theo
được xác định bằng 50% mức
lãi suất cơ bản do Ngân hàng
lãi suất giới hạn quy định tại
Nhà nước công bố tương ứng
khoản 1 Điều này tại thời điểm
với thời hạn chậm trả tại thời
trả nợ.
điểm trả nợ, nếu có thoả thuận.
Không bắt buộc phải có thỏa
Theo quy định trên khi các
thuận mới phát sinh căn cứ để
bên có thỏa thuận thì bên vay
bên vay có nghĩa vụ trả lãi chậm
mới phải trả lãi đối với khoản
trả.
nợ chậm trả
Khoản 5 Điều 474 quy định: Khoản 5 Điều 466 quy định:
Trong trường hợp vay có lãi Trường hợp vay có lãi mà khi
mà khi đến hạn bên vay không đến hạn bên vay không trả hoặc
trả hoặc trả không đầy đủ thì trả không đầy đủ thì bên vay
bên vay phải trả lãi trên nợ gốc phải trả lãi như sau:
và lãi nợ quá hạn theo lãi suất a) Lãi trên nợ gốc theo lãi suất
cơ bản do Ngân hàng Nhà nước thỏa thuận trong hợp đồng
công bố tương ứng với thời hạn tương ứng với thời hạn vay mà
vay tại thời điểm trả nợ.
đến hạn chưa trả; trường hợp
chậm trả thì còn phải trả lãi theo
mức lãi suất quy định tại khoản
2 Điều 468 của Bộ luật này;
Tức đây là khoản lãi đã thỏa
thuận trong thời hạn và lãi chậm
trả của số tiền lãi chậm trả
b) Lãi trên nợ gốc quá hạn chưa
trả bằng 150% lãi suất vay theo
hợp đồng tương ứng với thời
gian chậm trả, trừ trường hợp có
thỏa thuận khác.
Tức đây là lãi chậm trả của số
tiền gốc.
Không có quy định về trường
hợp tổ chức họ có lãi.
Bổ sung quy định tại khoản 3
Điều 471: “Trường hợp việc tổ
Họ, hụi, biêu
chức họ có lãi thì mức lãi suất
phường
phải tuân theo quy định của Bộ
luật này.”
Bảng 1: So sánh quy định của BLDS 2005 với BLDS 2015 về hợp đồng vay tài sản
2.2.3. Các phương thức giải quyết tranh chấp
a. Phương thức thương lượng
Thương lượng là việc bàn bạc nhằm đi đến thỏa thuận giải quyết một vấn đề nào đó
giữa các bên. Thương lượng là hình thức giải quyết tranh chấp không cần đến vai trò của
23
người thứ ba, không có sự can thiệp của bất kỳ cơ quan nhà nước nào. Thương lượng thể
hiện quyền tự do thỏa thuận và tự do định đoạt của các bên.
Phần lớn các điều khoản giải quyết tranh chấp trong hợp đồng các bên đều quy định
việc giải quyết tranh chấp bằng thương lượng khi có sự vi phạm hợp đồng. Bên cạnh đó,
Điều 317 Luật Thương mại 2005 có quy định một trong các hình thức giải quyết tranh
chấp trong thương mại được thực hiện thông qua “Thương lượng giữa các bên”. Tuy
nhiên, đây được hiểu là điều luật mang tính tùy nghi, không được hiểu là một quy định
bắt buộc.
Phương thức này có ưu điểm đó là: không đòi hỏi thủ tục pháp lý phức tạp, hạn chế
tối đa chi phí, ít phương hại đến mối quan hệ giữa các bên và giữđược bí mật kinh doanh.
Tuy nhiên phương thức này cũng có nhược điểm đó là: Đòi hỏi các bên đều phải có thiện
chí, trung thực với tinh thần hợp tác cao, nếu không, việc thương lượng sẽ thất bại và lại
phải theo một phương thức khác để giải quyết.
b. Phương thức hòa giải
Hòa giải là hình thức giải quyết tranh chấp xuất hiện sớm nhất trong lịch sử xã hội
loài người trên nhiều lãnh vực, chứ không riêng đặc trưng gì với tranh chấp hợp đồng.
Hòa giải là các bên tranh chấp cùng nhau bàn bạc, thỏa thuận để đi đến thống nhất một
phương án giải quyết bất đồng giữa họ và tự nguyện thực hiện phương án đã thỏa thuận
qua hòa giải.
Ở Việt Nam, việc hòa giải tranh chấp hợp đồng được coi trọng. Các bên phải tự
thương lượng, hòa giải với nhau khi phát sinh tranh chấp. Khi thương lượng, hòa giải bất
thành mới đưa ra Tòa án hoặc trọng tài giải quyết. Ngay tại Tòa án, các bên vẫn có thể
tiếp tục hòa giải với nhau. Bình quân mỗi năm, số lượng tranh chấp hợp đồng tín dụng
được giải quyết bằng phương thức hòa giải chiếm đến trên dưới 50% tổng số vụ việc mà
Tòa án đã phải giải quyết.
Ưu điểm của giải quyết tranh chấp Hợp đồng tín dụng trong thực tế bằng phương
thức hòa giải đó là: phương thức giải quyết tranh chấp đơn giản, nhanh chóng, ít tốn kém.
