NỘI DUNG
I. Tổng quan
I.1. Khái niệm rủi ro trong hoạt động thương mại quốc tế
Rủi ro trong hoạt động tài trợ thương mại quốc tế là những biến cố không mong
đợi, xảy ra khi ngân hàng tiến hành hỗ trợ về mặt tài chính cho các doanh nghiệp
XNK. Những rủi ro này có thể dẫn đến những tổn thất về mặt tài sản, làm giảm sút lợi
nhuận thực tế so với dự kiến của ngân hàng hay làm giảm uy tín của ngân hàng đối với
khách hàng hoặc bên thứ ba.
Hoạt động tài trợ thương mại quốc tế thường có sự tham gia của rất nhiều bên,
cả bên Việt Nam và bên nước ngoài; các bên khó có đầy đủ thông tin về tình hình tài
chính và sự thiện chí của nhau vì vậy nên đây là một trong những hoạt động tiềm ẩn
nhiều rủi ro nhất của ngân hàng.
I.2. Nguyên nhân
-
Khoảng cách địa lý giữa các bên tham gia hợp đồng xa hơn (trừ trường hợp
mua bán với khu chế xuất) làm hạn chế sự hiểu biết lẫn nhau, hiểu biết về thị
trường đồng thời nảy sinh rủi ro trong quá trình vận chuyển hàng hóa.
-
Luật điều chỉnh thương mại quốc tế nói chung rất đa dạng, phức tạp có thể là
các điều ước quốc tế, luật nước ngoài, tập quán quốc tế thậm chí là các án lệ.
Phán quyết của tòa án, trọng tài trong nước khó thực thi ở nước ngoài và dù có
thực thi được thì cũng với chi phí rất cao.
-
Tập quán mua bán, kinh doanh của các quốc gia, các vùng lãnh thổ rất khác
nhau đòi hỏi nhà xuất khẩu, nhập khẩu phải am hiểu về nghệ thuật đàm phán,
ký kết hợp đồng.
-
Bất đồng về ngôn ngữ làm tăng rủi ro không hiểu biết lẫn nhau, mỗi bên hiểu
hợp đồng theo cách riêng của mình dẫn đến hậu quả khôn lường. Do vậy, những
người làm xuất nhập khẩu cần nắm rõ các thuật ngữ thương mại chuyên ngành
để tránh những hiểu lầm đáng tiếc.
1
I.3. Ảnh hưởng
Rủi ro tài trợ thương mại quốc tế khi xảy ra không chỉ ảnh hưởng tới các ngân
hàng thương mại nói riêng mà còn ảnh hưởng tới toàn bộ nền kinh tế nói chung vì các
ngân hàng thương mại có thể coi là những trung tâm tài chính thu nhỏ của cả nền kinh
tế. Do đó, khi ngân hàng gặp rủi ro thì tất yếu sẽ gây ra những ảnh hưởng tiêu cực đối
với nền kinh tế và đời sống xã hội. Các ngân hàng thường có mối liên hệ chặt chẽ với
nhau, khi một ngân hàng gặp rủi ro thì có thể kéo theo một hệ thống ngân hàng bị
khủng hoảng. Điều này kéo theo tình trạng mất ổn định trên thị trường tiền tệ, làm
giảm giá trị của đồng nội tệ, đẩy tỷ giá hối đoái lên cao, gây khó khăn cho các doanh
nghiệp trong sản xuất và tiêu thụ hàng hoá. Lúc đó nền kinh tế sẽ bị ảnh hưởng trầm
trọng như: Mức sống giảm, thất nghiệp tăng, các vấn đề xã hội trở nên trầm trọng.
Chính vì những lý do trên mà công tác phòng ngừa và hạn chế rủi ro trong hoạt động
tài trợ thương mại quốc tế là vô cùng cấp thiết.
I.4. Đặc điểm
- Rủi ro mang tính gián tiếp: Rủi ro trong hoạt động thương mại quốc tế phụ
thuộc vào tình hình tài chính, sự thiện chí trả nợ của khách hàng và môi trường
kinh tế khách quan.
- Rủi ro có tính chất đa dạng và phức tạp: Hoạt động thương mại quốc tế hết sức
đa dạng và phức tạp do đó khi tiến hành tài trợ thương mại quốc tế, các ngân
hàng thương mại cũng phải đối phó với các rủi ro có nguyên nhân, hình thức
và hậu quả rất đa dạng, phức tạp. Do vậy, khi phòng ngừa và hạn chế rủi ro,
các ngân hàng cần phải chú ý đến mọi dấu hiệu rủi ro, phải xuất phát từ
nguyên nhân, bản chất, hậu quả của rủi ro để có những biện pháp xử lý thích
hợp.
- Rủi ro mang tính tất yếu khách quan, luôn tồn tại và gắn liền với hoạt động tài
trợ của ngân hàng: Tình trạng thông tin bất cân xứng khiến cho ngân hàng
không thể nắm bắt và lường trước được các rủi ro một cách toàn diện và đầy
đủ, điều này làm cho hoạt động tài trợ luôn tiềm ẩn nhiều rủi ro.
II. Các rủi ro chính
II.1. Rủi ro vĩ mô
Rủi ro vĩ mô có thể được định nghĩa là những yếu tố bên ngoài có xu hướng tác
động xấu đến hoạt động thương mại quốc tế của khách hàng. Một số vấn đề thường
gặp trong tài trợ thương mại quốc tế là do thiếu đánh giá cao rủi ro quốc gia, rủi ro
ngoại hối, rủi ro ngành, rủi ro ngân hàng và sự gian lận.
II.1.1. Rủi ro quốc gia
Các yếu tố liên quan đến loại rủi ro này thường là sự ổn định về chính trị và
kinh tế của một quốc gia, kiểm soát ngoại hối (nếu có), và chính sách bảo hộ ngành
công nghiệp trong nước trong thời gian ngắn. Tất cả các yếu tố này sẽ quyết định liệu
quốc gia có thể và sẽ thực hiện đúng các cam kết thanh toán của họ đúng hạn hay
không. Ví dụ, từ nhiều quan điểm của các quốc gia trên thế giới, Sri Lanka được coi là
ít rủi ro trong ngắn hạn, (nghĩa là, rủi ro trong việc xuất khẩu tới hai năm sẽ được xem
xét, với điều kiện nhà nhập khẩu Sri Lanka có thể phát hành tín dụng chứng từ, tốt
nhất là được xác nhận bởi một ngân hàng có uy tín cao). Điều này là do Sri Lanka đã
tự do hóa kiểm soát hối đoái, không có lịch sử mắc lỗi trong các cam kết nợ nước
ngoài và có một nền kinh tế khá mạnh. Điều khiến đất nước này không được coi là
mức độ rủi ro "thoải mái hơn" là các vấn đề chính trị gây ra bởi vấn đề ly khai.
