Tải bản đầy đủ (.docx) (42 trang)

tiểu luận kinh tế lượng 2 đánh giá các nhân tố ảnh hưởng đến xuất khẩu thủy sản của việt nam giai đoạn 2007 2016

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (566.5 KB, 42 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA KINH TẾ QUỐC TẾ
---------***--------

TIỂU LUẬN
KINH TẾ LƯỢNG

PHÂN TÍCH ẢNH HƯỞNG CỦA CÁC NHÂN TỐ ĐẾN SẢN
LƯỢNG XUẤT KHẨU THỦY SẢN CỦA VIỆT NAM

Hà Nội, 2018


MỤC LỤC


LỜI MỞ ĐẦU
Sau hơn 30 năm đổi mới và hội nhập, Việt Nam đã có những
bước phát triển mạnh mẽ, không ngừng tăng trưởng cả về quy mô và
tốc độ, từng bước công nghiệp hóa, hiện đại hóa, dần hội nhập vào
nền kinh tế toàn cầu.
Xuất khẩu tăng trưởng mạnh chính là một trong những yếu tố
quyết định đóng góp vào tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong thời
gian qua. Trong đó, với lợi thế của một quốc gia ven biển, thủy sản là
mặt hàng xuất khẩu đem lại giá trị kinh tế lớn. Thực tế cho thấy, kim
ngạch xuất khẩu thủy sản của Việt Nam có xu hướng tăng qua các
năm và luôn hoàn thành vượt mức chỉ tiêu đặt ra. Đặc biệt, việc Việt
Nam chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, tiến tới ký kết các hiệp
định thương mại, đẩy mạnh hợp tác song phương và đa phương đã
mở ra một không gian phát triển mới cho xuất khẩu thủy sản. Tuy
nhiên, xuất khẩu thủy sản của nước ta cũng gặp không ít khó khăn,


thách thức.
Nhận thức được tầm ảnh hưởng của xuất khẩu thủy sản tới nền
kinh tế, nhóm nghiên cứu đã thực hiện đề tài “Đánh giá các nhân tố
ảnh hưởng đến xuất khẩu thủy sản của Việt Nam giai đoạn 2007 2016”. Nghiên cứu này được thực hiện với mong muốn đưa ra những
phân tích, đánh giá mới nhất về những nhân tố tác động đến kim
ngạch xuất khẩu thủy sản của Việt Nam thông qua việc ứng dụng Mô
hình Lực hấp dẫn (Gravity Model) trong kinh tế, từ đó có những giải
pháp nhằm phát triển và nâng cao hiệu quả của xuất khẩu thuỷ sản
Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế, khi cơ hội và cạnh tranh
luôn tồn tại song song. Nghiên cứu này gồm những nội dung chính
sau:
Chương I. Tổng quan về tình hình xuất khẩu thủy sản của Việt
Nam
Chương II. Cơ sở lý thuyết và phương pháp luận
3


Chương III. Xây dựng mô hình phân tích các nhân tố ảnh hưởng
tới xuất khẩu thủy sản của Việt Nam
Chương IV: Đề xuất các phương án cải thiện tình hình xuất
khẩu thủy sản của Việt Nam
Trong quá trình thực hiện, bài nghiên cứu không tránh khỏi
những thiếu sót. Chúng em rất mong nhận được sự góp ý của cô để
nghiên cứu được hoàn thiện hơn nữa.
Chúng em xin chân thành cảm ơn!

