SỰ VẬN ĐỘNG CỦA CÁC THỂ VĂN TRẦN THUẬT TRONG GIAI ĐOẠN 1900 – 1945
Trong hệ thống các thể loại văn học, có thể nói, các thể văn trần thuật là bộ phận phản ánh rõ
nét nhất quá trình hiện đại hóa văn học. Trong mười thế kỷ phát triển của văn học Trung đại,
bắt nguồn từ những nguyên nhân về quan niệm văn học và mỹ học (đề cao các thể trữ tình,
tụng ca hơn các thể văn trần thuật) và xã hội (đô thị chậm phát triển, nhu cầu về văn học giải
trí bị kiềm chế, số lượng người biết chữ chỉ chiếm một phần nhỏ trong xã hội) nên các thể
văn trần thuật phát triển hết sức hạn chế, đặc biệt nếu so với các thơ trữ tình. Số lượng tác
phẩm ít ỏi, quy mô tác phẩm hạn chế, đề tài chủ yếu là ghi chép lịch sử và các câu chuyện
dân gian, các bộ phận của văn học thị dân (các loại truyện diễm tình, trinh thám, kì án, kiếm
hiệp...) phát triển hết sức yếu ớt. Chỉ đến khi xã hội Việt Nam chuyển mình hiện đại hóa, ta
mới chứng kiến sự phát triển có tính cách đột biến của các thể văn trần thuật (tiểu thuyết,
truyện ngắn). Từ một thể văn “ở bên lề” của đời sống văn học, giờ đây, cùng với thơ trữ tình,
các thể văn trần thuật đã trở thành “nhân vật chính”, “đứng ở vị trí trung tâm” (theo cách hình
dung của các nhà hình thức luận Nga) của đời sống văn học. Số lượng tác giả, tác phẩm gia
tăng một cách đột biến. Ngay trong những năm 1920, có những tác giả sáng tác hàng chục
tiểu thuyết chỉ trong vòng mười năm (Hồ Biểu Chánh) hoặc có những cuốn tiểu thuyết có quy
mô hàng ngàn trang (các tiểu thuyết của Nguyễn Chánh Sắt ở Nam kỳ). Không những thế, số
lượng độc giả đọc các thể văn trần thuật tăng vọt, thuộc đủ mọi tầng lớp người. Gần như tờ
báo nào trong giai đoạn 1932 – 1945 cũng có mục đăng truyện ngắn hoặc tiểu thuyết (dưới
dạng feuilleton). Có những tờ báo chuyên xuất bản tiểu thuyết với số lượng hàng vạn bản
(điển hình là Tiểu thuyết thứ bảy của Vũ Đình Long). Phạm vi phản ánh của tiểu thuyết bám
sát đời sống đương đại, phản chiếu những vấn đề của con người đương thời, đồng thời, bút
pháp tiểu thuyết cũng có những vận động thay đổi mang tính triệt để, từ bỏ các khuôn mẫu
truyện truyền kì, chí quái, tiểu thuyết chương hồi, truyện thơ truyền thống để du nhập những
mô hình tiểu thuyết hiện đại với những kỹ thuật viết tân kỳ của phương Tây. Các loại hình thể
tài tiểu thuyết, truyện cũng có sự phát triển hết sức đa dạng từ truyện phiêu lưu, trinh thám,
truyện tâm lý – xã hội, truyện phong tục, lịch sử, cho đến truyện luận đề. Có thể nói, trong
toàn bộ nền văn học, các thể văn trần thuật chính là đứa con của thời hiện đại.
1. Sự vận động của đội ngũ tác giả.
Sự vận động của đội ngũ tác giả, trên một phương diện, chính là hình ảnh phản chiếu sự vận
động của đời sống văn học. Điều này được phản ánh rất rõ trong mảng sáng tác trần thuật ở
Việt Nam trong nửa đầu thế kỷ XX. Trong nửa đầu thế kỷ XX, các thế hệ nhà văn tài năng
không ngừng nối tiếp nhau xuất hiện, làm phong phú đời sống sáng tác văn học. Tất nhiên,
quan sát sự vận động của đời sống văn học Việt Nam đầu thế kỷ, không thể bỏ qua tính chất
vùng miền. Tính chất này thể hiện rất rõ trong giai đoạn đầu của tiến trình hiện đại hóa. Có
một số quy luật có thể dễ dàng nhận ra. Trước hết, do miền Nam bị biến thành thuộc địa của
Pháp sớm nên quá trình hiện đại hóa văn học cũng diễn ra ở đây trước miền Bắc. Thứ hai,
do đặc điểm là một vùng đất mới nên văn hóa miền Nam cũng có phần cởi mở, ít tính hàn
lâm hơn văn hóa ở miền Bắc thế nên. Những quy luật này phản ánh rất rõ trong đời sống văn
học. Các tác giả văn học miền Nam bước vào quá trình hiện đại hóa sớm hơn các tác giả ở
miền Bắc, đồng thời, học vấn của các tác giả này cũng mềm dẻo, linh hoạt hơn, thường là
thu nhận, tổng hợp nhiều nền học vấn.
Những sáng kiến về một nền văn học hiện đại theo kiểu phương Tây và viết bằng chữ Quốc
ngữ xuất hiện ở những nhà văn miền Nam từ rất sớm, đặc biệt là những người công giáo.
Trường hợp điển hình là Nguyễn Trọng Quản, một người công giáo đã từng được học trong
trường của Nhà thờ tại Việt Nam và Algérie và nhờ đó, có một sự tiếp xúc với văn học
phương Tây. Chính sự tiếp xúc này đã làm xuất hiện trong ông ý định viết một tiểu thuyết kiểu
mới về chính những con người đương thời: cuốn Truyện thầy Lazaro Phiền. Tuy vậy, có lẽ,
trong giai đoạn đầu của quá trình thuộc địa hóa Việt Nam, số lượng người sử dụng chữ quốc
ngữ vẫn còn chưa nhiều, đặc biệt lại là những người có hiểu biết về văn học hiện đại phương
Tây, hơn nữa, tiểu thuyết văn xuôi kiểu mới vẫn là một cái gì quá lạ lẫm với công chúng Việt
Nam nên cuốn sách mới ra đời đã không được sự hưởng ứng của công chúng và có lẽ đó
cũng chính là lí do khiến nhà văn này không tiếp tục sáng tác.
Phải đến sau những phong trào Duy tân với những khẩu hiệu kêu gọi sử dụng chữ quốc ngữ
thay thế chữ Hán và chữ Nôm thì phong trào viết văn bằng chữ quốc ngữ mới một lần nữa
được khởi động nhưng lần này là trên phạm vi toàn quốc. Có một thế hệ những nhà văn viết
trần thuật bằng chữ quốc ngữ mà những người tiêu biểu nhất có thể kể đến đó là Hồ Biểu
Chánh, Lê Hoằng Mưu, Trần Chánh Chiếu ở Nam kỳ và Tản Đà, Phan Kế Bính ở Bắc Kỳ.
Đặc điểm chung của các tác giả này đó là họ đều xuất thân từ nền giáo dục truyền thống và
đã đưa kinh nghiệm sáng tác các thể văn truyền thống như tiểu thuyết chương hồi, truyện
tiểu sử nhân vật, truyện thơ vào đời sống văn chương đương đại. Một số tác giả điển hình
như Phan Kế Bính vẫn trung thành với đề tài lịch sử (các tập truyện Nam Hải dị nhân và tiểu
thuyết Hưng Đạo đại vương) nhưng đa số các nhà văn còn lại đều tập trung vào đề tài đời
sống đương đại. Dẫu vậy, số lượng tác giả viết trần thuật bằng chữ quốc ngữ trong hai thập
niên đầu của thế kỷ XX vẫn còn thưa thớt. Điều này một phần cũng liên quan đến mặt bằng
dân trí chưa cao, sự phổ biến của chữ quốc ngữ và học vấn mới trong xã hội vẫn còn chưa
rộng khắp.
