Tải bản đầy đủ (.docx) (45 trang)

Đề cương câu hỏi và đáp án môn đường lối ĐCSVN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (254.02 KB, 45 trang )

ĐỀ CƯƠNG:
ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Câu 1: Hãy chứng minh rằng, tiền đề cho việc giải quyết những mâu thuẫn của xã hội Việt Nam
cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX tồn tại ngay chính trong lòng xã hội Việt Nam?
Câu 2: Phân tích những đặc điểm nổi bật của tình hình thế giới, trong nước những năm cuối thế
kỷ XIX, đầu thế kỷ XX tác động trực tiếp đến sự ra đời của ĐCSVN?
Câu 3: Phân tích những bước ngoặt quan trọng trong quá trình tìm đường cứu nước của Nguyễn
Ái Quốc (1911-1920)? Tại sao trong quá trình tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc, Nguyễn
Ái Quốc lại lựa chọn con đường cách mạng vô sản?
Câu 4: Phân tích hệ thống quan điểm về cách mạng giải phóng dân tộc của Nguyễn Ái Quốc
được hình thành trong những năm 1920 – 1930? Trên cơ sở đó, chỉ rõ những đóng góp của
Nguyễn Ái Quốc cho kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin?
Câu 5: Vai trò của Nguyễn Ái Quốc trong quá trình vận động thành lập Đảng (1920-1930)?
Câu 6 : Làm rõ nét độc đáo, tính sáng tạo của Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt được thông
qua tại Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (đầu năm 1930)?
Câu 7: Phân tích quy luật ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam?
Câu 8: Phân tích quá trình Đảng CSVN nhận thức về mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ dân tộc và
dân chủ trong thời kỳ cách mạng 1930 – 1939? Nhận thức đó có ảnh hưởng như thế nào đến
quan điểm Đảng về vấn đề tập hợp lực lượng cách mạng những năm 1930 – 1939?
Câu 9: Phân tích quá trình hoàn thiện đường lối giải phóng dân tộc của Đảng (1939-1941)? Tại
sao chủ trương giải quyết vấn đề dân tộc trong phạm vi từng nước của Đảng Cộng sản Việt Nam
tại Hội nghị Trung ương 8 (5-1941) lại trở thành một trong những động lực thúc đẩy công cuộc
giải phóng dân tộc trên bán đảo Đông Dương đi tới thắng lợi?
Câu 10: Hãy chứng minh rằng, đường lối đấu tranh giành chính quyền của Đảng Cộng sản Việt
Nam (1930-1945) là sáng tạo, phù hợp và đáp ứng yêu cầu khách quan của xã hội Việt Nam?
Câu 11; Phân tích quá trình hoàn thiện đường lối cách mạng giải phóng dân tộc của Đảng Cộng
sản Việt Nam (1939-1941)? Ý nghĩa của đường lối đối với cách mạng Việt Nam trong những
năm 1939-1945?
Câu 12: Hãy chứng minh rằng quá trình bổ sung, điều chỉnh đường lối đấu tranh giành chính
quyền trong những năm 1941-1945 thể hiện sự lãnh đạo sáng suốt, kiên quyết, kịp thời của
Đảng?




Câu 13: Hãy chứng minh rằng chủ trương Kháng chiến, kiến quốc của Đảng những năm 19451946 là tư tưởng chiến lược mới, giải quyết kịp thời những vấn đề quan trọng về chỉ đạo chiến
lược, sách lược của cách mạng Việt Nam?
Câu 14: Chứng minh rằng, đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của Đảng là
đúng đắn, phù hợp thực tiễn, đáp ứng nhu cầu khách quan của cuộc kháng chiến?
Câu 15: Hãy chứng minh rằng, đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của Đảng Cộng sản
Việt Nam đã phản ánh đúng quy luật vận động của cách mạng ở từng miền và của chung cả nước
giai đoạn 1954-1975?
Câu 16: Bằng thực tiễn lịch sử, hãy chứng minh rằng, quá trình giải quyết đúng đắn mối quan hệ
giữa hai nhiệm vụ chiến lược trong đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã tạo ra sức
mạnh to lớn cho cuộc kháng chiến đi đến thắng lợi?
Câu 17: Phân tích những yếu tố chủ yếu, nền tảng làm nên thắng lợi của cuộc kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước? Yếu tố nào là quan trọng nhất? Tại sao?
Câu 18: Phân tích nội dung cơ bản và những điều chỉnh quan trọng trong đường lối công nghiệp
hóa XHCN gắn với thể chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung bao cấp (1960-1986)
Câu 19: Phân tích những đột phá đầu tiên trong đổi mới tư duy về cơ chế quản lý kinh tế của
Đảng trước năm 1986? Ý nghĩa của nó đối với việc tiếp tục đổi mới tư duy kinh tế thời kỳ tiếp
theo?
Câu 20: So sánh đường lối công nghiệp hóa của Đảng Cộng sản Việt Nam trước và sau Đổi mới
(1986)?
Câu 21: Phân tích những đặc điểm cơ bản của mô hình kinh tế tổng quát suốt thời kỳ quá độ lên
CNXH? Ý nghĩa của nó đối với công cuộc xây dựng CNXH ở nước ta hiện nay?
Câu 22: Phân tích những chuyển biến cơ bản trong tư duy kinh tế của Đảng thể hiện qua mô hình
kinh tế tổng quát suốt thời kỳ quá độ lên CNXH?
Câu 23: Phân tích sự cần thiết phải đổi mới đồng bộ các yếu tố cấu thành hệ thống chính trị Việt
Nam? Vấn đề mấu chốt nhất trong đổi mới hệ thống chính trị ở Việt Nam hiện nay? Tại sao?
Câu 24: So sánh đường lối đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam trước và Đổi mới (1986)?
Câu 25: Phân tích vai trò đặc biệt quan trọng của nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
trong bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người Việt Nam hiện nay?



Câu 26: Hãy chứng minh rằng, đường lối đối ngoại đổi mới đã đáp ứng được nhu cầu xây dựng
và bảo vệ đất nước? Phân tích những nội dung cơ bản của đường lối đối ngoại đổi mới và chứng
minh rằng, đường lối đó là đúng đắn, phù hợp, đáp ứng yêu cầu thực tiễn?
Câu 1: Hãy chứng minh rằng, tiền đề cho việc giải quyết những mâu thuẫn của xã hội Việt
Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX tồn tại ngay chính trong lòng xã hội Việt Nam?

Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, Việt Nam rơi vào giai đoạn đen tối dưới sự áp bức, bóc lột dã
man của thực dân Pháp. Năm 1858, thực dân Pháp nổ sung tấn công xâm lược Việt Nam. Sauk hi
tạm thời dập tắt được các phong trào đấu tranh của nhân dân ta, thực dân Pháp từng bước thiết
lập bộ máy thống trị ở Việt Nam:
Chính sách cai trị của thực
dân Pháp

Chính trị

Kinh tế

Chuyên chế triệt
để

Bóc lột nặng nề

Văn hóa – xã hội

Nô dịch, ngu đần

Dưới tác động của chính sách cai trị và chính sách kinh tế, văn hóa, giáo dục thực dân, xã
hội Việt Nam diễn ra quá trình phân hóa sâu sắc, hình thành nên các giai cấp mới, đặc biệt là giai

cấp công nhân và tư sản Việt Nam. Các giai cấp, tầng lớp trong xã hội lúc này đều mang thân
phận người dân mất nước, và ở những mức độ khác nhau đều bị thực dân Pháp áp bức, bóc lột.
Bởi lẽ đó, trong xã hội Việt Nam, ngoài mâu thuẫn cơ bản giữa nhân dân, chủ yếu là nông dân
với giai cấp địa chủ phong kiến, đã nảy sinh mâu thuẩn vừa cơ bản, vừa chủ yếu và ngày càng
gay gắt trong đời sống dân tộc, đó là: mâu thuẩn giữa toàn thể nhân dân Việt Nam với thực dân
Pháp xâm lược.
Tính chất xã hội Việt Nam lúc này bị thay đổi và trở thành xã hội thuộc địa, nửa phong
kiến. Thực tiễn lịch sử Việt Nam đặt ra hai yêu cầu:
-

Đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược, giành lại độc lập và tự do. Đây là nhiệm vụ hàng đầu
của dân tộc.


-

Xóa bỏ chế độ phong kiến, giành quyền dân chủ cho nhân dân, chủ yếu là ruộng đất cho
nông dân.

Tiền đề cho việc giải quyết những mâu thuẩn của xã hội Việt Nam giai đoạn này tồn tại
ngay chính trong long xã hội Việt Nam.
Xét về phương diện tiền đề thực tiễn:
-

Xu thế vùng lên của dân tộc chống thực dân Pháp.
Những phong trào yêu nước nổ ra.
Hồ Chí Minh tìm đường cứu nước theo con đường Cách mạng Vô sản và thành lập Đảng
Cộng sản Việt Nam.
(ý 3 tham khảo trong “Hỏi – đáp môn đường lối cách mạng của đảng cộng sản Việt Nam,
câu 4, trang16)


