Tải bản đầy đủ (.doc) (87 trang)

Chuyên đề tốt nghiệp: Phát triển sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao tại thành phố Buôn Ma Thuột

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (477.94 KB, 87 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY NGUYÊN
KHOA KINH TẾ

CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP

PHÁT TRIỂN SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP ỨNG DỤNG
CÔNG NGHỆ CAO TẠI THÀNH PHỐ BUÔN MA THUỘT

Sinh viên

:

Phạm Thị Lan

Chuyên ngành:

Kinh tế Nông nghiệp

Khóa học

2011 - 2015

:

ĐăkLăk, 5/2015


TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY NGUYÊN
KHOA KINH TẾ

CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP



PHÁT TRIỂN SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP ỨNG DỤNG
CÔNG NGHỆ CAO TẠI THÀNH PHỐ BUÔN MA THUỘT

Sinh viên

: Phạm Thị Lan

Chuyên ngành : Kinh tế Nông nghiệp
Khóa học

:

2011 - 2015

Người hướng dẫn: ThS. Dương Thị Ái Nhi

ĐăkLăk, 5/2015


LỜI CẢM ƠN
Sau ba tháng thực tập tại Sở Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn tỉnh Đắk Lắk,
ngoài sự nỗ lực của bản thân, tôi đã nhận được sự quan tâm giúp đỡ tận tình về nhiều mặt
của các cá nhân và tổ chức, tôi đã hoàn thành đề tài thực tập của mình. Cho phép tôi được
gửi lời cảm ơn chân thành sâu sắc đến :
Quý thầy cô giáo trường ĐHTN đã trang bị cho tôi những kiến thức quý báu, các
thầy cô giáo khoa Kinh Tế đã đem hết lòng nhiệt huyết cũng như kiến thức của mình để
giảng dạy và giúp đỡ tôi trong những năm học qua, là cơ sở chính giúp tôi hoàn thành báo
cáo thực tập tốt nghiệp này.
Đặc biệt là cô ThS.Dương Thị Ái Nhi đã tận tình hướng dẫn, tận tình giúp đỡ tôi

trong suốt quá trình để tôi có thể hoàn thành tốt đề tài này.
Lãnh đạo cán bộ Phòng Kế Hoạch và Đầu Tư tỉnh Đăk Lăk đã giúp đỡ và cung cấp
những thông tin cần thiết để tôi có thể hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp của mình.
Các cô chú, anh chị đang công tác tại phòng nông nghiệp UBND phường Khánh
Xuân, phòng nông nghiệp UBND xã Hòa Thuận đã giúp đỡ tôi trong quá trình thực tập.
Các cô, chú trong hợp tác xã và hộ nông dân đã giúp tôi trong quá trình điều tra,
thu thập số liệu ở các xã, phường trong thành phố.
Dù tôi đã cố gắng nhiều nhưng vì thời gian thực tập có hạn và kiến thức còn hạn
chế nên không tránh được những sai sót. Tôi rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của
thầy cô và bạn bè.Một lần nữa, Em xin chân thành cảm ơn!
Đắk Lắk, ngày 29 tháng 05 năm 2015
Sinh

viên

Phạm Thị Lan

thực

hiện


MỤC LỤC

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
STT
1
2
3
4

5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21

Chữ viết tắt
BNNPTNT
BVTV
CNC
CNH-HĐH
ĐBSCL
ĐVT
GTSX
HTX
KH
KHKT


LĐGĐ
NK
NNCNC
NNUDCNC
PTNN
SX
SXNN
UDCNC
UDNNCNC
UBND

Diễn giải
Bộ nông nghiệp phát triển nông thôn
Bảo vệ thực vật
Công nghệ cao
Công nghiệp hóa – hiện đại hóa
Đồng bằng sông Cửu Long
Đơn vị tính
Giá trị sản xuất
Hợp tác xã
Khoa học
Khoa học kỹ thuật
Lao động
Lao động gia đình
Nhân khẩu
Nông nghiệp công nghệ cao
Nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao
Phát triển nông nghiệp
Sản xuất
Sản xuất nông nghiệp

Ứng dụng công nghệ cao
Ứng dụng nông nghiệp công nghệ cao
Ủy ban nhân dân


DANH MỤC BẢNG BIỂU

DANH MỤC BIỂU ĐỒ


PHẦN MỘT: ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1. Lý do chọn đề tài
Để phát triển nông nghiệp thì Việt Nam cần phải đầu tư, áp dụng các công nghệ kỹ
thuật cao vào sản xuất nông nghiệp từ khâu chọn giống đến khâu tiêu thụ bảo quản. Phát
triển nông nghiệp công nghệ cao theo xu hướng của nền kinh tế đáp ứng quá trình công
nghiệp hóa - hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn. Để thúc đẩy nền kinh tế và phát triển
nông nghiệp, giải quyết những vấn đề về khối lượng hàng hóa không những đạt năng suất,
chất lượng cao mà còn đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của thị trường trong nước và
cả thị trường quốc tế thì việc ứng dụng công nghệ cao là một yêu cầu cấp bách đối với
nông nghiệp nước ta hiện nay.
Ở Việt Nam, phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao đã bắt đầu từ những
năm 90 của thế kỷ trước, điển hình cho sự ứng dụng đầu tiên ở tỉnh Lâm Đồng về trồng
rau, hoa. Sau đó là các khu, vùng, tổ chức sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao
được hình thành ở Tây Bắc, Đồng Bằng Sông Hồng, Duyên Hải Nam Trung Bộ, Đông
Nam Bộ (Bùi Thị Ngọc Dung, 2013). Đây là bước ngoặt quan trọng đánh dấu cho sự phát
triển nông nghiệp hiện đại ở nước ta. Tuy nhiên, các mô hình ứng dụng công nghệ cao còn
ở quy mô và mức đầu tư hạn chế, nhận thức người sản xuất, thị trường cung ứng công
nghệ, giá thành cao, sản xuất manh mún, thị trường tiêu thụ sản phẩm UDCNC, chính sách
chưa phù hợp,… nên chưa thu hút được các nhà đầu tư trong và ngoài nước sẵn sàng đầu tư
vốn, kỹ thuật sản xuất (Nguyễn Lan, 2014).

Thành phố Buôn Ma Thuột là trung tâm chính trị, kinh tế và văn hoá của tỉnh Đắk
Lắk, đồng thời là trung tâm giao lưu kinh tế - văn hoá xã hội quan trọng của vùng Tây
Nguyên và cả nước. Buôn Ma Thuột đã và đang có những đóng góp quan trọng vào sự phát
triển về kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng an ninh của tỉnh Đắk Lắk nói riêng và Tây
Nguyên nói chung. Nằm giữa cao nguyên Nam Trung Bộ, kinh tế của thành phố Buôn Ma
Thuột tăng trưởng tương đối khá: giai đoạn: 2006 – 2010 GDP tăng bình quân tăng 17,51%,
giai đoạn 2011-2013: tăng bình quân 17,92%, trong đó nông - lâm nghiệp chiếm 7,02%.