Hầu hết các ngân hàng đều có các đơn vị chuyên trách đối phó với rủi ro quốc gia
và họ kiểm soát mức độ rủi ro mà ngân hàng sẽ gánh chịu cho mỗi quốc gia. Hệ thống
kiểm soát này rất quan trọng trong việc cân bằng sự ổn định của các tổ chức, chống lại
các giao dịch lợi nhuận cao đi kèm với rủi ro cao hơn. Tuy nhiên, thường có rất nhiều
xích mích giữa các nhân viên ngân hàng thương mại và các đơn vị này, nơi mà trước
đây tạo ra cảm giác sau này quá nghiêm ngặt và việc kinh doanh là quá khó.
II.1.2. Rủi ro hối đoái
Thanh toán và các khoản thu bằng ngoại tệ xuất hiện hàng ngày trong thương
mại quốc tế và thương nhân luôn phải chịu sự biến động của tỷ giá hối đoái do nhiều
lý do kinh tế, chính trị và thậm chí hoàn toàn là đầu cơ. Khối lượng trao đổi vô cùng
lớn của thị trường ngoại hối toàn cầu khiến nhà nhập khẩu / nhà xuất khẩu không
kiểm soát và các biến động bất lợi trong giao dịch tiền tệ với đồng nội tệ có thể xóa
sạch toàn bộ lợi nhuận và nhiều giao dịch hơn.
Điều quan trọng là các nhà giao dịch giả mạo liên kết với các phòng giao dịch
ngoại hối trong các ngân hàng vì sau đó họ sẽ có thể theo kịp thị trường năng động và
quan trọng hơn là tham gia vào các giao dịch ngoại hối kỳ hạn để bảo vệ biên lợi
nhuận của họ. Đáng ngạc nhiên, nhiều nhân viên tín dụng trong các ngân hàng coi
phòng giao dịch của một ngân hàng là một nơi bí ẩn và để khách hàng của họ thảo
luận về bất kỳ vấn đề tỷ giá hối đoái với các đại lý. Điều này không nên xảy ra và
người cho vay phải nỗ lực để đạt được ít nhất một sự hiểu biết cơ bản về hoạt động và
xu hướng trên thị trường.
II.1.3. Rủi ro nghiệp vụ
Khi tiến hành hoạt động tài trợ thương mại quốc tế, các ngân hàng luôn luôn
phải đối mặt với nguy cơ rủi ro nghiệp vụ. Một sai sót của đội ngũ cán bộ ngân hàng
cũng có thể gây tổn thất lớn cho các bên khách hàng đồng thời tổn hại đến lợi ích và
uy tín của chính ngân hàng. Đối với trường hợp thanh toán bằng L/C, nếu ngân hàng
tiếp nhận một bộ chứng từ sai biệt nhưng không phát hiện ra mà vẫn tiến hành thanh
toán cho bên xuất khẩu thì đây chính là một sai sót lớn liên quan đến nghiệp vụ. Trong
trường hợp này ngân hàng không những sẽ không nhận được thanh toán từ bên nhập
khẩu mà còn gây mất lòng tin với các khách hàng, ảnh hưởng lớn tới hoạt động chung
của ngân hàng.
Tại Việt Nam, do đặc thù, các giao dịch thường phát sinh vào buổi chiều, dồn
hồ sơ lên Sở Giao dịch tạo sức ép phải xử lý nhanh đối với thanh toán viên và kiểm
soát viên. Đây chính là nguyên nhân dẫn tới các rủi ro, sai sót trong quá trình tác
nghiệp.
II.1.4. Rủi ro đạo đức
Để bao quát các khía cạnh khác nhau của hàng hải và thực sự là bất kỳ loại
gian lận thương mại nào khác đòi hỏi phải có khối lượng giấy tờ. Có nhiều loại gian
lận như gian lận tài liệu, lừa đảo đối tác, lừa đảo bảo hiểm, trộm cắp hàng hóa, đánh
cắp và vi phạm bản quyền. Thật không may, có một số quốc gia bị từ chối vì chứa
chấp những kẻ lừa đảo. Nguyên tắc vàng là "nếu thỏa thuận có vẻ quá tốt là sự thật thì
có lẽ là như vậy" và người ta nên thận trọng khi xử lý các giao dịch có giá trị lớn hơn
nhiều so với định mức. Tín dụng tài liệu giả mạo luôn được lưu hành và may mắn
thay, một nhân viên dịch vụ thương mại có kinh nghiệm có thể phát hiện tín dụng giả
thường xuyên hơn không.
Nếu hàng hóa được phát hành theo cam kết của nhà nhập khẩu để thanh toán trong
tương lai - thường là bằng cách chấp nhận hối phiếu - thì ngân hàng xuất khẩu /tài
chính mất quyền kiểm soát đối với hàng hóa và phương thức phát hành này được gọi
là D / A (chứng từ chống chấp nhận) sẽ rủi ro hơn
II.2. Rủi ro vi mô
Rủi ro vi mô gặp phải ở cấp độ khách hàng cá nhân và bị giới hạn bởi rủi ro tài
chính (tín dụng) và rủi ro hoạt động liên quan đến hoạt động kinh doanh của họ.
II.2.1. Rủi ro không thanh toán (Rủi ro mất vốn)
Rủi ro này xảy ra khi khách hàng hoặc bên thứ ba không thanh toán hoặc chấp nhận
thanh toán cho ngân hàng.
Cụ thể:
- Đối với nghiệp vụ mở L/C thanh toán hàng nhập khẩu: Rủi ro nhà nhập khẩu
không nhận bộ chứng từ và thanh toán cho ngân hàng phát hành sau khi ngân
hàng đã thanh toán cho nhà xuất khẩu.