Chính những mâu thuẩn nảy sinh trong xã hội đã thổi bùng lên xu thế giải phóng dân tộc,
chống lại sự áp bức của thực dân Pháp. Phải kể tới chính là là phong trào yêu nước theo khuynh
hướng phong kiến và tư sản. Tiêu biểu như phong trào Cần Vương (1885-1896), cuộc khởi nghĩa
Yên Thế (Bắc Giang 1884)... Nhưng kết cục chung của các phong trào, khởi nghĩa này đều là
thất bại, chứng tỏ giai cấp phong kiến và hệ tư tưởng phong kiến không đủ điều kiện để lãnh đạo
phong trào yêu nước giải quyết thành công nhiệm vụ dân tộc ở Việt Nam. Song song còn có
phong trào yêu nước dưới sự lãnh đạo của tầng lớp sĩ phu tiến bộ chịu ảnh hưởng của tư tưởng
dân chủ tư sản. Về phương pháp có sự phân hóa thành hai xu hướng: biện pháp bạo động (đại
diện là Phan Bội Châu) và biện pháp cải cách (nổi bật là Phan Châu Trinh). Cũng trong thời gian
này, các tổ chức đảng phái ra đời như: Tân Việt cách mạng Đảng và Việt Nam quốc dân Đảng...
Phong trào giải phóng dân tộc diễn ra sôi nổi nhưng do hạn chế về giai cấp, đường lối chính trị,
hệ thống tổ chức thiếu chặt chẽ, chưa tập trung được rộng rãi lực lượng của dân tộc (nhất là hai
lực lượng xã hội cơ bản: công nhân và nông dân) nên cuối cùng đã không thành công. Mặc dù
vậy, chính những thất bại này đã thức tỉnh lòng yêu nước của cả dân tộc đồng thời để lại những
bài học kinh nghiệm quý giá.
Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm đường giải phóng dân tộc. Đặc biệt tháng 7 – 1920, Nguyễn Ái
Quốc đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn dề dân tộc và vấn đề thuộc địa cả
Lenin đăng trên báo Nhân đạo. Đến tháng 12 – 1920, Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu tán thành việc
gia nhập Quốc tế Cộng sản và tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp. Người khẳng định:
“Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô
sản”. Từ đây, Người trực tiếp chuẩn bị về tư tưởng chính trị và tổ chức cho việc thành lập Đảng.
Người ra sức truyền bá chủ nghĩa Mác-Lenin vào Việt Nam thong qua những bài đăng trên các
báo Người cùng khổ, Nhân đạo, Đời sống công nhân cùng một số tác phẩm (tiêu biểu: Bản án
chế độ thực dân Pháp – 1925). Tháng 6 – 1925, thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên.
1927, xuất bản tác phẩm Đường cách mệnh, chỉ rõ tính chất và nhiệm vụ của cách mạng Việt
Nam là cách mạng giải phóng dân tộc mở đường tiến lên chủ nghĩa xã hội. Các tổ chức cộng sản


lần lượt ra đời: Đông Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng và Đông Dương Cộng sản

Liên đoàn. Mặc dù đều giương cao ngọn cờ chống đế quốc, phong kiến, xây dựng chủ nghĩa
cộng sản nhưng cả ba tổ chức này đều hoạt động phân tán, chia rẽ, ảnh hưởng xấu đến phong
trào cách mạng ở Việt Nam lúc này. Trước tình hình đó, Nguyễn Ái Quốc rời Xiêm đến Trung
Quốc chủ trì Hội nghị hợp nhất Đảng tại Hương Cảng, Trung Quyết và thống nhất: hợp nhất ba
tổ chức thành một đảng duy nhất – Đảng Cộng sản Việt Nam. Cuộc khủng hoảng lãnh đạo được
chấm dứt, Cách mạng Việt Nam trở thành một bộ phận của cách mạng thế giới và đồng thời đây
cũng là cơ sở cho những sự nhảy vọt của Cách mạng Việt Nam.
Về tiền đề lí luận, Nguyễn Ái Quốc truyền bá vào Việt Nam những lí luận Cách mạng
phong trào giải phóng dân tộc góp phần vào sự phát triển của Cách mạng vô sản. Sự ra đời của
bản Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng đã định hướng đúng đắn cho đường lối lãnh đạo của
Đảng.
Câu 2: Phân tích những đặc điểm nổi bật của tình hình thế giới, trong nước những năm
cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX tác động trực tiếp đến sự ra đời của ĐCSVN?
Tình hình thế giới:

N
q
b

y

lo
h
à
v

s
g
n


tế

u
iQ

đ
ra
S
C
Đ
c
á
M


e
L
-ở
ư
7
9
1
0
IT

chC uyểnN
đếq uốcbiến
uốc àhntếC
sảnvQ
ộ gloạtn

củ C
aẢ
N
nh M
áhư
ở c-ng
cáĐ C
ra đờ
S
i
L eni
C ga19M
N
thán 7g10 T
i giớ
hếC
Intra h

Từ cuối thế kỉ XIX, chủ nghĩa tư bản đã chuyển từ tự do cạnh tranh sang giai đoạn độc
quyền (đế quốc chủ nghĩa). Các nước tư bản đế quốc, bên trong thì tăng cường bóc lột nhân dân
lao động, bên ngoài thì xâm lược và áp bức nhân dân các dân tộc thuộc địa. Sự thống trị tàn bạo
của chủ nghĩa đế quốc làm cho đời sống nhân dân lao động các nước trở nên cùng cực. Mâu
thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa với chủ nghĩa thực dân ngày càng gay gắt, phong trào đấu tranh
giải phóng dân tộc diễn ra mạnh mẽ ở các nước thuộc địa.


Vào giữa thế kỉ XIX, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân phát triển mạnh mẽ, chủ
nghĩa Mác ra đời và được phát triển thành chủ nghĩa Mác-Lenin, một hệ thống lý luận khoa học
với tư cách là vũ khí tư tưởng của giai cấp công nhân trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư
bản. Trong đó chỉ rõ tính tất yếu của việc lập ra đảng cộng sản nhằm định hướng, lãnh đạo cuộc

đấu tranh của giai cấp công nhân nhằm giành lại chính quyền, xây dựng xã hội mới. Đồng thời,
Đảng cũng là đại biểu cho quyền lợi của toàn thể nhân dân lao động. Chủ nghĩa Mác-Lenin đã
lay chuyển, lôi cuốn quần chúng nhân dân và cả những phần tử ưu tú, tích cực ở các nước thuộc
địa vào phong trào cộng sản. Nguyễn Ái Quốc đã vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa
Mác-Lenin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, sáng lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam. Nói cách
khác, chủ nghĩa Mác-Lenin là nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Năm 1917, Cách mạng Tháng Mười Nga giành được thắng lợi, cổ vũ mạnh mẽ phong trào
đấu tranh của giai cấp công nhân, nhân dân các nước, và là một trong những động lực thúc đẩy
sự ra đời nhiều đảng cộng sản. Nguyễn Ái Quốc khẳng định, Cách mạng Tháng Mười Nga như
tiếng sét đã đánh thức nhân dân châu Á tỉnh giấc mê hàng thế kỷ nay. Cách mạng Nga cũng chỉ
rõ vị trí nền tảng quan trọng của nhân dân (công nông). Tháng 3 – 1919, Quốc tế Cộng sản
(Quốc tế III) được thành lập thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cộng sản và công
nhân quốc tế. Đối với Việt Nam, Quốc tế Cộng sản có vai trò quan trọng trong việc truyền bá chủ
nghĩa Mác-Lenin và thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hoàn cảnh trong nước:
Vào giữa thế kỷ XIX thực dân Pháp xâm lược nước ta. Đến cuối thế kỷ XIX, sau khi cơ
bản kết thúc giai đoạn vũ trang xâm lược, thực dân Pháp bắt đầu tiến hành kế hoạch bóc lột sức
người, sức của ở Việt Nam.
Chính sách cai trị của thực
dân Pháp

Chính trị

Kinh tế

Chuyên chế triệt
để

Bóc lột nặng nề


Văn hóa – xã hội

Nô dịch, ngu đần


Về kinh tế, nền kinh tế nước ta ngày càng lạc hậu, què quặt, hoàn toàn lệ thuộc vào nền
kinh tế Pháp. Về xã hội, sự khai thác và bóc lột thuộc địa của thực dân Pháp đã làm gay gắt them
các mâu thuẫn cơ bản trong lòng xã hội Việt Nam, vừa làm nảy sinh mâu thuẫn mới. Chưa kể
đến, kết cấu giai cấp cũ bị phá vỡ, hình thành thêm các giai cấp mới. Tình trạng khủng hoảng
kinh tế - xã hội, đặc biệt các mâu thuẫn dân tộc và giai cấp đã dẫn đến nhu cầu đấu tranh để tự
giải phóng. Độc lập dân tộc và tự do dân chủ là nguyện vọng tha thiết của nhân dân ta, là nhu cầu
bức thiết của dân tộc ta. Sự ra đời của Đảng là kết quả của một quá trình lựa chọn con đường cứu
nước
Đảng Cộng sản Việt Nam là sự kết hợp của chủ nghĩa Mác-Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh
với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam.
-

-

-

-

-

Từ sự phân tích vị trí kinh tế - xã hội của các giai cấp trong xã hội Việt Nam cho thấy chỉ
có giai cấp công nhân là giai cấp đảm nhiệm được sứ mệnh lãnh đạo cách mạng đến
thắng lợi cuối cùng. Đó là một yêu cầu khách quan. Giai cấp công nhân là giai cấp trung
tâm của thời đại mới, đại diện cho quyền lợi dân tộc và quyền lợi giai cấp, bởi vì “trong
tất cả các giai cấp hiện nay đang đối lập với giai cấp tư sản thì chỉ có giai cấp vô sản là

giai cấp thực sự cách mạng”.
Phong trào công nhân ra đời và phát triển là quá trình lịch sử tự nhiên. Muốn trở thành
một phong trào tự giác, nó phải được vũ trang bằng lý luận của chủ nghĩa Mác-Lenin, vũ
khí lý luận và tư tưởng của giai cấp công nhân.
Giai cấp công nhân muốn lãnh đạo cách mạng thành công thì phải được tổ chức thành
một chính đảng cách mạng tiên phong. Chỉ lúc đó giai cấp công nhân mới có khả năng
tập hợp được các lực lượng dân tộc và dân chủ.
Sự thành lập Đảng Cộng sản là quy luật của sự vận động của phong trào công nhân từ tự
phát đến tự giác khi nó được trang bị lý luận cách mạng chủ nghĩa Mác-Lenin.
Ở Việt Nam, trong quá trình phát triển của phong trào công nhân và phong trào yêu nước,
nhiều chiến sỹ yêu nước đã đi tìm đường cứu nước, nhưng chỉ có Nguyễn Ái Quốc là
người Việt Nam đầu tiên tìm thấy chủ nghĩa Mác-Lenin và con đường giải phóng dân tộc
theo đường lối cách mạng vô sản. Nguyễn Ái Quốc thực hiện công việc truyền bá chủ
nghĩa Mác-Lenin vào Việt Nam, chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho việc thành
lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đặc điểm ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam vừa mang tính chất phổ biến vừa mang
tính chất đặc thù. Tính phổ biến là tuân thủ quy luật chung về sự ra đời của các đảng cộng
sản và công nhân quốc tế - đó là sự kết hợp của chủ nghĩa xã hội khoa học với phong trào
công nhân. Tính đặc thù đó là có them yếu tố cấu thành là phong trào yêu nước. Bởi lẽ
chủ nghĩa yêu nước của dân tộc Việt Nam là một động lực lớn. Thực tiễn ở Việt Nam lúc
này có hai phong trào cùng tồn tại và thúc đẩy nhau, đó là phong trào công nhân. Cả hai
phong trào này đều có kẻ thù chung là đế quốc Pháp xâm lược và bọn tay sai bán nước,
cùng mục tiêu đấu tranh cho độc lập tự do và hạnh phúc của nhân dân. Mặt khác, phong
trào yêu nước Việt Nam đấu tranh theo ngọn cờ tư tưởng phong kiến và dân chủ tư sản
đều thất bại, vì thế họ khát khao một lý luận cách mạng soi sáng con đường đấu tranh của