Năm 2013, giá trị sản xuất nông nghiệp tăng trưởng khá, đạt gần 3 ngàn tỷ đồng, tăng 1,5%
so với năm 2012 (Hữu Phú, 2014).
Để ổn định và nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống nông dân, từng bước giảm dần
khoảng cách giữa người dân nông thôn và thành thị, đồng thời tạo ra sản phẩm đáp ứng nhu
cầu đô thị ngày một phát triển. Thành phố Buôn Ma Thuột cần thể hiện tính tiên phong về
ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất với những sản phẩm chất lượng, năng suất và có
tính cạnh tranh cao. Trong những năm qua ngành nông nghiệp của thành phố Buôn Ma
Thuột đã phối hợp nghiên cứu và đầu tư thí điểm một số mô hình sản xuất nông nghiệp ứng
dụng công nghệ cao, bước đầu đã đem lại hiệu quả kinh tế rõ rệt. Điển hình phát triển nhất
trong việc ứng dụng nông nghiệp công nghệ cao trong cây cà phê, rau hoa đây là tiền đề
thúc đẩy phát triển nền nông nghiệp của thành phố có tính đột phá, tính cạnh tranh cao và
tính bền vững. Bên cạnh đó phát triển sản xuất nông nghiệp của thành phố Buôn Ma Thuột
còn chưa toàn diện và bền vững. Do áp lực về mặt dân số tăng nên nhu cầu về các mặt
hàng cũng tăng, không những đòi hỏi về chất lượng mà còn phải đa dạng hóa các loại hàng
hóa trên thị trường. Trong khi đó diện tích đất canh tác nông nghiệp đang ngày càng thu
hẹp do chuyển đổi phát triển các ngành tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp và dịch vụ;
phương thức sản xuất thì còn nhỏ lẻ, manh mún. Một số mặt hàng nông sản tăng về số
lượng và giá trị nhưng thu nhập của người dân ở các vùng sản xuất nông nghiệp vẫn không
tăng; chất lượng hàng nông sản, cạnh tranh trên thị trường chưa cao, sản xuất chưa gắn chặt
với chế biến, tiêu thụ, vẫn còn một số mặt hàng nông sản chưa đảm bảo an toàn, giá cả các
mặt hàng nông sản còn thấp và bấp bênh…từ những vấn đề trên đặt ra những khó khăn cho

sản xuất nông nghiệp Việt Nam nói chung và thành phố Buôn Ma Thuột nói riêng (UBND
thành phố Buôn Ma Thuột, 2013a).
Xuất phát từ những vấn đề trên, để hiểu rõ hơn về “Phát triển sản xuất nông nghiệp
ứng dụng công nghệ cao tại thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đăk Lăk ” tôi chọn đề tài
này nghiên cứu làm chuyên đề tốt nghiệp.

1.2. Mục tiêu nghiên cứu
• Khái quát thực trạng phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao ở thành phố
Buôn Ma Thuột;


• Xác định các yếu tố tác động đến phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao và
đề xuất các giải pháp phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao ở thành phố Buôn
Ma Thuột.


PHẦN HAI: TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
2.1. Cơ sở lý luận
2.1.1. Cơ sở lý luận về phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao
2.1.1.1. Công nghệ cao
Khái niệm
Hiện nay, thuật ngữ công nghệ cao (CNC) hiện đang được sử dụng rộng rãi trên thế
giới không chỉ trong ngành nông nghiệp mà còn ở các ngành khoa học công nghệ khác.
Nhưng hầu như tất cả mọi người, đặc biệt là người dân vẫn chưa hiểu rõ thế nào là công
nghệ cao? Có thể trong quá trình sản xuất người dân ứng dụng công nghệ cao trong nông
nghiệp nhưng họ lại không biết đó là công nghệ cao. Vậy công nghệ cao là gì? Công nghệ
cao thực chất là chỉ một công nghệ hay một kỹ thuật hiện đại, tiên tiến được áp dụng vào
quy trình sản xuất nhằm tạo ra sản phẩm có năng suất, chất lượng cao, giá thành hạ. Ví dụ
như sử dụng giống mới trong quá trình sản xuất; trồng xen canh các loại cây ăn quả, cây
che bóng; bón phân chuồng, phân vi sinh; sử dụng thuốc bảo vệ thực vật đúng cách; tưới

bằng béc (tưới phun mưa), tưới nhỏ giọt; trồng xen canh cây che bóng có tiêu; sử dụng
phương pháp sấy sản phẩm, trồng cây trong nhà lưới, nhà lồng…
Công nghệ cao là công nghệ có hàm lượng cao về nghiên cứu khoa học và phát triển
công nghệ; được tích hợp từ thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại; tạo ra sản phẩm có
chất lượng, tính năng vượt trội, giá trị gia tăng cao, thân thiện với môi trường; có vai trò
quan trọng đối với việc hình thành ngành sản xuất, dịch vụ mới hoặc hiện đại hóa ngành
sản xuất, dịch vụ hiện có (Nguyễn Phú Trọng, 2008).
Hoạt động công nghệ cao
Hoạt động CNC là hoạt động nghiên cứu, phát triển, tìm kiếm, chuyển giao, ứng dụng
CNC; đào tạo nhân lực CNC; ươm tạo CNC, ươm tạo doanh nghiệp CNC; sản xuất sản
phẩm, cung ứng dịch vụ CNC; phát triển công nghiệp CNC (Nguyễn Phú Trọng, 2008).
Sản phẩm công nghệ cao
Sản phẩm CNC là sản phẩm do công nghệ cao tạo ra, có chất lượng, tính năng vượt
trội, giá trị gia tăng cao, thân thiện với môi trường (Nguyễn Phú Trọng, 2008).
2.1.1.2. Nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao


Khái niệm nông nghiệp công nghệ cao
Tại Ấn Độ, thuật ngữ nông nghiệp công nghệ cao (NNCNC) đã ra đời từ rất lâu (tháng
2 năm 1999) với định nghĩa như sau: Tất cả các kỹ thuật nông nghiệp hiện đại, tiên tiến, ít
phụ thuộc vào môi trường, tập trung vốn cao và có khả năng làm gia tăng năng suất và chất
lượng nông sản. Các kỹ thuật hiện đại này bao gồm: giống cây trồng biến đổi gen, vi nhân
giống, sản xuất giống lai, phương pháp tưới và bón phân nhỏ giọt, quản lý dịch hại tổng hợp,
canh tác hữu cơ, trồng cây không cần đất, trồng cây trong nhà kính, kỹ thuật chuẩn đoán
nhanh bệnh virus, phương pháp phun tiên tiến, công nghệ cao sau thu hoạch và ảo quản
(Hoàng Anh, 2011).
Theo ông Nguyễn Thơ (2013) cho rằng: NNCNC là nông nghiệp có hàm lượng cao về
nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, được tích hợp từ các thành tựu khoa học và công
nghệ hiện đại như công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ tin học, công nghệ
tự động…Ngoài ra còn thể hiện ở việc quản lý và nhân lực.

Là nền nông nghiệp áp dụng công nghệ hiện đại, trong đó tạo mọi điều kiện thuận lợi
để cây trồng phát triển tốt, tiến tới năng suất tiềm năng, đảm bảo chất lượng sản phẩm; bảo
quản nông sản tốt và tổ chức sản xuất hợp lý để đạt hiệu quả kinh tế cao được gọi là
NNCNC (Viện Thổ nhưỡng Nông hóa, 2013).
Quan điểm của ông Dương Hoa Xô được trích dẫn trong báo nông nghiệp Việt Nam
(2006): NNCNC là nền nông nghiệp được áp dụng những công nghệ mới vào sản xuất bao
gồm công nghiệp hoá nông thôn (cơ giới hoá các khâu của quá trình sản xuất), tự động hóa,
công nghệ thông tin, công nghệ vật liệu mới, công nghệ sinh học và các giống cây trồng vật
nuôi có năng suất có chất lượng cao, đạt hiệu quả cao trên một đơn vị diện tích hiệu quả
cao trên một đơn vị diện tích và phát triển bền vững trên cơ sở hữu cơ (Hải Ninh, 2006).
Từ những khái niêm trên, NNCNC là một nền nông nghiệp có sử dụng các công nghệ
thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ tự động hóa, công nghệ
sau thu hoạch và công nghệ quản lý nhằm tăng năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh
tranh cao của nông sản hàng hóa, đảm bảo phát triển bền vững.