4


CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH XUẤT

NHẬP THỦY SẢN Ở VIỆT NAM
1.1. Tình hình xuất khẩu thủy sản Việt Nam giai đoạn
2007 – 2016
Trong những năm qua, sản xuất thủy sản đã đạt được những
thành tựu đáng kể, tăng mạnh cả về sản lượng và giá trị. Kể từ thời
điểm Việt Nam chính thức gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới
(WTO), xuất khẩu thủy sản của Việt Nam liên tục đạt được mức kim
ngạch và tốc độ tăng khả quan trừ năm 2009. Cụ thể, khởi điểm năm
2006, xuất khẩu thủy sản đạt gần 3,4 tỷ USD, có mức tăng trưởng
cao 22,6%. Sang năm 2007, con số này đạt 3,76 tỷ USD, tăng 12,1%
so với năm trước. Đến năm 2009, do ảnh hưởng của khủng hoảng
kinh tế thế giới, xuất khẩu nhóm hàng này bị suy giảm (giảm 5,7%)
với mức kim ngạch là 4,25 tỷ USD. Trong năm 2010 và năm 2011,
xuất khẩu thủy sản khởi sắc với mức kim ngạch và tốc độ tăng lần
lượt là 5,02 tỷ USD, 18% và 6,11 tỷ USD, 21,8%. Số liệu Thống kê Hải
quan cho thấy trong năm 2012 xuất khẩu nhóm hàng này đạt 6,09 tỷ
USD, giảm nhẹ 0,4 % (tương ứng giảm 24 triệu USD về số tuyệt đối)
so với năm 2011.
Tuy nhiên, xuất khẩu thủy hải sản vẫn còn bị kìm hãm. Nguyên
nhân chính dẫn đến tình trạng này là: Nghề cá cho đến nay vẫn chưa
thoát khỏi hình bóng của một nghề cá thủ công, trình độ sản xuất
nhỏ lẻ, quy mô hộ gia đình, phát triển tự phát theo cơ chế thị trường.
Ngành thủy sản vẫn là một ngành khai thác tài nguyên tự nhiên theo
kiểu tận thu, trước sức ép của các vấn đề kinh tế xã hội của một
nước nghèo, chậm phát triển: sự gia tăng dân số nhanh, thiếu việc
làm, đói nghèo và sự khốc liệt trong kiếm tìm kế mưu sinh của các
cộng đồng dân cư ven biển. Bên cạnh đó, trong nhiều năm qua thủy
sản lấy xuất khẩu làm mũi nhọn, tạo nguồn để nhập khẩu thiết bị
công nghiệp hóa lĩnh vực chế biến thủy sản. Còn đối với các lĩnh vực
5



sản xuất nguyên liệu, việc đẩy mạnh xuất khẩu chỉ kích thích tính tự
phát sự gia tăng phát triển theo chiều rộng, tăng sản lượng lớn hơn
tăng chất lượng. Do thiếu các cơ chế, chính sách, thiếu tầm nhìn xa,
các thành quả từ xuất khẩu thủy sản đã không có tác động tích cực
tới phát triển công nghiệp, phát triển cơ khí nghề cá.
Một nguyên nhân khác tác động tới tăng trưởng thủy sản thời kỳ
qua là các cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực và toàn cầu. Do ảnh
hưởng từ khủng hoảng, nhu cầu tiêu thụ các mặt hàng thủy sản giảm
ở hầu khắp các thị trường; nguồn vốn trong và ngoài nước đều bị hạn
chế. Thống kê của VASEP cho thấy, hiện nay có khoảng 70% doanh
nghiệp CBTS có nguy cơ phá sản hoặc làm ăn kém hiệu quả do thiếu
vốn, điều này đã tác động mạnh, ngược trở lại lĩnh vực sản xuất
nguyên liệu thủy sản ảnh hưởng chung đến tăng trưởng và chất
lượng tăng trưởng toàn ngành.
Công tác dự báo thị trường tiêu thụ ngoài nước còn rất hạn chế:
Thời gian qua, các doanh nghiệp tự xoay sở trong cơ chế thị trường,
tự tìm đầu ra cho sản xuất. Do không chủ động được thị trường nhiều
doanh nghiệp sản xuất cầm chừng, không thể xây dựng được chiến
lược kinh doanh, chiến lược sản phẩm. Nguyên nhân của tình trạng
này chủ yếu do thiếu kiến thức thương mại thị trường, thiếu vốn đầu
tư, thiếu các chính sách hỗ trợ đúng đắn, kịp thời của Nhà nước về
marketting về dự báo thị trường. Mặt khác công tác thống kê thủy
sản bị buông lỏng suốt thời gian dài, không có sự quan tâm đầu tư
của Nhà nước, số liệu đầu vào theo chuỗi thời gian không có, hoặc
chắp vá với chuỗi thời gian quá ngắn không thể làm cơ sở dữ liệu
phân tích dự báo chính xác cho từng thị trường cũng như từng sản
phẩm thủy sản.
Công tác xúc tiến thương mại hỗ trợ cho xuất khẩu thủy sản

bước đầu có hiệu quả và phát huy tác dụng. Công tác phát triển thi
̣trường chủ yếu thông qua các hoạt động xúc tiến thương mại thường
xuyên đã và đang được quan tâm như tham gia các hôị chợ, triển
6


lãm thủy sản tại các thị trường lớn như Mỹ, EU, Trung Quốc và Nhật
Bản ... và kết hợp tổ chức các sựkiêṇ quảng bá sản phẩm taị các thi
̣trường thế giới; đối với trong nước, hàng 9 năm có tổ chức hôị
chợthủy sản quốc tế (VIETFTISH) tại thành phố Hồ Chí Minh. Chính
nhờ các hoaṭ động này đã và đang thu được kết quả khả quan, tạo
điều kiện cho nhà nhập khẩu, nhà phân phối và các nhà quản lý các
nước hiểu biết hơn về thủy sản Việt Nam, kích thích hoạt động ký kết
các hợp đồng mua bán hàng thủy sản Việt Nam trong giai đoạn qua.
Hình 1. Biểu đồ 20 thị trường xuất khẩu thủy hải sản hàng đầu của Việt Nam,
giai đoạn 2007 – 2016