-

-


-

mình. Nguyễn Ái Quốc là người phát hiện ra đòi hỏi đó và đã tích cực truyền bá chủ
nghĩa Mác-Lenin vào phong trào yêu nước làm chuyển hóa lập trường các chiến sỹ yêu
nước gắn chặt con đường cứu nước giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp theo quỹ
đạo cách mạng vô sản, gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Sự chuyển biến đó đã
tạo tiền đề vững chắc cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Chủ nghĩa Mác-Lenin được truyền bá vào Việt Nam đã thúc đẩy phong trào công nhân và
phong trào yêu nước phát triển. Các phong trào từ năm 1925 đến năm 1929 chứng tỏ giai
cấp công nhân đã trưởng thành và đang trở thành một lực lượng chính trị độc lập. Tình
hình khách quan đó, đòi hỏi phải có sự lãnh đạo của tổ chức đảng cách mạng tiên phong.
Sự phân hóa của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên đã hình thành các tổ chức cộng sản,
là sự kiện chứng tỏ việc thành lập Đảng Cộng sản là kết quả tất yếu của sự phát triển
phong trào công nhân và phong trào yêu nước ở Việt Nam vào cuối những năm 20 của
thế kỷ XX.
Ba tổ chức cộng sản ra đời (Đông Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng, Đông
Dương Cộng sản Liên đoàn) thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của phong trào cách mạng.
Việc thống nhất các tổ chức cộng sản thành một Đảng duy nhất là một tất yêu khách
quan.

Từ 6/1 đến 7/2/1930 tại Hương Cảng, Trung Quốc, dưới sự chủ trì của lãnh tụ Nguyễn Ái
Quốc, hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản đã được tiến hành. Hội nghị đã thống nhất các tổ
chức cộng sản thành một Đảng: Đảng Cộng sản Việt Nam.
Câu 3: Phân tích những bước ngoặt quan trọng trong quá trình tìm đường cứu nước của
Nguyễn Ái Quốc (1911-1920)? Tại sao trong quá trình tìm đường cứu nước, giải phóng dân
tộc, Nguyễn Ái Quốc lại lựa chọn con đường cách mạng vô sản?
Có thể đánh giá rằng trong quá trình tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc (1911 –
1920), có ba bước ngoặt quan trọng nhất. Một là, Người đã nhận ra hạn chế trong đường lối cứu
nước của những thế hệ trước. Các phong trào theo khuynh hướng phong kiến mặc dù diễn ra sôi

nổi song giai cấp phong kiến và hệ tư tưởng phong kiến không đủ điều kiện để lãnh đạo phong
trào yêu nước giải quyết thành công nhiệm vụ dân tộc ở Việt Nam. Còn các phong trào yêu nước
và các tổ chức chính trị theo lập trường quốc gia tư sản đều thất bại do hạn chế về giai cấp,
đường lối chính trị, hệ thống tổ chức thiếu chặt chẽ, chưa tập trung được rộng rãi lực lượng của
dân tộc (nhất là hai lực lượng xã hội cơ bản: công nhân và nông dân).
Hai là, Nguyễn Ái Quốc đã vạch trần những hạn chế của những cuộc cách mạng tư sản
không tới nơi, không triệt để. Người đánh giá cao tư tưởng tự do, bình đẳng, bác ái và quyền con
người của các cuộc cách mạng tư sản tiêu biểu như Cách mạng Mỹ (1776), Cách mạng Pháp


(1789)... nhưng cũng nhận thức do những mặt tiêu cực của các cuộc cách mạng tư sản: một mặt
tạo nêu cao sự tự do, bình đẳng nhưng lại ra sức bóc lột, áp bức nhân dân các nước thuộc địa. Từ
đó, Nguyễn Ái Quốc khẳng định con đường cách mạng tư sản không thể đưa lại độc lập và hạnh
phúc thực sự cho nhân dân các nước nói chung hay nhân dân Việt Nam nói riêng.
Ba là, Nguyễn Ái Quốc đã dứt khoát lựa chọn con đường giải phóng nước là con đường
cách mạng vô sản. Qua phân tích, Người nhận thấy “Trong thế giới bây giờ chỉ có Cách mệnh
Nga là đã thành công, và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự
do, bình đẳng thật”. Vào tháng 7 – 1920, Nguyễn Ái Quốc đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những
luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lenin đăng trên báo Nhân đạo. Người tìm
thấy trong Luận cương của Lenin lời giải đáp về con đường giải phóng cho nhân dân Việt Nam;
về vấn đề thuộc địa trong mối quan hệ với phong trào cách mạng thế giới... Tại Đại hội Đảng Xã
hội Pháp (tháng 12 – 1920), Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu tán thành việc gia nhập Quốc tế Cộng sản
và tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp. Sự kiện này đánh dấu bước ngoặt trong cuộc đời
hoạt động cách mạng của Người – từ người yêu nước trở thành người cộng sản và tìm thấy con
đường cứu nước đúng đắn: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào
khác con đường cách mạng vô sản”.
Những bước ngoặt trong quá trình ra đi tìm được cứu nước của Nguyễn Ái Quốc cũng là
những mốc đánh dấu quá trình nhận thức ra con đường giải phóng dân tộc – con đường cách
mạng vô sản.


Câu 4: Phân tích hệ thống quan điểm về cách mạng giải phóng dân tộc của Nguyễn Ái
Quốc được hình thành trong những năm 1920 – 1930? Trên cơ sở đó, chỉ rõ những đóng
góp của Nguyễn Ái Quốc cho kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin?
Quan điểm về cách mạng giải phóng dân tộc của Nguyễn Ái Quốc được thể hiện rõ nét qua các
tác phẩm của Người trong giai đoạn này.
Nguyễn Ái Quốc bắt đầu truyền bá chủ nghĩa Mác-Lenin vào Việt Nam thông qua những
bài đăng trên các báo Người cùng khổ, Nhân đạo, Đời sống công nhân và xuất bản một số tác
phẩm, tiêu biểu như Bản án chế độ thực dân Pháp (1925). Tác phẩm này đã vạch rõ âm mưu và
thủ đoạn của chủ nghĩa đế quốc che giấu tội ác dưới cái vỏ bọc “khai hóa văn minh”, từ đó khơi
dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, thức tỉnh tinh thần dân tộc nhằm đánh đuổi thực dân Pháp xâm
lược.


Năm 1927, Bộ Tuyên truyền của Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức xuất bản tác phẩm
Đường cách mệnh (tập hợp các bài giảng của Nguyễn Ái Quốc ở lớp huấn luyện chính trị của
Hội Việt Nam cách mạng thanh niên). Đường cách mệnh chỉ rõ tính chất và nhiệm vụ của cách
mạng Việt Nam là cách mạng giải phóng dân tộc mở đường tiến lên chủ nghĩa xã hội. Hai cuộc
cách mạng này có quan hệ mật thiết với nhau; cách mạng là sự nghiệp của quần chúng là việc
chung cả dân chúng chứ không phải việc một hai người, do đó phải đoàn kết toàn dân. Nhưng cái
cốt của nó là công – nông và phải luôn ghi nhớ rằng công nông là người chủ cách mệnh, công
nông là gốc cách mệnh.
Đặc biệt, quan điểm của Nguyễn Ái Quốc được thể hiện rõ nét nhất trong Cương lĩnh chính
trị đầu tiên của Đảng. Nội dung chính của Cương lĩnh bao gồm:
-

Phương hướng và mục tiêu của cách mạng Việt Nam: chủ trương làm “tư sản dân quyền
cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”.

-


Nhiệm vụ của cách mạng tư sản dân quyền:
Về chính trị: đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến; làm cho nước Việt
Nam được hoàn toàn độc lập; lập chính phủ công nông binh, tổ chức quân đội công nông.
Về kinh tế: thủ tiêu hết các thứ quốc trái; tịch thu toàn bộ sản nghiệp lớn của tư bản đế
quốc chủ nghĩa Pháp để giao cho Chính phủ công nông binh quản lý; tịch thu ruộng đất
của bọn đế quôc chủ nghĩa làm của công chia cho dân cày nghèo; bỏ sưu thuế cho dân
cày nghèo; mở mang công nghiệp và nông nghiệp; thi hành luật ngày làm 8 giờ.

-

Về lực lượng cách mạng: Đảng chủ trương đoàn kết tất cả các giai cấp, các tầng lớp, các
lực lượng tiến bộ, các cá nhân yêu nước, trước hết là công nông. Đảng phải thu phục cho
được công nông và làm cho giai cấp công nhân đủ sức lãnh đạo cách mạng, đồng thời
phải tranh thủ liên lạc với các tầng lớp: tiểu tư sản, trí thức, trung nông... để kéo họ về
phía vô sản giai cấp. Lợi dụng bộ phận phú nông, trung tiểu địa chủ và tư bản Việt Nam
chưa rõ bộ mặt phản cách mạng. Bộ phận nào rõ mặt phản cách mạng phải đánh đổ.
Trong khi thực hiện sự liên minh tạm thời với các giai cấp, tầng lớp khác không được
thỏa hiệp giai cấp.

-

Về đoàn kết quốc tế: Cương lĩnh khẳng định, cách mạng Việt Nam là một bộ phận của
cách mạng thế giới; phải liên kết với những dân tộc bị áp bức và quần chúng vô sản thế
giới.