Phải đến những năm 1920, văn học mới thực sự chuyển mình. Thực ra, ngay trong những
năm 1910, đội ngũ những người viết trần thuật vẫn tiếp tục có sự bổ sung với những tác giả
chuyên viết truyện ngắin như Nguyễn Bá Học hay Phạm Duy Tốn. Nhưng, phải đến những
năm 1920, thực sự có một sự đột biến trong đội ngũ những nhà văn viết trần thuật. Điều
đáng chú ý là trong giai đoạn này, văn học ở Nam kỳ phát triển sôi động hơn hẳn so với ở
Bắc kỳ với hàng trăm tác giả chuyên viết trần thuật và chủ yếu là tiểu thuyết mà những tên
tuổi quan trọng có thể kể đến là Tân Dân Tử, Phú Đức, Bửu Đình, Pham Minh Kiên, Biến Ngũ
Nhi, Nguyễn Văn Vinh, Lê Hoằng Mưu, Hồ Biểu Chánh. Ở miền Bắc, phải kể đến các tên tuổi
như Hoàng Ngọc Phách, Đặng Trần Phất, Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Tường Tam, Vũ
Bằng, Tam Lang. Dẫu vậy, điều đặc biệt là các tác giả miền Bắc tuy mỏng về đội ngũ, số
lượng tác phẩm không nhiều nhưng lại tạo nên được những hiện tượng văn chương gây
tiếng vang trong toàn quốc trong một thời gian dài như tiểu thuyết Tố Tâm của Hoàng Ngọc
Phách hay các truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan trên An Nam tạp chí. Hơn nữa, điều
đáng kể là nhiều nhà văn sáng tác ở giai đoạn này, cả ở Nam kỳ lẫn Bắc kỳ đều xuất thân từ
nhà trường tân học nên đã làm chủ nhiều kĩ thuật văn chương hiện đại.
Sau 1932, đội ngũ những người viết văn liên tục được bổ sung những cây bút tài năng.
Những nhà văn xuất hiện từ trước 1932 như Nhất Linh, Nguyễn Công Hoan tiếp tục sáng tác.
Nhiều nhà văn xuất thân từ nền giáo dục cựu học cũng có những thay đổi để bắt kịp với đời
sống văn học đương đại mà điển hình là trường hợp của Ngô Tất Tố. Tuy vậy, chiếm số
lượng áp đảo tuyệt đối vẫn là các nhà văn viết trần thuật xuất thân từ giáo dục tân học.
Những năm 1932 – 1935, những nhà văn viết trần thuật gây được tiếng vang lớn trong đời
sống phần lón đều thuộc nhóm Tự lực văn đoàn: Nhất Linh và Khái Hưng với những tiểu
thuyết ký tên chung. Ở phía “đối trọng” với TLVĐ là nhóm Tân dân với cây bút chủ đạo trong
thời gian này là Nguyễn Công Hoan. Sau năm 1935, đội ngũ nhà văn viết trần thuật không
ngừng mở rộng, Nhất Linh và Khái Hưng của nhóm TLVĐ bắt đầu viết các tác phẩm ký tên
riêng đồng thời có sự bổ sung thêm cây bút truyện ngắn Thạch Lam. Đội ngũ những người
viết cho Tân dân được mở rộng với Lan Khai, Nguyễn Triệu Luật,... Nhiều nhà văn trẻ xuất
hiện trong đời sống văn học mà điển hình là Nguyên Hồng. Nhiều nhà văn trước đây chỉ
chuyên viết phóng sự nay cũng chuyển sang viết trần thuật và có những thành tựu lớn mà
nổi bật là Vũ Trọng Phụng với bộ ba tiểu thuyết Số đỏ, Giông tố, Vỡ đê. Sau năm 1939, trong
khi những tác giả lớp trước tiếp tục sáng tác và có những thành tựu đỉnh cao thì đội ngũ
những người viết trần thuật lại được tiếp tục bổ sung với một loạt tên tuổi quan trọng như
Nguyễn Tuân, Nam Cao, Tô Hoài, Bùi Hiển, Nguyễn Huy Tưởng...
Như vậy, có thể nói, trong nửa đầu thế kỷ XX, đội ngũ những nhà văn viết các thể văn trần
thuật không ngừng được bổ sung với những tài năng lớn, có trình độ học vấn cao, am hiểu
cả văn học truyền thống Việt Nam và văn học hiện đại thế giới. Chính họ đã làm nên sự lớn
mạnh có tính đột biến của các thể văn trần thuật trong giai đoạn đầu của tiến trình hiện đại
hóa văn học ở Việt Nam.
2. Sự đa dạng về thể tài.
Sự phát triển của đội ngũ người viết các thể văn trần thuật đã kéo theo sự phát triển mạnh
mẽ của bộ phận sáng tác trần thuật. Một trong những dấu hiệu quan trọng của sự phát triển
đó chính là sự đa dạng về thể tài. Để thấy được tầm vóc của sự thay đổi này, cần phải nhìn
lại sự vận động của văn học Trung Đại. Trong quá khứ, trần thuật không chỉ là một bộ phận
chậm phát triển so với thơ ca mà trong sự phát triển trần thuật, có sự phát triển không đồng
đều giữa các thể tài. Điều này có thể nhận thấy rõ khi so sánh với sự phát triển của các thể
văn trần thuật trong văn học Trung Quốc. Về trần thuật dài, tiểu thuyết chương hồi và tiểu
truyện thơ Nôm là hai hình thức chủ đạo. Tiểu thuyết chương hồi Việt Nam thời Trung Đại
chủ yếu tập trung vào đề tài lịch sử. Các dạng tiểu thuyết võ hiệp, kì án, diễm tình hoặc tiểu
thuyết gia đình hầu như không phát triển. Truyện thơ Nôm ở Việt Nam chủ yếu là viết về đề
tài tài tử giai nhân với các cốt truyện tài tử giai nhân vay mượn trong văn học Trung Quốc. Về
các thể trần thuật ngắn, dạng thức trần thuật phát triển nhất vẫn là các dạng truyện chí quái,
chí dị ghi chép lại các thần tích, thần phả,các chuyện ma quái trong dân gian. Từ thế kỷ XVI,
bắt đầu xuất hiện loại truyện truyền kì, chịu ảnh hưởng của văn học Trung Quốc với các cốt
truyện phản ánh đời sống xã hội pha trộn với các yếu tố kỳ ảo, ma quái. Tuy vậy, truyền kì ở
Việt Nam không có sự phát triển mạnh về số lượng và nhiều tập truyền kì vẫn có sự vay
mượn cốt truyện của văn học và tín ngưỡng dân gian. Tình trạng chậm phát triển nói trên một
phần quan trọng có thể được giải thích bởi sự phát triển chậm của đô thị và đời sống đô thị
song song với việc nền văn hóa chủ yếu mang tính chất tinh hoa, chữ viết và các sản phẩm
văn hóa không được phổ biến trong đại chúng.
Sang đầu thế kỷ XX, cấu trúc thể tài của các thể văn trần thuật đã có sự thay đổi. Thi pháp
trần thuật thay đổi sâu sắc dưới sự ảnh hưởng của văn học phương Tây. Truyện thơ chỉ còn
tồn tại đến những năm 1920 sau đó, sự phổ biến của văn hóa đọc đã dẫn đến việc truyện
văn xuôi thay thế dần truyện Nôm. Tiểu thuyết chương hồi duy trì ảnh hưởng đến năm 1920
sau đó cũng biến đổi dần để trở thành tiểu thuyết hiện đại. Truyện chí quái, chí dị không còn
phổ biến như trước dù một số nhà văn như Tchuya, Lan Khai, Nguyễn Tuân vẫn tiếp tục viết
các truyện kỳ ảo, kinh dị . Một phần quan trọng là do những quan niệm duy lý và tinh thần
khoa học. Tiểu thuyết chương hồi về lịch sử biến đổi dần thành tiểu thuyết lịch sử và trở
thành một trong những thể tài phát triển hết sức mạnh mẽ trong đời sống văn học. Tiểu
thuyết lịch sử xuất hiện ngay trong thập niên đầu tiên của thế kỷ XX với tên tuổi của Phan Kế
Bính. Trong những năm 1920, tiểu thuyết lịch sử ghi dấu các nhà văn như Phạm Minh Kiên ,
Tân Dân Tử, Nguyễn Chánh Sắt, Đinh Gia Thuyết và đặc biệt là Nguyễn Tử Siêu. Sự phát
triển của tiểu thuyết lịch sử trong giai đoạn này chủ yếu gắn liền với tinh thần dân tộc, phản
kháng lại một cách ngấm ngầm ách đô hộ của người Pháp. Sau năm 1932, bất chấp sự phát
triển mạnh mẽ của các dạng tiểu thuyết khác, tiểu thuyết lịch sử vẫn phát triển mạnh với các
tên tuổi tài năng như Khái Hưng, Lưu Trọng Lư, Nguyễn Triệu Luật, Trần Thanh Mại, Ngô Tất
Tố và Đào Trinh Nhất, Chu Thiên và đặc biệt là Nguyễn Huy Tưởng.