Nguồn: Trademap.org
Qua biểu đồ ta thấy, EU, Mỹ, Nhật Bản và Trung Quốc là bốn thị trường xuất
khẩu thủy hải sản hàng đầu của nước ta trong giai đoạn 2007 – 2016, tiếp sau đó là
Hàn Quốc, ASEAN,... Cơ cấu xuất khẩu hàng thủy sản của Việt Nam xuất ra thế giới
chủ yếu là nhóm hàng cá đông lạnh (mã HS 03.03); phi lê cá & các loại thịt cá khác
(HS 03.04); tôm đã và chưa chế biến (HS 16.05 và HS 03.06); mực, bạch tuộc... (HS
06.07); và cá ngừ đã được chế biến (HS 16.04).

7


Ông Trương Đình Hòe, Tổng Thư ký VASEP nhìn nhận, để xuất khẩu thủy sản
mang về 7 tỷ USD trong năm 2016 (tăng 6,3% so năm 2015) cần nỗ lực vượt qua

nhiều thách thức. Hiện tại mặt hàng tôm đang chịu áp lực cạnh tranh và giảm giá bán
của nhiều nước; tuy nhiên cái được là sự tác động tích cực từ hiệp định FTA đối với
việc xuất khẩu sang Hàn Quốc, Nhật Bản, EU, ASEAN… Thế nhưng cái khó là chi phí
sản xuất tôm của Việt Nam quá cao, bởi đầu vào phụ thuộc các nguồn cung cấp từ
nước ngoài (như con giống, thức ăn, thuốc thú y).
1.2. Tổng quan tình hình xuất khẩu thủy sản của Việt
Nam đến các thị trường chủ lực

Hình 2. Cơ cấu thị trường xuất khẩu thủy sản của Việt Nam năm 2016

Nguồn: Tổng cục hải quan
Theo số liệu thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, năm 2016 xuất khẩu thủy
sản của cả nước đạt 7,05 tỷ USD, tăng 7,31% so với năm 2015.
Hoa Kỳ, EU và Nhật Bản vẫn là những thị trường đứng đầu về tiêu thụ thủy sản
của Việt Nam; trong đó xuất sang Hoa Kỳ chiếm 20,4% trong tổng kim ngạch, đạt 1,44
tỷ USD, tăng 9,7% so với năm 2015; xuất sang EU chiếm 17%, đạt gần 1,2 tỷ USD;
xuất sang Nhật Bản chiếm 15,6%, đạt 1,1 tỷ USD, tăng 6% so với năm 2015; sau đó là
Trung Quốc chiếm 9,7%, đạt 685,1 triệu USD, tăng 52%; Hàn Quốc chiếm 8,6%, đạt
608 triệu USD, tăng 6,3%; Australia chiếm 2,6%, đạt 186 triệu USD, tăng 9% so với
năm 2015.
Nhìn chung, xuất khẩu thủy sản trong năm 2016 sang đa số các thị trường chủ
lực đều đạt mức tăng trưởng dương so với năm 2015; trong đó đáng chú ý là xuất khẩu
thủy sản Indonesia mặc dù kim ngạch không lớn (4,8 triệu USD) nhưng so với năm
2015 (đạt 2,8 triệu USD) thì đạt mức tăng mạnh trên 72%. Bên cạnh đó, xuất sang
Trung Quốc cũng tăng mạnh gần 52%, I-rắc tăng 43,5% (từ 8,7 triệu USD năm 2015
lên 12,5 triệu USD năm 2106), Ucraina tăng 34,3%.

Hình 3. Giá trị xuất khẩu thủy sản của Việt Nam tới 3 thị trường chủ lực giai
đoạn 2007 – 2016 (Đơn vị: Triệu USD)