Khái niệm nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao
Trong đề án PTNN CNC đến năm 2020, BNNPTNT đã đưa ra khái niệm: Nông
nghiệp ứng dụng công nghệ cao (NNUDCNC) là nền nông nghiệp sử dụng CNC trong sản
xuất sản phẩm nông nghiệp hàng hóa có chất lượng, năng suất vượt trội, giá trị gia tăng cao
và thân thiện với môi trường (Nguyễn Phú Trọng, 2008).
Nhiệm vụ của nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao
Phát triển CNC trong nông nghiệp tập trung vào các nhiệm vụ chủ yếu sau: Chọn tạo,
nhân giống cây trồng, vật nuôi cho năng suất, chất lượng cao; Phòng, trừ dịch bệnh; Trồng
trọt, chăn nuôi đạt hiệu quả cao; Tạo ra các loại vật tư, máy móc, thiết bị sử dụng trong
nông nghiệp; Bảo quản, chế biến sản phẩm nông nghiệp; Phát triển doanh nghiệp
NNUDCNC; Phát triển dịch vụ CNC phục vụ nông nghiệp.
Công nghệ cao trong nông nghiệp được hiểu là: áp dụng một cách hợp lý các kỹ thuật
tiên tiến nhất trong việc chọn, lai tạo ra giống cây trồng vật nuôi mới, chăm sóc nuôi dưỡng
cây, con bằng thiết bị tự động, điều khiển từ xa, chế biến phân hữu cơ vi sinh cho cây

trồng, thức ăn gia súc, gia cầm, thủy hải sản, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, công nghệ
tự động trong tưới tiêu, công nghệ chế biến các sản phẩm vật nuôi, cây trồng và xử lý chất
thải bảo vệ môi trường. Trong đó, công nghệ sinh học đóng vai trò chủ đạo (Nguyễn Phú
Trọng, 2008).
Chức năng của nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao
Một là khu trình diễn, vườn thực nghiệm nông nghiệp hiện đại hóa, là vườn ươm xí
nghiệp, chuyển hóa thành quả nghiên cứu khoa học công nghệ thành sức sản xuất, là nguồn
lan tỏa công nghệ cao mới.
Hai là trung tâm ứng dụng mở rộng, trung tâm phục vụ, trung tâm tập huấn các kết
quả nghiên cứu khoa học công nghệ, công nghiệp, thị trường có hàm lượng khoa học công
nghệ tương đối cao.
Ba là có thể thu hút một khối lượng sức lao động lớn của nông thôn, làm cho nông
thôn thành thị hóa, nông dân được công nhân hóa.
Bốn là thích ứng hóa với chức năng kinh doanh để các lĩnh vực từ trồng trọt, lâm
nghiệp, chăn nuôi, nuôi trồng chế biến, khoa học công nghiệp, thương mại, sản xuất, cung


ứng tiêu thụ được thống nhất. Làm cho sản xuất nông nghiệp thực hiện được khoa học hóa,
thâm canh hóa và trở thành đầu tàu của việc phát triển nông nghiệp kỹ thuật cao.
Năm là góp phần nâng cao năng lực của người nông dân, trang bị và làm cho họ có
được những tri thức khoa học (Nguyễn Phú Trọng, 2008).
Nội dung của nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao
Lựa chọn ứng dụng vào từng lĩnh vực sản xuất nông nghiệp hàng hoá, những công
nghệ tiến bộ nhất về giống, công nghệ canh tác, chăn nuôi tiên tiến, công nghệ tưới, công
nghệ thu hoạch - bảo quản - chế biến. Ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý, xây dựng
thương hiệu và xúc tiến thị trường.
Sản phẩm NNUDCNC là sản phẩm hàng hoá mang tính đặc trưng của từng vùng sinh
thái, đạt năng suất và hiệu quả kinh tế cao trên đơn vị diện tích, có khả năng cạnh tranh cao
về chất lượng với sản phẩm cùng loại trên thị trường trong nước và thế giới, còn điều kiện
mở rộng quy mô sản xuất và sản lượng hàng hoá khi có yêu cầu của thị trường.

Sản xuất NNUDCNC tạo ra sản phẩm phải theo một chu trình khép kín, khắc phục
được những yếu tố rủi ro của tự nhiên và hạn chế rủi ro của thị trường.
Phát triển NNUDCNC theo từng giai đoạn và mức độ phát triển khác nhau, tùy tình hình
cụ thể của từng nơi, nhưng phải thể hiện được những đặc trưng cơ bản, tạo ra được hiệu quả to
lớn hơn nhiều so với sản xuất bình thường (Nguyễn Phú Trọng, 2008).
2.1.2. Vùng sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao
2.1.2.1. Khái niệm
Vùng sản xuất NNUDCNC là nơi tập trung ứng dụng thành tựu của nghiên cứu và
phát triển CNC của các khu NNUDCNC vào lĩnh vực nông nghiệp để thực hiện nhiệm vụ
sản xuất một hoặc một vài nông sản hàng hóa và hàng hóa xuất khẩu chiến lược của quốc
gia (Bùi Thị Ngọc Dung, 2013).
2.1.2.2. Nhiệm vụ của vùng sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao
- Thực hiện sản xuất sản phẩm NNUDCNC.
- Liên kết các hoạt động nghiên cứu ứng dụng CNC vào sản xuất sản phẩm ứng dụng
CNC trong lĩnh vực nông nghiệp.


- Thu hút nguồn đầu tư, nhân lực CNC trong nước và ngoài nước thực hiện hoạt động
ứng dụng CNC trong nông nghiệp (Bùi Thị Ngọc Dung, 2013).
2.1.2.3. Điều kiện thành lập vùng nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao
- Là nơi sản xuất tập trung một hoặc một vài loại sản phẩm nông nghiệp hàng hóa ứng
dụng CNC thuộc danh mục CNC được ưu tiên đầu tư phát triển, phù hợp với chiến lược, kế
hoạch phát triển nông nghiệp và nhiệm vụ của vùng sản xuất NNUDCNC.
- Có quy mô diện tích, điều kiện tự nhiên thích hợp với từng loại nông sản hàng hóa
và hàng hóa xuất khẩu chiến lược; địa điểm thuận lợi để liên kết với các khu NNUDCNC.
- Hạ tầng kỹ thuật và dịch vụ thuận lợi đáp ứng yêu cầu của sản xuất ứng
dụng CNC trong lĩnh vực nông nghiệp.
- Tạo ra các sản phẩm nông nghiệp hàng hóa và hàng hóa xuất khẩu có chất lượng,
năng suất và hiệu quả kinh tế cao.
- Có nguồn nhân lực có kinh nghiệm trong sản xuất nông sản hàng hóa với số lao

