Tải bản đầy đủ (.pdf) (22 trang)

Tóm tắt Luận án tiến sĩ: Dạy thuyết trình cho hướng dẫn viên du lịch tiếng pháp theo phương pháp tiếp cận bằng loại hình diễn ngôn loại hình diễn ngôn và thông qua các tình huống vấn đề

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (382.37 KB, 22 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG GIÁO LOUVAIN
----------***----------

Tóm tắt luận án tiến sĩ
DẠY THUYẾT TRÌNH CHO HƯỚNG DẪN VIÊN DU LỊCH TIẾNG
PHÁP THEO PHƯƠNG PHÁP TIẾP CẬN BẰNG LOẠI HÌNH DIỄN
NGÔN LOẠI HÌNH DIỄN NGÔN VÀ THÔNG QUA CÁC TÌNH
HUỐNG –VẤN ĐỀ
ENSEIGNEMENT DE L’EXPOSÉ ORAL DU GUIDE TOURISTIQUE
VIETNAMIEN FRANCOPHONE COMME GENRE DISCURSIF ET
PAR LES SITUATIONS-PROBLÈMES
Nghiên cứu sinh : ĐỖ QUỲNH HƯƠNG
Hướng dẫn khoa học : TS. NGUYỄN THỊ CÚC PHƯƠNG
Đồng hướng dẫn : GS. SILVIA LUCCHINI & GS. MARCEL LEBRUN (Đại học
Công giáo Louvain, Vương quốc Bỉ)
Phản biện thứ nhất : GS. JEAN-FRANÇOIS BOURDET
Phản biện thứ hai : GS. THOMAS FRANÇOIS
Phản biện thứ ba : PGS. ĐƯỜNG CÔNG MINH
Chuyên ngành : Ngôn ngữ Pháp

Mã ngành : 62220203

Hà Nội, 2/2019


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Được đào tạo theo chuyên ngành Sư phạm tiếng Pháp và Ứng dụng công nghệ
thông tin trong giảng dạy và đào tạo ở bậc cử nhân và thạc sĩ, ban đầu chúng tôi dự định
thiết kế các mô đun dạy tiếng Pháp dưới dạng tình huống – vấn đề có sử dụng công


nghệ thông tin. Thế nhưng sau đó, chúng tôi đã thay đổi đề tài nghiên cứu của mình
sang lĩnh vực giảng dạy tiếng Pháp phục vụ các mục đích chuyên biệt (FOS), cụ thể là
giảng dạy thuyết trình cho hướng dẫn viên du lịch (sau đây gọi tắt là HDV) tiếng Pháp
tương lai. Sự thay đổi này bắt nguồn từ nhu cầu thực tế của cơ sở đào tạo nơi chúng tôi
làm việc : khoa tiếng Pháp trường Đại học Hà Nội dự định mở định hướng Du lịch cho
ngành cử nhân Ngôn ngữ Pháp. Cùng với các giảng viên khác của Khoa, chúng tôi được
huy động vào việc xây dựng chương trình và học liệu cho một số môn chuyên ngành du
lịch giảng dạy băng tiếng Pháp. Từ đó, chúng tôi đã quyết định lồng ghép đề tài nghiên
cứu này vào việc xây dựng chương trình và học liệu môn « Giao tiếp du lịch, định hướng
nghề hướng dẫn viên du lịch »
Lựa chọn dạy thuyết trình cho HDV du lịch đã đưa chúng tôi đến một lĩnh vực
nghiên cứu hoàn toàn mới : phân tích diễn ngôn. Các tài liệu nghiên cứu trong lĩnh vực
xây dựng giáo trình tiếng Pháp phục vụ các mục đích chuyên biệt đã chỉ ra rằng phân
tích diễn ngôn là một bước tất yếu của việc biên soạn chương trình và giáo trình các
môn ngoại ngữ chuyên ngành. Và từ đó, cấu trúc luận án của chúng tôi được hình thành
ngày càng rõ nét.

2. Câu hỏi, giả thuyết và mục đích nghiên cứu
Chính trong bối cảnh vừa mang tính chất cá nhân, nghề nghiệp và học thuật này mà
luận án tiến sĩ của chúng tôi đã ra đời. Xuất phát điểm của luận án là một câu hỏi mang
tính thực tế : dạy thuyết trình cho HDV tiếng Pháp tương lai thế nào ? Tra cứu các tài
liệu chuyên ngành và nghiên cứu thực địa đã gợi cho chúng tôi những giả thuyết nghiên
cứu sau :
-

-

-

Việc xây dựng chương trình và thiết kế học liệu của khóa học này phải dựa

vào kết quả phân tích diễn ngôn của thể loại đích : các bài thuyết trình của
HDV Việt Nam nói tiếng Pháp ;
Sử dụng phương pháp tình huống – vấn đề có thể góp phần nâng cao chất lượng
giảng dạy của khóa học ;
Từ đó, chúng tôi xác định các mục đích chính của nghiên cứu, bao gồm :
Phân tích các bài thuyết trình của HDV Việt Nam nói tiếng Pháp theo thể loại
diễn ngôn ;
1


-

Đề xuất một khóa học dạy thuyết trình có sử dụng phương pháp tình huống –
vấn đề trong đào tạo hướng nghiệp HDV du lịch tiếng Pháp

3. Bố cục của luận án
Luận án gồm ba phần lớn : cơ sở lý thuyết và bối cảnh nghiên cứu, phân tích
diễn ngôn các bài thuyết trình của HDV Việt Nam nói tiếng Pháp và khóa học thyết
trình trong đào tạo hướng nghiệp HDV tiếng Pháp.
Trong phần thứ nhất, chương 1 giới thiệu thực trạng đào tạo HDV tiếng Pháp
tại Việt Nam. Chúng tôi phân tích nhu cầu đào tạo và các nét chính trong chương trình
đào tạo nghề và ngôn ngữ dành cho các HDV du lịch tương lai. Chương 2 giới thiệu bối
cảnh của nghiên cứu : đổi mới các đào tạo đại học tại Việt Nam theo xu hướng đào tạo
hướng nghiệp, việc mở các ngành đào tạo mới giảng dạy bằng ngoại ngữ tại trường Đại
học Hà Nội và cuối cùng là việc triển khai định hướng du lịch cho ngành cử nhân Ngôn
ngữ Pháp tại khoa tiếng Pháp của Trường. Trong phần cơ sở lý thuyết, trước tiên, chúng
tôi xác định lĩnh vực nghiên cứu của đề tài, sau đó làm rõ một số khái niệm lý thuyết
quan trọng đối với đề tài nghiên cứu, xung quanh hai chủ đề lớn là phân tích diễn ngôn
và phương pháp tình huống – vấn đề.
Phần thứ hai củaluận án báo cáo kết quả mảng thứ nhất của đề tài nghiên cứu :

phân tích diễn ngôn các bài thuyết trình của HDV Việt Nam nói tiếng Pháp. Trong
chương đầu của phần này, chúng tôi giới thiệu phương pháp phân tích, các chương 7 và
8 dành cho các nghiên cứu về đặc tính về mặt diễn ngôn của thể loại này, các cách chuẩn
bị và trình bày các bài thuyết trình và các đặc tính ngôn ngữ phổ biến trong các bài
thuyết trình của HDV du lịch Việt Nam nói tiếng Pháp.
Phần thứ ba của luận án tổng hợp kết quả của mảng thứ hai của đề tài nghiên
cứu, tức khóa học thuyết trình cho HDV, bao gồm : thiết kế một mô đun dạy thuyết
trình theo phương pháp tình huống-vấn đề, giảng dạy thử nghiệm và phân tích kết quả
của thử nghiệm, nhằm nâng cao chất lượng giáo trình trong tương lai. Phần phương
pháp thiết kế và thử nghiệm giáo trình này sẽ được trình bày trong chương 9.
Cuối cùng, trong phần kết luận, chúng tôi sẽ tóm lược những đóng
góp của luận án cũng như các đường hướng nghiên cứu trong tương lai.