- Đối với hoạt động bảo lãnh: Rủi ro sau khi ngân hàng thực hiện thay nghĩa vụ
cho bên được bảo lãnh, bên này không tiến hành hoàn trả cho ngân hàng.
- Đối với nghiệp vụ chiết khấu chứng từ: Rủi ro người nhập khẩu hoặc ngân
hàng phát hành L/C không đồng ý thanh toán bộ chứng từ.
- Đối với nghiệp vụ bao thanh toán: Rủi ro bên thứ ba không đồng ý thanh toán
các khoản phải thu hoặc thanh toán các hối phiếu, kỳ phiếu, …
- Đối với nghiệp vụ đồng tài trợ: Rủi ro bên được nhận tài trợ không thực hiện
nghĩa vụ trả nợ đối với các ngân hàng tham gia đồng tài trợ
- Đối với nghiệp vụ cho vay tài trợ XNK: Rủi ro bên đi vay không thanh toán
tiền khi đến hạn.
- Đối với nghiệp vụ thuê mua tài chính: Rủi ro bên đi thuê chiếm dụng tài sản và
không trả tiền thuê cho ngân hàng.
- Đối với hình thức biên lai tín thác: Rủi ro người nhập khẩu không hoàn trả vốn
vay và lãi cho ngân hàng khi biên lai tín thác hết hạn.
II.2.2. Rủi ro nợ quá hạn
Nợ quá hạn là những khoản tín dụng không hoàn trả đúng hạn, không được
phép và không đủ tiêu chuẩn gia hạn nợ. Rủi ro nợ quá hạn xảy ra khi khách hàng cố
tình trì hoãn thanh toán hoặc tạm thời mất khả năng thanh toán cho ngân hàng khi đến
hạn. Đây là loại rủi ro phổ biến trong hoạt động tín dụng nói chung và hoạt động tài
trợ thương mại quốc tế nói riêng. Ví dụ, đối với hình thức cho vay tài trợ xuất khẩu,
ngân hàng cho khách hàng vay để mua nguyên liệu, vật tư sản xuất hàng xuất khẩu
nhưng sau khi sản xuất xong, bên xuất khẩu không tìm được người mua hoặc người
mua từ chối nhận hàng. Điều này sẽ khiến cho người xuất khẩu không thể thanh toán
tiền vay đúng hạn và làm phát sinh nợ quá hạn đối với ngân hàng. Nếu không thể thu
hồi được khoản nợ quá hạn này, thì ngân hàng có thể sẽ đứng trước nguy cơ mất vốn.
II.2.3. Rủi ro liên quan đến tài sản bảo đảm:
Khi tiếp nhận tài sản bảo đảm, ngân hàng luôn đứng trước nguy cơ rủi ro giá trị
của tài sản cầm cố, thế chấp khi tiến hành phát mại không đủ bù đắp thiệt hại hoặc do
biến động của thị trường, những tài sản này bị mất giá so với khi ngân hàng nhận bảo
đảm. Ngoài ra, trong nhiều trường hợp, khi ngân
hàng tiến hành phát mại tài sản cầm cố, thế chấp thì gặp rắc rối do thiếu những giấy tờ
chứng nhận quyền sở hữu những tài sản này.
II.3. Rủi ro hàng hóa
Rủi ro liên quan đến sản phẩm là những rủi ro mà người bán tự động phải chấp
nhận như một phần không thể thiếu trong cam kết của họ, ví dụ, bảo hành hiệu suất
được chỉ định, bảo trì theo thỏa thuận hoặc nghĩa vụ dịch vụ. Người mua phải xem xét
các yếu tố bên ngoài như sơ suất trong quá trình sản xuất hoặc thời tiết khắc nghiệt
trong quá trình vận chuyển có thể ảnh hưởng đến sản phẩm của họ như thế nào.
Những vấn đề này cũng có thể dẫn đến tranh chấp giữa các bên, ngay cả sau
khi hợp đồng được ký kết. Điều quan trọng đối với người bán là hợp đồng được diễn
đạt chính xác, sao cho mọi thay đổi có thể ảnh hưởng đến sản phẩm theo mặc định sẽ
bao gồm bồi thường hoặc thay đổi tương ứng trong các cam kết của người bán
III. Một số kiến nghị, giải pháp.
III.1. Các giải pháp phòng ngừa rủi ro trong hoạt động tài trợ thương mại quốc
tế
III.1.1. Nâng cao chất lượng công tác thẩm định và phân tích khách hàng
Thẩm định và phân tích khách hàng là khâu quan trọng nhằm đảm bảo hạn chế
rủi ro tài trợ thương mại quốc tế ở mức độ cao nhất. Quá trình thẩm định cần đáp ứng
được các yêu cầu về chất lượng và thời gian, đảm bảo sự cẩn trọng hợp lý trên cơ sở
phân tích tương quan giữa lợi nhuận và rủi ro cũng như đáp ứng những tiêu chuẩn
trong việc phục vụ khách hàng. Để làm được điều này, cán bộ thẩm định cần thực hiện
các nhiệm vụ sau:
Thực hiện phân tích và thẩm định chính xác rủi ro tổng thể của khách hàng
theo định kỳ 6 tháng hoặc 1 năm. Công việc này sẽ giúp cho ngân hàng có một cái
nhìn tổng quát về tình hình kinh doanh, chất lượng kinh doanh và khả năng thực hiện
các cam kết với ngân hàng của doanh nghiệp xin tài trợ.
Cần chú trọng đến công tác phân tích định lượng, lượng hóa mức độ rủi ro
đồng thời kết hợp với phân tích định tính (phân tích ngành kinh doanh của doanh
nghiệp, phân tích lịch sử tín dụng của doanh nghiệp…) để nhận ra những rủi ro tiềm
tàng và hạn chế những rủi ro đó.
Các cán bộ phụ trách thẩm định khách hàng trước khi tiến hành tài trợ thương
mại quốc tế cần thực hiện phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp dựa trên số
liệu của 3 loại báo cáo tài chính (Bảng cân đối kế toán, Báo cáo kết quả hoạt động
kinh doanh và Báo cáo lưu chuyển tiền tệ). Tất cả các chỉ tiêu này đều có ý nghĩa quan
trọng trong việc đánh giá khách hàng. Ví dụ, hệ số tổng nợ phải trả/vốn chủ sở hữu
của doanh nghiệp quá cao chứng tỏ doanh nghiệp đi vay mượn nhiều hơn số vốn hiện
có, nên doanh nghiệp có thể gặp rủi ro trong việc trả nợ. Ngược lại, nếu hệ số tổng
các khoản phải thu/tổng tài sản cao chứng tỏ doanh nghiệp bị chiếm dụng vốn lớn,
doanh nghiệp có ít “vị thế” trên thương trường. Như vậy, một khi doanh nghiệp không
thu được tiền từ bạn hàng, doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn trong việc trả nợ cho Ngân
hàng.