8


Nguồn: Tổng cục hải quan
Việt Nam luôn nỗ lực đa dạng hoá thị trường xuất khẩu nhằm mở rộng khả năng
tiêu thụ và nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng thuỷ sản Việt Nam. Nhật Bản, Mỹ,
EU là những thị trường xuất khẩu thuỷ sản chủ yếu của Việt Nam nhưng vị trí của các
thị trường này cũng biến động theo thời gian. Giai đoạn từ năm 2007 – 2012, EU liên
tục giữ vị trí là nhà nhập khẩu thủy sản lớn nhất của Việt Nam. Tuy nhiên, tốc độ tăng
trưởng dường như không ổn định bởi vì năm 2012 thị phần tôm xuất khẩu sang EU
giảm xuống còn âm 24,91%, sau đó mới hồi phục trở lại trong năm 2013 là 24,85% và
đột ngột tăng nhanh trong năm 2014, lên đến 70% rồi lại giảm xuống trong năm 2015
còn 19,7%. Sự dao động trong xuất khẩu tôm sang thị trường EU cũng làm gia tăng
mối lo ngại về sự xuất khẩu ổn định cho ngành thủy sản của Việt Nam.
Đối với thị trường Nhật Bản, Nhật Bản luôn là thị trường xuất khẩu thủy sản lớn
của Việt Nam với tỷ trọng ổn định ở mức trên dưới 20% trong tổng giá trị kim ngạch
xuất khẩu. Tuy nhiên xuất khẩu hiện nay cũng gặp nhiều khó khăn bên cạnh nguyên
nhân đến từ việc thị trường tiêu thụ kém, giá xuất khẩu hạ, biến động của đồng Yên…
thì nguyên nhân chủ yếu là do Nhật Bản ngày càng áp dụng nhiều tiêu chuẩn nghiêm
ngặt về an toàn vệ sinh thực phẩm. Bên cạnh đó, hiện nay các doanh nghiệp thương
mại của Nhật đang có xu hướng tìm nguồn nhập khẩu với giá rẻ hơn từ các nước khác
như Ấn Độ, Indonesia.
Là trung tâm của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, giai đoạn năm 2008 - 2009,
Hoa Kỳ đã tụt xuống hàng thứ 3 về nhập khẩu thủy sản của Việt Nam. Tỷ trọng của thị
trường Hoa Kỳ giảm từ 20,4% xuống 16,5% trong cơ cấu thị trường xuất khẩu của
Việt Nam do nhu cầu tiêu thụ và nhập khẩu của nước này giảm. Sau đó từ năm 2009 –
2011, xuất khẩu thủy sản sang Hoa Kỳ tăng ổn định qua các năm và đặc biệt, năm
2012 chứng kiến việc Hoa Kỳ chính thức vượt EU trở thành thị trường dẫn đầu về
nhập khẩu hàng thủy sản của Việt Nam với kim ngạch đạt 1,17 tỷ USD, chiếm 19,2%
trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng thủy sản của cả nước và vẫn tiếp tục dẫn đầu đến

năm 2016. Thị trường Hoa Kỳ dẫn đầu thủy sản xuất khẩu Việt Nam ở 4 mặt hàng là
tôm, cá tra, cá ngừ và cua ghẹ. Kim ngạch của xuất khẩu của 4 mặt hàng này chiếm
trên 95,7% trong tổng kim ngạch xuất khẩu thủy sản Việt Nam sang thị trường này
trong năm 2013, trong đó tôm chiếm 54,7%, cá tra chiếm 25%, cá ngừ chiếm 12,3% và
9


cua ghẹ chiếm khoảng 3,5%. Thị trường Hoa Kỳ năm 2014 đang có những dấu hiệu
tích cực, trong khi xét trên toàn cảnh xuất khẩu thủy sản Việt Nam thì hầu hết các mặt
hàng xuất khẩu trong đầu năm 2014 đều giảm (trừ mặt hàng tôm) thì ở thị trường Hoa
Kỳ, các mặt hàng chính xuất khẩu đều tăng trong đó có tôm và cá tra (hai mặt hàng
chiếm 80% trong tổng kim ngạch xuất khẩu thủy sản) có mức tăng trưởng mạnh (tôm
tăng 163%, cá tra tăng 44,6%).
Trong 3 thị trường chính của xuất khẩu thủy sản Việt Nam là Hoa Kỳ, EU, Nhật
Bản thì thị trường Hoa Kỳ có mức tăng trưởng mạnh nhất trong năm 2013 và đầu năm
2014 (tăng 27,4% trong năm 2013 và 87,8% trong tháng 1 năm 2014) và góp phần
quan trọng trong thành tích của xuất khẩu thủy sản Việt Nam (năm 2013 tăng 9,6% và
trong tháng 1 năm 2014 tăng 19,9%). Động lực chính của sự tăng trưởng này chủ yếu
là do mức tăng trưởng mạnh của mặt hàng tôm và sự hồi phục của nền kinh tế Hoa Kỳ
trong năm 2013 và năm 2014.