2


PHẦN MỘT : BỐI CẢNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ THUYẾT
Chương 1. Đào tạo hướng dẫn viên du lịch nói tiếng Pháp tại Việt Nam
Từ khi mở cửa ra thế giới, số lượng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam không
ngừng tăng lên, đạt 10 triệu lượt khách trong năm 2016 và 10,9 triệu trong năm 2017.
Trong hoàn cảnh này, một thị trường các dịch vụ đón khách nước ngoài tại Việt Nam
đã được hình thành, bao gồm các công ty du lịch thiết kế tour trực tiếp theo đơn đặt
hàng của khách lẻ (B2C) hay các công ty tổ chức việc đón tiếp khách, làm đại lý cho
các công ty lữ hành chuyên gom khách đoàn có trụ sở tại nước sở tại của khách (B2B).
Bối cảnh này cũng tạo điều kiện cho du lịch Pháp ngữ tại Việt Nam phát triển
mạnh. Hàng năm chúng ta đón khoảng 300 000 lượt khách nói tiếng Pháp, tuy nhiên số
lượng HDV quốc tế ngôn ngữ Pháp (có thẻ) hiện chỉ có 1 330 người. Trên thực tế, số
lượng này chắc còn ít hơn do nhiều HDV có thẻ mà không hành nghề.
Theo quy định, để có thể nộp hồ sơ xin cấp giấy phép hành nghề (thẻ hướng
dẫn viên), các ứng viên phải có trình độ tiếng Pháp bậc đại học, hoặc bằng DELF trình

độ B2. Trên thực tế, đa phần các HDV đều tốt nghiệp các khoa tiếng Pháp của các
trường đại học, vì vậy về cơ bản họ có trình độ tiếng Pháp tốt. Những năm gần đây,
môn Tiếng Pháp du lịch đã được đưa vào chương trình đào tạo, những chỉ cung cấp cho
các HDV tương lai những khái niệm cơ bản của ngành du lịch, mà không đi xa hơn
trong các tình huống giao tiếp tiêu biểu của nghề HDV du lịch Pháp ngữ.
Để có thể hành nghề HDV quốc tế nói tiếng Pháp, sinh viên tốt nghiệp ngành
tiếng Pháp của các trường đại học phải tham gia một khóa học, lấy chứng chỉ HDV bằng
tiếng Việt. Khóa học này cung cấp cho ho những kiến thức cơ bản (lịch sử, địa lý…) và
chuyên ngành (kinh tế du lịch, tâm lý khách hàng, nghiệp vụ hướng dẫn…) Các học
viên củng được học cách thuyết trình, nhưng môn này chỉ chiểm một phần rất nhỏ trong
chương trình.
Tóm lại, nhu cầu về HDV du lịch nói tiếng Pháp là có thực, tuy nhiên quá trình
đào tạo còn một số bất cập, và không có một chuyên ngành đào tạo hướng nghiệp nào
dành riêng cho họ. Các HDV tiếng Pháp mới vào nghề đủ trình độ tiếng Pháp để thực
hiện các tình huống giao tiếp cơ bản với khách, nhưng gặp nhiều khó khăn trong việc
chuẩn bị và thực hiện các bài thuyết trình bằng tiếng Pháp, do chưa từng học kỹ năng
này trên ghế nhà trường.

Chương 2 : Bối cảnh của cơ sở đào tạo nơi thực hiện đề tài nghiên cứu
Được thành lập năm 1967, khoa tiếng Pháp trường Đại học Hà Nội vốn có
truyền thống đào tạo cử nhân tiếng Pháp, định hướng biên phiên dịch. Những năm gần
đây, Khoa cố gắng đa dạng hóa các ngành đào tạo theo xu hướng chung của các khoa
tiếng nước ngoài trong trường. Sự chuyển mình mạnh mẽ này được thể hiện bằng việc
3


mở ngành đào tạo mới - Truyền thông doanh nghiệp bằng tiếng Pháp – và đào tạo cử
nhân Ngôn ngữ Pháp đinh hướng nghề : Biên Phiên dịch và Du lịch. Lý do lựa chọn
định hướng du lịch chủ yếu do lĩnh vực này mang lại nhiều việc làm cho sinh viên tốt
nghiệp tại Khoa trong những năm gần đây.

Để chuẩn bị cho việc triển khai định hướng Du lịch, từ năm 2012, Khoa đã
thực hiện điều tra với một số chuyên gia ngành du lịch Pháp ngữ để liệt kê danh sách
các nghề có nhu cầu tuyển dụng cao trong lĩnh vực này. Từ đó, chúng tôi đã xác định
hai nghề cho định hướng Du lịch của chương trình cử nhân Ngôn ngữ Pháp : nhân viên
văn phòng du lịch và HDV du lịch. Đề tài nghiên cứu của chúng tôi đặc biệt có ý nghĩa
thực tiễn với chương trình đào tạo này : các môn chuyên ngành được dạy từ học kỳ 5
bao gồm 39 tín chỉ, trong đó có 3 tín chỉ dành cho môn « Giao tiếp du lịch định hướng
nghề hướng dẫn viên du lịch ». Mô đun dạy thuyết trình cho HDV du lịch tiếng Pháp sẽ
là nội dung chính của môn học này.

Chương 3. Xác định lĩnh vực nghiên cứu
Với mục đích giảng dạy thuyết trình theo loại hình diễn ngôn và thông qua các
tình huống – vấn đề, nghiên cứu của chúng tôi nằm giữa hai lĩnh vực lớn là phương
pháp giảng dạy tiếng Pháp như một ngoại ngữ và khoa học giáo dục.
Trong lĩnh vực phương pháp giảng dạy tiếng Pháp như một ngoại ngữ, đề tài
của chúng tôi thuộc về các nghiên cứu giảng dạy tiếng Pháp theo mục đích chuyên biệt
(FOS), trong đó đặc thù chính là việc thiết kế các khóa học dựa hoàn toàn trên nhu cầu
của người học : thu thập các tình huống giao tiếp đích và các loại hình diễn ngôn dạng
viết hay nói điển hình trong các tình huống đó, thu thập các dữ liệu ngôn ngữ thực tế
chọn lọc, xử lý và sử dụng làm học liệu. Cho dù khóa học mà chúng tôi thiết kế thuộc
về tiếng Pháp chuyên ngành du lịch thì các bước triển khai cũng thể hiện định hướng
nghề cụ thể (HDV du lịch tiếng Pháp) và khai thác một thể loại diễn ngôn cụ thể (thuyết
trình) trong các tình huống giao tiếp đặc thù của nghề này.
Chúng tôi cũng áp dụng xu hướng mới của lĩnh vực giảng dạy tiếng Pháp như
một ngoại ngữ, đó là tiếp cận qua hành động. Trong khóa học của chúng tôi, người học
- các HDV tương lai – được coi như những chủ thể xã hội, sử dụng tiếng Pháp trong các
hoạt động nghề nghiệp của họ, trong giao tiếp với người bản ngữ, chính là khách du lịch
Pháp ngữ. Họ sử dụng tiếng Pháp để thực hiện các nhiệm vụ nghề nghiệp cụ thể, trong
đó mỗi nhiệm vụ lại đòi hỏi ở HDV không chỉ những kỹ năng ngôn ngữ mà còn cả
những kỹ năng chung và nghề nghiệp. Mỗi hành động diễn ra trong một môi trường cụ

thể và thuộc về một trường hành động cụ thể, thuộc về lĩnh vực dịch vụ đón tiếp khách
du lịch quốc tế. Bối cảnh này đặt ra một số yêu cầu cụ thể dối với HDV, được chúng tôi
thể hiện trong các tình huống – vấn đề thiết kế trong giáo trình. Các hoạt động ngôn ngữ
của HDV vừa là hoạt động nhận thức và diễn đạt, thường là nghe hiểu và diễn đạt nói.
4


Để có thể thực hiện các nhiệm vụ của mình, HDV phải huy động các nguồn trí lực, các
công cụ và lực lượng trợ giúp cùng các chiến lược khác nhau. Đây là nội dung chính
của khoa học mà chúng tôi thiết kế.
Giảng dạy theo loại hình diễn ngôn cũng hoàn toàn phù hợp với xu hướng mới
của phương pháp giảng dạy tiếng Pháp như một ngoại ngữ theo Khung năng lực ngôn
ngữ châu Âu (CECR), trong đó trình độ kỹ năng giao tiếp trong ngoại ngữ tiếng Pháp
được xác định thông qua việc làm chủ các loại hình diễn ngôn của người học.
Trong khoa học giáo dục, nghiên cứu của chúng tôi thuộc về phương pháp dạy
nghề, bởi chúng tôi dạy một thể loại diễn ngôn (thuyết trình) của một nghề (HDV du
lịch tiếng Pháp tại Việt Nam) và phân tích cách chuẩn bị và trình bày thuyết trình thường
thấy của HDV Việt Nam nói tiếng Pháp cũng như đặc thù ngôn ngữ của thể loại này,
trên cơ sở đó xây dựng một khung năng lực nghề của HDV du lịch tiếng Pháp, phần kỹ
năng thuyết trình. Quá trình này dựa trên các lý thuyết về phương pháp giảng dạy nói
chung của ngành giáo dục học. Việc thiết kế khóa học có vận dụng các phương pháp
trong lĩnh vực công nghệ giáo dục, và việc ứng dụng các tình huống – vấn đề trong thiết
kế khóa học đi theo các trường phái kiến tạo xã hội (socioconstructive) và tương tác
(interactive) trong khoa học giáo dục.
Trong khi tìm hiểu các nghiên cứu cùng lĩnh vực, chúng tôi nhận thấy các
nghiên cứu về phân tích diễn ngôn trong lĩnh vực du lịch chủ yếu phân tích thể loại viết,
chỉ có một luận án tiến sĩ nghiên cứu các bài thuyết trình của HDV tại một nước châu
Phi, nhưng theo đường hướng so sánh với các đoạn có cùng chủ đề trong các sách cẩm
nang du lịch. Trong lĩnh vực thiết kế các khóa học tiếng Pháp du lịch cho người Việt
Nam, có vài nghiên cứu ở trình độ thạc sĩ, nhưng cũng chủ yếu khai thác các tài liệu