III.1.2. Xây dựng chiến lược khách hàng đúng đắn và có hiệu quả:
Chiến lược khách hàng phải được xây dựng trên cơ sở khoa học và hợp lý.
Ngân hàng cần dựa vào mức độ tín nhiệm của từng nhóm khách hàng để đưa ra những
chính sách thích hợp nhằm mở rộng hay hạn chế tài trợ đối với từng nhóm khách hàng
đó. Đối với hoạt động tài trợ thương mại quốc tế, công việc xây dựng chiến lược khách
hàng là tương đối khó khăn vì ngân hàng khó có thể nắm bắt đầy đủ thông tin từ phía
khách hàng là doanh nghiệp nước ngoài. Vì vậy, ngân hàng cần thiết lập một mạng
lưới thông tin với các ngân hàng nước ngoài, những ngân hàng đã từng có quan hệ tín
dụng hay tài trợ với khách hàng và các tổ chức của Việt Nam đặt tại nước ngoài để có
được các thông tin chính xác từ đó đưa ra những quyết định tài trợ đúng đắn.
Những doanh nghiệp có độ tín nhiệm cao cần phải thỏa mãn những yêu cầu sau:
- Doanh nghiệp có tình hình sản xuất kinh doanh tốt, mặt hàng, sản phẩm kinh
doanh được thị trường chấp nhận và có uy tín cao, kinh doanh có lãi.
- Doanh nghiệp có tình hình tài chính lành mạnh, đảm bảo khả năng thanh toán,
có uy tín trong thanh toán với khách hàng và ngân hàng.
- Doanh nghiệp chấp hành tốt pháp luật và các thể lệ của Ngân hàng, thường
xuyên có quan hệ với ngân hàng về tiền tệ, tài trợ thương mại quốc tế, thanh
toán, có lịch sử tín dụng tốt với ngân hàng.
- Trên cơ sở đánh giá mức độ tín nhiệm về khách hàng của mình, ngân hàng
phân loại khách hàng của mình, từ đó đưa ra chiến lược thích hợp với từng loại
từng loại khách hàng.
III.1.3. Tăng cường công tác thông tin phòng ngừa rủi ro:
Thông tin là điều kiện cơ bản nhất khi tiến hành thẩm định, quyết định tài trợ.
Chính vì vậy, thu thập, lựa chọn và xử lý thông tin, như thông tin về doanh nghiệp,
thông tin về thị trường giá cả... là rất cần thiết để phòng ngửa rủi ro trong tài trợ
thương mại quốc tế.
Để giải quyết vấn đề về thông tin, ngân hàng cần phải có kế hoạch cung cấp đầy
đủ kịp thời các thông tin về cơ chế chính sách của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước và
của các ngân hàng thương mại khác cho từng cán bộ tài trợ thương mại quốc tế.
Mỗi cán bộ tài trợ thương mại quốc tế được phân cấp quản lý từng đối tượng
khách hàng riêng. Sau mỗi kỳ tài trợ, cán bộ tài trợ thương mại quốc tế nên lập “sổ tay
kinh nghiệm” nói về những thành công và thất bại của bản thân và khách hàng trong
suốt quá trình thẩm định và thực hiện tài trợ thương mại quốc tế. Sau đó, ngân hàng có
thể tổ chức các buổi hội thảo, các buổi tổng kết và trao đổi kinh nghiệm giữa các cán
bộ tài trợ thương mại quốc tế đồng thời có thể lập “sổ kinh nghiệm chung” để tiện cho
việc tra cứu.
Ngân hàng cần tích cực mở rộng mối quan hệ với Hiệp hội Ngân hàng Việt
Nam, các Hiệp hội Ngân hàng nước ngoài và bản thân các ngân hàng nước ngoài để
cập nhật thông tin, học hỏi kinh nghiệm một cách kịp thời và nắm được thông tin về
khách hàng nước ngoài.
Hiện nay, chất lượng thông tin cũng là một vấn đề khó khăn lớn cho ngân hàng,
khi mà nhiều doanh nghiệp cung cấp các báo cáo tài chính có tình hình “lãi giả, lỗ
thật” nhằm xin được giãn nợ, gia hạn nợ vì những nguyên nhân “bất khả kháng". Ngân
hàng nên thận trọng xem xét vấn đề này, đặc biệt khi thấy nghi ngờ về các hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, ngân hàng có thể thuê các công ty Kiểm toán
xác nhận tính chân thực, hợp lý của các báo cáo tài chính mà doanh nghiệp nộp.
III.1.4. Tăng cường kiểm tra, giám sát trong quá trình khách hàng sử dụng vốn đối
với hình thức cho vay tài trợ xuất nhập khẩu
Sau khi quyết định tài trợ, thực hiện giải ngân vốn vay tài trợ, Ngân hàng cần
liên tục kiểm tra và giám sát khách hàng vay để có thể thu hồi vốn vay đúng thời hạn.
Các biện pháp là:
- Cán bộ tài trợ thương mại quốc tế phải định kỳ đến tận đơn vị vay vốn trong
trường hợp đó là doanh nghiệp ở Việt Nam hoặc liên hệ với các chi nhánh của
ngân hàng ở nước ngoài nếu doanh nghiệp vay vốn là doanh nghiệp nước ngoài
để kiểm tra mục đích sử dụng vốn vay xem có đúng cam kết không bằng cách
yêu cầu khách hàng trình lên các văn bản, chứng từ chứng nhận đã sử dụng đầy
đủ vốn, đúng tiến độ vào các dự án đã được thẩm định.
- Ngân hàng yêu cầu doanh nghiệp phải nộp báo cáo tài chính định kỳ hàng
tháng, cuối quý, cuối năm.