10


CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ PHƯƠNG PHÁP
LUẬN
2.1. Mô hình hấp dẫn trong thương mại (Gravity Model)
Mô hình hấp dẫn trong thương mại quốc tế là mô hình lý thuyết phổ biến được
nhiều nhà nghiên cứu kinh tế sử dụng để đo lường và phân tích các yếu tố ảnh hưởng
đến xuất khẩu giữa hai hay nhiều quốc gia với nhau trong nhiều năm qua. Mô hình hấp

dẫn thương mại trong thương mại quốc tế đầu tiên được sử dụng để đo lường giá trị
xuất khẩu giữa hai quốc gia với nhau, do hai nhà khoa học Tinbergen (1962) và
Poyhonen (1963) xây dựng dựa vào mô hình lực hấp dẫn giữa hai vật của nhà vật lý
học Newton (1687) như sau:

1 =G*
Trong đó:
: Giá trị xuất khẩu của QGXK A sang QGNK B
: Quy mô nền kinh tế của quốc gia A và B (đo lường bằng GDP). GDP của quốc
gia xuất khẩu A đại diện cho khả năng sản xuất hàng hóa xuất khẩu. GDP của quốc gia
nhập khẩu B đại diện cho mức thu nhập bình quân của quốc gia nhập khẩu.
: Khoảng cách địa lý giữa quốc gia A và B. Khoảng cách địa lý được tính từ thủ
đô hoặc trung tâm kinh tế của quốc gia xuất khẩu A đến thủ đô hoặc trung tâm kinh tế
của quốc gia nhập khẩu B, đại diện cho chi phí vận chuyển và thời gian giao hàng.
G: hằng số.
Logarith (ký hiệu L) cả hai vế phương trình (1), ta có thể chuyển đổi thành một
công thức tuyến tính sử dụng cho phân tích kinh tế lượng như sau:
(2)
Phương trình (2) cho thấy, giá trị xuất khẩu hàng hóa từ quốc gia xuất khẩu A
sang quốc gia nhập khẩu B chịu ảnh hưởng bởi GDP của quốc gia xuất khẩu, GDP của
quốc gia nhập khẩu và khoảng cách địa lý giữa quốc gia A và B. Mô hình (2) được
xem là mô hình lý thuyết nền tảng để lượng hóa các yếu tố ảnh hưởng đến xuất khẩu
11


giữa hai hay nhiều quốc gia với nhau. Từ nghiên cứu ban đầu của Tinbergen (1962) và
Poyhonen (1963), các nhà nghiên cứu sau đó bổ sung thêm các biến giải thích khác đó
là: Dân số chính sách, khoảng cách địa lý, tương đồng về văn hóa giữa các nước, cùng
sử dụng chung ngôn ngữ, cùng sử dụng chung loại tiền tệ, thành viên của các tổ chức
thương mại, .... Mô hình lực hấp dẫn thương mại quốc tế của Bergstrand (1985) phản

ánh được đầy đủ các yếu tố nêu trên, đây cũng là mô hình tổng quát nhất và được các
nhà nghiên cứu vận dụng nhiều nhất.
Tuy vậy, hạn chế của mô hình này nằm trong một giả thiết ẩn: đó là sự đồng nhất
trong sở thích tiêu dùng giữa các nước cũng như sự tương tự trong hệ thống thương
mại và cấu trúc thuế của các nước. Bergstand (1985) đã có những đóng góp quan trọng
trong việc chứng minh mô hình lực hấp dẫn này chính là mô hình rút gọn cân bằng cục
bộ trong cân bằng tổng thể với các loại sản phẩm quốc gia khác biệt. Baldwin (1994)
cũng đã sử dụng mô hình này để xem xét những nhân tố chính ảnh hưởng đến kim
ngạch thương mại hàng hóa chế biến. Deadorff (1995) tìm ra cơ sở lý luận của mô
hình lực hấp dẫn chính là nội dung của lý thuyết về thương mại quốc tế của HechsherOhlin. Helpman (1998) cho rằng mô hình lực hấp dẫn sẽ rất thích hợp trong nghiên
cứu về thương mại nội ngành và sẽ là phương tiện tốt nhất để xác định những yếu tố
ảnh hương đến kim ngạch thương mại các quốc gia. Như những nghiên cứu trên từng
xác định, chúng em cũng cho rằng GDP (của cả nước xuất khẩu và nước nhập khẩu
hàng hóa) sẽ ảnh hưởng tích cực đến khối lượng xuất khẩu của Việt Nam sang các
nước khác. Trong khi đó, khoảng cách địa lý không có tác động rõ rệt lên xuất khẩu.
Lý thuyết về thương mại quốc tế còn chỉ ra sự biến động của tỷ giá cũng ảnh
hưởng đến xuất khẩu. Phá giá đồng nội tệ sẽ thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu khi mà
giá hàng xuất khẩu rẻ một cách tương đối. Vì vậy, thay đổi tỷ giá cũng ảnh hưởng
tương đối đến xuất khẩu của Việt Nam.
Nhiều nghiên cứu kinh tế cho thấy hai quốc gia có khoảng cách địa lý nhỏ thì
kim ngạch xuất khẩu giữa hai nước đó thưởng gia tăng. Điều đó có thể lí giải là do chi
phí vận chuyển thấp và có cùng hay tương tự sở thích tiêu dùng của người tiêu dùng ở
hai nước này.
Cuối cùng, Hiệp định thương mại tự do (FTA) hay các thỏa thuận tương tự giữa
các nước thành viên của những khối kinh tế cũng tác động đến xuất khẩu. Những nước
12