viết, và không dạy thử nghiệm trong hầu hết các trường hợp. Phương pháp tình huống
– vấn đề bắt nguồn từ thực tế giảng dạy các môn khoa học ở phổ thông và tiếng Pháp
như tiếng mẹ đẻ tại Pháp, sau này được phát triển trong giảng dạy đại học. Trong giáo
học pháp tiếng Pháp thường nói đến phương pháp tiếp cận theo nhiệm vụ, học bằng dự
án và các trò chơi giả tưởng mà không nói đến phương pháp tình huống – vấn đề.
Tóm lại, dù nghiên cứu của chúng tôi thuộc về lĩnh vực phương pháp giảng
dạy tiếng Pháp theo mục dích chuyên biệt (FOS), nhưng khi áp dụng phương pháp tình
huống- vấn đề, chúng tôi có sử dụng các nghiên cứu thuộc lĩnh vực công nghệ giáo dục,
và phương pháp tiếp cận của chúng tôi hoàn toàn phù hợp với đường hướng hành động,
vốn là xu thế hiện hành của giáo học pháp tiếng Pháp. Chúng tôi cũng sử dụng các khái
niệm của ngành giáo học pháp đại cương, và nghiên cứu của chúng tôi rất gần với các
nghiên cứu trong lĩnh vực phương pháp dạy nghề, chuyên ngành phân tích diễn ngôn
trong hoạt động nghề nghiệp. Trong số các nghiên cứu hướng tới xây dựng các khóa
học tiếng Pháp du lịch dựa trên phân tích diễn ngôn, luận án của chúng tôi là một trong
số ít ỏi những nghiên cứu phân tích diễn ngôn dạng nói và có thực hiện dạy thử nghiệm.
5


Chương 4 : Phân tích diễn ngôn trong giảng dạy ngoại ngữ
Có rất nhiều định nghĩa về diễn ngôn nhưng chúng tôi lựa chọn định nghĩa của
Mainguenau (Mainguenau & Charaudeau, 2002) : diễn ngôn là một tổ chức liên câu có
định hướng, thể hiện tác động qua lại và tuân theo những chuẩn mực, là một dạng hành
động có hoàn cảnh cụ thể, do một chủ thể chịu trách nhiệm và nằm trong một trường
diễn ngôn. Định nghĩa này cho phép chúng tôi xem xét các bài thuyết trình của HDV
Việt Nam nói tiếng Pháp - đối tượng nghiên cứu của đề tài – trong phần hai của nghiên
cứu này dưới nhiều góc độ khác nhau của diễn ngôn. .
Cũng giống như diễn ngôn, các định nghĩa về thể loại diễn ngôn có rất nhiều,
nhưng chúng tôi lựa chọn định nghĩa của Charaudeau (Mainguenau & Charaudeau,
2002), theo đó thể loại diễn ngôn được xác định bởi hoàn cảnh ra đời, tức « các yếu tố
tâm lý, xã hội kết hợp với các thành tố về tình huống và giao tiếp » (Charaudeau, 1995b).

Trong nghiên cứu này, chúng tôi lựa chọn lý thuyết về hợp đồng giao tiếp của
Charaudeau, bao gồm vị thế xã hội và bản sắc diễn ngôn của chủ thể phát ngôn, các yếu
tố liên quan đến nội dung phát ngôn và hoàn cảnh phát ngôn, các chiến thuật diễn ngôn
- để xác định các đặc điểm của các bài thuyết trình của HDV Việt Nam nói tiếng Pháp.
Các phân tích này được bổ sung với danh sách các phương thức chuẩn bị và trình bày
các bài thuyết trình phổ biến trong giới HDV Việt Nam nói tiếng Pháp. Phân tích cũng
đề cập đến những đặc tính của diễn ngôn dạng nói.
Giảng dạy theo thể loại được biết đến nhiều trong giảng dạy tiếng Pháp như
một ngoại ngữ, từ đường hướng giao tiếp trong giảng dạy ngoại ngữ những năm 70 đến
giai đoạn hậu Khung tham chiếu ngôn ngữ châu Âu trong những năm gần đây. Trong
chương chình giảng dạy tiếng Pháp phục vụ các môn học tại trường phổ thông tại các
nước dạy tiếng Pháp như một bản ngữ, phương pháp này cũng được đề cập đến nhiều,
nhất là từ phong trào cải cách chương trình từ những năm 2000. Khi xây dựng khóa học
thuyết trình cho HDV tương lai, chúng tôi đi theo xu hướng mới trong lĩnh vực giảng
dạy tiếng Pháp theo mục đích chuyên biệt, theo đó mục đích chính của việc dạy – học
ngoại ngữ chính là làm chủ các thể loại diễn ngôn, đồng thời khả năng hiểu và biểu đạt
các thể loại diễn ngôn đặc thù trong từng hoàn cảnh giao tiếp là một kỹ năng cơ bản
trong việc hòa nhập xã hội và trong công việc của người học. Quá trình thiết kế, thử
nghiệm và đánh giá khóa học dạy thuyết trình cho HDV của chúng tôi đi theo các bước
cơ bản được Bronckart & Dolz (1999) đề ra cho việc dạy ngôn ngữ thông qua thể loại.
Việc phân tích diễn ngôn của thể loại đích dựa trên lý thuyết hợp đồng giao tiếp của
Charaudeau và có nhiều điểm chung với mô hình Phân tích diễn ngôn trung gian
(Scollon, 2005). Chúng tôi vừa phân biệt diễn ngôn được mong chờ và diễn ngôn được
thực hiện trên thực tế, vừa chú ý đến hoạt động của chủ thể diễn ngôn trong quá trình
chuẩn bị và thực hiện diễn ngôn, xem xét các đặc điểm mang tính cá nhân của chủ thể
diễn ngôn khi phân tích các diễn ngôn cùng thể loại.
6


Chương 5 : Phương pháp tình huống – vấn đề và vị trí của phương pháp

này trong các chương trình đào tạo hướng nghiệp
Không chỉ là một khái niệm, tình huống – vấn đề còn là một tình huống sư
phạm, một phương pháp giảng dạy, một đường hướng trong khoa học giáo dục. Nó bao
hàm một triết lý, triết lý của sự ngạc nhiên và khai phóng, trong đó người học được đặt
trước những trở ngại, trong những tình huống phức tạp và gần với thực tiễn, phải huy
động nhiều chiến thuật tư duy để giải quyết các nhiệm vụ cụ thể, nhằm vượt qua các trở
ngại đồng thời đạt mục đích học tập và lĩnh hội các kỹ năng mà chương trình học hướng
tới. Trên con đường khám phá này, người học được chỉ dẫn theo một lộ trình chặt chẽ,
trong đó đan xen các xung đột xã hội – tri nhận, các đột phá về phương pháp tri nhận
và hướng dẫn của người dạy.
Dưới góc nhìn của người dạy, việc thiết kế các tình huống giảng dạy này phải
theo một quy trình chặt chẽ, đòi hỏi ở người thiết kế chương trình hoặc/và giáo viên
đứng lớp không chỉ có vốn kiến thức chuyên môn vững chắc, mà còn hiểu biết sâu sắc
tình trạng nhận thức của người học về nội dung học tập, điều chỉnh những nhận thức đó
nhằm đạt được mục đích học tập đề ra. Sự hiểu biết này cũng quyết định tình huống
được lựa chọn, độ khó và độ phức tạp của vấn đề, cách đặt vấn đề và phương thức tổ
chức các hoạt động học tập. Đánh giá quá trình giải quyết vấn đề là thời điểm vô cùng
quan trọng để nhấn mạnh tầm quan trọng không phải của đáp án đưa ra, mà là quá trình
giải quyết vấn đề và những thay đổi nhận thức của người học, chính là kết quả của việc
học.
Trong giáo học pháp đào tạo nghề, tình huống – vấn đề là phương pháp được
coi trọng trong các chương trình giảng dạy tại trường nghề, dựa trên việc phân tích các
hành vi nghề nghiệp phổ biến, với mục đích dạy một hoạt động nghề nghiệp nào đó.
Được đặt trong một tình huống nghề nghiệp nhất định, vấn đề được lựa chọn có thể
mang nặng tính lý thuyết hơn hay mang nặng tính thực hành hơn. Tuy nhiên, một giáo
trình dựa trên tình huống phải có bốn thuộc tính, bao gồm : tính tương tác giữa thao tác
của người học và « câu trả lời » của giáo trình, độ chân thực của các hành vi nghề nghiệp
phổ biến được đem ra giảng dạy, tính vấn đề và các tình huống lặp lại với độ khó tăng
dần trong tiến trình giảng dạy.
Trong giảng dạy đại học, giải quyết vấn đề vừa là chiến thuật giảng dạy, vừa

là mục đích cần theo đuổi, bởi quá trình giải quyết vấn đề kích hoạt nhiều chiến thuật
tư duy quan trọng. Nhiều phương pháp, trong đó nổi tiếng nhất là phương pháp nghiên
cứu trường hợp điển hình và phương pháp vấn đề, đã được đưa vào áp dụng từ những
năm đầu của thế kỷ 20 trong các trường đại học Mỹ và châu Âu. Nổi lên từ vài thập kỷ
gần đây, phương pháp tình huống – vấn đề chú trọng vào sự phát triển kỹ năng, và đây
chính là sự khác biệt của phương pháp này so với các phương pháp được áp dụng trước
đó. Những nghiên cứu gần đây về dạy – học trong tình huống thực đã cho thấy các đặc
tính của phương pháp tình huống – vấn đề trong các chương trình giảng dạy hướng nghề
tại bậc đại học.
7