-

Về Đảng: Cương lĩnh khẳng định sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố
quyết định thắng lợi của cách mạng.



Những nội dung trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng đã đặt ra và giải quyết những vấn đề
cơ bản, cấp bách và định hướng chiến lược đúng đắn cho tiến trình phát triển cách mạng Việt
Nam. Tinh thần cơ bản của nó là đoàn kết toàn dân, chống đế quốc Pháp thống trị, giành độc lập,
hướng tới xã hội cộng sản. Thông qua Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, Nguyễn Ái Quốc
đã thể hiện sự hiểu biết sau sắc tình hình thế giới, hoàn cảnh trong nước, bản chất các mâu thuẫn
và đặc biệt là con đường giải phóng dân tộc.
Câu 5: Vai trò của Nguyễn Ái Quốc trong quá trình vận động thành lập Đảng (1920-1930)?
Nguyễn Ái Quốc đã tìm ra con đường cách mạng đúng đắn, Cách mạng vô sản, tiền đề đầu tiên
dẫn đến sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Qua phân tích, Người nhận thấy “Trong thế giới
bây giờ chỉ có Cách mệnh Nga là đã thành công, và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được
hưởng cái hạnh phúc tự do, bình đẳng thật”. Vào tháng 7 – 1920, Nguyễn Ái Quốc đọc bản Sơ
thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lenin đăng trên
báo Nhân đạo. Người tìm thấy trong Luận cương của Lenin lời giải đáp về con đường giải phóng
cho nhân dân Việt Nam; về vấn đề thuộc địa trong mối quan hệ với phong trào cách mạng thế
giới... Tại Đại hội Đảng Xã hội Pháp (tháng 12 – 1920), Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu tán thành
việc gia nhập Quốc tế Cộng sản và tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp. Sự kiện này đánh
dấu bước ngoặt trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Người – từ người yêu nước trở thành
người cộng sản và tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn: “Muốn cứu nước và giải phóng dân
tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”.
Chuẩn bị những điều kiện về chính trị, tư tưởng; tổ chức cho sự ra đời của Đảng Cộng sản
Việt Nam. Về tư tưởng, chính trị: Người tố cáo tội ác của thực dân Pháp đối với nhân dân các
nước thuộc địa. Người đã viết rất nhiều bài báo, các tác phẩm. Nội dung chủ yếu là lên án chủ
nghĩa thực dân, vạch trần bản chất xâm lược, phản động, bóc lột, đàn áp tàn bạo của chúng.
Người tố cáo đanh thép trước thế giới và nhân dân Pháp đối với các thuộc địa và thức tỉnh lòng
yêu nước, ý chí phản kháng của các dân tộc thuộc địa. Tiêu biểu: Bản án chế độ thực dân Pháp
(1925), Đường Cách mệnh (1927)... Thông qua đó, Nguyễn Ái Quốc đã truyền bá vào Việt Nam
chủ nghĩa Mác-Lenin, hướng cho các phong trào giải phóng dân tộc theo cách mạng vô sản, dẫn
tới sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Về chuẩn bị tổ chức, Nam 1921, Nguyễn Ái Quốc
cùng một số nhà cách mạng ở các nước thuộc địa Pháp lập ra Hội Liên hiệp các dân tộc thuộc

địa, nhằm tập hợp lực lượng chống chủ nghĩa thực dân. 1924, Nguyễn Ái Quốc tới Quảng Châu,


Trung Quốc, Người đã cùng những nhà lãnh đạo cách mạng Trung Quốc, Triều Tiên, Ấn Độ,
Thái Lan, Inddooneexxia... thành lập Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bắc Á Đông. Tháng 6 –
1925, Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên để huấn luyện cán bộ
trực tiếp truyền bá chủ nghĩa Mác-Lenin vào phong trào công nhân, phong trào yêu nước ở Việt
Nam. Đây là tổ chức tiền thân của Đảng.
Nguyễn Ái Quốc đã triệu tập Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản, thành lập Đảng
Cộng sản Việt Nam, đồng thời trực tiếp biên soạn những văn kiện quan trọng liên quan tới đại
hội: nổi bật là Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng. Những nội dung trong Cương lĩnh đầu
tiên của Đảng đã đặt ra và giải quyết những vấn đề cơ bản, cấp bách và định hướng chiến lược
đúng đắn cho tiến trình phát triển cách mạng Việt Nam. Tinh thần cơ bản của nó là đoàn kết toàn
dân, chống đế quốc Pháp thống trị, giành độc lập, hướng tới xã hội cộng sản.

Câu 6 : Làm rõ nét độc đáo, tính sáng tạo của Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt
được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (đầu năm 1930)?
Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt do Nguyễn Ái Quốc biên soạn và được thông qua tại Hội
nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam đầu năm 1930 chính là Luận cương chính trị đầu tiên
của Đảng. Nội dung chính bao gồm:
-

Phương hướng và mục tiêu của cách mạng Việt Nam: chủ trương làm “tư sản dân quyền
cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”.

-

Nhiệm vụ của cách mạng tư sản dân quyền:
Về chính trị: đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến; làm cho nước Việt
Nam được hoàn toàn độc lập; lập chính phủ công nông binh, tổ chức quân đội công nông.

Về kinh tế: thủ tiêu hết các thứ quốc trái; tịch thu toàn bộ sản nghiệp lớn của tư bản đế
quốc chủ nghĩa Pháp để giao cho Chính phủ công nông binh quản lý; tịch thu ruộng đất
của bọn đế quôc chủ nghĩa làm của công chia cho dân cày nghèo; bỏ sưu thuế cho dân
cày nghèo; mở mang công nghiệp và nông nghiệp; thi hành luật ngày làm 8 giờ.

-

Về lực lượng cách mạng: Đảng chủ trương đoàn kết tất cả các giai cấp, các tầng lớp, các
lực lượng tiến bộ, các cá nhân yêu nước, trước hết là công nông. Đảng phải thu phục cho
được công nông và làm cho giai cấp công nhân đủ sức lãnh đạo cách mạng, đồng thời
phải tranh thủ liên lạc với các tầng lớp: tiểu tư sản, trí thức, trung nông... để kéo họ về


phía vô sản giai cấp. Lợi dụng bộ phận phú nông, trung tiểu địa chủ và tư bản Việt Nam
chưa rõ bộ mặt phản cách mạng. Bộ phận nào rõ mặt phản cách mạng phải đánh đổ.
Trong khi thực hiện sự liên minh tạm thời với các giai cấp, tầng lớp khác không được
thỏa hiệp giai cấp.
-

Về đoàn kết quốc tế: Cương lĩnh khẳng định, cách mạng Việt Nam là một bộ phận của
cách mạng thế giới; phải liên kết với những dân tộc bị áp bức và quần chúng vô sản thế
giới.

-

Về Đảng: Cương lĩnh khẳng định sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố
quyết định thắng lợi của cách mạng.
Những nội dung trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng đã đặt ra và giải quyết những vấn đề

cơ bản, cấp bách và định hướng chiến lược đúng đắn cho tiến trình phát triển cách mạng Việt

Nam. Tinh thần cơ bản của nó là đoàn kết toàn dân, chống đế quốc Pháp thống trị, giành độc lập,
hướng tới xã hội cộng sản.

Câu 7: Phân tích quy luật ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam?
Đảng Cộng sản Việt Nam là sự kết hợp của chủ nghĩa Mác-Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh
với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam.
-

-

-

-

Từ sự phân tích vị trí kinh tế - xã hội của các giai cấp trong xã hội Việt Nam cho thấy chỉ
có giai cấp công nhân là giai cấp đảm nhiệm được sứ mệnh lãnh đạo cách mạng đến
thắng lợi cuối cùng. Đó là một yêu cầu khách quan. Giai cấp công nhân là giai cấp trung
tâm của thời đại mới, đại diện cho quyền lợi dân tộc và quyền lợi giai cấp, bởi vì “trong
tất cả các giai cấp hiện nay đang đối lập với giai cấp tư sản thì chỉ có giai cấp vô sản là
giai cấp thực sự cách mạng”.
Phong trào công nhân ra đời và phát triển là quá trình lịch sử tự nhiên. Muốn trở thành
một phong trào tự giác, nó phải được vũ trang bằng lý luận của chủ nghĩa Mác-Lenin, vũ
khí lý luận và tư tưởng của giai cấp công nhân.
Giai cấp công nhân muốn lãnh đạo cách mạng thành công thì phải được tổ chức thành
một chính đảng cách mạng tiên phong. Chỉ lúc đó giai cấp công nhân mới có khả năng
tập hợp được các lực lượng dân tộc và dân chủ.
Sự thành lập Đảng Cộng sản là quy luật của sự vận động của phong trào công nhân từ tự
phát đến tự giác khi nó được trang bị lý luận cách mạng chủ nghĩa Mác-Lenin.
Ở Việt Nam, trong quá trình phát triển của phong trào công nhân và phong trào yêu nước,
nhiều chiến sỹ yêu nước đã đi tìm đường cứu nước, nhưng chỉ có Nguyễn Ái Quốc là

người Việt Nam đầu tiên tìm thấy chủ nghĩa Mác-Lenin và con đường giải phóng dân tộc
theo đường lối cách mạng vô sản. Nguyễn Ái Quốc thực hiện công việc truyền bá chủ