tham gia FTA hay cùng là thành viên của một khối kinh tế thường được cho là có
nhiều cơ hội tiếp cận thị trường của các thành viên khác trong cùng khối. Hiệp định và

kim ngạch thương mại giữa hai nước sẽ gia tăng, Carrere (2006) cho rằng những Hiệp
định khu vực có ảnh hưởng tích cực, làm gia tăng kim ngạch thương mại giữa các
thành viên so với các quốc gia khác trên thế giới.
2.2. Phương pháp nghiên cứu mô hình kinh tế lượng:
2.2.1. Phương pháp thu thập số liệu và xử lý số liệu:
a. Các nguồn thu thập số liệu:
Các biến được mô tả trong bảng dưới đây, trong đó tổng thu nhập kinh tế quốc
dân cũng như các nước nhập khẩu thủy hải sản ở Việt Nam (GDP) và dân số tương
ứng (POP) giai đoạn 2007-2016, được lấy từ World Development Indicators (WDI).
Giá trị xuất khẩu (Export) được thu thập từ Trung tâm Thương mại Quốc tế ITC
-Trade map Khoảng cách từ Việt Nam tới các nước xuất khẩu thủy, hải sản (distance):
từ trang Distance from to (DFT).
Các hiệp định liên quan (FTA, TPP) được thu thập ở các nguồn báo chính thống.
Các
biến

Mô tả các biến
trong mô hình

Nguồn

GDPi,
GDPj

Tổng thu nhập nền WDI
kinh tế trong nước ( />và các nước khác
a/source/world-developmentindicators#)

POPi,
POPj


Dân số Việt Nam và WDI
nước ngoài
( />a/source/world-developmentindicators#)

Export
value

Giá trị xuất khẩu

Trung tâm Thương mại Quốc tế ITC
Trade
Map
( />spx?
AspxAutoDetectCookieSupport=1)
13


Distance

Khoảng cách từ Việt DFT:
Nam đến các nước />xuất khẩu
tance-from-vietnam-country

b. Phương pháp phân tích - tổng hợp
Phương pháp phân tích tổng hợp là nghiên cứu các tài liệu, lí luận khác nhau về
vấn đề xuất khẩu thủy hải sản Việt Nam giai đoạn 2007-2016 để tìm hiểu sâu sắc hơn
về vấn đề này và những đóng góp của ngành nuôi trồng- xuất khẩu thủy sản tới nền
kinh tế Việt Nam.


c. Phương pháp phân tích số liệu:
Nguồn dữ liệu: là nguồn dữ liệu thứ cấp.
Ngoài các nguồn được đề cập bên trên phần “Các nguồn thu thập dữ liệu”, tiểu
luận còn sử dụng các nguồn dữ liệu từ bên ngoài, cụ thể là các bài viết được đăng trên
các tạp chí, các báo cáo, giáo trình, sách, luận án, luận văn, đề tài nghiên cứu, các
website liên quan…
2.2.2. Phương pháp xây dựng mô hình:
Nhóm dựa vào mô hình phân tích định tính và định lượng để phân tích nhân tố
ảnh hưởng đến kim ngạch xuất khẩu thủy sản – một trong số 10 ngành hàng xuất khẩu
chủ lực của Việt Nam.
Sau khi nghiên cứu tổng quan các nghiên cứu liên quan đến đề tài, xác định vấn
đề nghiên cứu, trên cơ sở nghiên cứu các mô hình lý thuyết, các lý thuyết, nghiên cứu
thực nghiệm về các yếu tố ảnh hưởng đến xuất khẩu, xây dựng giả thuyết và mô hình
lý thuyết lượng hóa các yếu tố ảnh hưởng đến XKTS Việt Nam- Nước ngoài, nhóm đã
tiến hành xây dựng mô hình hấp dẫn trong thương mại (Gravity Model) và mô hình
định lượng dựa trên số liệu về 93 nước nhập khẩu thủy sản từ Việt Nam. Sau khi mô
hình được xây dựng, những kiểm định đã được thực hiện để xác định lại tính phù hợp
của các giả thuyết và mô hình lý thuyết với điều kiện thực tiễn và đồng thời loại bỏ các
giả thuyết không phù hợp.