PHẦN HAI : PHÂN TÍCH DIỄN NGÔN CÁC BÀI THUYẾT TRÌNH
CỦA HDV
Chương 6 : Phương pháp phân tích các bài thuyết trình của HDV
Khi phân tích các bài thuyết trình của HDV Việt Nam nói tiếng Pháp, chúng
tôi lựa chọn phương pháp mô tả, bao gồm hai bước : phân loại các cách ứng xử của
HDV khi thực hiện thuyết trình, phân tích và diễn giải các các ứng xử này thông qua
cái nhìn của HDV và các cách làm thường thấy của họ khi chuẩn bị và thực hiện các bài
thuyết trình. Chúng tôi chọn phương pháp quan sát có hệ thống một số mẫu của các bài
thuyết trình mà chúng tôi coi là tiêu biểu của thể loại này. Để phân tích chúng tôi lập
một bảng để ghi nhận các ứng xử có thể quan sát được của HDV trong các bài thuyết
trình, tương ứng với các đặc tính của các bài thuyết trình theo thuyết hợp đồng giao tiếp
của Charaudeau. Chúng tôi cũng thực hiện một phỏng vấn bán tự do với các HDV đã
giúp chúng tôi ghi âm các bài thuyết trình tại thực địa và hai cuộc phỏng vấn nhóm với
các khách du lịch là khách hàng của hai trong số các HDV nói trên. Các điều kiện phỏng
vấn cũng như thái độ trung gian của người thực hiện phỏng vấn góp phần làm giảm
thiểu các yếu tố có thể ảnh hưởng đến kết quả của điều tra. Trong phần tiếp theo, kết
quả cuối của phân tích diễn ngôn thể loại này là tổng hòa của phân tích các bài thuyết
trình và các câu trả lời phỏng vấn HDV. Các câu trả lời của khách du lịch mang đến một

cái nhìn khác, giúp chúng tôi có được một cái nhìn toàn diện về thể loại được đưa ra
phân tích.

Chương 7 : Phân tích diễn ngôn các bài thuyết trình của HDV Việt Nam
nói tiếng Pháp
Các bài thuyết trình của HDV Việt Nam nói tiếng Pháp là một thể loại diễn
ngôn riêng biệt, trong đó các đặc tính được hình thành trước hết bới vị thế xã hội của
HDV. HDV là một nghề được xã hội và các thể chế công nhận, bao hàm trong đó các
kiến thức và kỹ năng mà một HDV phải biết, đồng thời trao cho người làm hướng dẫn
quyền được phát ngôn. Tuy nhiên trong thực tế, đôi khi HDV lại chia sẻ quyền này với
khách hàng. HDV cũng sử dụng các chiến thuật khác nhau để thu hút khách hàng đồng
thời để khách tin vào những gì họ nói : họ trau dồi tiếng Pháp hàng ngày, cố gắng diễn
đạt sáng sủa, cô đọng, chính xác, chặt chẽ, đồng thời xây dựng các bài thuyết trình sống
động và phù hợp với từng đối tượng. HDV cũng cố gắng xây dựng một hình ảnh tích
cực của đất nước mình trong mắt khách du lịch đồng thời chọn cho mình thái độ trung
tính, bởi vì tuy vai trò chính của họ là người truyền đạt thông tin, các bài thuyết trình
của HDV nhằm đem lại cho khách một hình ảnh đẹp của đất nước để họ có thể quay lại
thăm thú nơi này.
Các bài thuyết trình mà HDV trình bày tại điểm hay trên xe phụ thuộc vào
nhiều yếu tố hoàn cảnh : số lượng khách, chương trình thăm, quang cảnh và những sự
8


kiện khách nhìn thấy dọc đường đi, các điều kiện thời tiết, tâm trạng và sự chú ý của
khách, các công cụ hỗ trợ thông tin tại điểm, lối vào điểm vv. Bằng kinh nghiệm của
mình, HDV chuẩn bị các điều chỉnh của bài thuyết trình theo các yếu tố này, và chủ
động điều chỉnh tại điểm hay trên đường đi các bài thuyết trình tùy theo tình huống.
Nếu sắp xếp các bài thuyết trình theo nội dung, chúng ta có ba loại : các bài
thuyết trình nhằm truyền đạt thông tin thực tế, các lời bình tại điểm thăm và các bài
thuyết trình theo chủ đề tự do. Loại thứ nhất chủ yếu giúp khách theo sát được chương

trình hoạt động, vì thế nên chúng mang tính chất thông tin và yêu cầu nhiều hơn, cho
dù HDV luôn giải thích và lập luận các lựa chọn của mình. Loại thứ hai nhằm hướng
dẫn tham quan, miêu tả các điểm thăm và các đồ vật được trưng bày, do vậy chúng
mang tính chất miêu tả và thông tin (đối với các công trình kiến trúc) và giải thích (với
các chu trình). Loại thứ ba có lẽ là loại được chuẩn bị kỹ nhất, bởi ngay trước khi gặp
khách, tùy theo chương trình thăm và một số yếu tố mang tính hoàn cảnh khác, người
HDV đã lựa chọn trong một danh sách các chủ đề tự do mà anh ta nắm rõ, từ đó xây
dựng các bài thuyết trình cho đoàn khách sẽ dẫn. Do vậy các bài thuyết trình dạng này
thường được chuẩn bị kỹ, thường kèm các ghi chép có được sau khi đọc các tài liệu và
tuân theo một dàn ý. HDV thường thực hiện các bài thuyết trình dạng này trên đường
đi và tại điểm, khi cần bổ sung thông tin cho khách và làm cho không khí của đoàn thêm
sống động. Tuy nhiên, các bài thuyết trình dạng này cũng thường được điều chỉnh hay
chuyển từ lúc này sang lúc khác tùy theo diễn biến của hành trình.
Những hiểu biết trên đây về đặc thù của các bài thuyết trình của HDV Việt
Nam nói tiếng Pháp giúp chúng tôi nắm vững hơn thể loại diễn ngôn này, để sau đó có
thể rút ra được những hoạt động nghề nghiệp thực tế trong quá trình chuẩn bị, trình bày
và điều chỉnh các bài thuyết trình của các HDV.

Chương 8 : Các hoạt động nghề nghiệp thực tế của HDV Việt Nam nói tiếng
Pháp khi chuẩn bị và trình bày các bài thuyết trình
Phân tích các hoạt dộng nghề nghiệp thực tế vốn rất quan trọng trong đào tạo
nghề và đào tạo hướng nghiệp. Trong trường hợp của chúng tôi, các hoạt động nghề
nghiệp thực tế là các cách làm mà chúng tôi quan sát được ở nhiều HDV hoặc ở một
HDV mà chúng tôi coi là tiêu biểu.
Phương thức chuẩn bị và trình bày thuyết trình xét trên bình diện diễn ngôn
mà chúng tôi đã liệt kê ra được sẽ phục vụ cho việc đào tạo các HDV tương lai. Chúng
cho thấy một cách chi tiết quy trình chuẩn bị, trình bày và điều chỉnh các bài thuyết
trình, qua đó cho thấy được công việc thường ngày của HDV với từng đoàn khách mà
họ dẫn, các thông tin mà HDV cần thu thập trước khi đón đoàn để có thể điều chỉnh dàn
ý các bài thuyết trình mà họ đã chuẩn bị, cũng như cách họ bổ sung và điều chỉnh các

bài thuyết trình sau mỗi lần dẫn khách. Chúng tôi cũng dựng được dàn ý của khoảng
9