- Trong thời hạn tài trợ, ngân hàng phải luôn theo dõi tình hình biến động giá cả
thị trường tài sản đảm bảo, khi giá trị này giảm xuống Ngân hàng cần yêu cầu
khách hàng tăng tài sản bảo đảm.
- Trong trường hợp khách hàng vay vốn gặp khó khăn trong sản xuất kinh
doanh, cán bộ tài trợ thương mại quốc tế có thể là chuyên gia tư vấn miễn phí
trong việc giúp doanh nghiệp khắc phục khó khăn trở lại sản xuất kinh doanh
ổn định.
III.1.5. Thực hiện phân tán rủi ro và đảm bảo tài trợ thương mại quốc tế:
Ngoài việc thực hiện đúng các qui định về phòng ngừa rủi ro theo qui định của
pháp luật, VCB nên thực hiện biện pháp phân tán rủi ro bằng cách đa dạng hoá các
hình thức tài trợ.
Ngân hàng nên mở rộng tham gia tài trợ hợp vốn với các ngân hàng thương mại
khác, tài trợ thông qua chiết khấu các giấy tờ có giá, môi giới và đầu tư vào thị trường
chứng khoán... Ngoài ra, trước khi quyết định tài trợ, nếu xét thấy cần thiết Ngân hàng
nên yêu cầu khách hàng phải mua bảo hiểm cho tài sản bảo đảm, đặc biệt đối với
những tài sản có mức độ rủi ro cao, giá thị trường biến động thất thường.
III.1.6. Nâng cao trình độ của cán bộ tài trợ thương mại quốc tế:
Phẩm chất, năng lực và trình độ của cán bộ tài trợ thương mại quốc tế có ảnh
hưởng lớn đến chất lượng tài trợ thương mại quốc tế, bởi hơn ai hết, cán bộ tài trợ
thương mại quốc tế là người trực tiếp quan hệ với khách hàng. Vì vậy, đào tạo phẩm
chất, phát triển năng lực và nâng cao trình độ chuyên môn của cán bộ là vô cùng cần
thiết. Để việc đào tạo cán bộ có hiệu quả, Ngân hàng cần thực hiện giải quyết những
vấn đề sau:
- Thường xuyên tổ chức các lớp bồi dưỡng, đào tạo và nâng cao trình độ của cán
bộ, đảm bảo ngày càng tăng cường kiến thức về kinh tế thị trường, nghiệp vụ
Ngân hàng hiện đại đặc biệt là những kiến thức chuyên môn về tài trợ thương
mại quốc tế.
- Tăng cường công tác tuyên truyền giáo dục chính trị, tư tưởng tác phong làm
việc cho cán bộ để chống lại các rủi ro đạo đức trong hoạt động tài trợ thương
mại quốc tế.
- Có chính sách sử dụng cán bộ hợp lý, từng bước tiêu chuẩn hoá cán bộ, thực
hiện chuyên môn hoá trong việc sử dụng cán bộ.
- Xây dựng chế độ khen thưởng, thực hiện khuyến khích về cả vật chất lẫn tinh
thần để cán bộ hết lòng với công việc.
- Cán bộ tài trợ thương mại quốc tế phải tạo được mối quan hệ phối hợp, hỗ trợ
và đồng trách nhiệm với cấp uỷ và chính quyền địa phương trên địa bàn hoạt
động, có như vậy việc tài trợ và xử lý các hậu quả khi rủi ro xảy ra mới thuận
tiện, nhanh chóng và hiệu quả.
III.2. Các giải pháp nhằm hạn chế rủi ro trong hoạt động tài trợ thương mại
quốc tế
III.2.1. Tăng cường chất lượng công tác xử lý rủi ro:
Rủi ro xảy ra là điều không ai mong muốn nhưng một khi rủi ro đã xảy ra, thì
nhiệm vụ của Ngân hàng là cần có những biện pháp hợp lý nhằm xử lý rủi ro một cách
hiệu quả nhất.
• Tuyên bố đến hạn đối với các khoản tín dụng thương mại quốc tế bị rủi
ro
Khi Ngân hàng chứng minh được khoản tài trợ thương mại quốc tế có rủi ro, thì Ngân
hàng có quyền tuyên bố khoản tài trợ đó đã đến hạn thanh toán trước thời hạn thoả
thuận ban đầu. Đây là biện pháp có thể giúp Ngân hàng được quyền đòi nợ sớm hơn,
qua đó bảo vệ được vốn Ngân hàng, tránh được những thiệt hại, tổn thất to lớn về sau.
Đối với những khách hàng có ý thức để hoàn trả nợ vay nhưng bị gặp khó khăn
tạm thời hoặc bất thường về mặt tài chính, cán bộ tài trợ thương mại quốc tế nên phân
tích hay nhờ tư vấn để đánh giá triển vọng kinh doanh của khách hàng. Nếu thấy có
triển vọng, ngân hàng có thể điều chỉnh lại kỳ hạn trả nợ, giãn nợ, khoanh nợ, thậm
chí có thể cho khách hàng chuyển số nợ cũ thành số nợ mới để giảm gánh nặng tài
chính cho doanh nghiệp.
•
Tổ chức khai thác đối với những tài sản đảm bảo: Khi khách hàng chắc
chắn không trả được nợ, Ngân hàng phải tiến hành tịch biên tài sản bảo
đảm và tiến hành khai thác tài sản này.
•
Tổ chức thanh lý:
Sau khi tiến hành các biện pháp khai thác để thu hồi nợ không thành, ngân
hàng cần tiến hành các biện pháp như: Thanh lý tài sản bảo đảm, xoá nợ nếu tiềm lực
tài chính của ngân hàng mạnh. Ngân hàng có thể sử dụng các biện pháp sau để thanh
lý các món nợ khó đòi:
- Ngân hàng đề nghị khách hàng cùng hợp tác với mình trong việc bán tài sản
thế chấp.
- Ngân hàng tiến hành bán tài sản xiết nợ theo giá thị trường.
- Ngân hàng tổ chức bán đấu giá tài sản xiết nợ hoặc uỷ quyền cho Trung tâm
bán đấu giá thực hiện.
- Ngân hàng có thể tiếp tục duy trì cho thuê tài sản bảo đảm.
- Ngân hàng có thể yêu cầu người bảo lãnh trả nợ thay khách hàng vay vốn.