-

-

-

-

nghĩa Mác-Lenin vào Việt Nam, chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho việc thành
lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đặc điểm ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam vừa mang tính chất phổ biến vừa mang
tính chất đặc thù. Tính phổ biến là tuân thủ quy luật chung về sự ra đời của các đảng cộng
sản và công nhân quốc tế - đó là sự kết hợp của chủ nghĩa xã hội khoa học với phong trào
công nhân. Tính đặc thù đó là có them yếu tố cấu thành là phong trào yêu nước. Bởi lẽ
chủ nghĩa yêu nước của dân tộc Việt Nam là một động lực lớn. Thực tiễn ở Việt Nam lúc
này có hai phong trào cùng tồn tại và thúc đẩy nhau, đó là phong trào công nhân. Cả hai
phong trào này đều có kẻ thù chung là đế quốc Pháp xâm lược và bọn tay sai bán nước,
cùng mục tiêu đấu tranh cho độc lập tự do và hạnh phúc của nhân dân. Mặt khác, phong
trào yêu nước Việt Nam đấu tranh theo ngọn cờ tư tưởng phong kiến và dân chủ tư sản
đều thất bại, vì thế họ khát khao một lý luận cách mạng soi sáng con đường đấu tranh của
mình. Nguyễn Ái Quốc là người phát hiện ra đòi hỏi đó và đã tích cực truyền bá chủ
nghĩa Mác-Lenin vào phong trào yêu nước làm chuyển hóa lập trường các chiến sỹ yêu
nước gắn chặt con đường cứu nước giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp theo quỹ
đạo cách mạng vô sản, gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Sự chuyển biến đó đã
tạo tiền đề vững chắc cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Chủ nghĩa Mác-Lenin được truyền bá vào Việt Nam đã thúc đẩy phong trào công nhân và

phong trào yêu nước phát triển. Các phong trào từ năm 1925 đến năm 1929 chứng tỏ giai
cấp công nhân đã trưởng thành và đang trở thành một lực lượng chính trị độc lập. Tình
hình khách quan đó, đòi hỏi phải có sự lãnh đạo của tổ chức đảng cách mạng tiên phong.
Sự phân hóa của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên đã hình thành các tổ chức cộng sản,
là sự kiện chứng tỏ việc thành lập Đảng Cộng sản là kết quả tất yếu của sự phát triển
phong trào công nhân và phong trào yêu nước ở Việt Nam vào cuối những năm 20 của
thế kỷ XX.
Ba tổ chức cộng sản ra đời (Đông Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng, Đông
Dương Cộng sản Liên đoàn) thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của phong trào cách mạng.
Việc thống nhất các tổ chức cộng sản thành một Đảng duy nhất là một tất yêu khách
quan.

Từ 6/1 đến 7/2/1930 tại Hương Cảng, Trung Quốc, dưới sự chủ trì của lãnh tụ Nguyễn Ái
Quốc, hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản đã được tiến hành. Hội nghị đã thống nhất các tổ
chức cộng sản thành một Đảng: Đảng Cộng sản Việt Nam.
Câu 8: Phân tích quá trình Đảng CSVN nhận thức về mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ dân
tộc và dân chủ trong thời kỳ cách mạng 1930 – 1939? Nhận thức đó có ảnh hưởng như thế
nào đến quan điểm Đảng về vấn đề tập hợp lực lượng cách mạng những năm 1930 – 1939?

Giai đoạn 1930 – 1935:


Sự nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ dân tộc và
dân chủ trong giai đoạn 1930 – 1935 được thể hiện rõ nét nhất trong Luận cương chính trị.
Tháng 10 – 1930, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ nhất tại Hương Cảng,
Trung Quốc đã họp và thông qua bản “Luận Cương chính trị” do đồng chí Trần Phú khởi thảo
với những nội dung chính sau:
-

Xác định mâu thuẫn: ở Đông Dương, mâu thuẫn giữa một bên là thợ thuyền, dân cày, các

phần tử lao khổ với một bên là địa chủ, phong kiến và tư bản đế quốc.

-

Phương hướng chiến lược của cách mạng Đông Dương: lúc đầu cách mạng Đông Dương
là một cuộc “cách mạng tư sản dân quyền”, có tính chất thổ địa và phản đế, “tư sản dân
quyền cách mạng là thời kỳ dự bị để làm xã hội cách mạng”, sau khi cách mạng tư sản
dân quyền thắng lợi sẽ tiếp tục “phát triển, bỏ qua thời kỳ tư bản mà tranh đấu thẳng lên
con đường xã hội chủ nghĩa”.

-

Nhiệm vụ cách mạng tư sản dân quyền: đánh đổ phong kiến, thực hành cách mạng ruộng
đất triệt để và đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp, làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập.
Hai nhiệm vụ chiến lược đó có quan hệ khăng khít. Trong hai nhiệm vụ này, Luận cương
xác định: “vấn đề thổ địa là cái cốt của cách mạng tư sản dân quyền”.

-

Về lực lượng cách mạng: giai cấp vô sản và giai cấp nông dân là hai động lực chính,
trong đó, giai cấp vô sản lãnh đạo cách mạng.

-

Về phương pháp cách mạng: Luận cương chỉ rõ phải sử dụng bạo lực cách mạng, khởi
nghĩa vũ trang để giành chính quyền.

-

Về đoàn kết quốc tế: Luận cương nhấn mạnh, phải liên lạc mật thiết với vô sản thế giới,

nhất là vô sản Pháp.

-

Về Đảng: sự lãnh đạo của Đảng là điều kiện cốt yếu đảm bảo cho thắng lợi của cách
mạng. Đảng đó phải lấy chủ nghĩa Mác-Lenin làm nền tảng, có đường lối chính trị đúng,
có kỷ luật tập trung, mật thiết liên lạc với quần chúng, trưởng thành từ trong thực tiễn đấu
tranh.
Giai đoạn 1936 – 1939:

Trên thế giới, mấp mé nguy cơ chiến tranh của chủ nghĩa phát xít. Cuộc khủng hoảng kinh
tế trong những năm 1929 – 1933 ở các nước thuộc hệ thống tư bản chủ nghĩa đã làm cho mâu
thuẫn nội tại của chủ nghĩa tư bản ngày càng gay gắt và phong trào cách mạng của quần chúng
dâng cao. Các nước tư bản công nghiệp âm mưu chiến tranh để chia lại thị trường thế giới và
mưu đồ tiêu diệt Liên Xô nhằm hy vọng đẩy lùi phong trào cách mạng vô sản đang phát triển


mạnh mẽ. Trong lúc đó cuộc khủng kinh tế tác động sâu sắc không những tới đời sống các giai
cấp và tầng lớp nhân dân lao động mà còn đến cả những nhà tư sản, địa chủ hàng vừa và nhỏ.
Bọn cầm quyền phản động ở Đông Dương vẫn ra sức vơ vét, bóc lột, bóp nghẹt mọi quyền tự do,
dân chủ và thi hành chính sách khủng bố, đàn áp phong trào đấu của nhân dân ta. Tất cả dẫn tới
lòng căm thù sục sôi của toàn thể nhân dân ta.
Ở giai đoạn này, Đảng ta có những nhận thức mới được thể hiện rõ nét nhất ở Hội nghị
Trung Ương II (7-1936). Nội dung của Hội nghị gồm:
-

-

-


Kẻ thù cả cách mạng: kẻ thù trước mắt nguy hại nhất của nhân dân Đông Dương cần tập
trung đánh đổ là bọn phản động thuộc địa và bè lũ tay sai của chúng.
Nhiệm vụ trước mắt: đòi những quyền dân chủ đơn sơ. Chống phat-xit, chống chiến tranh
đế quốc, chống bọn phản động thuộc địa và tay sai, đòi tự do, dân chủ, cơm áo và hòa
bình.
Biện pháp đấu tranh: chuyển từ hình thức tổ chức bí mật không hợp pháp sang các hình
thức tổ chức và đấu tranh công khai và nửa công khai, hợp pháp và nửa hợp pháp nhằm
buộc chính quyền Pháp phải thừa nhận và mở rộng sự quan hệ với quần chúng.
Tổ chức: Quyết định thành lập Mặt trân nhân dân phản đế mà sau được đổi tên thành Mặt
trận dân chủ Đông Dương để phù hợp với yêu cầu tập hợp lực lượng cách mạng trong
tình hình mới.

Trong khi đề ra chủ trương mới để lãnh đạo nhân dân ta đấu tranh nhằm thực hiện các
quyền dân chủ, dân sinh, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã đặt vấn đề nhận thức lại mối quan
hệ giữa hai nhiệm vụ dân tộc và dân chủ, phản đế và điền địa trong cách mạng ở Đông Dương.
Trong văn kiện Chung quanh vấn đề chiến sách mới công bố 10 – 1936, Đảng đã nêu một quan
điểm mới: “Cuộc dân tộc giải phóng không nhất định phải kết chặt với cuộc cách mạng điền địa.
Tùy hoàn cảnh hiện thực bắt buộc, nếu nhiệm vụ chống đế quốc là cần kíp cho lúc hiện thời, còn
vấn đề giải quyết điền địa tuy quan trọng nhưng chưa phải trực tiếp bắt buộc, thì có thể trước tập
trung đánh đổ đế quốc rồi sau mới giải quyết vấn đề điền địa.
Nhưng cũng có khi vấn đề điền địa và phản đế phải liên tiếp giải quyết, vấn đề này giúp
cho vấn đề kia làm xong mục đích của cuộc vận động. Nghĩa là, cuộc phản đế phát triển tới trình
độ võ trang tranh đấu kịch liệt, đồng thời, vì muốn tăng thêm lực lượng tranh đấu chống đế quốc,
cần phải phát triển cuộc cách mạng điền địa. “Nói tóm lại, nếu phát triển cuộc tranh đấu chia đất
mà ngăn trở cuộc tranh đấu phản đế thì phải lựa chọn vấn đề nào quan trọng hơn mà giải quyết
trước. Nghĩa là chọn địch nhân chính, nguy hiểm nhất, để tập trung lực lượng của một dân tộc
mà đánh cho được toàn thắng”.


Câu 9: Phân tích quá trình hoàn thiện đường lối giải phóng dân tộc của Đảng (1939-1941)?