hai mươi bài thuyết trình tiêu biểu, nhằm cung cấp cho các HDV tương lai một công cụ
giúp đỡ họ chuẩn bị các bài thuyết trình khi mới vào nghề.
Chúng tôi đã dành một phần lớn của chương này để phân tích các đặc thù ngôn
ngữ của các bài thuyết trình của HDV Việt Nam nói tiếng Pháp. Vì không thể liệt kê
hết được tất cả các đặc thù ngôn ngữ của thể loại này, chúng tôi chỉ chú trọng vào các
đặc thù tiêu biểu, một mặt là để tìm hiểu đặc tính về mặt ngôn ngữ của thể loại này,
phần khác để chuẩn bị nội dung học tập cho các HDV tương lai. Chúng tôi phát hiện ra
rằng các bài thuyết trình của HDV Việt Nam nói tiếng Pháp có những đặc tính riêng về
mặt ngôn ngữ, tổ chức văn bản của chúng phụ thuộc nhiều vào các yếu tố hoàn cảnh,
và các HDV có các công cụ và cách thức chuyên biệt để phát triển ý bên trong một bài
thuyết trình, và điều này cũng phụ thuộc vào chủ đề của bài thuyết trình. Chúng tôi đã
phân tích các thủ pháp để cấu trúc nên một bài thuyết trình, cũng như các liên kết từ
được các HDV Việt Nam thường xuyên sử dụng. Không tham vọng đi sâu phân tích các
cấu trúc cú pháp và các lỗi thường gặp, phân tích của chúng tôi chỉ nhằm cung cấp các
công cụ cơ bản về mặt ngôn ngữ cho các HDV tương lai, giúp họ chuẩn bị được các bài
thuyết trình chặt chẽ. Về phần các cấu trúc ngữ pháp, chúng tôi không áp dụng cách làm
thường gặp của các giáo trình dạy tiếng Pháp du lịch là liệt kê các cấu trúc ngữ pháp
hay dùng trong các bài thuyết trình, mà lựa chọn các cấu trúc tiêu biểu, có liên quan đến
các đặc tính diễn ngôn của thể loại này đã được trình bày ở chương trước. Việc phân
tích các lỗi thường gặp của các HDV không chỉ cho thấy khoảng cách giữa một HDV
lâu năm và một HDV mới vào nghề, mà còn chỉ ra cách mà các HDV rèn luyện tiếng
Pháp trong quá trình làm việc, cũng như những ảnh hưởng của các lỗi này đến quá trình
giao tiếp với khách.
Chắc chắn là tất cả các kết quả nghiên cứu của chương này không thể được
ứng dụng ngay vào giảng dạy thuyết trình cho HDV trẻ, nhưng những phân tích trên
cho phép chúng tôi có một cái nhìn tổng thể về nội dung giảng dạy, để từ đó có thể lựa

chọn những nội dung phù hợp nhất cho khóa học mà chúng tôi đang thiết kế.

10


PHẦN BA : KHÓA HỌC THỬ NGHIỆM
Chương 9 : Thiết kế khóa học thuyết trình cho HDV
Quy trình thiết kế của khóa học này tuân theo quy trình mà Lebrun, Smidts &
Bricoult (2011) đã vạch ra, bao gồm các bước : phân tích nhu cầu đào tạo, xác định mục
đích đào tạo, lựa chọn phương pháp, công cụ và các nguồn lực, phân bổ nội dung cho
các buổi học, thiết kế các nhiệm vụ của người học, đánh giá quá trình học và đánh giá
khóa học.
Khóa học của chúng tôi xuất phát từ nhu cầu của một cơ sở đào tạo, đáp ứng
những đòi hỏi thực tế của thị trường lao động và việc đổi mới chương trình đào tạo của
nơi chúng tôi làm việc. Việc thiết kế khóa học do vậy nằm trong một bối cảnh cụ thể,
có những bó buộc mang tính vật chất và sư phạm. Trong hoàn cảnh này, chúng tôi đã
lựa chọn những nội dung phân tích diễn ngôn phù hợp và các hoạt động nghề nghiệp
thực tế khi thực hiện các bài thuyết trình đã trình bày trên đây để xây dựng nội dung
giảng dạy. Chúng tôi cũng sử dụng một số dữ liệu phục vụ cho phần trước để dùng làm
học liệu cho khóa học. Khóa học được thiết kế trong một môi trường hỗn hợp, trong đó
các buổi học trên lớp đan xen với các bài tập về nhà thực hiện trong nhóm và các thảo
luận trên mạng xã hội, trong một nhóm Facebook hoạt động như một lớp học ảo. Sinh
viên học các kiến thức, kỹ năng và thái độ mới thông qua các tình huống – vấn đề, thuộc
loại vấn đề cần giải quyết tại chỗ trong một tình huống nghề nghiệp, hay một nhiệm vụ
lớn cần thực hiện, cũng trên cương vị HDV và nhằm mục đích chuẩn bị hay trình bày
một bài thuyết trình. Các nhiệm vụ mà chúng tôi thiết kế luôn đòi hỏi các sinh viên làm
việc theo nhóm hoặc thảo luận trên lớp, từ đó khuyến khích các xung đột xã hội – tri
nhận (conflits socio-cognitifs) giữa họ. Khóa học cũng đan xen lý thuyết và bài tập thực
hành, việc giảng dạy của giáo viên và sự hướng dẫn của các chuyên gia là các HDV
tiếng Pháp chuyên nghiệp, những người có thể tham gia giảng dạy khi khóa học được

thẩm định và đưa vào ứng dụng trong thực tế.
Cụ thể, khóa học là một mô đun dạy thuyết trình thiết kế cho 33 giờ dạy và 5
giờ kiểm tra đánh giá dưới dạng một buổi tham quan thực tế, trong đó mỗi sinh viên lần
lượt đóng vai HDV tiếng Pháp. Trong khóa học thử nghiệm, húng tôi đã thêm vào một
bài kiểm tra viết vào đầu và cuối khóa học, và một buổi thực tế test đầu vào. 33 giờ dạy
được chia thành 8 buổi dạy, với các chủ đề sau : vị thế xã hội của HDV, bản sác diễn
ngôn của HDV, mục đích chính của các bài thuyết trình của HDV, xác định mục đích
cụ thể của các đoạn thuyết trình, các yếu tố hoàn cảnh của thuyết trình (2 loại thuyết
trình), các yếu tố nội dung của thuyết trình (3 loại thuyết trình), các liên kết từ phục vụ
cho việc tổ chức ý trong bài thuyết trình, các từ ngữ dùng để chỉ và các đại từ liên hệ
trong bài thuyết trình của HDV tiếng Pháp. Chúng tôi đã biên soạn một sách dành cho
sinh viên bao gồm miêu tả các đề bài và các nhiệm vụ cần thực hiện, các học liệu dạng
11


viết và hình ảnh – âm thanh, lời của các bài ghi âm và không gian học ảo trên nhóm
Facebook phục vụ việc tổ chức các hoạt động học tập.

Chương 10 : Dạy thử nghiệm khóa học thuyết trình và báo cáo kết
quả
Chúng tôi đã tổ chức dạy thử nghiệm khóa học thuyết trình của HDV trên một
nhóm mẫu gồm 24 sinh viên năm thứ hai và thứ ba của Khoa. Khóa học đã kéo dài hai
tháng vào đầu năm 2018. Khóa học là một bán thực nghiệm được thực hiện qua 3 giai
đoạn : 1- test đầu vào bao gồm một bài test viết thông qua 45 câu hỏi thực hiện trong
phòng máy tính, một buổi đi thực tế trong đó sinh viên lần lượt đóng vai HDV và một
phỏng vấn cá nhân với một nửa số sinh viên trong lớp qua đó các em trao đổi với người
thực hiện phỏng vấn về quá trình thực hiện các bài test vừa rồi. 2 – một mô đun dạy
thuyết trình cho HDV tiếng Pháp gồm 33 giờ học trên lớp 3- test đầu ra bao gồm 3 phần
giống hệt test đầu vào và được thực hiện trong cùng điều kiện, bổ sung thêm phỏng vấn
nhóm để đánh giá khóa học trong đó lớp học được chia thành 3 nhóm. Các kết quả của

thử nghiệm nhằm khẳng đình hai giả thuyết nghiên cứu :
1- Phương pháp tiếp cận theo loại hình diễn ngôn góp phần nâng cao chất
lượng các bài thuyết trình với đối tượng sinh viên Việt Nam học nghề
HDV tiếng Pháp
2- Phương pháp tình huống – vấn đề giúp các sinh viên học nghề HDV làm
các bài thuyết trình phù hợp với các yếu tố hoàn cảnh và giải quyết các
vấn đề xảy ra liên quan đến các bài thuyết trình của họ.
Cụ thể hơn, thử nghiệm của chúng tôi nhằm hai mục đích :
1- Xác định sự tiến bộ của sinh viên trong việc chuẩn bị và trình bày các bài
thuyết trình trong vai trò HDV tiếng Pháp
2- Đánh giá khả năng thay đổi các bài thuyết trình đã chuẩn bị sẵn để thích
ứng với hoàn cảnh của quá trình dẫn tour, khả năng giải quyết các vấn đề
liên quan đến các bài thuyết trình xảy ra trong hành trình dẫn khách.
Dưới đây là các tiểu biến mà chúng tôi hy vọng đo được sự tiến bộ của sinh
viên sau khóa học :
1 - Ý thức về vị thế xã hội của HDV khi dẫn khách nói tiếng Pháp, tức quyền được
phát ngôn và trách nhiệm của HDV về những gì mình nói ;
2 - Ý thức về bản sắc diễn ngôn của HDV, tức các chiến thuật để thể hiện sự
trung tính đồng thời cuốn hút khách trong các bài thuyết trình ;
3 - Sự lựa chọn mục đích chính của từng bài thuyết trình (chuyển thông tin đến
khách hay thuyết phục khách), tức sự lựa chọn thông tin phù hợp và quan điểm
của HDV khi giải thích cho khách những hiện tượng mà họ gặp trên đường đi ;
12