14


CHƯƠNG 3: XÂY DỰNG MÔ HÌNH PHÂN TÍCH CÁC
NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI XUẤT KHẨU THỦY
SẢN Ở VIỆT NAM
3.1. Tổng quan về các nhân tố ảnh hưởng tới xuất khẩu
thủy sản ở Việt Nam
3.1.1. Ảnh hưởng GDP tới kim ngạch xuất khẩu thủy
hải sản của Việt Nam ra nước ngoài

Thủy sản là một trong mười hàng hóa xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Năm
2014, giá trị XKTS đạt 7,84 tỷ USD, chiếm khoảng 5,2% tổng giá trị xuất khẩu của
Việt Nam, đứng thứ 5 sau các mặt hàng: Điện thoại các loại và linh kiện; máy vi tính,
hàng hóa điện tử và linh kiện; hàng dệt may; giày dép các loại. giá trị XKTS tăng bình
quân khoảng 493 triệu USD/năm.
Nghiên cứu hàng năm ở giai đoạn 2006 – 2014 của 26 quốc gia Âu Mỹ và Việt
Nam với 243 quan sát cho thấy, giá trị xuất khẩu thủy sản Việt Nam chịu nhiều ảnh
hưởng từ GDP, cụ thể là: GDP của Việt Nam (+0,48), GDP của quốc gia nhập khẩu
(+0,55). GDP mang lại cả ảnh hưởng tích cực thuận chiều và ngược chiều tới kim
ngạch xuất khẩu thủy sản của nước ta.

a. Tác động thuận chiều:
Hình 3. Kim ngạch xuất khẩu thủy hải sản của Việt Nam 2005-2014

15


Hình 4. Tăng trưởng GDP và GDP đầu người qua các năm

Trong giai đoạn 2007 – 2011, GDP Việt Nam tăng liên tục qua các năm nhưng
tốc độ tăng có một số biến động. Cụ thể, tốc độ tăng trưởng GDP/ người giảm mạnh từ
6,3% xuống 5,3% vào năm 2009 do tác động của khủng hoảng kinh tế, sau đó phục hồi
dần vào năm 2011. GDP thể hiện quy mô nền kinh tế, do đó nguồn cung thủy sản xuất
khẩu của Việt Nam phụ thuộc vào GDP.
Từ biểu đồ hình 3 và 4 ta có thể thấy tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu
thủy sản có xu hướng biến động khá giống với tốc độ tăng trưởng GDP. Xuất khẩu
thủy sản đạt tốc độ tăng trưởng cao vào năm 2008 nhưng ngay năm sau đã sụt giảm
.Năm 2010 và 2011, kim ngạch tăng trưởng mạnh mẽ trở lại giống như xu hướng của
GDP của nền kinh tế. Từ thực tế trên, ta kỳ vọng GDP của Việt Nam có tác động cùng
chiều tới xuất khẩu thủy sản.

Tương tự như nhóm yếu tố ảnh hưởng đến cung, đối với các nước nhập khẩu
thủy sản của Việt Nam. Nhìn chung các nước nhập khẩu nhiều thủy sản Việt Nam là
các nước có GDP đạt mức cao
16