động được đào tạo, tập huấn về CNC đang sử dụng đạt ít nhất 60% tổng số lao động nông
nghiệp trong vùng và có trình độ quản lý chuyên nghiệp.
- Áp dụng các biện pháp thân thiện với môi trường và quản lý chất lượng sản phẩm
nông nghiệp hàng hóa an toàn đạt tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật của Việt Nam hoặc quốc
tế (Bùi Thị Ngọc Dung, 2013).
2.1.3. Khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao
2.1.3.1. Khái niệm
Khu NNUDCNC là khu CNC tập trung thực hiện hoạt động ứng dụng thành tựu
nghiên cứu và phát triển CNC vào lĩnh vực nông nghiệp để thực hiện các nhiệm vụ: chọn
tạo, nhân giống cây trồng, giống vật nuôi cho năng suất, chất lượng cao; phòng, trừ dịch
bệnh; trồng trọt, chăn nuôi đạt hiệu quả cao; tạo ra các loại vật tư, máy móc, thiết bị sử
dụng trong nông nghiệp; bảo quản, chế biến sản phẩm nông nghiệp; phát triển doanh
nghiệp NNUDCNC và phát triển dịch vụ CNC phục vụ nông nghiệp (Nguyễn Phú Trọng,
2008).
2.1.3.2. Nhiệm vụ của khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao


- Thực hiện các hoạt động nghiên cứu ứng dụng, thử nghiệm, trình diễn mô hình sản
xuất sản phẩm NNUDCNC.
- Liên kết các hoạt động nghiên cứu, ứng dụng CNC, sản xuất sản phẩm ứng dụng
CNC trong lĩnh vực nông nghiệp.
- Đào tạo nhân lực CNC trong lĩnh vực nông nghiệp.
- Tổ chức hội chợ, triển lãm, trình diễn sản phẩm NNUDCNC.
- Thu hút nguồn đầu tư, nhân lực CNC trong nước và ngoài nước thực hiện hoạt động
ứng dụng CNC trong nông nghiệp (Nguyễn Phú Trọng, 2008).
2.1.3.3. Điều kiện thành lập khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao
- Phù hợp với chiến lược, kế hoạch phát triển nông nghiệp và nhiệm vụ của khu
NNUDCNC.
- Có quy mô diện tích, điều kiện tự nhiên thích hợp với từng loại hình sản xuất sản
phẩm nông nghiệp; địa điểm thuận lợi để liên kết với các cơ sở nghiên cứu, đào tạo có trình

độ cao.
- Hạ tầng kỹ thuật và dịch vụ thuận lợi đáp ứng yêu cầu của hoạt động nghiên cứu,
đào tạo, thử nghiệm và trình diễn ứng dụng CNC trong nông nghiệp.
- Có nhân lực và đội ngũ quản lý chuyên nghiệp (Nguyễn Phú Trọng, 2008).
2.1.4. Tổ chức sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao
2.1.4.1. Doanh nghiệp nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao
a. Khái niệm
Doanh nghiệp NNCNC là doanh nghiệp ứng dụng CNC trong sản xuất sản phẩm nông
nghiệp có chất lượng, năng suất, giá trị gia tăng cao (Nguyễn Phú Trọng, 2008).
b. Điều kiện công nhận là doanh nghiệp nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao
- Ứng dụng công nghệ cao thuộc Danh mục CNC được ưu tiên đầu tư phát triển quy
định tại Điều 5 của Luật CNC để sản xuất sản phẩm nông nghiệp.
- Có hoạt động nghiên cứu, thử nghiệm ứng dụng CNC để sản xuất sản phẩm nông
nghiệp.
- Tạo ra sản phẩm nông nghiệp có chất lượng, năng suất, giá trị và hiệu quả cao.


- Áp dụng các biện pháp thân thiện môi trường, tiết kiệm năng lượng trong sản xuất và
quản lý chất lượng sản phẩm nông nghiệp đạt tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật của Việt Nam;
trường hợp chưa có tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật của Việt Nam thì áp dụng tiêu chuẩn của tổ
chức quốc tế chuyên ngành (Nguyễn Phú Trọng, 2008).
c. Chế độ ưu đãi, hỗ trợ đối với doanh nghiệp nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao
- Hưởng mức ưu đãi cao nhất theo quy định của pháp luật về đất đai, thuế thu nhập
doanh nghiệp, thuế giá trị gia tăng, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu.
- Được xem xét hỗ trợ kinh phí nghiên cứu, thử nghiệm, đào tạo, chuyển giao công
nghệ từ kinh phí của Chương trình quốc gia phát triển CNC (Nguyễn Phú Trọng, 2008).
2.1.4.2. Hợp tác xã nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao
Hợp tác xã (HTX) NNUDCNC là một tổ chức của kinh tế hợp tác của những người
sản xuất NNUDCNC. Là tổ chức kinh tế tự chủ, do nông dân và những người lao động có
nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện cùng góp vốn, góp sức lập ra theo quy định của pháp luật

đề phát huy sức mạnh của tập thể và của từng xã viên nhằm giúp nhau thực hiện có hiệu
quả các hoạt động dịch vụ hỗ trợ cho kinh tế hộ gia đình của xã viên và kinh doanh trong
lĩnh vực sản xuất, chế biến, tiêu thụ sản phẩm nông, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản và
kinh doanh các ngành nghề khác ở nông thôn, phục vụ cho sản xuất nông nghiệp. HTX
NNUDCNC có thể là các tổ chức kinh tế hợp tác của nông dân, ít nhất trên 3 lĩnh vực: thứ
nhất là cung cấp các yếu tố đầu vào của sản xuất như phân bón, thuốc trừ sâu…hợp tác
trong khâu làm đất, thủy lợi, thứ hai trong lĩnh vực giải quyết đầu ra của sản xuất nông
nghiệp bao gồm hoạt động thu mua, chế biến, đóng gói và tiêu thụ nông sản ở thị trường
trong nước và thứ ba là trong lĩnh vực trực tiếp tổ chức sản xuất tập trung trong tr òng trọt,
chăn nuôi và thủy sản.
Điều kiện để trở thành xã viên của HTX NNUDCNC: Là công dân lao động nông
nghiệp hoặc lao động trong một số hoạt động gắn bó mật thiết với lĩnh vực nông nghiệp từ
18 tuổi trở lên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, là người dân sống trong cùng cộng đồng
nông thôn. Có hiểu biết về UDCNC trong sản xuất nông nghiệp.
HTX NNUDCNC có quyền lựa chọn về lĩnh vực, ngành nghề, quy mô sản xuất kinh
doanh, địa bàn hoạt động, quyết định cơ cấu tổ chức, thuê lao động, xuất nhập khẩu, phân


phối thu nhập, huy động vốn. Chủ động tổ chức các hoạt động kinh tế trong lĩnh vực nông
nghiệp theo khả năng, lợi thế và tập quán sản xuất, phát triển các ngành nghề khác nhau nhằm
đa dạng hóa kinh tế HTX (Hoàng Văn Hoan, 2012).
2.1.4.3. Hộ sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao
Hộ sản xuất NNCNC là những hộ ứng dụng CNC trong quá trình sản xuất nông
nghiệp có chất lượng, năng suất, giá trị gia tăng cao nhằm tăng thu nhập, tạo công ăn việc
làm và ổn định cuộc sống cho các hộ nông dân.
2.1.5. Yếu tố ảnh hưởng đến phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi các sản phẩm nông nghiệp đa dạng và đảm
bảo chất lượng nhằm đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng ở thị trường trong nước cũng
như nước ngoài. Các sản phâm nông nghiệp không những đóng vai trò quan trọng trong
ngành nông nghiệp mà còn là nguyên vật liệu cho các ngành công nghiệp, dịch vụ. Vì vậy,