Cùng với tiểu thuyết chương hồi về đề tài lịch sử, truyên thơ Nôm về tài tử giai nhân cũng có
những sự biến đổi như chuyển sang viết bằng văn xuôi, hiện đại hóa thi pháp, lấy đối tượng
phản ánh la cuộc sống và con người đương đại để trở thành tiểu thuyết tâm lý diễm tình hiện
đại. Cần ghi nhận rằng tiểu thuyết hiện đại đầu tiên đạt được sự thành công về mặt xã hội,
được độc giả lẫn giới phê bình đương thời đánh giá cao, tiểu thuyết Tố Tâm của Hoàng Ngọc
Phách chính là một sự kết hợp giữa tiểu thuyết tâm lý, tiểu thuyết bằng thư kiểu Tây phương
với tiểu thuyết tài tử giai nhân truyền thống của người Việt. Sau 1932, tiểu thuyết và truyện
tâm lý có sự phát triển mạnh theo hướng hiện đại hóa, du nhập các mô hình thể loại và thi
pháp của phương Tây. Trong sự phát triển của nhóm thế tài này, có vai trò quan trọng của
các nhà văn trong nhóm Tự lực văn đoàn. Sau đó, phải kể đến tên tuổi của những nhà văn
quan trọng là Nguyễn Tuân và Nam Cao. Một điều quan trọng cần phải được nhấn mạnh là
sự phát triển của tiểu thuyết, truyện tâm lý gắn liền với sự đa dạng hóa về đề tài phản ánh
(xem phần tiếp theo), không chỉ giới hạn trong đề tài tình yêu, hôn nhân mà còn mở rộng
sang đề tài về đời sống trụy lạc của thanh niên hay những đấu tranh tư tưởng của trí thức,
văn nghệ sĩ.
Bên cạnh hai thể tài nói trên, có một thể tài cũng đặc biệt phát triển là các loại truyện, tiểu
thuyết luận đề. Sự phát triển của nhóm thể loại này gắn liền với nhu cầu đấu tranh về mặt
chính trị, xã hội, văn hóa của nhà văn. Các dạng truyện và tiểu thuyết luận đề xuất hiện ngay
trong giai đoạn đầu của văn học hiện đại với các sáng tác của Tản Đà, Nguyễn Bá Học với
các chủ đề về đổi mới, hiện đại hóa xã hội hoặc bảo vệ luân lý truyền thống. Trong giai đoạn
1932 – 1939, tiểu thuyết, truyện luận đề trở thành một hình thức thể loại có tính thời thượng
với các sáng tác về đề tài tự do cá nhân, hôn nhân, gia đình, mối quan hệ giữa thế hệ trẻ và
gia đình truyền thống gắn với tên tuổi của các nhà văn như Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng
Đạo, Nguyễn Công Hoan. Từ 1936 trở đi, các nhà văn nói trên ngoại trừ Nguyễn Công Hoan
vẫn tiếp tục viết truyện, tiểu thuyết luận đề nhưng chuyển sang đề tài về người trí thức và
trách nhiệm xã hội hoặc những suy tư về bản chất của nghệ thuật và sứ mạng của người
nghệ sĩ. Nối tiếp mạch này là những sáng tác truyện ngắn của Nam Cao.
Bên cạnh hai những thể tài ít nhiều có liên hệ với những thể tài mang tính truyền thống của
văn học dân tộc nói trên, không thể không kể đến một thể loại trần thuật xuất hiện cùng với
quá trình hiện đại hóa văn học và hiện diện ở vị trí chủ lưu, với nhiều sáng tác có giá trị về
nghệ thuật và tư tưởng: các dạng truyện, tiểu thuyết phong tục. Khái niệm phong tục ở đây
được hiểu không phải như là những thói quen sinh hoạt đặc trưng của một dân tộc mà là
những sinh hoạt nói chung của một cộng đồng người. Với cách hiểu như vậy, sự phát triển
của truyện và tiểu thuyết phong tục đặc biệt gắn bó với dòng văn học hiện thực với các nhà
văn như Phạm Duy Tốn, Nguyễn Bá Học, Hồ Biểu Chánh, Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố,
Vũ Trọng Phụng, Nguyên Hồng, Tô Hoài, Bùi Hiển, Nguyễn Đình Lạp.... Bên cạnh đó, tính
chất mô tả phong tục cũng hiện diện trong sáng tác của nhóm Tự lực văn đoàn khi họ mô tả
những sinh hoạt của đại gia đình phong kiến và tầng lớp tư sản tiểu tư sản. Trên một khía
cạnh nhất định, cũng có thể coi Nguyễn Tuân là một nhà văn mô tả phong tục điển hình khi
ông tập trung tái hiện đời sống truỵ lạc của một bộ phận thanh niên đương thời hoặc những
thú chơi của giới Nho sĩ thời trước.
Những thể tài được liệt kê ở trên là những thể tài không chỉ phát triển mạnh về số lượng mà
còn có những tác phẩm có chất lượng về nghệ thuật, có giá trị lâu bền trong đời sống văn
học. Bên cạnh những thể tài đó, cần phải ghi nhận sự phát triển của một loạt những thể tài
mang là sản phẩm trực tiếp của quá trình thương mại hóa văn học: những thể tài mang tính
giả trí sâu sắc. Chúng tôi muốn nói đến các dạng truyện trinh thám, truyện phiêu lưu. Có thể
nói các dạng thể tài này xuất hiện ngay trong giai đoạn đầu của quá trình hiện đại hóa văn
học, đặc biệt là ở Nam kì, nơi có một thị trường văn học với nhu cầu giải trí hết sức phát
triển. Sau 1932, những thể tài này phổ biến cả ở miền Bắc với những nhà văn chuyên viết
truyện trinh thám hoặc truyện phiêu lưu đường rừng như Lan Khai, Tchuya, Thế Lữ và đặc
biệt là Lê Văn Trương, người có một sức sáng tác phi thường với hàng chục đầu tác phẩm
được sáng tác và xuất bản trước năm 1945. Dẫu vậy, do không có một truyền thống lâu dài,
do sức ép của thị trường và nên những dạng truyện, tiểu thuyết này mặc dù nhiều về số
lượng nhưng không có được những đỉnh cao về nghệ thuật.
3. Sự phong phú về đề tài và chủ đề.
Những vận động của trần thuật Việt Nam trong nửa đầu thế kỷ XX không chỉ thể hiện qua sự
đa dạng hóa của hệ thống thể tài mà còn qua sự thay đổi về phạm vi phản ánh của tác phẩm.
Có thể nói, nhìn một cách khái quát, từ góc độ phạm vi phản ánh, đã diễn ra những thay đổi
mang tính cách mạng của thể văn trần thuật. Trong thời Trung đại, sáng tác trần thuật thường
lựa chọn các đề tài quá khứ hoặc vay mượn cốt truyện từ văn học nước ngoài. Chúng ta đã
biết rõ là Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du là được xây dựng trên cơ sở cốt truyện
chương hồi của Thanh Tâm Tài Nhân ở Trung Quốc. Trong toàn bộ kho tàng truyện Nôm bác
học ở Việt Nam thời Trung Đại hiện chỉ có một truyện Nôm là được sáng tạo hoàn toàn về cốt
truyện là Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu, dù trong truyện có chỗ nhắc đến “Truyện Tây
Minh” ở Trung Quốc. Một hiện tượng khác cũng rất phổ biến là các nhà văn thường lấy các
đề tài có tính cách hồi cố. Điển hình cho khuynh hướng này Truyền Kỳ mạn lục của Nguyễn
Dữ. Mặc dù được sáng tác vào khoảng thế kỷ XVI, vào thời Lê Mạt nhưng toàn bộ các truyện
trong tập sách này đều lấy bối cảnh là giai đoạn cuối Trần đầu Hồ, nghĩa là vào thế kỷ XIV,
cách đó hơn một thế kỷ. Tất nhiên, dù vay mượn cốt truyện hoặc lấy bối cảnh quá khứ nhưng
hiện thực sinh hoạt được phản ảnh trong tác phẩm vẫn mang nhiều dáng dấp của xã hội
đương thời, khi nhà văn sáng tác tác phẩm. Dẫu vậy, vẫn phải thấy đây là một đặc trưng về
nội dung phản ánh của trần thuật trong giai đoạn Trung Đại. Điều này có thể được giải thích
bằng việc chế độ quân chủ có một sự kiểm soát nghiêm ngặt về tư tưởng đối với sáng tác
văn học. Mọi sáng tác đề cập đến hiện thực xã hội có tính đương đại đều có thể có nguy cơ
động chạm đến những húy kị hoặc bị diễn dịch theo những cách thức bất lợi cho người cầm
bút và dẫn đến những sự nguy hiểm cho tác giả. Việc lựa chọn những đề tài có tính hồi cố
hoặc vay mượn cốt truyện cũng là một cách giữ an toàn cho người sáng tác. Tất nhiên, ở
đây, không loại trừ cả các nguyên nhân về mỹ học đặc thù của văn chương Trung Đại (tính
tập cổ, sùng cổ, tính trữ tình...).