- Nếu bảo đảm tài trợ thương mại quốc tế thực hiện bằng chuyển nhượng nợ thì
Ngân hàng gửi thông báo chuyển nhượng nợ cho con nợ thứ ba yêu cầu họ trả
nợ cho Ngân hàng khi khoản tài trợ bị rủi ro.
Nếu các biện pháp trên không mang lại kết quả thì Ngân hàng phải:
- Đề nghị toà án cho phép Ngân hàng sử dụng tài sản của người vay để gán nợ.
- Đề nghị toà án tuyên bố phá sản doanh nghiệp đã vay vốn Ngân hàng, để thanh
lý tài sản của doanh nghiệp nhằm thu nợ.
- Đề nghị cơ quan luật pháp điều tra làm rõ và đưa ra truy tố đối với những
khách hàng vay vốn Ngân hàng có hành vi lừa đảo làm ăn gian lận, phi pháp.
III.2.2. Sử dụng các công cụ bảo hiểm và bảo đảm
Rủi ro là những biến cố không thể lường trước được do vậy việc sử dụng các
công cụ bảo đảm và bảo hiểm để hạn chế tổn thất khi rủi ro xảy ra là điều cực kỳ quan
trọng. Một số giải pháp cần được thực hiện là:
Yêu cầu khách hàng mua bảo hiểm đối với hàng hóa. Trên thực tế, nhờ áp dụng
loại bảo hiểm này mà những tổn thất do những nhân tố ghi trong điều kiện bảo hiểm
gây ra đã được cơ quan bảo hiểm thanh toán, giảm thiểu đáng kể những tổn thất.
Hiện nay, đa phần khách hàng khi muốn được vay vốn tài trợ XNK hay bảo
lãnh đều phải có tài sản bảo đảm. Đây là nguồn thu nợ chủ yếu khi có rủi ro xảy ra.
Tuy nhiên, vấn đề hiện nay là một số tài sản bảo đảm không có chứng nhận về quyền
sở hữu khiến cho việc bán lại những tài sản này rất khó khăn. Do đó ngân hàng nên
yêu cầu khách hàng cung cấp đầy đủ bằng chứng pháp lý về quyền sở hữu đối với tài
sản hoặc quyền sử dụng đối với bất động sản để tránh gặp phải rắc rối với cơ quan
pháp luật khi tiến hành phát mại những tài sản đó.
III.3. Một số kiến nghị với các bên có liên quan
III.3.1. Những kiến nghị với Chính phủ và các ngành:
•
Đối với chính phủ:
Tạo môi trường kinh tế ổn định: Nhà nước cần đưa ra các biện pháp ổn định
nền kinh tế vĩ mô, ổn định sức mua của đồng tiền, ngăn chặn lạm phát và suy thoái
nhằm giảm rủi ro cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu và ngân hàng.
Duy trì chính sách tỷ giá hối đoái thả nổi có sự điều tiết của nhà nước nhằm
giúp các doanh nghiệp và ngân hàng hạn chế các rủi ro phát sinh khi tỷ giá hối đoái
biến động.
Chính phủ cần có những biện pháp kiểm soát tình hình hàng hoá nhập lậu đang
tràn qua đường biên giới gây ảnh hưởng tiêu cực đến hàng nhập khẩu có nguồn gốc
xuất xứ rõ ràng.
Chính phủ cần tiếp tục đẩy mạnh việc thực thi chính sách “đơn giản hoá” thủ
tục hành chính trên cơ sở những nội dụng chính: Thứ nhất là loại bỏ những thủ tục
không cần thiết; Thứ hai là đơn giản hóa các bước trong quy trình thủ tục; Thứ 3 là
đơn giản hóa thủ tục để làm cơ sở ứng dụng CNTT; Thứ 4 là minh bạch hóa thủ tục để
giúp các doanh nghiệp có thể thực hiện nhanh chóng, tránh tình trạng sự chậm trễ
trong thủ tục hành chính làm ảnh hưởng đến cơ hội kinh doanh của doanh nghiệp.
Thành lập Công ty quản lý tài sản thế chấp của Chính phủ: Việc làm này nhằm
xử lý được tài sản thế chấp còn tồn đọng, qua đó giữ sự ổn định kinh tế xã hội, phòng
chống ảnh hưởng của khủng hoảng.
Thành lập các tổ chức xếp hạng có uy tín để phân loại doanh nghiệp theo mức
độ tín nhiệm, giúp đỡ các ngân hàng trong khâu thẩm định.
- Đối với ngành công an: Tăng cường mối quan hệ phối hợp giữa ngành công an
với các Ngân hàng trong việc trao đổi thông tin về tình hình tội phạm và các
thủ đoạn lừa đảo, tham ô, cố ý làm trái v.v… nhằm giúp ngân hàng chủ động
có biện pháp phối hợp ngăn chặn.
- Đối với cơ quan công chứng: Nhà nước cần xem xét lại cách thức hoạt động
của các cơ quan công chứng trong việc xác định tài sản thế chấp vay vốn Ngân
hàng, không thể để cơ quan công chứng đứng ngoài cuộc không gánh chịu
trách nhiệm do việc công chứng của họ gây ra hậu quả cho ngân hàng.
- Đối với toà án: Tòa án cần đẩy nhanh tiến độ xét xử các vụ việc liên quan đến
hoạt động ngân hàng, tránh kéo dài gây đọng vốn cho ngân hàng.
III.3.2. Những kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước:
•
Nâng cao chất lượng của trung tâm thông tín dụng (CIC):
Hiện nay, trung tâm thông tin tín dụng (CIC) trực thuộc Ngân hàng nhà nước là
tổ chức cung cấp thông tin tín dụng và xếp hạng doanh nghiệp duy nhất tại Việt Nam.
Trong thời gian qua, hoạt động của CIC đã đạt được những kết quả bước đầu rất đáng
khích lệ trong việc cung cấp thông tin kịp thời cho hệ thống ngân hàng về tình hình tài
chính của các doanh nghiệp nhưng CIC vẫn chưa phải là cơ quan định mức tín nhiệm
doanh nghiệp một cách độc lập và hiệu quả. Thông tin do CIC cung cấp còn đơn điệu,
thiếu cập nhật, việc xếp hạng doanh nghiệp chỉ chủ yếu dựa trên các chỉ số tài chính
chứ chưa chú trọng đến các yếu tố phi tài chính. Do đó, việc nâng cao chất lượng của
trung tâm thông tin tín dụng (CIC) để trung tâm này thực sự là cơ quan cung cấp
thông tin kịp thời và chính xác giúp các ngân hàng tránh được các rủi ro đáng tiếc
trong quá trình hoạt động kinh doanh là vô cùng cấp thiết.