- Việc xác định mục đích của từng đoạn trong bài thuyết trình tùy theo hành
động lời nói, khiến cấu trúc của đoạn thuyết trình phù hợp với mục đích lời nói
mà HDV xác định ;
5 - Tính nhất quán giữa dàn ý của bài thuyết trình và nội dung ;
6 - Khả năng sử dụng các công cụ ngôn ngữ để tổ chức bài thuyết trình ;

7 - Khả năng bảo đảm sự nhất quán về chủ đề của bài thuyết trình
8 - Khả năng sử dụng các từ trực chỉ không gian và các vị từ giới thiệu để chỉ
người và vật cần đề cập ;
9 - Khả năng biến đổi các bài thuyết trình để phù hợp với các yếu tố hoàn cảnh
giao tiếp (thời điểm, địa điểm, khách hàng, môi trường, các vấn đề bất chợt
xảy ra…)
Vì đây cũng chính là thử nghiệm phương pháp tình huống – vấn đề trong giảng
dạy tiếng Pháp theo mục đích chuyên biệt nên chúng tôi dã thực hiện một phỏng vấn
nhóm nhằm đánh giá khóa học. Cụ thể chúng tôi muốn tìm hiểu :
1- Hiệu quả của phương pháp này trong đào tạo hướng nghề (phương pháp quy
nạp, khám phá các vấn đề trong những tình huống nghề nghiệp thực, xung đột
xã hội – nhận thức giữa người học và người học, giữa người học và HDV
chuyên nghiệp làm nhiệm vụ kèm cặp các em trong quá trình học…)
2- Hiệu quả của phương pháp này trong giảng dạy ngoại ngữ (giảng dạy theo thể
loại diễn ngôn, giảng dạy theo tình huống giao tiếp)
Các bài kiểm tra đánh giá thực hiện với người học đã cho thấy sự tiến bộ ở tất
cả các sinh viên tham gia thử nghiệm, và ở tất cả các điểm (tiểu biến) đã nêu ở trên.
Sinh viên khẳng định tiếng Pháp của họ đã có nhiều tiến bộ, và họ đã có thể thực hiện
các bài thuyết trình bằng tiếng Pháp trong các tình huống thực của nghề HDV. Các bài
phỏng vấn cũng cho thấy sinh viên có nhiều tiến bộ trong nhận thức về bản thể của
HDV, khoảng cách giữa những gì họ được học và thực tế, các hoạt động của họ trong
quá trình chuẩn bị và trình bày các bài thuyết trình trong thực tế, hoạt động học tập…
Sự chuyên cần và tích cực tham gia trong giờ học, trách nhiệm trong các hoạt động
nhóm, việc tham gia các đợt thực tập dẫn là các yếu tố quyết định sự thành công nổi trội
của một số sinh viên tham gia thử nghiệm. Tuy nhiên còn tồn tại khoảng cách về kết
quả giữa một vài tiểu biến, chủ yếu do câu hỏi chưa phù hợp và điều kiện thực hiện các
bài test nói và viết chưa hoàn hảo.
Dù thời gian không cho phép chúng tôi đánh giá toàn diện khóa học đã thiết
kế, tuy nhiên các phản hồi của người học và của bản thân chúng tôi trên vai trò người
dạy thử nghiệm về khóa học là rất tích cực trên mọi bình diện : phương pháp sư phạm,

học liệu và công cụ được sử dụng trong khóa học. Hầu hết sinh viên đều hiểu được các
dụng ý sư phạm của chúng tôi. Việc tổ chức các hoạt động theo phương pháp tình huống
– vấn đề và theo nhóm, việc đan xen lý thuyết và hoạt động thực hành, kiểm tra đánh
4

13


giá đã giúp cho khóa học đạt mục tiêu đề ra, các công cụ và học liệu có ích và dễ sử
dụng. Tuy nhiên, nhằm cải thiện chất lượng khóa học để sắp tới có thể đưa vào chương
trình giảng dạy, cần cải tiến một số điểm : tổ chức thực hiện các tình huống – vấn đề,
cân đối giữa các hoạt động cá nhân và hoạt động nhóm, sự tham gia của các HDV
chuyên nghiệp đóng vai trò kèm cặp sinh viên trong các bài tập thực hành, các quy định
về giao tiếp giữa các thành viên trong lớp và về hoạt động của các nhóm, việc chuẩn bị
các kỹ năng sử dụng công nghệ và làm việc nhóm cho sinh viên trước khóa học, cách
đặt câu hỏi trong đề bài kiểm tra viết, chất lượng kỹ thuật và cách khai thác một số học
liệu đa phương tiện và cuối cùng là giao tiếp giữa sinh viên và các HDV chuyên nghiệp
kèm cặp các em trong khóa học. Về các điểm cần cải thiện này, các sinh viên tham gia
thử nghiệm và bản thân chúng tôi đã có những đề xuất rất cụ thể và phân tích tính khả
thi của các đề xuất này trong các khóa học sắp tới. Do vậy chúng tôi hoàn toàn có khả
năng hoàn thiện khóa học để đưa vào giảng dạy trong thời gian sớm nhất.

KẾT LUẬN CHUNG
Trong bối cảnh đổi mới chương trình hướng tới đào tạo hướng nghiệm bằng
ngoại ngữ, xuất phát từ mong muốn cải thiện chất lượng của việc giảng dạy tiếng Pháp
theo mục đích chuyên biệt và đóng góp vào sự nghiệp đào tạo HDV Việt Nam nói tiếng
Pháp, chúng tôi đặt mục đích chính cho nghiên cứu này là xây dựng môt khóa học dạy
thuyết trình trong đào tạo hướng nghiệp HDV tiếng Pháp tại cơ sở đào tạo của chúng
tôi, khoa tiếng Pháp trường Đại học Hà nội. Về tổng thể, có thể nói rằng chúng tôi đã
đạt mục dích nghiên cứu đề ra, bởi khóa học mà chúng tôi thiết kế và thử nghiệm đã

cho phép các sinh viên tiến bộ kể cả về nhận thức và thực hành thể loại diễn ngôn chuyên
biệt này.
Luận án đã có những đóng góp đặc biệt nào ?
Trước hết, trong lĩnh vực giáo học pháp tiếng Pháp phục vụ các mục đích
chuyên biệt, chúng tôi đã tham khảo các mô hình phân tích diễn ngôn, đặc biệt là mô
hình Phân tích diễn ngôn trung gian (Analyse du Discours Médiée) và dựa trên lý thuyết
hợp đồng giao tiếp của Charaudeau để phân tích một thể loại diễn ngôn chuyên biệt :
các bài thuyết trình của HDV Việt Nam nói tiếng Pháp. Chúng tôi thực hiện phân tích
trên một tập hợp dữ liệu bao gồm các bài thuyết trình thu âm tại thực địa có tổng thời
lượng 14 giờ, các bài phỏng vấn với các HDV thực hiện các bài thuyết trình nói trên với
tổng thời gian tương tự. Các kết quả phân tích đã cho phép chúng tôi xác định được các
đặc tính của thể loại này, bao gồm :
-

Vị thế xã hội của chủ thể phát ngôn (HDV Việt Nam nói tiếng Pháp đón tiếp
và dẫn các đoàn khách du lịch trong khuôn khổ các tour du lịch có tổ chức) :
đặc tính này được xác định trước tiên bởi những đòi hỏi về kiến thức và kỹ
năng về ngôn ngữ và văn hóa của người HDV. Vị thế xã hội cũng trao cho
14


người HDV – trong các vai trò người quản lý nhóm khách du lịch, đại diện của
đất nước và của công ty lữ hành, người cung cấp dịch vụ - tính chính thống
trong các phát ngôn của họ trước khách du lịch. Xét về tổng thể, HDV du lịch
thường thực hiện đầy đủ quyền được phát ngôn này, thông qua các chiến thuật
để bảo đảm tính chính thống trong phát ngôn của họ, nhưng đôi khi, họ phải
bảo vệ quyền phát ngôn này để khẳng định họ mới chính là người làm chủ lời
nói trong nhóm. Trong một số tình huống khác, HDV phải nhường quyền phát
ngôn cho khách, nhằm khuyến khích họ tham gia vào cuộc trao đổi hay thu hút
sự chú ý của họ. Cuối cùng, việc phân tích các xung đột giữa vị thế xã hội với