Ngay từ cuối thế kỷ XIX, với những người đã được tiếp xúc với văn học phương Tây như
Nguyễn Trọng Quản, những hạn chế của trần thuật thời Trung đại về phạm vi phản ánh đã
sớm lộ ra. Đó chính là lí do khiến ông lựa chọn câu chuyện về một con người đương thời,
một con người bình thường với những lầm lạc và sám hối làm đối tượng phản ánh cho tác
phẩm của mình. Bước sang đầu thế kỷ XX, trước yêu cầu nâng cao dân trí, chấn hưng đạo
đức xã hội, trong một định hướng chung là kiểm điểm lại nền văn hóa truyền thống, văn
chương Trung Đại nói chung và sáng tác trần thuật nói riêng cũng bị đưa ra phê phán. Nhà
Nho yêu nước cho rằng trần thuật truyền thống “mô tả sai cảnh thực”, “truyện chí quái, truyện
truyền kì” chỉ kể lại những chuyện ma quỷ hão huyền, “sống say chết mộng” mà không “mở
mang trí khôn cho dân”. Ngay cả những truyện tài tử giai nhân mà điển hình là Truyện Kiều
cũng bị đưa ra phê phán vì “ru ngủ thanh niên” trong chuyện tình ái, không khuyến khích óc
phấn đấu và chí tiến thủ, thậm chí trNhững yêu cầu về tính chân thực, về giá trị nhận thức
(được hình dung rằng tác phẩm trần thuật phải cung cấp những hiểu biết cụ thể về tự nhiên
và xã hội để góp phần nâng cao dân trí cho nguời đọc) được đặt ra với những người viết trần
thuật. Tất nhiên, ý thức về chức năng nhận thức không thể tách rời khỏi ý thức về chức năng
giáo dục của trần thuật. Sáng tác trần thuật được đòi hỏi phải góp phần vào công cuộc cải
lương phong tục, chấn hưng đạo đức xã hội. Chính những quan điểm này đã mở đường cho
sự thay đổi của các thể văn trần thuật về phạm vi phản ánh.
Nhìn một cách khái quát, thay đổi lớn nhất của các sáng tác trần thuật nửa đầu thế kỷ XX so
với trần thuật thời Trung đại trước hết thể hiện ở việc phạm vi phản ánh của tác phẩm được
hướng vào chính đời sống đương đại. Hơn nữa, cái nhìn của nhà văn về hiện thực cũng trở
nên phức tạp hơn. Cái đời thường với những hiện thực sinh hoạt bình dị được nhà văn quan
tâm nhiều hơn. Cái nhìn đơn tuyến theo kiểu thiện – ác gắn với những giá trị đạo đức, luân lí
cổ truyền của Khổng giáo cũng từng bước được giải thể. Thay vào đó là con người trong tính
chưa hoàn chỉnh, trong cuộc đấu tranh tốt - xấu, thiện – ác, trong sự tự hoàn thiện. Văn
chương đương đại cũng lấy con người bình thường thuộc đủ mọi tầng lớp xã hội để đưa vào
sáng tác, thay cho tính tinh hoa của văn chương Trung đại. Đọc văn chương Trung đại, ta chỉ
bắt gặp những con người xuất chúng ở những phương diện khác nhau (người Nho sĩ có đạo
đức cao quý, ông quan có phẩm hạnh, người tài tử, người giai nhân...) thì văn học Hiện đại
đã đưa con người bình thường vào trong sáng tác của mình, thậm chí cả những nhân vật
méo mó, không hoàn chỉnh về hình hài, bị tật bệnh về nhân cách và thuộc những tầng lớp
dưới đáy xã hội. Những yếu tố kỳ ảo, hoang đường, siêu nhiên từng bước cũng được loại trừ
khỏi sáng tác trần thuật. Thay vào đó là tinh thần duy lý, khoa học, “có thật”, “đúng sự thật”
của con người đương đại. Trên một cái nền chung đó, từng giai đoạn phát triển của nền văn
học lại nổi lên một số những đề tài mang tính đặc thù, thu hút nhiều cây bút sáng tác với
những cách nhìn khác nhau.
Dẫu vậy, sự đổi mới không có nghĩa là hoàn toàn cắt đứt với truyền thống. Ở một số đề tài,
vẫn có thể nhận ra tính liên tục giữa truyền thống và hiện đại. Điển hình trong số này là đề tài
lịch sử. Trong quá khứ, đây cũng là một trong những đề tài phát triển mạnh nhất của trần
thuật Trung đại với các bộ tiểu thuyết chương hồi bằng chữ Hán mà điển hình là Hoàng Lê
Nhất thống chí. Bước sang giai đoạn hiện đại hóa, mảnh đất màu mở của sáng tác trần thuật
về đề tài lịch sử chính là tinh thần dân tộc luôn âm ỉ trong hoàn cảnh đất nước bị ngoại bang
xâm lược. Điều đó giải thích cho việc các trần thuật về đề tài lịch sử xuất hiện ngay trong giai
đoạn đầu tiên của quá trình hiện đại hóa văn học và phát triển một cách liên tục cho đến năm
1945. Từ Hưng Đạo đại vương (tiểu thuyết lịch sử của Phan Kế Bính viết về Trần Hưng Đạo,
một nhân vật được người Việt Nam coi là một trong Tứ bất tử) cho đến Gia Long tẩu quốc
của Phạm Minh Kiên (tiểu thuyết lịch sử viết về quá trình kháng chiến chống Tây Sơn của
Hoàng đế Gia Long) hay Vua bà Triệu Ẩu (tiểu thuyết lịch sử viết về bà Triệu), Sấm trận đêm
đông (tiểu thuyết lịch sử viết về chiến thắng chống Thanh của hoàng đế Quang Trung) của
Nguyễn Tử Siêu, lịch sử đã trở thành một đề tài thu hút được nhiều nhà văn đồng thời cũng
tạo được một lượng công chúng đông đảo. Điểm chung của các tiểu thuyết này đó là tác giả
của chúng đã khéo léo kết hợp nhu cầu giải trí với tinh thần dân tộc âm ỉ trong công chúng
đương thời. Nhân vật chính của các tiểu thuyết này đa phần đều là những anh hùng lịch sử
danh tiếng của dân tộc, nội dung tiểu thuyết tập trung vào những kì tích, đặc biệt là kì tích
chống ngoại xâm của những vị anh hùng này. Bên cạnh đó, để thỏa mãn nhu cầu giải trí của
công chúng, các tiểu thuyết này thường được triển khai với kết cấu chương hồi với cốt truyện
nhấn mạnh vào các yếu tố giao tranh và mưu trí giống như những tiểu thuyết lịch sử Trung
Quốc được dịch rất phổ biến trong giai đoạn đó mà điển hình là Tam Quốc diễn nghĩa (đã
được nhiều người dịch, cả ở trong Nam lẫn ngoài Bắc).
Sau 1932, bất chấp sự phát triển mạnh của các đề tài có tính thời sự, tiểu thuyết lịch sử vẫn
phát triển một cách mạnh mẽ. Trong giai đoạn này, đề tài lịch sử gắn với tên tuổi của những
nhà văn như Khái Hưng, Lan Khai, Nguyễn Triệu Luật, Trần Thanh Mại, Ngô Tất Tố và Đào
Trinh Nhất, Chu Thiên và đặc biệt là Nguyễn Huy Tưởng. Mỗi nhà văn trong số này lại triển
khai những con đường khác nhau trong việc khai thác đề tài lịch sử. Khái Hưng và Lan Khai
có thể nói là đại diện cho một khuynh hướng mới trong việc khai thác đề tài lịch sử sau năm
1932. Nếu như Khái Hưng chỉ có một tiểu thuyết lịch sử là Tiêu Sơn tráng sĩ thì Lan Khai
được biết đến như một nhà văn chuyên chú ở đề tài lịch sử. Ông có hàng loạt tiểu thuyết lịch
sử như Ai lên Phố Cát, Chiếc Ngai vàng, Cái hột mận, Gái thời loạn, Liếp Li, Bóng cờ trắng
trong sương mù, Cưỡi đầu voi dữ, Đỉnh non thần,....Cả Khái Hưng và Lan Khai đều tích cực
loại trừ cái trang nghiêm của trần thuật về đề tài lịch sử trong giai đoạn trước, đưa vào cái
không khí lãng mạn của thời đại. Lịch sử đối với các ông chỉ còn là một cái khung cho sự hư
cấu. Bên cạnh những nhân vật có thật, các ông đều sáng tạo thêm hàng loạt nhân vật hư cấu
đồng thời, trung tâm của tiểu thuyết lịch sử của các ông thường là các mối tình lãng mạn. Có
thể nói, Khái Hưng và Lan Khai đã tích cực khai thác đề tài lịch sử theo hướng dã sử hóa.