Tại sao chủ trương giải quyết vấn đề dân tộc trong phạm vi từng nước của Đảng Cộng sản
Việt Nam tại Hội nghị Trung ương 8 (5-1941) lại trở thành một trong những động lực thúc
đẩy công cuộc giải phóng dân tộc trên bán đảo Đông Dương đi tới thắng lợi?
Năm 1939, chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ. Mặt trận nhân dân Pháp tan vỡ. Đảng
Cộng sản Pháp bị đặt ra ngoài vòng pháp luật. Cùng lúc đó thì phat-xit Đức hoành hành, chiến
tranh đế quốc chuyển thành chiến tranh giữa các lực lượng dân chủ do Liên Xô làm trụ cột với
các lực lượng phat-xit do Đức cầm đầu. Chiến tranh thế giới II cũng ảnh hưởng mạnh mẽ trực
tiếp đến Đông Dương và Việt Nam. Thực dân Pháp thi hành chính sách thời chiến rất trắng trợn,
ra sức đàn áp ở Việt Nam. Nhân dân ta chịu cảnh một cổ bị hai tròng áp bức, bóc lột của Pháp –
Nhật. Mâu thuẫn giữa dân tộc ta với đế quốc, phat-xit Pháp – Nhật trở nên gay gắt hơn bao giờ
hết.
Trước tình hình đó, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã tiến hành họp Hội nghị lần thứ
sáu (11-1939), Hội nghị lần thứ bảy (11-1940) và Hội nghị lần thứ tám (5-1941). Trên cơ sở nhận
định khả năng diễn biến của Chiến tranh thế giới lần thứ hai và căn cứ vào tình hình cụ ở trong
nước, Ban Chấp hành Trung ương đã quyết định chuyển hướng chỉ đạo chiến lược như sau:
Một là, đưa nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu. Mâu thuẫn chủ yếu ở nước ta đòi
hỏi phải giải quyết cấp bách là mâu thuẫn giữa dân tộc ta với bọn đế quốc, phat-xit Pháp – Nhật.
Để tập trung cho nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng lúc này, Ban Chấp hành Trung ương quyết
định tạm gác lại khẩu hiệu “Đánh đổ địa chủ, chia ruộng đất cho dân cày” thay bằng khẩu hiệu
“Tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc và Việt gian cho dân cày nghèo”, “Chia lại ruộng đất công
cho công bằng và giảm tô, giảm tức”...
Hai là, quyết định thành lập Mặt trận Việt Minh để đoàn kết, tập hợp lực lượng cách mạng
nhằm vận động, thu hút mọi người dân yêu nước không phân biệt thành phần, lứa tuổi, đoàn kết
bên nhau đặng cứu Tổ quốc, giải phóng dân tộc.
Ba là, quyết định xúc tiến chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang là nhiệm vụ trung tâm của Đảng và
nhân dân ta trong giai đoạn hiện tại. duy trì lực lượng vũ trang Bắc Sơn và chủ trương thành lập
những đội du kích hoạt động phân tán, dùng hình thức vũ trang vừa chiến đấu chống địch, bảo vệ
nhân dân, vừa phát triển cơ sở cách mạng, tiến tới thành lập khu căn cứ, lấy vùng Bắc Sơn, Vũ
Nhai làm trung tâm.
Ban Chấp hành Trung ương còn đặc biệt chú trọng công tác xây dựng Đảng nhằm nâng cao

năng lực tổ chức và lãnh đạo của Đảng, đồng thời chủ trương gấp rút đào tạo cán bộ, cán bộ lãnh
đạo, cán bộ công vận, nông vận, binh vận, quân sự và đẩy mạnh công tác vận động quần chúng.
Có thể thấy, Hội nghị Trung ương lần thứ sáu đã khởi xướng cho đường lối giải phóng dân
tộc. Đường lối được bổ sung và phát triển qua Hội nghị lần thứ bảy, sau đó, được hoàn thiện nhờ


Hội nghị lần thứ tám. Sự điều chỉnh chiến lược phản ánh sự lãnh đạo, chỉ đạo sáng suốt, nhạy
bén của Đảng, đáp ứng nguyện vọng của toàn thể nhân dân và các dân tộc Đông Dương, có khả
năng phát huy cao độ tiềm năng, sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc trong sự nghiệp đánh Pháp,
đuổi Nhật, giành độc lập tự do.
Đường lối đã đánh dấu sự trưởng thành vượt bậc của Đảng về nghệ thuật hoạch định
đường lối chính trị, trong đó mối quan hệ phức tạp nhưng cơ bản nhất lúc này là quan hệ giữa hai
nhiệm vụ dân tộc, dân chủ đã được nhận thức và giải quyết hoàn toàn thỏa đáng. Đây là sự khẳng
định, kế thừa, phát triển lên một bước mới tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường giải phóng dân
tộc. Tư tưởng Hồ Chí Minh cũng đã được xác lập và trở thành ngọn cờ tư tưởng của Đảng, của
cách mạng Việt Nam.
Sự điều chỉnh chiến lược cách mạng đúng đắn của Đảng, đặc biệt là sự hoàn thiện đường
lối ở Hội nghị lần thứ tám, có ý nghĩa quyết định chiều hướng vận động của phong trào dân tộc,
trực tiếp quyết định thắng lợi của cách mạng tháng Tám. Lòng yêu nước, căm thù giặc ngoại
xâm của nhân dân nâng cao, chủ trương lấy sức ta tự giải phóng cho ta. Có thể nói, Hội nghị
Tám là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy công cuộc giải phóng dân tộc trên bán đảo
Đông Dương đi tới thắng lợi.
Câu 10: Hãy chứng minh rằng, đường lối đấu tranh giành chính quyền của Đảng Cộng sản
Việt Nam (1930-1945) là sáng tạo, phù hợp và đáp ứng yêu cầu khách quan của xã hội Việt Nam?
Giai đoạn 1 (1930-1935):
Từ ngày 14 đến 31 – 10 – 1930, Ban Chấp hành Trung ương họp Hội nghị lần thứ nhất tại
Hương Cảng, Trung Quốc do đồng chí Trần Phú chủ trì. Hội nghị thông qua nhiều quyết định
quan trọng như phê duyệt Luận cương chính trị của Đảng. Tuy Luận cương đã phát triển và làm
rõ thêm nhiều vấn đề chiến lược của cách mạng Việt Nam song còn tồn tại nhiều hạn chế: xác
định chủ trương không đúng trong hoàn cảnh Việt Nam lúc bấy giờ (trước hết tiến hành cuộc

chiến tranh giai cấp, chống địa chủ phong kiến, chia đất, tranh thủ nông dân, sau đó mới tiến lên
lãnh đạo toàn dân tộc chống đế quốc, giành độc lập), đánh giá thấp mặt tích cực, cường điệu mặt
tiêu cực của các giai cấp tầng trung gian (tư sản, tiểu tư sản).
Giai đoạn 2 (1936-1939):
Trong những năm 1936-1939, tình hình quốc tế và trong nước có nhiều biến đổi. Trước
nguy cơ đe doạn của chủ nghĩa phat-xit, Đảng Cộng sản Đông Dương và phong trào cách mạng
Đông Dương đã hồi phục. Qua văn kiện “Chung quanh vấn đề chiến sách mới” của Đảng (111936) và các Hội nghị Trung ương tiếp sau, Đảng chủ trương chuyển hướng về nhiệm vụ chính
trị, hình thức tổ chức và phương pháp đấu tranh cho thích hợp với tình hình mới.Nhiệm vụ phản
đế và điền địa vẫ không thay đổi, nhưng chưa phải là nhiệm vụ trực tiếp. Trước mắt phải tập


trung chống phản động thuộc địa và tay sai, đòi tự do, cơm áo, hòa bình, dự bị những điều kiện
cho cuộc giải phóng dân tộc phát triển. Chuyển tất cả các hình thức tổ chức “đỏ” mang màu
chính trị sang các tổ chức “tương tế”, “ái hữu” mang mầu sắc kinh tế; tận dụng tất cả các hình
thức công khai, nửa công khai, hợp pháp, nửa hợp pháp để tập hợp quần chúng và đấu tranh. Bên
cạnh đó vẫ duy trì tổ chức và hoạt động bí mật.
Đảng bước đầu điều chỉnh nhận thức về giải quyết quan hệ giữa hai nhiệm vụ chiến lược
dân tộc, dân chủ, cho rằng việc giải quyết hai nhiệm vụ này thế nào là tùy điều kiện cụ thể.
Giai đoạn 3 (1939-1945):
Chiến tranh thế giới thứ II bùng nổ, ảnh hưởng trực tiếp tới Việt Nam. Dân ta rơi vào hoàn
cảnh một cổ hai tròng của Nhật – Pháp, mâu thuẫn dân tộc sâu sắc hơn bao giờ hết. Những biến
động này là cơ sở khách quan để Đảng Cộng sản Đông Dương từng bước điều chỉnh chiến lược.
Ban Chấp hành Trung ương Đảng tiến hành họp Hội nghị lần thứ sáu (11-1939), Hội nghị lần thứ
bảy (11-1940) và Hội nghị lần thứ tám (5-1941). Qua đó khởi xướng, bổ sung, phát triển và hoàn
thiện Đường lối giải phóng dân tộc, nền tảng, động lực cho thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám
cũng như sự nghiệp cứu Quốc ở Đông Dương.
Sự điều chỉnh chiến lược phản ánh sự lãnh đạo, chỉ đạo sáng suốt, nhạy bén của Đảng, đáp
ứng nguyện vọng của toàn thể nhân dân và các dân tộc Đông Dương, có khả năng phát huy cao
độ tiềm năng, sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc trong sự nghiệp đánh Pháp, đuổi Nhật, giành
độc lập tự do.