đòi hỏi cần áp ụng phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao.
Trong nền kinh tế thị trường, hiện đại hóa trong nông nghiệp là vấn đề cấp thiết, cần
nâng cao giá trị của ngành nông nghiệp lên cao bằng cách cơ giới hóa trong nông nghiệp,
áp dụng các loại hình công nghệ mới vào sản xuất nông nghiệp dáp ứng nhu cầu thị trường.
Nhu cầu của thị trường, thị trường tiêu thụ: sản phẩm nông nghiệp làm ra phải có nhu
cầu, thị hiếu thì mới được sản xuất, nếu không có nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng thì
sản xuất đại trà không những làm lãng phí nguồn lực mà còn ảnh hưởng đến nền kinh tế
của nước ta. Cũng như phải có thị trường để tiêu thụ các sản phẩm nông nghiệp này, người
dân sản xuất mà không có nới tiêu thụ làm ảnh hưởng tới đời sống, thu nhập của người dân.
Năng suất chất lượng sản phẩm: nếu việc ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất
nông nghiệp làm cho năng suất chất lượng sản phẩm không cao thì người dân sẽ không áp
dụng bởi vì chi phí để đầu tư cho công nghệ cao lớn, áp dụng trên quy mô lớn, cần có đội
ngũ lao động có tay nghề cao,…nên trước khi áp dụng cần phải đánh giá xem hiệu quả của
việc ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp có mang lại là cao hay thấp, từ đó
mới đưa vào áp dụng thực tiễn.


Quy mô sản xuất: việc ứng dụng nông nghiệp công nghệ cao thường được ứng dụng
trên quy mô lớn, tập trung, quy mô quá nhỏ lẻ và manh mũn thì không thể áp dụng được vì
không đủ để thu hồi các khoản chi phí ban đầu.
Vốn: ứng dụng công nghệ cao cần có số lượng vốn lớn để chi phí cho đầu tư từ khâu
chọn giống đến khâu tiêu thụ, nên việc thu hút nguồn vốn đầu tư từ các doanh nghiệp trong
nước và nước ngoài là hết sức cần thiết, nếu dự án đưa ra không khả thi thì khó có thể thu
hút được nguồn vốn đầu tư. Vì vậy trước hết cần phải có quy mô tương đối lớn để có thể áp
dụng được nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao.
Nhân lực: đội ngũ nhân lực phải có trình độ tay nghề cao, được đào tạo, tập huấn kĩ
thuật để chuyển giao khoa học kĩ thuật, cũng như thực hiện trong quá trình sản xuất nông
nghiệp.
Phân bón, vật tư nông nghiệp: tùy vào loại đất để bón phân, phun thuốc cho cay trồng.
Nếu lượng phân bón quá nhiều hay quá ít cũng làm ảnh hưởng tới tình trạng của cây trồng,

làm cho năng suất cũng bị ảnh hưởng theo. Ví dụ như cây cà phê nếu bón quá nhiều phân
thì làm cho cây
Các nhân tố khác như là khoa học kĩ thuật, các chính sách nông nghiệp…làm ảnh
hưởng đến việc ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp.

2.2. Cơ sở thực tiễn
2.2.1. Kinh nghiệm về phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao ở một số nước
trên thế giới
2.2.1.1. Kinh nghiệm của Mỹ
Từ đầu thế kỉ XX, chính phủ Mỹ đã áp dụng những tiến bộ kĩ thuật vào nông nghiệp
để nâng cao năng suất và bắt đầu thời kì vàng son của nền Nông nghiệp Mỹ. Đầu những
năm 80 Hoa Kỳ đã có hơn 100 khu khoa học công nghệ dành cho nông nghiệp, là nơi ứng
dụng công nghệ sinh học với diện tích lớn nhất thế giới 49,8 triệu ha chiếm 55% diện tích
trồng cây chuyển gen trên toàn cầu (Ngô Nhân, 2013). Ngoài ứng dụng công nghệ sinh học
vào nông nghiệp thì Mỹ còn áp dụng cho tất cả các khâu của chuỗi sản xuất nông nghiệp
như công nghệ tưới tiêu, công nghệ cao trong canh tác và điều khiển cây trồng… Phát triển
“công nghệ cứng”, “công nghệ mềm”, trong đó quan trọng nhất là công nghệ quản lý và tổ


chức sản xuất, góp phần quản lý tốt hơn chất lượng nông sản, giúp nông sản có giá cao và
ổn định hơn. Chính phủ Mỹ còn sử dụng thiết bị tưới tiêu công nghệ cao, tập trung nghiên cứu
phát triển giống mới, trồng cây công nghệ sinh học với diện tích lớn nhất trên thế giới, nghiên
cứu sản xuất các giống cây trồng biến đổi gen (Christopher Conte, 2001).
2.2.1.2. Kinh nghiệm của Nhật Bản
Nhật Bản là một nước phát triển nông nghiệp theo hướng thâm canh với trình độ cơ
giới hóa, hóa học hóa, thủy lợi hóa và điện khí hóa vào hàng bậc nhất trên thế giới. Tập
trung vào các công nghệ tiết kiệm đất như: tăng cường sử dụng phân hóa học; hoàn thiện
công tác quản lý và kỹ thuật tưới tiêu nước cho lúa; lai tạo và đưa vào sử dụng đại trà giống
kháng bệnh, sâu rầy và chịu rét; nhanh chóng đưa sản xuất nông nghiệp sang kỹ thuật thâm
canh, tăng năng suất (Nguyễn Hồng Thư, 2013). Các viện nghiên cứu nông nghiệp của nhà

nước và địa phương được hình thành và liên kết với các trường đại học, các tổ chức sản
xuất nông nghiệp giúp nông dân tiếp cận công nghệ, trang thiết bị tiên tiến, giúp tăng năng
suất, chất lượng, đảm bảo nông nghiệp tăng trưởng ổn định (Ngô Nhân, 2013).
2.2.1.3. Kinh nghiệm của Israel
Israel lại được mệnh danh là “thung lũng Silicon” của thế giới trong lĩnh vực nông
nghiệp và công nghệ nước, là một trong những nước xuất khẩu nông sản hàng đầu thế giới,
khoảng 3 tỷ USD nông sản (Hoàng An, 2010). Đầu những năm 80 của thế kỷ 20, Israel đã
xây dựng được 10 khu nông nghiệp ứng dụng CNC với doanh thu từ trồng trọt đạt mức kỷ
lục 200.000 USD/ha. Công nghệ nhà kính có thể cho năng suất cà chua đạt 250 – 300
tấn/ha, bưởi đạt 100 – 150 tấn/ha, hoa cắt cành 1,5 triệu cành/ha. Sản
xuất nông nghiệp công nghệ cao đã tạo ra 1 giá trị sản lượng và thu nhập bình quân
120.000 –150.000 USD/ha/năm (Ngô Nhân, 2013). Kinh nghiệm xây dựng nền nông
nghiệp hiện đại của Israel là đầu tư cho khoa học kỹ thuật. Năm 1950, một nông dân Israel
cung cấp thực phẩm đủ cho 17 người, hiện đã là 90 người. Một ha đất hiện cho 3 triệu bông
hồng, hay 500 tấn cà chua/vụ. Một con bò cho tới 11 tấn sữa/năm (55 lít sữa/con/ngày) mức năng suất mà không một nước nào trên thế giới có được (Lê Ngọc Hồ, 2013). Để tăng
năng suất, chất lượng sản phẩm, tiết kiệm nhân công các máy móc thiết bị trong nông