Các bên hòa giải thành thì không có kẻ thắng người thua nên không gây ra tình trạng đối
đầu giữa các bên, vì vậy duy trì được quan hệ hợp tác vẫn có giữa các bên. Các bên dễ
dàng kiểm soát được việc cung cấp chứng từ và sử dụng chứng từ đó giữ được các bí
quyết kinh doanh và uy tín của các bên. Hòa giải xuất phát từ sự tự nguyện có điều kiện
của các bên, nên khi đạt được phương án hòa giải, các bên thường nghiêm túc thực hiện.
Những mặt hạn chế của phương thức hòa giải trong tranh chấp hợp đồng tín dụng
đó là: Nếu hoà giải bất thành, thì lợi thế về chi phí thấp trở thành gánh nặng bổ sung cho
các bên tranh chấp. Một bên mà thiếu thiện chí sẽ lợi dụng thủ tục hòa giải để kéo dài, trì
hoản việc thực hiện nghĩa vụ của mình.
Các hình thức hòa giải hiện nay như sau:
Căn cứ vào có tác động hoặc không tác động của bên thứ 3 có thể phân thành tự hòa
giải hoặc hòa giải qua trung gian. Trong đó: tự hòa giải là do các bên tranh chấp tự bàn
bạc để đi đến thống nhất phương án giải quyết tranh chấp mà không cần tới sự tác động
giúp đỡ của bên thứ ba hay cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Hòa giải qua trung gian: là
việc các bên tranh chấp tiến hành hòa giải với nhau dưới sự hỗ trợ, giúp đỡ của người thứ
24
ba (người trung gian hòa giải). Trung gian hòa giải có thể là cá nhân, tổ chức hay Tòa án
do các bên tranh chấp chọn lựa hoặc do pháp luật quyđịnh.
Căn cứ vào thủ tục tố tụng có thể phân thành hòa giải ngoài thủ tục tố tụng và hòa
giải trong thủ tục tố tụng, trong đó hòa giải ngoài thủ tục tố tụng là việc hòa giải được các
bên tiến hành trước khi dưa đơn khởi kiện ra Tòa án hay trọng tài, còn hòa giải trong thủ
tục tố tụng: là việc hòa giải được tiến hành tại Tòa án, Trọng tài khi các cơ quan này tiến
hành giải quyết tranh chấp theo đơn kiện của một bên (hòa giải dưới sự trợ giúp của Tòa
án hay Trọng tài). Tòa án, Trọng tài sẽ ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các bên
và quyết định này có giá trị cưỡng chế thi hành đối với các bên.
Vể phương thức thương lượng và hòa giải được quy định cụ thể tại nghị định
22/2017/NĐ-CP ngày 24/02/2017 của Chính phủ về hòa giải thương mại.
c. Phương thức giải quyết bởi Trọng tài thương mại
Phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại chỉ áp dụng đối với
những hợp đồng có liên quan đến thương mại, nếu chỉ liên quan đến những vấn đề dân sự
thông thường thì không thể lựa chọn cách thức này để giải quyết. Các bên có tranh chấp
hợp đồng có thể thỏa thuận và ghi nhận bằng văn bản về việc khi phát sinh tranh chấp thì
lựa chọn giải quyết bởi Trọng tài thương mại. Đây là cách thức giải quyết tranh chấp qua
Trọng tài viên - bên thứ ba độc lập nhằm chấm dứt mâu thuẫn đưa ra phán quyết yêu cầu
các bên phải thi hành theo.
Thực tế, đây là phương thức bắt nguồn từ sự tự nguyện thỏa thuận của các bên và
không mang ý chí quyền lực nhà nước. Tại Việt Nam, Trọng tài thương mại là tổ chức phi
chính phủ, được hoạt động trên pháp luật và quy chế trọng tài quốc tế. Cơ chế giải quyết
bằng trọng tài thì được thể hiện ở cả hai yếu tố là thỏa thuận và tài phán, coi như một
cách khác của việc nói “tự do trong khuôn khổ”.
Khi đã lựa chọn cách thức giải quyết trọng tài, các bên có thể lựa chọn trung tâm
trọng tài, trọng tài viên, luật áp dụng nhưng khi đã có kết quả giải quyết – phán quyết của
trọng tài thì các bên có nghĩa vụ phải thực hiện. Trọng tài giải quyết theo nguyên tắc xét
xử một lần và phán quyết của trọng tài mang tính chung thẩm và không thể bị kháng cáo,
kháng nghị theo quy định tố tụng dân sự. Phán quyết có giá trị hiệu lực thi hành với các
bên và nếu bên nào không thi hành thì bên còn lại có quyền yêu cầu ra Tòa án công nhận
phán quyết và yêu cầu cơ quan thi hành án cưỡng chế thi hành.
Khi giải quyết tranh chấp thông qua Trọng tài thương mại có những ưu điểm so với
các phương thức khác là:
Thủ tục trọng tài tương đối đơn giản và nhanh chóng. Khi giải quyết các bên hoàn
toàn có quyền và có khả năng tác động đến quá trình trọng tài, thể hiện bằng quyền chỉ
định trọng tài viên (nếu chọn được trọng tài viên nắm bắt chắc kiến thức, nhiều kinh
nghiệm, am hiểu sâu về vấn đề tranh chấp thì việc giải quyết tranh chấp sẽ diễn ra nhanh
chóng và chính xác). Mặc dù có sự can thiệp của một bên thứ ba vào quá trình giải quyết
tranh chấp nhưng nguyên tắc của trọng tài là không công khai nên vẫn hạn chế được việc
bị lộ những thông tin bí mật kinh doanh, từ đó cũng giữ được uy tín của các bên với các
đối tác khác và trên cả thương trường. Ưu điểm cuối cùng của phương thức giải quyết
25