các bản sắc khác của người HDV góp phần giải quyết tốt hơn các xung đột
này.
Bản sắc diễn ngôn của HDV : tính chất này quyết định các chiến thuật mà
HDV dùng nhằm tăng độ tin cậy và tính hấp dẫn của của bài thuyết trình đối
với khách du lịch. Các chiến thuật này được thể hiện bằng sắc thái của bài
thuyết trình, cách triển khai ý và nhất là cách HDV lựa chọn thông tin để giới
thiệu cho khách.
- Mục đích diễn ngôn : phần nghiên cứu này chỉ ra các mục tiêu chính của bài
thuyết trình của HDV tiếng Pháp, là sự kết hợp giữa thông tin cho khách và
chào mời khách quay trở lại. Trong phần này, chúng tôi cũng đề cập đến mục
đích chính – hành động lời nói chủ đạo – của các đoạn trong bài thuyết trình.
Các hành động lời nói này liên quan đến các nhiệm vụ mà HDV phải hoàn
thành trong cả một ngày hay một chuyến dẫn khách. Từ phân tích này, chúng
tôi phân biệt các nhiệm vụ được thể hiện và các nhiệm vụ không được thể hiện
trong các bài thuyết trình. Sự phân biệt này sẽ giúp HDV quản lý tốt hơn các
nội dung thuyết trình trong một ngày hay một chuyến dẫn khách.
- Các yếu tố hoàn cảnh : dựa vào địa điểm phát ngôn, chúng tôi đã xác định hai
loại thuyết trình : thuyết trình tại điểm và trên xe. Sự so sánh hai thể loại này
cho phép hiểu rõ hơn đặc tính của chúng, giúp HDV thích ứng tốt hơn với các
yếu tố của môi trường xung quanh ảnh hưởng đến các bài thuyết trình.
- Các yếu tố về chủ đề : dựa vào nội dung của các bài thuyết trình, chúng tôi đã
chia chúng làm ba loại : các bài thuyết trình đưa thông tin thực tế, các thuyết
minh địa điểm tham quan và các bài thuyết trình có chủ đề tự do. Phân tích
không những đã chỉ ra đặc điểm của mỗi thể loại về mặt diễn ngôn, mà còn
cho thấy những sự khác nhau giữa chúng trong tổ chức văn bản, đặc điểm ngôn
ngữ và các chủ đề hay đề cập đến.
Trong phần tiếp theo, chúng tôi đã liệt kê ra các phương thức phổ biến thực hiện
các bài thuyết trình trong giới HDV Việt Nam nói tiếng Pháp. Trước tiên chúng tôi đã
dựng lại quy trình thực hiện các bài thuyết trình, bao gồm bốn bước :
15



Tìm hiểu thông tin về khách hàng để có các bài thuyết trình phù hợp ;
Nghiên cứu chương trình tour để lên kế hoạch các hoạt động trong ngày và
suốt cuộc hành trình ;
- Chuẩn bị nội dung và phương tiện ngôn ngữ cho các bài thuyết trình ;
- Trình bày và điều chỉnh các bài thuyết trình.
Tiếp theo chúng tôi phân tích các hiện tượng ngôn ngữ đặc trưng ở tầng trung
và tiểu diễn ngôn của thể loại thuyết trình của HDV Việt Nam nói tiếng Pháp. Cụ thể,
chúng tôi đã nghiên cứu :
- Các cách mở đầu và kết thúc các bài thuyết trình
- Các cấu trúc ẩn dụ
- Các cách phát triển chủ đề của ba thể loại : thuyết trình đưa thông tin thực tế,
thuyết minh điểm tham quan, thuyết trình theo chủ đề tự do
- Các thủ pháp để sắp xếp ý : chuyển dẫn, lặp lại, trình bày theo cách khác, câu
chêm.
- Các liên kết từ thể hiện các quan hệ sau : đối lập, nhượng bộ, nguyên nhân, kết
quả, mục đích, cộng thêm, liệt kê.
- Các từ trực chỉ về không gian : tính từ và đại từ chỉ định, các vị từ giới thiệu
- Các từ ngữ dùng để chỉ : tính từ và đại từ chỉ định, các từ ngữ dùng để giới
thiệu
- Các cấu trúc ngữ pháp : các đại từ thường dùng (đại từ nhân xưng làm chủ ngữ,
đại từ nhân xưng làm bổ ngữ, đại từ liên hệ), các thức và thời của động từ
thường gặp (thời hiện tại hoàn thành dùng để giải thích và miêu tả những gì
khách nhìn thấy, thời quá khứ tiếp diễn và quá khứ hoàn thành dùng để kể lại
các sự việc trong quá khứ, thức mệnh lệnh và thời tương lai gần để đưa ra yêu
cầu khi HDV đóng vai trò người quản lý đoàn).
- Các hiện tượng ngữ âm thường gặp : một số lỗi phát âm thường gặp, các hiện
tượng nối âm, lược âm và ngắt nghỉ.
Xét tổng thể, chúng tôi có thể nói rằng chúng tôi đã phân tích tỉ mỉ một thể loại

trong giao tiếp du lịch : các bài thuyết trình của HDV Việt Nam nói tiếng Pháp. Phương
pháp phân tích này có thể được áp dụng để phân tích các thể loại diễn ngôn khác cùng
lĩnh vực, như các bài thuyết minh tại điểm của các thuyết minh viên Việt Nam nói tiếng
Pháp, hay các bài thuyết trình được dựng sẵn cho các máy thuyết minh tự động tại Việt
Nam. Công cụ thông tin phục vụ khách du lịch này còn hiếm gặp tại nước ta, trong các
điểm tham quan hay các tour du lịch trên sông. Các kết quả của những phân tích này có
thể được ứng dụng trong việc giảng dạy hay sản xuất các bài thuyết trình cùng thể loại.
-

Từ kết quả phân tích này, từ các yêu cầu của cơ sở đào tạo và trình độ hiện tại
của đối tượng đích, chúng tôi đã xác định được các nội dung học tập, đặt ra các mục
đích sư phạm của khóa học thuyết trình cho HDV tương lai, đồng thời chia các nội dung
16


học tập thành các buổi học với các nhiệm vụ cụ thể, trong một chương trình học tập cụ
thể. Thông qua việc thiết kế mô đun dạy thuyết trình cho HDV này, chúng tôi đã ứng
dụng được kết quả nghiên cứu vào thực tế giảng dạy của một cơ sở đào tạo cụ thể, và
đó chính là kết quả của nghiên cứu của chúng tôi trong lĩnh vực công nghệ giáo dục,
một chuyên ngành khác của luận án. Cũng trong lĩnh vực khoa học giáo dục này, chúng
tôi đã thực nghiệm việc sử dụng phương pháp tình huống – vấn đề trong đào tạo hướng
nghiệp, các tình huống – vấn đề mà chúng tôi thiết kế, dù là những vấn đề trong tình
huống nghề nghiệp cần giải quyết hay những bài tập lớn, đều được các HDV chuyên
nghiệp kiểm chứng và chứng nhận về tính chân thực. Các tình huống – vấn đề này đã
thỏa mãn được hai mục đích của khóa học : giúp các sinh viên học thuyết trình theo
phương pháp tích cực, đồng thời giúp họ làm quen với các tình huống thực trong công
việc sau này. Cùng với các tình huống – vấn đề nêu trên, khóa học mà chúng tôi thiết
kế là một sản phẩm hoàn thiện, với các học liệu đa phương tiện, các hoạt động học tập
và kiểm tra đánh giá, được tổ chức theo phương thức hồn hợp kết hợp các buổi học trên
lớp và các bài tập về nhà làm theo nhóm trên một không gian mạng xã hội (Facebook)

như trong một lớp học ảo. Chỉ cần hoàn thiện chút ít là khóa học này có thể được đưa
vào môn « Giao tiếp du lịch định hướng nghề HDV du lịch » của định hướng Du lịch,
ngành Cử nhân Ngôn ngữ Pháp của Khoa tiếng Pháp, trường Đại học Hà Nội.
Ngoài sản phẩm thực tế này, từ nghiên cứu của chúng tôi, phương pháp tình
huống – vấn đề nói riêng và phương pháp thiết kế khóa học nói chung có thể được áp
dụng trong việc thiết kế các môn chuyên ngành cho khoa tiếng Pháp và các khoa ngôn
ngữ khác của Trường.
Tuy nhiên, vì nhiều lý do, luận án còn có một số hạn chế.
Trước hết, các tổng hợp lý thuyết chỉ bó hẹp trong phạm vi các nghiên cứu sử
dụng tiếng Pháp, ngoại trừ lý thuyết về mô hình phân tích diễn ngôn trung gian (ADM).
Các hạn chế về thời gian và ngôn ngữ cũng không cho phép chúng tôi mở rộng việc tra
cứu các tài liệu bằng tiếng Anh và các thứ tiếng khác, nhất là trong lĩnh vực tiếng Anh
phục vụ các mục đích chuyên biệt.
Cũng vì thiếu thời gian mà chúng tôi đã bỏ qua một số điểm thú vị trong luận
án : nguyên nhân dẫn đến các lỗi tiếng Pháp nghiêm trọng mà các HDV hay mắc phải,
giải thích về ý đồ sư phạm và các bước tiến hành bài tập lớn dưới dạng tình huống –
vấn đề trong khóa học (chuẩn bị một buổi đi thực tế ảo) và rất nhiều hoạt động sư phạm
khác mà chúng tôi đã đề xuất. Đây có thể là một hướng đi tiếp theo cho công việc nghiên
cứu của chúng tôi, khi chúng tôi biên soạn sách hướng dẫn giáo viên cho khóa học
thuyết trình dành cho HDV trong chương trình đào tạo của cơ sở mình.
Vì luận án khá dài nên chúng tôi không kết nối được một số chương của phần
hai và phần ba (phân tích diễn ngôn và thiết kế khóa học) với các lý thuyết là cơ sở cho
việc phân tích và thiết kế này, được trình bày trong phần một của luận án.
17