nghiệp được cơ giới hóa, đặc biệt là hệ thống tưới tiêu trong nhà kính, nhà lưới là động lực
lớn nhất biến đổi toàn bộ nông nghiệp Israel (Nguyễn Cường, 2012).
2.2.1.4. Kinh nghiệm của Trung Quốc
Trong giai đoạn 1998-2006, Trung Quốc đã phát triển được 405 khu nông nghiệp ứng
dụng công nghệ cao từ cấp tỉnh trở lên và hàng ngàn cơ sở sản xuất nông nghiệp ứng dụng
công nghệ cao trong cả nước. Các khu này đóng góp trên 40% giá trị gia tăng của sản xuất
nông nghiệp, giá trị sản lượng bình quân từ 40.000 - 50.000 USD/ha/năm, gấp 40 - 50 lần
so với sản xuất cũ (Ngô Nhân, 2013). Chính phủ Trung Quốc đã xây dựng các khu
NNUDCNC với 3 đặc trưng cơ bản là: nơi sáng tạo phát triển mới của sản xuất nông
nghiệp; điểm tăng trưởng trong việc xây dựng mới hiện đại hóa nông nghiệp và tiếp điểm
của sự kết hợp giữa kinh tế nông nghiệp và kinh tế nông thôn (Hứa Việt Tiến, 2013). Coi
khoa học công nghệ là đòn bẩy, lấy đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật làm gốc; đầu tư cơ sở

hạ tầng hiện đại và đồng bộ; thu hút, khuyến khích doanh nghiệp tham gia vào đầu tư; mở
rộng hợp tác quốc tế để trao đổi công nghệ, thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa (NASATI, 2014).
2.2.2. Thực trạng các loại hình sản xuất ứng dụng công nghệ cao trong nông nghiệp ở
Việt Nam
2.2.2.1. Khu nông nghiệp ứng dụng CNC
Hiện nay, cả nước có 29 khu NNƯDCNC đã được xây dựng đi vào hoạt động và
quy hoạch tại 12 tỉnh/thành phố thuộc 7 vùng kinh tế, bao gồm:


Bảng 2. 1 :Hiện trạng các khu NNCNC đã và đang hoạt động ở Việt Nam

Vùng/tỉnh

Tên

Diện
Chủ đầu
tích

(ha)

Khu
NNƯDCNC
Mộc Châu

UBND
tỉnh

200


2.Hà Nội

Khu
NNƯDCNC
Cầu Diễn

UBND
TP

10,71

3.Hải Phòng

Khu
NNƯDCNC
Hải Phòng

UBND
TP

I. Tây Bắc
1.Sơn La

Năm xây dựng/
địa điểm
2004/Nông
trường Mộc
Châu

Vốn

đầu

(tỷ
đ)

Chức năng/sản phẩm

30,0

Nghiên cứu, SX, đào
tạo, chuyển giao/rau,
hoa, quả

23,7

Nghiên cứu, SX, đào
tạo, chuyển giao/rau,
hoa

23,8

Nghiên cứu, SX, đào
tạo, chuyển giao/rau,
hoa

II. ĐBSH

7,42

2004; Cầu

Diễn,
Từ Liêm
2006; TT giống
&phát triển
nông lâm
nghiệp

III. DHNTB
Khu
NNƯDCNC
Phú Yên

UBND
tỉnh

Khu
5.Khánh Hòa NNƯDCNC
Suối Dầu

UBND
tỉnh

4. Phú Yên

Nghiên cứu, SX, đào
tạo, chuyển giao;
460
21,77
giống mía, bông,
CAQ, gia súc, gia cầm

Nghiên cứu, SX, đào
2007; xã Suối
tạo, chuyển giao/giống
65,85 Cát, huyện Cam 32,0
lúa, ngô, rau, hoa,
Lâm
mía, điều, xoài, lợn, cá
2004; xã Hòa
Quang, huyện
Phú Hòa

IV. ĐNB
Nghiên cứu, SX, đào
NT Phan
UBND
tạo, chuyển giao, du
6.TPHCM
88,17
752,6
Văn Cội
TP
lịch/rau, hoa quả, cá
cảnh
Khu
Nghiên cứu, SX, đào
7.Bình
CTCP
2011; xã An
NNƯDCNC
471,0

380,9 tạo, chuyển giao/rau,
Dương
U&I
Thái, Phú Giáo
An Thái
quả, cây dược liệu
(Nguồn: Quy hoạch tổng thể phát triển khu, vùng NNƯDCNC cả nước - 2013)
2004; Nông
trường Phan
Văn Cội

- 7 khu đã đi vào hoạt động tại 7 tỉnh/thành phố thuộc 4 vùng KTNN là: Sơn La
(Tây Bắc), TP Hà Nội và TP Hải Phòng (vùng ĐBSH); Phú Yên và Khánh Hòa (vùng
DHNTB) và TP Hồ Chí Minh và Bình Dương (vùng ĐNB) (bảng 2.1).
+ Khu NNƯDCNC Mộc Châu được phê duyệt quy hoạch tại Quyết định số
2302/QĐ-UB ngày 18/8/2004 với quy mô 200 ha. Qua 8 năm xây dựng và phát triển, khu


đã thu hút được 04 nhà đầu tư sản xuất kinh doanh rau, hoa và quả theo hướng CNC của
khu vực và thế giới như: như Dưa Me Lon, năng suất đạt trên 80 tấn/ha ; Cà Chua đạt 150
tấn/ha; Dưa Chuột đạt 140 tấn/ha hàng năm sản xuất cung cấp ra thị trường từ 3 - 5 triệu
cành hoa Ly, hoa Tuy Líp, doanh thu trên 1ha canh tác đạt trên 1tỷ đồng. Đồng thời đã đào
tạo và tạo công ăn việc làm cho hàng nghìn lượt lao động theo thời vụ tại địa phương và
hàng trăm lao động tại địa phương có đủ khả năng làm chủ công nghệ mới đáp ứng yêu cầu
nguồn nhân lực nông nghiệp CNC với mức lương từ 2,5 - 3 triệu đồng/người/tháng.
+ Khu NNƯDCNC Hà Nội là khu NNƯDCNC đầu tiên của Việt Nam được xây
dựng với mục tiêu sản xuất giống rau, hoa, cây ăn quả theo công nghệ nuôi cấy mô Invitro
trong ống nghiệm, sau đó được ươm trong điều kiện vô trùng ở trong nhà kính rồi mới đem
ra bán ra thị trường. Đồng thời trực tiếp cung cấp khoảng 360 tấn rau sạch và 6 đến 7 triệu
bông hoa các loại. Dự án có tổng số vốn đầu tư lên tới 23,7 tỷ đồng, trong đó ngân sách