Trong khi đó, các nhà văn như Đào Trinh Nhất, Trần Thanh Mại, Nguyễn Triệu Luật vẫn đi
theo con đường của các nhà văn trước năm 1932 nghĩa là trung thành các chi tiết được ghi
trong chính sử nên khó có thể phân biệt được tiểu thuyết lịch sử của các ông với các ký sự
lịch sử. Tất nhiên, cũng có thể kể đến một khuynh hướng khác là khai thác nét đẹp mang tính
phong tục của lịch sử. Điển hình cho khuynh hướng này là Nguyễn Tuân, Ngô Tất Tố, Chu
Thiên. Tiểu thuyết của các ông thường tái hiện lại đời sống, sinh hoạt của những lớp người
đã qua trong lịch sử, đặc biệt là tầng lớp Nho sĩ, trí thức. Có thể nói, đây là một mảng đề tài
có sức hấp dẫn lớn đối với nghệ thuật Việt Nam hiện đại. Trong hội họa, trong số những tác
phẩm xuất hiện ở giai đoạn mở đầu của hội họa Việt Nam hiện đại, có rất nhiều tác phẩm tái
hiện lại đời sống, sinh hoạt của lớp người này, điển hình là các họa phẩm Cụ đồ nho của
Nam Sơn hay Buổi bình văn của Lê Văn Miến.
Nếu như đề tài lịch sử ít nhiều thể hiện tính liên tục của trần thuật từ Trung đại đến Hiện đại
về phạm vi phản ánh thì đề tài sinh hoạt xã hội lại là một trong những mảng đề tài thể hiện sự
chuyển biến rõ nét của sáng tác trần thuật. Khuynh hướng lấy hiện thực xã hội đương thời
làm đối tượng phản ánh của trần thuật đã xuất hiện ngay từ tiểu thuyết hiện đại đầu tiên của
nền văn học mới Truyện thầy Lazarô Phiền. Dẫu vậy, phải đến cuối những năm 1910 và đặc
biệt là trong những năm 1920, với sự lớn mạnh của trần thuật bằng chữ quốc ngữ thì hiện
thực đời sống xã hội mới thực sự tràn vào sáng tác văn chương. Dù được viết với thể tài
nào, truyện trinh thám, truyện phong tục hay tiểu thuyết diễm tình thì đối tượng phản ánh của
tác phẩm cũng là đời sống của những con người đương thời, từ những người tá điền bình
thường ở nông thôn Nam Bộ hay người nông dân ở đồng bằng Bắc Bộ, từ những thanh niên
tân học cho đến những tư sản dân tộc, từ đám lưu manh, giang hồ cho đến quan lại, tư sản
mại bản. Đặc biệt, trong giai đoạn này phải kể đến vai trò của các nhà văn Nam kỳ trong việc
thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của trần thuật hiện đại nói chung và mảng đề tài sinh hoạt xã
hội nói riêng. Mối quan tâm chủ yếu của nhà văn trong giai đoạn này là sự bần cùng của con
người và những tệ nạn mà quá trình tư sản hóa gây ra. Đời sống trở nên tự do hơn. Môi
trường sống được mở rộng ra ngoài môi trường làng xã và chủ yếu là hướng tới đời sống đô
thị. Nhiều giá trị cổ truyền bắt đầu bị rạn vỡ. Trong văn chương Nam kỳ, con người đã trở
nên hết sức tự do trong các quan hệ luyến ái và tình dục. Hiện tượng quan hệ tình dục trước
hôn nhân đã trở nên phổ biến trong các tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh. Đặc biệt, tình dục
cũng không còn là một đề tài cấm kỵ. Dẫu vậy, đi kèm với sự tự do lại là tình trạng tháo cũi sổ
lồng của dục vọng. Đủ thứ dục vọng từ tiền bạc, danh vọng cho đến khoái lạc xác thịt. Đi kèm
theo nó là những tệ đoan hủy diệt những giá trị đạo đức truyền thống. Lừa đảo, trộm cướp và
đặc biệt là nạn ngoại tình trở nên những vấn đề trầm trọng được phản ánh trong trần thuật.
Trần thuật phản ánh nỗi băn khoăn của nhà văn trước sự hủy diệt của những giá trị đạo đức
truyền thống. Nhà văn cảnh báo con người thông qua số phận bi thảm của những con người
là nạn nhân của dục vọng đồng thời vẫn đề cao những giá trị hiếu nghĩa, chung thủy giữa vợ
chồng, bạn bè thông qua các nhân vật chính diện vượt qua những thử thách của cuộc đời để
giữ vững xác tín đạo đức của mình và cuối cùng được đền bù bằng hạnh phúc trong cuộc
sống. Có thể nói, đã hình thành một thứ chủ nghĩa hiện thực đạo lí trong văn chương trần
thuật Việt Nam trước năm 1932.
Vào cuối những năm 1920, với những sáng tác của Nguyễn Công Hoan, đã diễn ra một sự
thay đổi trong phương thức tiếp cận hiện thực xã hội. Tinh thần đạo lí, khuyến thiện trừng ác
với những giá trị Khổng giáo khong còn đậm nét. Thay vào đó, chịu ảnh hưởng của chủ
nghĩa hiện thực phương Tây, ngòi bút của nhà văn bắt đầu trở nên ít tính giáo điều và khách
quan hơn. Nhà văn giới hạn công việc của mình trong việc phản ánh lại một cách trung thực
và sinh động những hoạt cảnh sinh hoạt của đời sống. Quan lại trộm cắp và tham nhũng, có
những lớp người dưới đáy bòn mót đủ mọi cách để có được miếng ăn, những người nghệ sĩ
biểu diễn nghệ thuật chỉ vì tiền, những ông chủ bút báo chí làm báo chỉ với một lí tưởng duy
nhất là tăng được số lượng phát hành, sự phân hóa xã hội đến mức mạng người không đắt
giá bằng một con chó nhập khẩu... tất cả đều được phản ánh trong những truyện ngắn của
Nguyễn Công Hoan mà sau này được tập hợp trong tập truyện ngắn Kép Tư Bền nổi tiếng.
Sự tha hóa và sự bần cùng bắt đầu trở thành một chủ đề lớn của các sáng tác trần thuật
trong suốt những năm 1930 với hàng loạt nhà văn tên tuổi như Nguyễn Công Hoan, Nguyên
Hồng, Ngọc Giao, Ngô Tất Tố và đặc biệt là Vũ Trọng Phụng. Ở một số nhà văn bắt đầu có
sự chuyên môn hóa trong sáng tác. Nếu như Ngô Tất Tố chuyên chú trong mảng đề tài nông
thôn, Nguyên Hồng với các sáng tác về đời sống của những kẻ lưu manh du đãng thì Vũ
Trọng Phụng lại chuyên sáng tác về các tầng lớp người ở đô thị từ doanh nhân, nghệ sĩ cho
đến tư sản, chính trị gia. Gần như một hệ giá trị đã được hình thành với hai loại người:
những người nghèo hèn đáng thương nạn nhân của quá trình tư sản hóa và những kẻ thuộc
tầng lớp trên với sự tha hóa không thể nào cứu vãn. Có những nhà văn đẩy cái nhìn của
mình đến mức cự đoan mà điển hình là Vũ Trọng Phụng. Trong thế giới tiểu thuyết của ông,
gần như không có bất cứ nhân vật nào thoát khỏi sự tha hóa do dục vọng xui khiến. Không
những thế, trong thế giới của ông, sự giả dối cũng ngự trị một cách tuyệt đối. Nhà văn cũng
đặc biệt chú ý tới các mô tả phong tục gồm những sinh họat, phục sức, nói năng, ngôn ngữ
của nhân vật. Có thể nói, đó là một thứ chủ nghĩa hiện thực sinh hoạt với sự ưu tiên của nhà
văn hướng vào những sinh hoạt bên ngoài hơn đời sống tinh thần của nhân vật. Bên cạnh
các yếu tố trên, cũng không thể phủ nhận được ảnh hưởng của các phong trào xã hội với
cách thức tiếp cận hiện thực của các nhà văn, đặc biệt là trong những năm 1936 – 1939, thời
điểm Đảng cộng sản đã tận dụng được những cởi mở về chính trị xã hội để phổ biến những
tư tưởng về xã hội của mình. Trong giai đoạn này, cái nhìn giai cấp đã thay thế cho cái nhìn
đạo lí của các nhà văn trước 1932. Trong những tiểu thuyết như Bước đường cùng của
Nguyễn Công Hoan hay Tắt đèn của Ngô Tất Tố, những xung đột giai cấp trong xã hội, đặc
biệt là ở nông thôn đã được thể hiện một cách hết sức chân thực.