Sau cùng, một số người có thể trách cứ số lượng sinh viên tham gia thực
nghiệm của chúng chưa đủ tính đại diện (24 em). Hơn nữa, khóa học thực nghiệm cũng
gặp nhiều khó khăn : một vài sinh viên hay vắng mặt, trình độ tiếng Pháp của sinh viên
tham gia thử nghiệm thấp hơn so với trình độ dự kiến của đối tượng sinh viên tham gia

khóa học này trong tương lai, các sinh viên học thử nghiệm cũng không có các kiến
thức và kỹ năng nền của nghề này như trong chương trình, một số sinh viên không thật
sự nhiệt tình tham gia khóa học, và khóa học bị gián đoạn do nghỉ Tết và mùa cao điểm
các em đi thực tập hướng dẫn nhiều. Chúng tôi hy vọng khi chính thức đưa vào giảng
dạy, sẽ không còn những vấn đề nêu trên và kết quả thu được sẽ cao hơn nữa.
Dù sao, công trình nghiên cứu này đã thật sự bổ ích và giúp chúng tôi tiến bộ
lên nhiều, cả về học thức, nghề nghiệp và bản thân. Không chỉ dừng lại ở một bài tập
nghiên cứu, luận án đã mở ra cho chúng tôi những trang mới trong sự nghiệp giảng viên
của mình và những hướng đi mới trên con đường nghiên cứu, giúp chúng tôi tự tin trong
những bước chập chững của nghề làm khoa học.

18


TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH
Adam, J.-M. (1990). Eléments de linguistique textuelle: théorie et pratique de l’analyse
textuelle. Editions Mardaga.
Bakhtine, M. (1984). Esthétique de la création verbale. Paris: Gallimard.
Balslev, K., Balslev, C., Claret-Girard, V., Mazurczak, K., Saada-Robert, M., &
Veuthey, C. (2005). La résolution de problèmes en français scriptural: un outil
pour enseigner/apprendre. Revue française de pédagogie, 59–72.
Beacco, J. C. (1992). Les genres textuels dans l’analyse du discours : écriture légitime
et communautés langagières. Langages, n°153 : Les genres de la parole, 8‑27.
Beacco, J. C. (2013). L’approche par genres de discours dans l’enseignement du
français langue étrangère et langue de scolarisation. Pratiques : linguistique,
littérature, didactique, (157/158), 189‑200.
Beacco, J. C., Coste, D., Van de Ven, P.-H., & Vollmer, H. (2010). Langues et matières
scolaires - Dimensions linguistiques de la construction des connaissances
dans les curriculums Strasbourg: Conseil de l’Europe.
Benveniste, É. (1966). Problèmes de linguistique générale. Schoenhof’s Foreign Books,

Incorporated.
Bronckart, J.-P. (1996). Genres de textes, types de discours et opérations
psycholinguistiques. Voies livres, (78), 1-20.
Bronckart, J.-P., & Dolz, J. (1999). La notion de compétence: quelle pertinence pour
l’étude de l’apprentissage des actions langagières? Raisons éducatives, n°2, 27
‑44.
Charaudeau, P. (1995b). Le dialogue dans un modèle de discours. Cahier de
Linguistique Française, (17), 141‑178.
Charaudeau, P. (1995a). Une analyse sémiotique du discours. Langages, (117), 96-111.
Charaudeau, P. (2000). De la compétence sociale à de communication aux compétences
de discours. In Didactique des langues romanes : le développement des
compétences chez l’apprenant (p. 41‑54). Louvain-la-Neuve: De Boeck Duculot.
Charaudeau, P. (2001). Visées discursives, genres situationnels et construction textuelle.
Analyse des discours. Types et genres, 341‑348.
Charaudeau, P. (2009). Identités sociales et discursives du sujet parlant. Paris:
L’Harmattan.
Chartrand, S.-G. (2000). Le programme de français de 1995. Un outil pour développer
la compétence d’écriture au secondaire. Québec français, n° hors-série: la
grammaire au coeur du texte, 24‑27.
Chartrand, S.-G., & Blaser, C. (2006). Fonction épistémique des genres disciplinaires
19


scolaires : prolégomènes à un champ de recherche. In Analyse des objets
enseignés. Le cas du français (p. 179‑194). Bruxelles: De Boeck.
Conseil de l’Europe. (2001). Cadre européen commun de référence pour les langues
(CECRL). Paris: Didier.
Coste, D., De Pietro, J.-F., & Moore, D. (2012). Hymes et le palimpseste de la
compétence de communication Tours, détours et retours en didactique des
langues. Langage et société, 1, 103 ‑ 123. Consulté à l’adresse :

o/revue-langage-et-societe-2012-1-page-103.htm#
Cuq, J.-P. (2003). Dictionnaire de didactique du français langue étrangère et seconde.
Paris: CLE International.
Dalongeville, A., & Hubert, M. (2000). (Se) former par les situations-problèmes. Des
déstabilisations constructives. Lyon: Chronique Sociale.
de Montmollin, M. (1986). L’intelligence de la tâche. Berne: Peter Lang.
De Vecchi, G., & Carmona-Magnaldi, N. (2007). Faire vivre de véritables situationsproblèmes. Paris: Hachette Education.
Dubois, J., Giacomo, M., Guespin, L., Marcellesi, C., Marcellesi, J.-B., & Mével, J.-P.
(2002). Dictionnaire de linguistique. Paris: Larousse.
Ducrot, O. (1974). Dire et ne pas dire. Principes de sémantique linguistique. Revue
Philosophique de la France Et de l’Etranger, 3(164), 339‑340.
Fabre, M. (1999). Situations-problèmes et savoir scolaire. Paris: Presses Universitaires
de France.
Galant, B., & Frenay, M. (2005). L’approche par problèmes et par projets dans
l’enseignement supérieur. Impact, enjeux et défis. Louvain-la-Neuve, Belgique:
Presses Universitaires de Louvain.
Grosjean, M. (2001). Verbal et non verbal dans le langage au travail. In Langage et
Travail : communication, action, cognition (Borzeix A. et Fraenkel B. (dir.), p.
143‑162). Paris: CNRS éditions.
Hymes, D. (1972). On communicative competence. In Sociolinguistics J.B. Pride et
Jonnaert, P., & Vander Borght, C. (2009). Créer des conditions d’apprentissage.
Bruxelles: De Boeck.
Lamoureux, A., Archambault, J.-P., Berthiaume, F., & Fréchette, N. (1992). Une
démarche scientifique en sciences humaines. Méthodologie. Laval: Editions
Etudes Vivantes
Lebrun, M., Smidts, D., & Bricoult, G. (2011). Comment construire un dispositif de
formation ? Bruxelles: De Boeck.
Mainguenau, D., & Charaudeau, P. (2002). Dictionnaire de l’analyse du discours. Paris:
Éditions du Seuil.
Maingueneau, D. (1996). Les termes clés de l’analyse du discours. Paris: Éditions du

20


Seuil
Mangiante, J.-M., & Parpette, C. (2004). Le Français sur Objectifs Spécifiques : de
l’analyse des besoins à l’élaboration d’un cours. Paris: Hachette Français
Langue Étrangère.
Martinand, J.-L. (1981). Pratiques sociales de référence et compétences techniques. À
propos d’un projet d’initiation aux techniques de fabrication mécanique en
classe de quatrième. In Diffusion et appropriation du savoir scientifique:
enseignement et vulgarisation (p. 149 ‑ 154). Consulté à l’adresse :
/>Martinand, J.-L. (2016). La question de la référence en didactique du curriculum.
Investigações em Ensino de Ciências, 8(2), 125‑130. Consulté à l’adresse :
/>Meirieu, P. (1987). Apprendre… oui, mais comment. Paris: Éditions ESF.
Mourlhon-Dallies, F. (2008). Enseigner une langue à des fins professionnelles. Paris:
Didier.
Pastré, P. (2011). La didactique professionnelle. Approche anthropologique du
développement chez les adultes. Paris: Presses Universitaires de France.
Proulx, L. P. (1999). La résolution de problèmes en enseignement. Bruxelles: De Boeck.
Raynal, F., & Rieunier, A. (1997). Pédagogie : dictionnaire des concepts clés. Paris:
ESF Éditeur.
Riegel, M., Pellat, J.-C., & Rioul, R. (1994). Grammaire méthodique du français. Paris:
Presses Universitaires de France.
Rouayrenc, C. (2010). Le français oral: Les composantes de la chaîne parlée. Paris:
Belin.
Saint-Georges, I. (2004). Actions, médiations et interactions : une approche
multimodiale sur le chantier de travail. Cahier de Linguistique Française, n°26,
« Les modèles du discours face au concept d’action » (Université de Genève),
320-341.
Scollon, R. (2005). The rythmic integration of action and discourse : work, the body and

heart. In Discourse in Action: Introducing mediate discourse analysis (Norris
N. et John R. H.). Londres: Routledge.
Tardif, J. (2006). L’évaluation des compétences. Montréal: Chenelière Éducation.
Vygotsky, L. ., & Piaget, J. (1997). Pensée et langage (3e éd.). Paris: La dispute.

21



×