Đường lối đã đánh dấu sự trưởng thành vượt bậc của Đảng về nghệ thuật hoạch định
đường lối chính trị, trong đó mối quan hệ phức tạp nhưng cơ bản nhất lúc này là quan hệ giữa hai
nhiệm vụ dân tộc, dân chủ đã được nhận thức và giải quyết hoàn toàn thỏa đáng. Đây là sự khẳng
định, kế thừa, phát triển lên một bước mới tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường giải phóng dân
tộc. Tư tưởng Hồ Chí Minh cũng đã được xác lập và trở thành ngọn cờ tư tưởng của Đảng, của
cách mạng Việt Nam.
Từ trên cơ sở thực tế hoàn cảnh đất nước cùng quá trình nhận thức đúng đắn của Đảng,
Đường lối giải phóng dân tộc là yêu cầu khách quan của thực tiễn. Đường lối đã được hoàn thiện
và vận dụng sáng tạo, phù hợp, đúng đắn trong từng giai đoạn lịch sử và trở thành yếu tố cơ bản
dẫn tới thắng lợi lớn sau này.
Câu 11; Phân tích quá trình hoàn thiện đường lối cách mạng giải phóng dân tộc của Đảng
Cộng sản Việt Nam (1939-1941)? Ý nghĩa của đường lối đối với cách mạng Việt Nam trong
những năm 1939-1945?
Năm 1939, chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ. Mặt trận nhân dân Pháp tan vỡ. Đảng
Cộng sản Pháp bị đặt ra ngoài vòng pháp luật. Cùng lúc đó thì phat-xit Đức hoành hành, chiến


tranh đế quốc chuyển thành chiến tranh giữa các lực lượng dân chủ do Liên Xô làm trụ cột với
các lực lượng phat-xit do Đức cầm đầu. Chiến tranh thế giới II cũng ảnh hưởng mạnh mẽ trực
tiếp đến Đông Dương và Việt Nam. Thực dân Pháp thi hành chính sách thời chiến rất trắng trợn,
ra sức đàn áp ở Việt Nam. Nhân dân ta chịu cảnh một cổ bị hai tròng áp bức, bóc lột của Pháp –
Nhật. Mâu thuẫn giữa dân tộc ta với đế quốc, phat-xit Pháp – Nhật trở nên gay gắt hơn bao giờ
hết.
Trước tình hình đó, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã tiến hành họp Hội nghị lần thứ
sáu (11-1939), Hội nghị lần thứ bảy (11-1940) và Hội nghị lần thứ tám (5-1941). Trên cơ sở nhận
định khả năng diễn biến của Chiến tranh thế giới lần thứ hai và căn cứ vào tình hình cụ ở trong
nước, Ban Chấp hành Trung ương đã quyết định chuyển hướng chỉ đạo chiến lược như sau:
Một là, đưa nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu. Mâu thuẫn chủ yếu ở nước ta đòi
hỏi phải giải quyết cấp bách là mâu thuẫn giữa dân tộc ta với bọn đế quốc, phat-xit Pháp – Nhật.
Để tập trung cho nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng lúc này, Ban Chấp hành Trung ương quyết

định tạm gác lại khẩu hiệu “Đánh đổ địa chủ, chia ruộng đất cho dân cày” thay bằng khẩu hiệu
“Tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc và Việt gian cho dân cày nghèo”, “Chia lại ruộng đất công
cho công bằng và giảm tô, giảm tức”...
Hai là, quyết định thành lập Mặt trận Việt Minh để đoàn kết, tập hợp lực lượng cách mạng
nhằm vận động, thu hút mọi người dân yêu nước không phân biệt thành phần, lứa tuổi, đoàn kết
bên nhau đặng cứu Tổ quốc, giải phóng dân tộc.
Ba là, quyết định xúc tiến chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang là nhiệm vụ trung tâm của Đảng và
nhân dân ta trong giai đoạn hiện tại. duy trì lực lượng vũ trang Bắc Sơn và chủ trương thành lập
những đội du kích hoạt động phân tán, dùng hình thức vũ trang vừa chiến đấu chống địch, bảo vệ
nhân dân, vừa phát triển cơ sở cách mạng, tiến tới thành lập khu căn cứ, lấy vùng Bắc Sơn, Vũ
Nhai làm trung tâm.
Ban Chấp hành Trung ương còn đặc biệt chú trọng công tác xây dựng Đảng nhằm nâng cao
năng lực tổ chức và lãnh đạo của Đảng, đồng thời chủ trương gấp rút đào tạo cán bộ, cán bộ lãnh
đạo, cán bộ công vận, nông vận, binh vận, quân sự và đẩy mạnh công tác vận động quần chúng.
Có thể thấy, Hội nghị Trung ương lần thứ sáu đã khởi xướng cho đường lối giải phóng dân
tộc. Đường lối được bổ sung và phát triển qua Hội nghị lần thứ bảy, sau đó, được hoàn thiện nhờ
Hội nghị lần thứ tám. Sự điều chỉnh chiến lược phản ánh sự lãnh đạo, chỉ đạo sáng suốt, nhạy
bén của Đảng, đáp ứng nguyện vọng của toàn thể nhân dân và các dân tộc Đông Dương, có khả
năng phát huy cao độ tiềm năng, sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc trong sự nghiệp đánh Pháp,
đuổi Nhật, giành độc lập tự do.
Đường lối đã đánh dấu sự trưởng thành vượt bậc của Đảng về nghệ thuật hoạch định
đường lối chính trị, trong đó mối quan hệ phức tạp nhưng cơ bản nhất lúc này là quan hệ giữa hai
nhiệm vụ dân tộc, dân chủ đã được nhận thức và giải quyết hoàn toàn thỏa đáng. Đây là sự khẳng


định, kế thừa, phát triển lên một bước mới tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường giải phóng dân
tộc. Tư tưởng Hồ Chí Minh cũng đã được xác lập và trở thành ngọn cờ tư tưởng của Đảng, của
cách mạng Việt Nam.
Sự điều chỉnh chiến lược cách mạng đúng đắn của Đảng, đặc biệt là sự hoàn thiện đường
lối ở Hội nghị lần thứ tám, có ý nghĩa quyết định chiều hướng vận động của phong trào dân tộc,

trực tiếp quyết định thắng lợi của cách mạng tháng Tám. Lòng yêu nước, căm thù giặc ngoại
xâm của nhân dân nâng cao, chủ trương lấy sức ta tự giải phóng cho ta. Có thể nói, Hội nghị
Tám là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy công cuộc giải phóng dân tộc trên bán đảo
Đông Dương đi tới thắng lợi.
Câu 12: Hãy chứng minh rằng quá trình bổ sung, điều chỉnh đường lối đấu tranh giành
chính quyền trong những năm 1941-1945 thể hiện sự lãnh đạo sáng suốt, kiên quyết, kịp
thời của Đảng?
Để bổ sung, điều chỉnh cho đường lối đấu tranh giành chính quyền, Đảng đã chuẩn bị kĩ
càng trên các mặt:
ậ tranpđộậ giđộ
vũL
ủ S
C
Đ
ngcố v ũtr ang
D cănđịa
X
cứ
ủ C
C
Đ
ng cố
S
D căđịa n
X
cứ
D óađềơ
X
.hcư
V

ng ềg Đ
ảT ngD
h.lT ập.l
C
. hó a ảĐ ng D C
V

Công việc chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang diễn ra sôi nổi ở các khu căn cứ và khắp các địa
phương trong cả nước, đã cổ vũ và thúc đẩy mạnh mẽ phong trào cách mạng quần chúng vùng
lên đấu tranh giành chính quyền.
Vào cuối 1944, đầu 1945, Chiến tranh thế giới lần thứ hai bước vào giai đoạn kết thúc.
Hồng quân Liễn Xô thắng lớn, quét sạch phat-xit Đức ra khỏi lãnh thổ và tiến như vũ bão về
Becslin. Phat-xit Nhật lâm vào tình trạng nguy khốn. Mâu thuẫn Nhật – Pháp ngày càng gay gắt.
Đêm 9 – 3 – 1945, Nhật đảo chính Pháp, độc chiếm Đông Dương. Ngay đêm đó, Ban Thường vụ


Trung ương Đảng họp Hội nghị mở rộng và ra Chỉ thị “Nhật – Pháp bắn nhau và hành động của
chúng ta”.
Chỉ thị nhận định: Nhật đảo chính Pháp đã tạo ra một cuộc khủng hoảng chính trị sâu sắc,
nhưng điều kiện khởi nghĩa chưa thực sự chín muồi.
Chỉ thị xác định: phap-xit Nhật là kẻ thù chính, kẻ thù trước mắt duy nhất của nhân dân
Đông Dương.
Chủ trương: Phát động một cao trào kháng Nhật, cứu nước mạnh mẽ, làm tiền đề cho cuộc
Tổng khởi nghĩa.
Phương châm đấu tranh: phát động chiến tranh du kích, giải phóng từng vùng, mở rộng căn
cứ địa.
Dự kiến những điều kiện thuận lợi như Đồng minh kéo vào Đông Dương đánh Nhật, quân
Nhật kéo ra mặt trận ngăn cản Đồng minh để phía sau sơ hở. Cũng có thể là cách mạng Nhật
bùng nổ và chính quyền cách mạng của nhân dân Nhật được thành lập, hoặc Nhật bị mất nước và
quân đội viễn chinh Nhật mất tinh thần.

Từ giữa 3 – 1945 trở đi, Cao trào kháng Nhật cứu nước đã diễn ra sôi nổi, mạnh mẽ và
phong phú về nội dung và hình thức. Khởi nghĩa từng phần được đẩy mạnh, giành chính quyền
bộ phận như ở Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Bắc Giang, Quảng Ngãi...
Ban Thường vụ Trung ương Đảng triệu tập Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ và nhận
định: nhiệm vụ quân sự là nhiệm vụ quan trọng nhất và cần kíp trong lúc này. Chúng ta phải tích
cực phát triển chiến tranh du kích, gây dựng căn cứ địa kháng Nhật, chuẩn bị cho cuộc tổng khởi
nghĩa kịp thời cơ.
4 – 6 – 1945, thành lập khu giải phóng, chính quyền nhân dân đã hình thành ở một số nơi
và tồn tại song song với chính quyền tay sai của Nhật.
Giữa lúc đó nạn đói đã diễn ra nghiêm trọng ở các tỉnh Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ do Nhật,
Pháp đã vơ vét hàng triệu tấn lúa gạo của nhân dân. Xuất phát từ tình thế nguy cấp đó, Đảng kịp
thời đề ra khẩu hiệu “Phá kho thóc, giải quyết nạn đói”, đáp ứng đúng nguyện vọng cấp bách của
quần chúng. Chỉ trong một thời gian ngắn, hàng triệu người dân tiến lên trận tuyến cách mạng.
Việt Nam giải phóng quân được thành lập.
Trên thế giới, Liên Xô chiến thắng, phat-xit đi gần đến thất bại hoàn toàn. Trước diễn biến
nhanh của tình hình, Trung ương quyết định họp Hội nghị toàn quốc của Đảng từ ngày 13 đến
ngày 15 – 8 – 1945. Nhận định: cơ hội rất tốt cho ta giành chính quyền độc lập đã tới và quyết
định phát động toàn dân Tổng khởi nghĩa, giành chính quyền từ tay phat-xit Nhật và tay sai,
trước khi quân đồng minh vào Đông Dương.