•
Rà soát văn bản và ban hàng các văn bản pháp quy hướng dẫn kịp thời:
Ngân hàng Nhà nước cần tiến hành tổng rà soát tất cả các văn bản pháp quy
liên quan đến hoạt động của ngành ngân hàng, qua đó phát hiện các văn bản dưới Luật
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Luật các tổ chức tín dụng, nếu cản trở cho quá
trình hoạt động kinh doanh tiền tệ của ngành ngân hàng thì tham mưu cho Chính phủ
và các cơ quan chức năng kiên quyết huỷ bỏ hoặc sửa đổi bổ sung cho phù hợp với
tình hình hiện nay, tạo điều kiện cho các Ngân hàng Thương mại hoạt động theo đúng
quy định của pháp luật, tránh tình trạng chồng chéo, trùng lặp của các văn bản pháp
quy được ban hành trước khi có Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Luật các tổ
chức tín dụng. Bên cạnh đó, NHNN Việt Nam cũng phải sớm ban hành các văn bản
(thông tư) hướng dẫn các Nghị định của Chính phủ một cách cụ thể và kịp thời để các
ngân hàng thương mại có cơ sở pháp lý để thực hiện theo đúng luật pháp của Nhà
nước.
•
Củng cố và hoàn thiện cơ chế hoạt động của thanh tra:
Ngân hàng Nhà nước cần tăng cường củng cố và nâng cao chất lượng của đội
ngũ thanh tra Ngân hàng Nhà nước, ngoài ra phải cải tiến nội dung phương pháp
thanh tra, kiểm tra tăng cường mối quan hệ phối hợp với các cơ quan bảo vệ pháp luật,
nhất là với cảnh sát kinh tế, cảnh sát điều tra nhằm xử lý nghiêm minh những sai
phạm đã phát hiện qua thanh tra một cách có hiệu quả, nêu gương cho những người
khác.
•
Đánh giá chính xác thực trạng nợ đọng tại các ngân hàng thương mại:
Về vấn đề xử lý nợ quá hạn, nợ khó đòi thì Ngân hàng Nhà nước phải có đánh
giá chính xác nợ đọng tại các ngân hàng Thương mại. Bên cạnh đó phải xem lại số nợ
quá hạn đã cho khoanh hoặc tạm khoanh để xử lý và tạo nguồn để xoá số nợ này nhằm
từng bước lành mạnh hoá hoạt động của các ngân hàng thương mại trong tình hình
hiện nay.
• Tăng cường công tác đánh giá mức độ an toàn đối với hệ thống ngân hàng theo
các chỉ tiêu mà thế giới đang sử dụng như hệ thống đánh giá CAMELS (C:
Capital, A: Assets, M: Management, E: Earnings, L: Liquidity, S: Sensitivity)
• Tiếp tục phát huy vai trò của hiệp hội ngân hàng nhằm bảo vệ lợi ích và công
bằng giữa các thành viên trong việc đối thoại với chính phủ, trong vận động
hành lang ở các cuộc đàm phán quốc tế và trong việc chia sẽ thông tin giữa các
thành viên.
III.4. Những kiến nghị với các Ngân hàng:
Yêu cầu các cán bộ chấp hành một cách nghiêm túc các thể lệ, chế độ tài trợ
thương mại hiện hành: Biện pháp quan trọng nhất để phòng tránh rủi ro trong hoạt
động kinh doanh tài trợ thương mại là mọi cán bộ tài trợ thương mại và cán bộ có liên
quan phải thực hiện nghiêm túc và đầy đủ các quy chế hiện hành của Thống đốc Ngân
hàng Nhà nước và các văn bản hướng dẫn, chỉ đạo về tín dụng nói chung, các loại
hình tài trợ thương mại nói riêng và đảm bảo an toàn về tài trợ thương mại. Mọi khoản
tài trợ phải thực hiện đúng quy trình nghiệp vụ, tiến hành thẩm định, kiểm tra, xác
định đúng tư cách pháp nhân của người vay, tính khả thi của phương án sản xuất kinh
doanh và giá trị của các tài sản cầm cố, thế chấp thuộc sở hữu của họ.
Chú trọng đến công tác tuyển chọn cán bộ phụ trách tài trợ thương mại: Do
tính đặc thù của hoạt động kinh doanh tài trợ thương mại là giao lưu rộng với nhiều
doanh nghiệp, nhiều thành phần kinh tế, đồng thời cán bộ tài trợ thương mại luôn luôn
phải đi lưu động nắm bắt thị trường kinh tế, tình hình sản xuất kinh doanh của các
doanh nghiệp có quan hệ tài trợ thương mại với ngân hàng nên việc lựa chọn cán bộ
để tiến hành các nghiệp vụ tài trợ thương mại quốc tế là hết sức quan trọng. Vì vậy,
khi lựa chọn cán bộ làm công tác tài trợ thương mại, các ngân hàng phải đưa ra các
tiêu chuẩn: “Cán bộ phải là người trung thực, có trình độ kiến thức hiểu biết kinh tế,
tài chính cần thiết và có thâm niên làm công tác nghiệp vụ ngân hàng”, hay nói cách
khác là cán bộ phải có đủ độ tin cậy.
Bên cạnh đó, Ngân hàng cũng phải thường xuyên quan tâm đến công tác đào
tạo, bồi dưỡng những kiến thức chung (kinh doanh xuất nhập khẩu, thị trường, pháp
luật ...) và kiến thức chuyên môn cho đội ngũ cán bộ tài trợ thương mại để họ bắt
kịp với nhịp độ phát triển và sự biến động của nền kinh tế thị trường.
- Cần có chính sách khách hàng hợp lý: Để hạn chế rủi ro, Ngân hàng cần tích
cực thực hiện linh hoạt các chính sách khách hàng, lựa chọn khách hàng để tài
trợ dựa trên độ tín nhiệm, cố gắng thiết lập được đội ngũ khách hàng ổn định,
thường xuyên, tin cậy, có tính chiến lược cao, tạo lợi thế cho Ngân hàng.
- Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát việc sử dụng vốn tài trợ đối với hình
thức cho vay tài trợ xuất nhập khẩu: Các ngân hàng cần phải mở sổ sách, theo
dõi khế ước vay nợ và thường xuyên kiểm tra, giám sát mọi hoạt động của
khách hàng để nắm vững tình hình của họ. Nếu phát hiện dấu hiệu khách hàng
gặp khó khăn về tài chính, hoạt động kinh doanh đình trệ hoặc vi phạm hợp
đồng tài trợ thương mại, ngân hàng cần ngay lập tức đưa ra các biện pháp ngăn
chặn rủi ro, tránh tình trạng khi rủi ro xảy ra rồi mới tìm cách khắc phục.
- Hoàn thiện mạng lưới thông tin khách hàng: Khách hàng của một ngân hàng
này, đồng thời cũng có thể là khách hàng của nhiều ngân hàng khác. Do vậy để
hiểu rõ hơn về khách hàng các ngân hàng thương mại cần có các bộ phận
chuyên trách nghiên cứu về rủi ro và phải thường xuyên phối hợp, liên lạc chặt
chẽ với các trung tâm thông tin tín dụng của Ngân hàng Nhà nước, qua đó sẽ
sớm phát hiện những khách hàng có dấu hiệu lừa đảo và sẽ đề ra các biện pháp
ngăn chặn kịp thời, góp phần hạn chế rủi ro trong kinh doanh tài trợ thương
mại.
- Phối hợp chặt chẽ với các cơ quan pháp luật: Các ngân hàng phải thường xuyên
phối hợp với các cơ quan pháp luật để phòng ngừa các hành vi vi phạm các quy
định quản lý, những hành vi phạm tội trong lĩnh vực tài chính ngân hàng. Việc
phối hợp đó phải tập trung vào một số nội dung chính sau:
+ Trao đổi thông tin để nhận biết các khách hàng có dấu hiệu lừa đảo
hoặc từng có tiền sử lừa đảo.
+ Trao đổi các biện pháp nghiệp vụ phòng ngừa tội phạm trong lĩnh vực
tài chính ngân hàng.
+ Phối hợp trong việc xử lý tài sản xiết nợ, tài sản thế chấp sau khi rủi ro
xảy ra.
+ Phối hợp trong việc thực hiện các biện pháp thu nợ với phương châm:
không hình sự hoá các quan hệ tài trợ thương mại quốc tế khi còn có khả năng
thu hồi vốn, phối hợp các biện pháp tận thu và biện pháp xử lý phù hợp khác
nhằm bảo vệ quyền lợi của ngân hàng và quyền lợi của cán bộ ngân hàng.
Nếu ngân hàng đã thu thập đầy đủ các căn cứ pháp lý thì cần có thái độ rõ
ràng và kiên quyết đối với những khách hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ
của mình đối với ngân hàng và pháp luật.
III.5. Những kiến nghị đối với các doanh nghiệp
Nâng cao năng lực các cán bộ kinh doanh xuất nhập khẩu: Các doanh nghiệp
phải tuyển chọn và đào tạo đội ngũ cán bộ có năng lực, thông thạo các nghiệp vụ kinh
doanh ngoại thương cũng như am hiểu về các dịch vụ tài trợ thương mại quốc tế. Sự
hiểu biết của họ cộng với những kinh nghiệm trong hoạt động thương mại quốc tế sẽ
giúp họ tránh được những rủi ro khi làm ăn với đối tác nước ngoài. Từ đó, có thể hạn
chế được các rủi ro đối với ngân hàng khi tiến hành tài trợ thương mại quốc tế.
Chủ động tăng cường phối hợp với ngân hàng: Nhiều doanh nghiệp XNK, nhất
là những doanh nghiệp mới thành lập bị hạn chế về các mối quan hệ, thiếu thông tin
về các đối tác, về thị trường cũng như kinh nghiệm tronghoạt động ngoại thương. Do
vậy, trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh khốc liệt, họ rất dễ gặp thất bại thậm chí
có thể phá sản. Vì vậy, các doanh nghiệp cần phải tăng cường phối hợp với ngân hàng
để tận dụng các mối quan hệ, nguồn thông tin của ngân hàng trong việc thẩm định tư
cách pháp nhân, khả năng tài chính cũng như khả năng thực hiện hợp đồng của đối tác
nước ngoài để tránh gặp phải những đối tượng lừa đảo.
KẾT LUẬN
Tài trợ thương mại quốc tế không chỉ là mảng hoạt động mang lại lợi ích to lớn
cho các ngân hàng thương mại mà hoạt động này còn tạo môi trường, điều kiện thuận
lợi cho sự phát triển của kinh tế thương mại nước ta.
Nhưng rủi ro trong hoạt động tài trợ thương mại quốc tế ngày càng trở thành mối
đe doạ lớn đối với các ngân hàng. Chính vì vậy, dựa trên những cơ sở lý luận về hoạt
động tài trợ thương mại quốc tế, bài tiểu luận tập trung nghiên cứu, phân tích các loại
rủi ro chính bao gôm rủi ro vĩ mô, rủi ro vi mô và rủi ro hàng hoá, các loại rủi ro này
đến từ cả hai phía ngân hàng và bên xin tài trợ. Tìm hiểu, định hướng các biện pháp
hạn chế rủi ro này như nâng cao chất lượng công tác thẩm định, xây dựng chiến lược
khách hàng đúng đắn, tăng cường công tác kiểm tra và kiểm soát sau tài trợ,…,trên cơ
sở định hướng của ngân hàng về hoạt động tài trợ thương mại quốc tế trong thời gian
tới, những biện pháp nhằm phòng ngừa và hạn chế những rủi ro trong hoạt động tài
trợ là rất cần thiết để nâng cao chất lượng và phát triển hoạt động tài trợ thương mại
quốc tế nhằm đem lại nguồn lợi nhuận lớn cho các ngân hàng thương mại Việt Nam,
giúp phát triển và nắm vững thị trường trong nước trong bối cảnh hội nhập.
Tuy nhiên, do phạm vi nghiên cứu tương đối rộng nên đề tài không tránh khỏi
những thiếu sót, hạn chế; kính mong thầy cô góp ý để bài luận được hoàn chỉnh hơn.