Bên cạnh mảng đề tài về sinh hoạt xã hội, mảng đề tài liên quan đến những vấn đề của con
người cá nhân hiện đại cũng là một mảng đề tài thể hiện sự thay đổi của trần thuật hiện đại
về phạm vi phản ánh. Đây là hệ quả trực tiếp của những thay đổi về mặt ý thức hệ của xã hội
Việt Nam trong giai đoạn hiện đại hóa và tư sản hóa. Khổng giáo dần dất mất vị thế là một ý
thức hệ độc tôn được chính quyền bảo trợ. Tư tưởng dân chủ tư sản và sau đó, những ý
thức hệ có nguồn gốc từ phương Tây bắt đầu tràn vào Việt Nam mà trong đó, ý thức hệ có
ảnh hưởng lớn nhất trong đời sống xã hội chính là chủ nghĩa cá nhân hiện đại. Trên thực tế,
những tư tưởng cá nhân chủ nghĩa đã xuất hiện ngay từ trong tiểu thuyết hiện đại đầu tiên
của văn học hiện đại, Truyện thầy Lazarô Phiền, dưới hình thức cuộc đấu tranh của con
người cá nhân với tội lỗi của chính mình và hành trình của anh ta đi tìm sự giải thoát, một
chủ đề mang màu sắc Ki tô giáo rất rõ nét. Tuy vậy, phải đến sau 1920 sau khi xã hội Việt
Nam đã trải qua hai thập niên hiện đại hóa và tư sản hóa thì chủ nghĩa cá nhân mới hiện diện
một cách rõ nét trong văn chương Việt Nam và đặc biệt là trong các sáng tác trần thuật. Sự
hiện diện của chủ nghĩa cá nhân trong trần thuật Việt Nam hiện đại trước hết, được gắn với
đề tài tình yêu, hôn nhân, gia đình, một đề tài mà nếu nhìn lại mười thế kỷ phát triển của văn
học Trung đại, có thể nói là có một lịch sử phát triển lâu dài. Điển hình cho mảng đề tài này
phải kể đến tiểu thuyết Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách. Đây là tiểu thuyết tái hiện lại một mối
tình bi thảm mang mầu sắc của những tiểu thuyết lãng mạn phương Tây cuối thế kỷ XVIII
như Nỗi đau chàng Werther của Goeth hoặc những tiểu thuyết cận đại của Từ Trẩm Á ở
Trung Quốc. Nhân vật chính trong tiểu thuyết là một đôi trai gái, Đạm Thủy và Tố Tâm, đều
thuộc lớp thanh niên tân học, có tài văn chương, vì cảm mến tài năng thi ca (dấu vết rõ rệt
của các tiểu thuyết tài tử giai nhân truyền thống) nên đến với nhau một cách tự do. Dẫu vậy,
khi tình yêu giữa hai người hình thành cũng là khi họ phải đối diện với mặc cảm về việc đã
vượt qua những lề thói truyền thống về những cuộc hôn nhân do cha mẹ sắp xếp. Cả hai đều
trải qua một cuộc đấu tranh tư tưởng dữ dội (rất giống với những bi kịch của Racine và
Corneille về xung đột giữa nghĩa vụ và dục vọng) và cuối cùng thuận theo những quyết định
của gia đình. Dẫu vậy, đó lại là quyết định đưa họ đến một kết cục bi thảm: người con gái
chết vì bệnh tật và người con trai sống quãng đời còn lại trong nổi đau khổ. Tố Tâm sau khi
đã được công chúng, đặc biệt là thanh niên đón nhận một cách nồng nhiệt trong suốt nhiều
năm bởi lẽ đã phản ánh đúng những vấn đề của con người cá nhân Việt Nam hiện đại: bắt
đầu hình thành ý thức về quyền tự do cá nhân nhưng vẫn chưa thể vượt qua những rào cản
của phong tục và lễ giáo.
Sau năm 1932, những vấn đề của con người cá nhân hiện đại trong mối quan hệ với gia đình
truyền thống sẽ có một sự thay đổi. Sau gần mười năm, chủ nghĩa cá nhân ngày càng ăn sâu
bám rễ vào xã hội Việt Nam, lớp thanh niên tân học ngày càng đông đảo về số lượng. Bước
sang giai đoạn này, đề tài tình yêu, hôn nhân, gia đình được tiếp nối với các tiểu thuyết luận
đề của Khái Hưng và Nhất Linh như Hồn bướm mơ tiên, Nửa chừng xuân, Đoạn tuyệt hay
Cô giáo Minh của Nguyễn Công Hoan. Con người cá nhân (thường là các chàng trai, cô gái
tân học, đặc biệt là các cô gái trẻ) trong giai đoạn này được đặt trong những xung đột với
những lề thói của đại gia đình nhiều thế hệ truyền thống. Con người cá nhân muốn tìm kiếm
một đời sống được làm chủ bản thân, được sống một cách phong phú về tâm hồn, được yêu
và đi theo tiếng gọi của trái tim trong khi đó đại gia đình truyền thống lại bóp chết mọi khát
vọng tự do, muốn biến con người thành những cỗ máy phục tùng và đảm bảo sự liên tục của
dòng họ thông qua sứ mạng sinh nở. Những tiểu thuyết này thường được viết theo lối luận
đề và kết thúc bằng những kết thúc có hậu với sự thắng thế thuộc về con người cá nhân hiện
đại. Tuy nhiên, ngay trong giai đoạn này đã có sự phân hóa trong cách thức xử lý mối quan
hệ giữa con người cá nhân và gia đình. Nếu như các nhà văn thuộc nhóm TLVĐ thường
tuyệt đối hóa xung đột giữa con người cá nhân và đại gia đình truyền thống và chủ trương
một cuộc cách mạng triệt để xóa bỏ gia đình truyền thống thì lại có những người theo khuynh
hướng bảo thủ như Nguyễn Công Hoan lại chủ trương một giải pháp có tính hòa giải thế hệ.
Bên cạnh đó, cũng có nhiều tác phẩm trần thuật thay vì đi vào mô tả xung đột giữa con người
cá nhân và gia đình truyền thống thì lại đi sâu vào thế giới nội tâm đầy phong phú của của
con người cá nhân trong những rung động yêu đương cũng như trong những mối quan hệ
phức tạp với cuộc đời. Tắt lửa lòng của Nguyễn Công Hoan, Hồn bướm mơ tiên của Khái
Hưng và rất nhiều truyện ngắn của Nhất Linh và Khái Hưng đều được viết theo huớng này.
Bắt đầu từ những năm 1935 – 1936, hệ đề tài liên quan đến con người cá nhân bắt đầu có
sự mở rộng ra ngoài phạm vi những quan hệ tình yêu, hôn nhân, gia đình. Đôi bạn của Nhất
linh là một ví dụ. Đây là một tiểu thuyết tâm lí đa tuyến với một hệ thống nhân vật phong phú
thuộc lớp thanh niên tân học với hai nhân vật chính đã hiện diện trong nhiều tác phẩm của
Nhất Linh: Loan và Dũng. Tiểu thuyết không chỉ tái hiện lại những rung động mong manh và
mơ hồ của đôi bạn trẻ khi tình yêu vừa bắt đầu mà còn dựng lại bức chân dung tinh thần của
một lớp thanh niên đương thời. Họ bơ vơ tìm kiếm một lẽ sống và niềm tin, họ bắt đầu suy
nghĩ về cái ác, về những tệ đoan của xã hội và khao khát muốn thay đổi thế giới, muốn thoát
ra khỏi cái tù túng của gia đình và xã hội đương thời (thông qua hành động trốn sang Trung
Quốc làm cách mạng). Chịu ảnh hưởng của các phong trào chính trị mang tính dân túy nổi
lên trong giai đoạn 1936 – 1939, các trần thuật viết về con người cá nhân cũng có sự thay đổi
về nội dung. Những băn khoăn về xã hội chiếm lĩnh nhiều trần thuật mà điển hình là Con
đường sáng của Hoàng Đạo. Thay vì đối mặt với gia đình truyền thống, con người cá nhân
giờ đây lại phải đối diện với đói nghèo, sự lạc hậu và tăm tối hiện diện ở khắp nơi trong xã
hội, đặc biệt là ở nông thôn. Những trần thuật đi theo hướng này thường được viết theo lối
luận đề, pha trộn giữa cái nhìn về hiện thực đói nghèo với những lí tưởng về cải cách xã hội
mang màu sắc xã hội chủ nghĩa không tưởng kiểu Tolstoi (một nhà văn có ảnh hưởng đến
nhiều nhà văn Việt Nam giai đoạn 1932 – 1945).