Hội nghị chỉ rõ khẩu hiệu đấu tranh lúc này là “Phản đối xâm lược”, “Hoàn toàn độc lập”,
“Chính quyền nhân dân”. Những nguyên tắc để chỉ đạo khởi nghĩa là tập trung, thống nhất và kịp
thời, phải đánh chiếm ngay những nơi chắc thắng, không để thành phố hay nông thôn, quân sự và
chính trị phải phối hợp; phải làm tan rã tinh thần quân địch... Về đối nội, lấy 10 chính sách lớn
của Việt Minh làm chính sách cơ bản của chính quyền cách mạng. Về đối ngoại, thực hiện
nguyên tắc bình đẳng, hợp tác, thêm bạn bớt thù, triệt để lợi dụng mâu thuẫn giữa Pháp – Anh và
Mỹ - Tưởng...
Một số mốc phát triển của Cách mạng Tháng Tám:
13 – 8 – 1945, ra lệnh Tổng khởi nghĩa.

16 – 8, Ủy ban giải phóng dân tộc Việt Nam được thành lập.
19 – 8, quân Nhật ở Hà Nội bị tê liệt, chính quyền về tay nhân dân.
23 – 8, khởi nghĩa giành thắng lợi ở Huế.
53 – 8, khởi nghĩa giành thắng lợi ở Sài Gòn.
Từ ngày 14 đến ngày 28 – 8, Tổng khởi nghĩa thành công trên cả nước, chính quyền về tay
nhân dân.
Ngày 2 – 9, thay mặt Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh trịnh trọng đọc bản Tuyên
ngôn độc lập, tuyên bố với quốc dân đồng bào, với toàn thể thế giới: Nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa ra đời.
Đảng đã có đường lối cách mạng đúng đắn, dày dạn kinh nghiệm đấu tranh, đoàn kết thống
nhất, nắm đúng thời cơ, chỉ đạo kiên quyết, khôn khéo, biết tạo nên sức mạnh tổng hợp để áp đảo
kẻ thù và quyết tâm lãnh đạo quần chúng khởi nghĩa giành chính quyền. Sự lãnh đạo của Đảng là
nhân tố then chốt, quyết định thắng lợi của Cách mạng Tháng Tam 1945.
Câu 13: Hãy chứng minh rằng chủ trương Kháng chiến, kiến quốc của Đảng những năm
1945-1946 là tư tưởng chiến lược mới, giải quyết kịp thời những vấn đề quan trọng về chỉ
đạo chiến lược, sách lược của cách mạng Việt Nam?
Sau ngày Cách mạng Tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ra đời,
công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước của nhân dân ta dứng trước bối cảnh vừa có những thuận
lwoij cơ bản, vừa gặp phải nhiều khó khăn to lớn, hiểm nghèo.
Thuận lợi cơ bản là trên thế giới, hệ thống XHCN do Liên Xô đứng dầu được hình thành,
phong trào cách mạng giải phóng dân tộc có điều kiện phát triển, trở thành một dòng thác cách
mạng. Phong trào dân chủ và hòa bình cũng đang vươn lên mạnh mẽ. Ở trong nước, chính quyền


dân chủ nhân dân được thành lập, có hệ thống từ Trung ương đến cơ sở. Lực lượng vũ trang
được tăng cường. Toàn dân tin tưởng Việt Minh cũng như Chính phủ.
Khó khăn nghiêm trọng là hậu quả của chế độ cũ để lại như giặc đói, giặc dốt rất nặng nề,
ngân quỹ quốc gia trống rỗng. Kinh nghiệm quản lý đất nước còn non yếu, nền độc lập của nước
ta chưa được thế giới công nhận. Quân đội các nước đế quốc ồ ạt kéo vào chiếm đóng Việt Nam.
Ngày 25 – 11 – 1945, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra Chỉ thị “Kháng chiến, kiến

quốc”, vạch ra con đường đi lên cho cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới.
Về chỉ đạo chiến lược, xác định mục tiêu vẫn là dân tộc giải phóng với khẩu hiệu “Dân tộc
trên hết, Tổ quốc trên hết”, nhưng là giữ vững độc lập.
Đảng chỉ rõ “kẻ thù chính của ta lúc này là thực dân Pháp xâm lược”, phải lập Mặt trận dân
tộc thống nhất chống Pháp, mở rộng Mặt trận Việt Minh...
Đảng nêu lên bốn nhiệm vụ chủ yếu và cấp bách: “củng cố chính quyền, chống thực dân
Pháp xâm lược, bài trừ nội phản, cải thiện đời sống nhân dân”. Đồng thời cũng chủ trương kiên
trì nguyên tắc thêm bạn bớt thù, thực hiện “Hoa-Việt thân thiện” và “Độc lập về chính trị, nhân
nhượng về kinh tế”.
Cuộc đấu tranh thực hiện chủ trương kháng chiến kiến quốc diễn ra gay go, quyết liệt trên
tất cả các lĩnh vực và giành được những kết quả hết sức to lớn.
Về chính trị - xã hội: đã xây dựng được nền móng cho một chế độ xã hội mới – chế độ dân
chủ nhân dân với đầy đủ các yếu tố cấu thành cần thiết.
Về kinh tế, văn hóa: đã phát động phong trào tăng gia sản xuất, cứu đói, xóa bỏ các thứ
thuế vô lý của chế độ cũ, ra sắc lệnh giảm tô 25%, xây dựng ngân quỹ quốc gia. Cuối 1945, nạn
đói cơ bản được đẩy lùi. Mở lại các trường lớp, tổ chức khai giảng năm học mới, bước đầu xóa
bỏ được nhiều tệ nạn xã hội và tập tục lạc hậu. Phong trào diệt dốt, bình dân học vụ được thực
hiện sôi nổi. cuối 1946, có thêm 2,5 triệu người biết đọc, biết viết.
Về bảo vệ chính quyền cách mạng: ngay từ khi thực dân Pháp nổ sung đánh chiếm Sài Gòn
và mở rộng phạm vi chiếm đóng ra các tỉnh Nam Bộ, Đảng đã kịp thời lãnh đạo nhân dân Nam
Bộ đứng lên kháng chiến và phát động phong trào “Nam tiến”. Ở miền Bắc, chủ trương lợi dụng
mâu thuẫn trong nội bộ kẻ thù, thực hiện sách lược nhân nhượng với quân Tưởng và tay sai để
giữ vững chính quyền, tập trung lực lượng chống Pháp ở miền Nam. Khi Pháp – Tưởng ký Hiệp
ước Trùng Khánh (28-2-1946), thỏa thuận mua bán quyền lợi cho nhau, Đảng lại mau lẹ chỉ đạo
chọn giải pháp hòa hoãn, dàn xếp với Pháp để buộc quân Tưởng phải rút về nước. Hiệp định Sơ
bộ 6-3-1946, cuộc đàm phán ở Đà Lạt, ở Phoongtennoblo (Pháp), Tạm ước 14-9-1946 đã tạo
điều kiện cho quân dân ta có thêm thời gian để chuẩn bị cho cuộc chiến đấu mới.


Câu 14: Chứng minh rằng, đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của

Đảng là đúng đắn, phù hợp thực tiễn, đáp ứng nhu cầu khách quan của cuộc kháng chiến?
Đường lối kháng chiến của Đảng được hình thành từng bước qua thực tiễn đối phó với âm
mưu, thủ đoạn xâm lược của thực dân Pháp và được thể hiện tập trung trong ba văn kiện Chỉ thị
Toàn dân kháng chiến (12-12-1946); Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến (19-12-1946) và Kháng
chiến nhất định thắng lợi (1947).
Nội dung đường lối:
Mục đích: “Đánh phản động thực dân Pháp xâm lược; giành thống nhất và độc lập”.
Tính chất: đây là cuộc chiến tranh cách mạng của nhân dân, chiến tranh chính nghĩa, mang
tính chất toàn dân, toàn diện và lâu dài. Đó là cuộc kháng chiến có tình dân tộc giải phóng và dân
chủ mới.
Chính sách: Liên hiệp với dân tộc Pháp, chống phản động thực dân Pháp. Đoàn kết với
Miên, Lào và các dân tộc yêu chuộng tự do, hòa bình. Đoàn kết chặt chẽ toàn dân. Thực hiện
toàn dân kháng chiến... phải tự cấp, tự túc về mọi mặt.
Chương trình và nhiệm vụ: đoàn kết toàn dân, thực hiện quân, chính, dân nhất trí... Động
viên nhân lực, vật lực, tài lực, thực hiện toàn dân kháng chiến, toàn diện kháng chiến, trường kỳ
kháng chiến. Giành độc lập, bảo toàn lãnh thổ, thống nhất đất nước, củng cố chế độ... Tăng gia
sản xuất, thực hành kinh tế tự túc...
Phương châm tiến hành: tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân, thực hiện kháng chiến toàn
dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính.
Triển vọng: mặc dù lâu dài, gian khổ, khó khăn song nhất định thắng lợi.
Đường lối kháng chiến của Đảng là đúng đắn và sáng tạo, vừa kế thừa được kinh nghiệm
của tổ tiên, đúng với nguyên lý về chiến tranh cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lenin, vừa phù hợp
với thực tế đất nước bấy giờ.
Đường lối đã giải quyết thành công hai yêu cầu cơ bản, cấp bách: Có dám quyết tâm kháng
chiến không? Làm thế nào để kháng chiến thắng lợi trong điều kiện tương quan so sánh lực
lượng ta – địch rất chênh lệch.
Đường lối kháng chiến của Đảng được công bố sớm đã có tác dụng đưa cuộc kháng chiến
nhanh chóng đi vào ổn định và phát triển đúng hướng, từng bước đi tới thắng lợi vẻ vang.
Đầu 1951, nước ta đã được các nước xã hội chủ nghĩa công nhận và đặt quan hệ ngoại
giao. Cuộc kháng chiến của nhân dân ba nước Đông Dương giành được những thắng lợi quan

trọng. Song lợi dụng thời cơ đó, đế quốc Mỹ đã can thiệp trực tiếp vào chiến tranh Đông Dương.


×