thành phố đầu tư hơn 10 tỷ đồng, HADICO chi vốn tự có 8 tỷ đồng xây dựng khu nhà kính
8.000m2 gồm hệ thống tưới phun, tưới nhỏ giọt, thông gió, hệ thống xử lý nước v.v... đều
được nhập đồng bộ từ Israel còn lại là vốn huy động.
Khu đưa vào sử dụng năm 2004 với 5.500 m2 trồng dưa chuột, cà chua, ớt ngọt đạt
năng suất cao hơn so với hộ nông dân 9 - 10 lần. Cà chua cho sản lượng 250 - 300
tấn/năm, ớt ngọt 200 tấn/năm. 2.000 m2 trồng hoa Ly đạt 50 bông/m2.
Tuy nhiên, sau 6 năm hoạt động, khu nông NNƯDCNC Hà Nội gặp quá nhiều vấn
đề mà trước đó chưa tính đến như: chi phí đầu tư quá lớn do nhập thiết bị ngoại 100%,
công nghệ chuyển giao chậm, trong quá trình vận hành luôn gặp trục trặc kỹ thuật, phải
mất 3 - 4 năm kỹ sư của Việt Nam mới xử lý được sự cố. Đặc biệt, dự án quy hoạch ở vị trí
không thuận lợi nên không hiệu quả. Mặt khác, mô hình này hầu như không có khả năng
nhân rộng vì chi phí vận hành quá tốn kém, giá thành sản phẩm cao nên rất khó tiêu thụ
nên đã ngừng hoạt động và thành phố đã dành đất để làm khu đô thị.
- Khu NNƯDCNC Hải Phòng được đầu tư xây dựng năm 2006 tại Trung tâm Giống
và Phát triển Nông lâm nghiệp với tổng số vốn đầu tư trên 22,5 tỉ đồng gồm: 8000m 2 nhà
kính hiện đại, 5.000m2 nhà lưới giản đơn và 12.000m2 đất canh tác ngoài trời, toàn bộ nhà
kính được nhập khẩu công nghệ trọn gói của Israel.


Mục tiêu của khu là bảo tồn cây ăn quả đầu dòng và vườn ươm cây giống, khu nuôi
cấy mô tế bào... Khu nhà lưới sản xuất rau an toàn, hoa và cây cảnh cho sản phẩm được 2 3 vụ, năng suất cà chua, dưa chuột bao tử đạt từ 200 - 250 tấn/ha, hoa hồng đạt 200 - 300
bông/m2.
Nhưng qua 6 năm hoạt động vẫn chưa đạt mục tiêu ban đầu của dự án. Nguyên
nhân là do khu nhập khẩu “trọn gói” từ nhà lưới, thiết bị đến kỹ thuật canh tác, giá cả rất
đắt và phụ thuộc. Khi đưa vào áp dụng quy trình sản xuất còn nhiều bất cập về thời tiết,
mùa vụ, dịch bệnh phát sinh...
Từ bài học đắt giá đầu tư và hiệu quả hoạt động của 2 khu NNƯDCNC Hà Nội Hải Phòng được xem là lớn nhất miền Bắc, bài học kinh nghiệm được rút ra là: không thể
phát triển nông nghiệp ứng dụng CNC theo kiểu nhập “nguyên đai nguyên kiện” công nghệ
của nước ngoài trong điều kiện nền nông nghiệp nước ta chưa thoát khỏi quy mô sản xuất
manh mún, nhỏ lẻ; hệ thống phân phối chưa hoàn chỉnh, các ngành công nghiệp phụ trợ

chưa phát triển và đặc biệt là thiếu đội ngũ quản lý và chuyên gia giỏi.
- Khu NNƯDCNC TP.Hồ Chí Minh: là địa phương đầu tiên xây dựng khu
NNƯDCNC theo mô hình đa chức năng, gắn nghiên cứu thực nghiệm, trình diễn, chuyển
giao công nghệ với ươm tạo doanh nghiệp NNƯDCNC đồng thời thu hút các doanh nghiệp
vào phát triển các loại hình sản xuất NNƯDCNC. Khu bắt đầu được xây dựng từ tháng
4/2004, có diện tích 88,17 được xây dựng tại xã Phạm Văn Cội, huyện Củ Chi, trong đó có
56,5 ha dành cho các doanh nghiệp NNƯDCNC. Tổng mức đầu tư từ ngân sách thành phố
là 152,6 tỷ đồng và khoảng 600 tỷ đồng của các doanh nghiệp.
Đến cuối năm 2012 đã có 14 dự án được chấp thuận đầu tư với tổng diện tích là
56,8ha (100% diện tích cho thuê), tổng vốn đầu tư hơn 452 tỷ đồng (bình quân khoảng gần
8 tỷ đồng/ha). Đây là một trong những khu NNƯDCNC đang hoạt động có hiệu quả nhất ở
Việt Nam.
- Khu NNCNC Khánh Hòa được UBND tỉnh Khánh Hòa ra Quyết định thành lập
ngày 24/6/2004 phê duyệt với diện tích 65,85 ha, tổng vốn đầu tư 32 tỷ đồng tại xã
Suối Cát, huyện Cam Lâm. Sau gần 4 năm xây dựng (từ 2/2007 đến 12/2010), khu đã
hoàn thành 12 hạng mục đầu tư cơ bản với số vốn 25,574 tỷ đồng (chiếm gần 80% tổng


vốn đầu tư cho khu). Hiện nay, khu NNCNC Khánh Hòa đã triển khai một số CNC
trong trồng trọt và chăn nuôi tại khu như:
+ Mỗi năm khu sản xuất được từ 70 - 80 tấn giống lúa nguyên chủng với các giống
chủ lực là: TH4, IR 17494, ML 202, ML48. Ngoài ra, Trung tâm đang khảo nghiệm gần
một chục giống lúa mới nguyên chủng để cung ứng giống cho các địa phương sản xuất ra
giống cấp 1 cung cấp cho các huyện trong tỉnh và tỉnh bạn. Cùng với giống lúa, Trung tâm
còn khảo nghiệm giống dưa lưới, đậu bắp với chất lượng cao, sản phẩm sạch bảo đảm an
toàn vệ sinh thực phẩm được một số công ty, siêu thị ở TP Hồ Chí Minh đặt hàng tiêu thụ
hết và xuất khẩu sang Nhật.
+ Sử dụng công nghệ tưới nhỏ giọt cho trên 3 ha xoài Úc và công nghệ tưới phun
tại gốc cho 8,7 ha xoài Úc.
+ Sản xuất lợn giống theo công nghệ chuồng kín trên diện tích 3,53 ha, hàng năm

cung cấp 1.000 lợn giống hậu bị cho các trại chăn nuôi trong tỉnh.
+ Sản xuất giống cây lâm nghiệp và sản phẩm rau hoa chất lượng cao trên diện
tích 13,07 ha. Áp dụng công nghệ nhân giống hoa Lan Mokara, hoa Cúc, hoa Đồng tiền
bằng phương pháp nuôi cấy mô với công suất 1,5 - 2,0 triệu bông/năm. Đồng thời áp
dụng công nghệ tưới phun sương cho hoa Lan Mokara và tưới phun mưa cho đậu bắp
Nhật trong nhà lưới. Sản xuất Keo lai và Phi lao bằng phương pháp giâm hom với số
lượng trên 200 nghìn cây sạch bệnh/năm cho trồng rừng.
- Khu NNƯDCNC Phú Yên được UBND tỉnh Phú Yên ra Quyết định phê duyệt số
3066/QĐ-UB Ngày 26/10/2004 với diện tích 460 ha tại thôn Thạch Lâm, xã Hòa Quang,
huyện Phú Hòa do Sở Khoa học và Công nghệ Phú Yên làm chủ đầu tư với tổng vốn đầu tư
đầu tư ban đầu 21,77 tỷ đồng bằng nguồn vốn ngân sách và vốn đầu tư ngành điện. Sau 4
năm triển khai xây dựng, ngày 8/1/2008, UBND tỉnh ra Quyết định số 55/QĐ-UBND điều
chỉnh, bổ sung nội dung thực hiện đầu tư giai đoạn 2 từ năm 2008 - 2012 với tổng mức đầu
tư là 64,95 tỷ đồng đồng.
- Khu NNƯDCNC tại Bình Dương: năm 2010, UBND tỉnh Bình Dương đã phê
duyệt xây dựng 3 khu NNƯDCNC là: khu An Thái 411,75 ha, khu Tiến Hùng 89,0 ha và
khu chăn nuôi bò sữa 471,0 ha. Ngay sau khi được Sở Tài nguyên Môi trường cấp giấy