Sau năm 1940, với sự hiện diện của nhiều cây bút trần thuật tài năng như Thạch Lam, Nam
Cao hay Nguyễn Tuân, hệ đề tài về con người cá nhân có những thay đổi lớn. Con người
trụy lạc trở thành một đề tài lớn, đặc biệt là trong các tùy bút, tiểu thuyết của Nguyễn Tuân
(Nguyễn, Thiếu quê hương, chiếc lư đồng mắt cua). Nhân vật chính trong những tiểu thuyết
này là những thanh niên chìm đắm trong rượu, thuốc phiện, trong nghệ thuật (ca trù), thanh
sắc cũng như trong những chuyến phiêu lưu vô định và bất tận để tìm kiếm những cảm giác
mới lạ và chạy trốn đời sống tẻ nhạt, tầm thường, vô nghĩa và dung tục đương thời. Con
người cá nhân trong truyện ngắn của Nam Cao hay Thạch Lam lại phải đối diện trước sự đói
nghèo và hệ quả của nó: sự hủy hoại nhân cách, sự tha hóa tinh thần. Họ buộc phải chiến
đấu một cách vô vọng chống lại sự tha hóa. Không những thế, nhiều nhân vật trong trần
thuật của các nhà văn này đồng thời cũng là những người trí thức, nghệ sĩ và đối với họ,
cuộc đấu tranh tinh thần khủng khiếp nhất chính là cuộc đấu tranh tìm kiếm lí tưởng sống và
lí tưởng nghề nghiệp. Mảng đề tài về con người cá nhân sau năm 1940 đã đạt đến chiều sâu
với những tác phẩm xuất sắc, có giá trị lâu dài. Đó là đóng góp lớn cho văn học Việt Nam bên
cạnh mảng sáng tác về đề tài sinh hoạt xã hội đã được đề cập đến ở trên.
Trên đây là một số khuynh hướng đề tài chủ đạo của trần thuật Việt Nam 1900 – 1945. Bên
cạnh những mảng đề tài mang tính phổ biến, phát triển liên tục, thu hút nhiều cây bút tài năng
như trên, cũng còn có không ít mảng đề tài hoặc số lượng tác phẩm không nhiều, phong phú,
hoặc đan cài trong những mảng đề tài khác, dẫu vậy đó vẫn là những mảng đề tài không kém
phần đặc sắc. Điển hình trong số này là mảng đề tài về người viết văn, hay rộng ra, người
nghệ sĩ trong xã hội hiện đại. Từ Kép Tư Bền của Nguyễn Công Hoan, qua Đẹp của Khái
Hưng đến Trăng sáng, Đời thừa của Nam Cao, người nghệ sĩ trong xã hội tư sản đã trở
thành đối tượng phản ánh của không ít tác phẩm đặc sắc. Qua những trần thuật đó, những
đau khổ, khốn khó cả về tinh thần lẫn thể xác của người nghệ sĩ khi phải mưu sinh bằng cách
biến những đứa con tinh thần của mình thành hàng hóa đã được phơi bày. Không những thế,
các nhà văn cũng tái hiện được những đấu tranh tinh thần dữ dội của người nghệ sĩ để tìm
kiếm câu trả lời về cái đẹp, về cái có ích, về mối quan hệ giữa nghệ thuật và đời sống. Cùng
với mảng đề tài về đời sống của văn nghệ sĩ, vẻ đẹp của thiên nhiên đất nước, của đời sống
thường nhật, của những phong tục tập quán cũng trở thành đối tượng phản ánh của không ít
tác phẩm trần thuật lúc bấy giờ từ truyện ngắn, tiểu thuyết của Tự lực văn đoàn của Thanh
Châu, Ngọc Giao, Lưu Trọng Lư, Ngô Tất Tố cho đến tùy bút của Nguyễn Tuân. Tất cả
những nội dung đó đã góp phần làm nên một thời đại phát triển đa dạng và đặc sắc của văn
xuôi tự sự.
4. Sự hiện đại về thi pháp
Gắn liền với sự thay đổi về nội dung phản ánh là những thay đổi về thi pháp thể loại. Có thể
nói, nửa đầu thế kỷ XX là giai đoạn đánh dấu sự thay đổi mang tính cách mạng của trần thuật
Việt Nam về mặt thi pháp thể loại. Một loại hình trần thuật mới đã hình thành và thay thế
những loại hình trần thuật truyền thống. Vấn đề ở đây không chỉ là một sự thay đổi, du nhập,
thêm bớt của một vài kĩ thuật viết mà là một sự thay đổi triệt để dẫn đến một hình thức trần
thuật hoàn toàn mới. Thậm chí, cho đến ngày nay, trần thuật Việt Nam vẫn tiếp tục thừa
hưởng những mô hình thể loại được hình thành từ giai đoạn này.
Trong mười thế kỷ văn học Trung đại ,các thể văn trần thuật không chỉ chậm phát triển mà
còn ổn định về thi pháp thể loại. Có những công thức thể loại đã trở thành những thứ “khuôn
vàng thước ngọc” được áp dụng cho nhiều loại trần thuật khác nhau, từ truyện chí quái,
truyền kì, tiểu thuyết chương hồi cho đến truyện thơ Nôm. Trần thuật thường được mở đầu
bằng việc giới thiệu bối cảnh không thời gian của câu chuyện và một tiểu sử tóm tắt của nhân
vật chính. Lối kể truyện phổ biến là lối kể toàn tri theo ngôi thứ ba với người kể chuyện tường
tận mọi “ngóc ngách” của câu chuyện. Kết cấu của trần thuật thường được xây dựng theo
trình tự thời gian. Với các truyện kể dài như tiểu thuyết chương hồi hay truyện Nôm, văn bản
thường được cắt nhỏ thành nhiều phân đoạn có độ dài tương đối bằng nhau mà hạt nhân
của mỗi phân đoạn là một biến cố trong cuộc đời nhân vật. Ngoại trừ các trần thuật ngắn, các
trần thuật dài thường bao quát một quãng thời gian dài, thường là tương đương với cả cuộc
đời của nhân vật chính. Bút pháp miêu tả thường theo lối chấm phá, liệt kê các chi tiết, đặc
biệt là những chi tiết có tính biểu tượng. Các trần thuật bằng văn xuôi thường có hình thức
văn xuôi đan xen thơ, trong đó, văn xuôi đảm nhiệm chức năng thuật truyện và miêu tả trong
khi đó thờ thường được dành cho việc bộc lộ tâm lý nhân vật hoặc làm chức năng của các
đoạn trữ tình ngoại đề, đánh giá nhân vật. Đó là một số nét tương đối ổn định của trần thuật
Việt Nam trong giai đoạn Trung đại.
Bước sang thế kỷ XX, thi pháp trần thuật đã có một sự thay đổi căn bản. Sự thay đổi đó
trước hết được thể hiện qua kết cấu trần thuật. Sự thay đổi thể hiện ngay từ cách mở đầu và
kết thúc trần thuật. Thay vì mở đầu bằng cách giới thiệu nhân vật và bối cảnh, nhà văn hiện
đại thường chọn cách mở đầu vào thẳng mạch nội dung chính của câu chuyện, thậm chí, bắt
nhịp thẳng vào những xung đột đang ở độ căng thẳng (in medias res). Kết thúc truyện cũng
trở nên đa dạng hơn. Nhiều nhà văn đã lựa chọn từ bỏ lối kết thúc có hậu (happy ending) để
chuyển sang lối kết thúc với những đổ vở, đau khổ hoặc kết thúc để ngỏ. Sự thay đổi cũng
được thể hiện trong kết cấu tổng thể của trần thuật. Thay vì tổ chức trần thuật với các sự kiện
bám theo trình tự thời gian, lối kể chuyện xáo trộn trật tự của các sự kiện với các đoạn cắt
ngang dòng truyện kể để ngược về quá khứ cũng trở nên phổ biến. Mặc dù lối kết cấu chịu
ảnh hưởng của tiểu thuyết chương hồi với việc chia cắt trần thuật thành những phân đoạn
đều nhau tỏ ra vẫn còn phù hợp với việc in tác phẩm dưới dạng truyện đăng nhiều kì trên báo
nên vẫn được nhiều tác giả lựa chọn nhưng ở nhiều tác giả trần thuật, đặc biệt là khi viết các
thể trần thuật gắn với dòng chảy tâm lý nhân vật, việc phân chia chương, đoạn cũng trở nên
linh hoạt và tự do hơn. Có thể nói, kết cấu là yếu tố hết sức quan trọng thể hiện sự thay đổi
về loại hình của trần thuật.