chứng nhận Quyền sử dụng đất đối với khu đất thuộc dự án vào ngày 24/1/2011 công ty đã
đầu tư khoảng 50 tỷ đồng. Đến nay, công ty đã ứng dụng công nghệ tưới và bón phân tự
động của Israel để trồng các loại rau sạch và cao cấp trên diện tích 5 ha (bên trong và bên
ngoài nhà kính), gồm: cà chua, ớt chuông, cà tím, dưa lưới, đạt năng suất và chất lượng cao
với giá trị đạt 172 triệu đồng/ha. Sản phẩm của Unifarm được chứng nhận Global Gap và
hiện đã có mặt tại các chuỗi siêu thị lớn tại Việt Nam như: Metro, Saigon Coop, Big C.
2.2.2.2. Các doanh nghiệp NNƯDCNC
Hiện nay cả nước mới có 4 doanh nghiệp được Bộ NN&PTNT công nhận là doanh
nghiệp NNƯDCNC là: Công ty Cổ phần Công nghệ Sinh học Rừng Hoa Đà Lạt, Công ty
TNHH Agrivina (Dalat Hasfarm) và Công ty TNHH Đà Lạt G.A.P đều ở Lâm Đồng và
Công ty TH True Milk ở Nghệ An.

- Công ty Dalat Hasfarm là doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, được thành lập
năm 1994 và được coi là tiên phong trong việc trồng hoa quy mô công nghiệp tại TP Đà
Lạt và cả nước. Năm 2003, Agrivina - Dalat Hasfarm được đánh giá là một trong 5 dự án
nước ngoài đầu tư hoạt động hiệu quả nhất trên đất Đà Lạt. Và từ năm 2004, Dalat Hasfarm
được vinh dự trở thành thành viên duy nhất của Hiệp hội hoa Thế giới. Vào năm 2010,
Dalat Hasfarm đã đạt con số gần 100 triệu cành hoa các lọai, trong đó 30% sản lượng phục
vụ nhu cầu trong nước, 70% sản lượng được xuất khẩu đến các thị trường như: Nhật Bản,
Úc, Singapore, Đài Loan, Indonesia.
Với việc xuất khẩu thành công nhiều loại hoa cắt cành đi các nước, có thể nói Dalat
Hasfarm đã tạo nên diện mạo mới cho thị trường hoa Việt Nam với nhiều chủng loại đa
dạng, phong phú và nhiều màu sắc. Doanh thu năm 2012 khoảng 35 triệu USD và giải
quyết việc làm cho 1.700 lao động với thu nhập mỗi tháng từ 3,5 - 10 triệu đồng/người.
- Công ty CP Công nghệ Sinh học rừng hoa Đà Lạt, được thành lập vào tháng
10/2003 với chức năng nghiên cứu và ứng dụng KHKT trong lĩnh vực nông nghiệp, sản
xuất - kinh doanh xuất nhập khẩu sản phẩm nông nghiệp. Sau 10 năm hoạt động, với số
vốn ban đầu 250 triệu đồng đến nay công ty đã có vốn điều lệ 20 tỷ. Công ty đã ứng dụng
công nghệ nuôi cấy mô tế bào thực vật, sản xuất và quản lý công nghiệp, hợp tác kỹ thuật
với các chuyên gia và doanh nghiệp nước ngoài, ứng dụng thành công công nghệ xử lý hoa
tươi, giúp cho hoa kéo dài tuổi thọ, sắc màu và độ mềm mại đến hơn 5 năm. Công nghệ


này giúp cánh hoa mãi tươi thắm, màu sắc đa dạng, chủng loại phong phú: hoa hồng, hoa
lan, cẩm tú cầu, đồng tiền, salem, sao tím, lá các loại, cành và quả từ nguyên liệu thiên
nhiên.
- Công ty TNHH Dalat G.A.P đã đầu tư toàn bộ diện tích (4,8 ha trồng rau và 2,8 ha
sản xuất giống rau) đều được sản xuất trong nhà kính, trên giá thể, vỉ xốp và tưới nhỏ giọt
tự động. Vì vậy, không chỉ tiết kiệm phân bón, nước tưới, tăng năng suất mà sản phẩm rau
của Dalat G.A.P còn đạt tiêu chuẩn an toàn. Gần đây, Công ty Dalat G.A.P còn áp dụng
phương pháp khí canh (trồng cây trong không khí, không cần đất) để trồng cây khoai tây
lấy giống, tạo cây giống sạch và năng suất cao gấp 4 lần so với phương pháp truyền thống.

Trung bình 1 ha sản xuất rau sạch phải đầu tư khoảng 2 tỷ đồng, bao gồm hệ thống nhà
kính để ngăn côn trùng, dịch bệnh; hệ thống tưới tiêu; thuốc bảo vệ thực vật, phân bón theo
danh mục của Bộ NN&PTNT. Dù chi phí đầu tư cao, nhưng năng suất và hiệu quả kinh tế
rau sạch đem lại khá lớn, giá trị trung bình từ 1,2 tỷ đến 1,8 tỷ đồng/ha, lợi nhuận chiếm
khoảng 30%. Mỗi năm công ty sản xuất khoảng 350 tấn rau, trong đó 200 tấn ớt ngọt được
xuất khẩu sang Nhật Bản, còn lại tiêu thụ nội địa theo giá hợp đồng ổn định… Sản phẩm
rau, quả sạch của ông ty có thị trường khá ổn định thông qua các nhà phân phối uy tín như
Co.opMart, Metro…
- Công ty Công ty CP sữa TH (TH True Milk) được thành lập từ tháng 2/2010 tại
huyện Nghĩa Đàn, tỉnh Nghệ An với diện tích 37 nghìn ha và nuôi trên 30 nghìn con bò
sữa. Công ty áp dụng công nghệ quản lý đàn Afifarm của công ty SEAAfakim(Isael) – một
hệ thống quản lý trang trại bò sữa hiện đại nhất thế giới. Bò được đeo thẻ và gắn chip điện
tử ở chân để theo dõi tình trạng sức khỏe, chế độ dinh dưỡng và sản lượng sữa. Hệ thống
chuồng trại có mái che, gắn quạt, thức ăn được phân loại, nước được lọc để đảm bảo kiểm
soát toàn bộ thức ăn đầu vào cho bò. Đây là dự án đầu tư tư nhân lớn nhất trong lĩnh vực
nông nghiệp tại Việt Nam với tổng số vốn đầu tư lên tới 1,2 tỷ USD. Ngành nghề kinh
doanh chính là sản xuất, chế biến và tiêu thụ sữa tươi chất lượng cao. Công ty đã đầu tư và
hoàn thành chuỗi giá trị liên hoàn từ đồng cỏ xanh đến ly sữa sạch bao gồm quy hoạch
vùng nguyên liệu, nhà máy sản xuất thức ăn cho đến trang trại bò sữa, nhà máy chế biến
sữa tươi lớn nhất Đông Nam Á và hệ thống phân phối TH True Mart với những quy chuẩn


×