Bên cạnh kết cấu là yếu tố thể hiện cấu trúc chung của toàn bộ văn bản, còn có những yếu tố
khác, ở cấp độ vi mô hơn nhưng cũng thể hiện những thay đổi mang tính bản chất của văn
bản trần thuật. Trước hết là các kĩ thuật liên quan tới sự miêu tả. Gắn liền với sự trỗi dậy của
khuynh hướng hiện thực trong văn chương và ý thức về cái thực như là một phạm trù mỹ
học, các kỹ thuật miêu tả bắt đầu có sự thay đổi về chất. Như đã nói, trong văn học truyền
thống, các kỹ thuật miêu tả thường được tuân theo những công thức cố định bao gồm việc
liệt kê các chi tiết theo những quan hệ đối xứng, việc chú ý tới những chi tiết có tính biểu
tượng (kiểu như mầu sắc, kiểu trang phục phản ánh tính cách của nhân vật theo một số công
thức cố định như màu trắng tượng trưng cho sự trong sạch, màu đen tượng trưng cho cái ác,
màu đỏ tượng trưng cho nhiệt huyết và trung trực...). Lối miêu tả theo kiểu truyền thống vẫn
tồn dư trong nhiều trần thuật, đặc biệt là các trần thuật được sáng tác ở Nam kỳ. Dẫu vậy, bắt
đầu từ 1920, các kỹ thuật miêu tả trong trần thuật đã có sự thay đổi rõ rệt. Chỉ cần đọc một
tiểu thuyết như Tố Tâm, người đọc có thể nhận rõ những thay đổi này. Có thể lấy một đoạn
miêu tả trong Tố Tâm làm ví dụ cho lối miêu tả này.
“(...) Lúc ấy tôi không được xem rõ mặt là bởi tôi theo lối giao thiệp, vào nhà lạ tôi
không muốn nhìn mặt con gái đàn bà, nhưng lúc nàng cất cái mình manh mảnh đi vào
nhà, tay hất cái đuôi gà ra sau vai, và dém mái tóc lại, phô ra hai cái vẻ tương phản ở
chỗ đám tóc đen tỏa trên cái gáy trắng, tôi trông thật có vẻ yểu điệu của một vị giai
nhân”
Có thể nói đoạn miêu tả nói trên hội tụ đầy đủ những đặc điểm của miêu tả trong văn chương
hiện đại. Thứ nhất, đó là một cái nhìn của một nhân vật cụ thể, một con người xưng tôi. Điều
quan trọng ở đây không phải là ngôi phát ngôn mà chính là vị trí quan sát của người quan sát
đã quyết định những gì anh ta nhìn thấy và mô tả lại. Trong đoạn văn này, người thanh niên
mới đến một giai đình lạ, khi anh ta đến, người con gái cố tình lánh mặt nên anh ta chỉ có thể
quan sát nhân vật ở phía sau lưng (nên anh ta chỉ nhận thấy “cái mình manh mảnh”, cái đuôi
gà và một mảng gáy của nhân vật). Đó chính là một sự quan sát từ một điểm nhìn cụ thể.
Hơn nữa, đây cũng là một hình ảnh miêu tả mang đậm dấu ấn chủ quan của người quan sát
được thể hiện trong câu đánh giá về nhân vật: “tôi trông thật có vẻ yểu điệu của một vị giai
nhân”. Ở những trần thuật khác, dù không được kể theo ngôi thứ nhất nhưng trong những
đoạn miêu tả, người kể chuyện vẫn luôn tuân thủ nguyên tắc về phối cảnh và trong nhiều
trường hợp, phụ thuộc vào tính thẩm mỹ của tác phẩm mà còn tạo nên một khuynh hướng
chủ quan hóa của miêu tả. Có thể nói, đây là hai khuynh hướng rất đặc trưng của miêu tả
trong trần thuật hiện đại.
Cùng với các kỹ thuật miêu tả, một yếu tố khác thể hiện sự thay đổi về thi pháp thể loại của
đó chính là các kỹ thuật phân tích tâm lý nhân vật. Trong tự sự truyền thống, việc thể hiện
tâm lý nhân vật thường được thể hiện bằng thơ hoặc một số từ đơn giản chỉ trạng thái tâm lý
như “cả giận”, “lo sợ”, “buồn bã”... Bước sang thế kỷ XX, cuộc cách mạng ngôn ngữ với việc
chuyển sang dùng tiếng mẹ đẻ làm thứ ngôn ngữ duy nhất trong sáng tác văn học đồng thời
với quá trình tiếp nhận những ảnh hưởng của phương Tây (tư duy duy lý, nhận thức về đời
sống tâm lý của con người), việc tái hiện thế giới tâm lý trong sáng tác trần thuật đã có
những thay đổi cơ bản. Dù là kể truyện ở ngôi thứ nhất hay ngôi thứ ba, từ cuối những năm
1920, nhà văn và người đọc bắt đầu quen thuộc với các kỹ thuật phân tích tâm lý theo kiểu
phương Tây. Ở đây, không thể phủ nhận vai trò của việc tăng cường vốn từ của tiếng Việt với
việc làm giàu hệ thống hư từ chỉ các quan hệ lôgic để từ đó đủ khả năng phân tích một cách
duy lý các quá trình tâm lý. Có thể lấy một trích đoạn trong Tố Tâm làm ví dụ cho điều này:
“(...) Hồi thứ nhất là lúc hai bên yêu nhau mà vẫn phân vân e lệ, chưa biết tình yêu dó
là thứ tình gì, chỉ biết quấn quít trò chuyện, mà xa nhau thì nhớ, vắng nhau thì buồn,
nhưng cái buồn cái nhớ đó còn phảng phất như anh nhớ em, bố mẹ nhớ con, bạn bè
nhớ nhau mà thôi, chưa có cái nồng nàn nam nữ nhớ nhau vậy”.
Trong trích đoạn trên, có thể thấy, chính những hư từ như “mà vẫn”, “chưa biết”, “chỉ biết”,
“mà”, “nhưng”, “như”, “chưa có” với những kết cấu mang tinh suy luận phân biệt đã là một
công cụ đắc lực để nhà văn có thể diễn tả được những cung bậc đa dạng của một thứ tình
cảm mới bắt đầu nảy nở giữa một đôi trai gái, thứ tình cảm chưa thực sự trở thành tình yêu.
Những kỹ thuật này sau những năm 1932 sẽ được phát triển đến mức thuần thục với sáng
tác của những nhà văn của TLVĐ, những bậc thầy trong việc mô tả những rung động tinh tế
và mơ hồ của đời sống tâm hồn con người. Mặt khác, dù chưa xuất hiện những độc thoại nội
tâm phức tạp theo kiểu dòng tâm lý như trong sáng tác của James Joyce hay Virginia Woolf
nhưng những kỹ thuật độc thoại nội tâm cũng bắt đầu được các nhà văn Việt Nam làm chủ,
đặc biệt trong việc mô tả những đấu tranh tâm lý mãnh liệt bên trong của con người. Những
bậc thầy trong việc sử dụng kỹ thuật này là Nguyễn Tuân và Nam Cao.
Bên cạnh những kỹ thuật nói trên, cũng phải kể đến sự đa dạng của các dạng thức trần thuật
với sự hiện diện của trần thuật ngôi thứ nhất bên cạnh trần thuật ngôi thứ ba, sự đa dạng
trong giọng kể cũng như sự thế tục hóa ngôn ngữ trần thuật với sự thâm nhập của ngôn ngữ
đời sống vào trong trần thuật. Tất cả những thay đổi về mặt thi pháp đó đã góp phần làm thay
đổi toàn bộ diện mạo trần thuật Việt Nam, tạo nên một loại hình trần thuật hoàn toàn mới mẻ
so với truyền thống, loại hình trần thuật vẫn còn được tiếp nối cho đến ngày nay.