Trong số liệu thu được từ World bank, trong những năm gần đây 4 trong số 5
nước nhập khẩu thủy sản hàng đầu của Việt Nam là Mỹ, Hàn Quốc, Trung Quốc, Đức
đều đạt tốc độ tăng trưởng GDP rất đáng kể giai đoạn 2007-2016. GDP tăng trưởng
nhanh thể hiện sức cầu của thị trường lớn, vì thế kim ngạch xuất khẩu thủy sản của
Việt Nam cũng tăng nhanh trong giai đoạn này. Năm 2009, GDP của các nước bạn
hàng nhập khẩu thủy sản của Việt Nam đều giảm sâu về tốc độ tăng trưởng do tác
động của khủng hoảng kinh tế. Trong 10 nước nhập khẩu thủy sản lớn nhất của Việt
Nam, 8 nước có tốc độ tăng trưởng âm. Tốc độ tăng trưởng của kim ngạch xuất khẩu
thủy sản cũng có cùng xu hướng giảm mạnh. Tuy nhiên GDP của các nước nhập khẩu
đã tăng nhanh trở lại vào năm 2010 và 2011, kéo theo tốc độ tăng trưởng xuất khẩu
tăng lên đạt mức cao (gần 22%). GDP các nước nhập khẩu tăng, nhu cầu tiêu thụ cho
các mặt hàng thủy hải sản cũng tăng lên, thúc đẩy kim ngạch xuất khẩu thủy hải sản
Việt Nam tăng, đồng thời làm tăng lên những nguồn lực khác để thúc đẩy tiếp ngành
xuất khẩu thủy hải sản.
Qua những phân tích trên, ta có thể kỳ vọng GDP của nước nhập khẩu có tác
động cùng chiều tới kim ngạch xuất khẩu thủy sản.
Tuy nhiên điều này cũng tạo nên những bất lợi khi GDP Việt Nam hoặc các nước
nhập khẩu giảm. Ta có thể thấy điều đó qua việc đánh giá sự tăng trưởng năm 2009 năm tồi tệ của việc tăng trưởng GDP Việt Nam trong giai đoạn 2007-2016. Tình hình
chung của các nước là bị ảnh hưởng của cuộc khủng khoảng toàn cầu, điều nào đã tạo
nên một sự chao đảo không nhỏ trong việc xuất khẩu thủy hải sản Việt Nam vì các
nước nhập khẩu đang bị khủng hoảng kinh tế khiến nhu cầu tiêu thụ thủy hải sản giảm
mạnh.

b. Tác động nghịch chiều:

Việc GDP 2 bên tăng khiến chon nhu cầu đánh bắt, chế biến và xuất khẩu thủy
hải sản tăng lên, từ đó có thể tạo ra những thách thức cho Việt Nam như sau:
Chênh lệch giữa quy mô, khối lượng sản xuất và giá trị xuất khẩu của thủy hải
sản Việt Nam tăng lên do kĩ thuật công nghệ chưa đáp ứng được nhu cầu sản xuất
Đời sống của người lao động chưa được cải thiện và ô nhiễm môi trường gia tăng
(do GDP tăng phần lớn vì công nghiệp ở Việt Nam phát triển hơn, đồng nghĩa với môi
17


trường bị ảnh hưởng xấu hơn). Cơ hội về thu nhập và việc làm dựa vào xuất khẩu thủy
sản chưa thật sự bền vững. Nguyên nhân chủ yếu là do chất lượng lao động trong sản
xuất – xuất khẩu thủy sản chưa cao, thiếu kiến thức kinh doanh, không đáp ứng yêu
cầu thực tiễn.
Tất cả những thách thức trên là những tác động nghịch chiều có thể kéo kim
ngạch xuất khẩu thủy hải sản của Việt Nam xuống trong khi GDP tăng nếu như không
có những biện pháp được đưa ra để cải thiện chất lượng sản xuất và lao động.
3.1.2. Ảnh hưởng của quy mô dân số đến sản lượng
xuất khẩu thủy sản Việt Nam
Quy mô dân số của các quốc gia có tỷ lệ thuận so với hoạt động xuất khẩu của
các nước, đặc biệt là các nước đang phát triển. Quy mô dân số của một quốc gia càng
lớn, nhu cầu tiêu thụ càng lớn, khối lượng tiêu thụ càng lớn, khả năng đảm bảo kinh
doanh càng cao, cơ hội thương mại lớn. Tóm lại, quy mô dân số lớn sẽ mang nhiều cơ
hội hấp dẫn hơn cho các doanh nghiệp trong hoạt động thương mại.
Trong các nước đối tác có 6 nước nằm trong danh sách 15 nước đông dân nhất
thế giới, đó là: Philippines, Indonesia, Mỹ, Nhật Bản, Ấn Độ và Nga -> Việt Nam đang
hoạt động xuất khẩu đến những thị trường có quy mô lớn và có thể được coi là 1 thuận
lợi trong hoạt động xuất khẩu nước ta.
3.1.3. Tác động của khoảng cách địa lý đối với xuất
khẩu thủy sản ở Việt Nam
Đây là yếu tố ban đầu trong mô hình hấp dẫn 19 thương mại truyền thống và là

yếu tố nền tảng tạo nên tên gọi của mô hình. Khoảng cách giữa quốc gia xuất và nhập
khẩu càng gần thì có khả năng “hấp dẫn” nhau tốt hơn và thương mại với nhau nhiều
hơn các quốc gia ở xa nhau. Theo cách tiếp cận này thì yếu tố này có tác động ngược
chiều lên kim ngạch xuất khẩu của quốc gia. Vì là yếu tố nền tảng nên hầu hết các
nghiên cứu sau này đều sử dụng biến số này trong mô hình. Khoảng cách địa lý càng
lớn càng gây ra nhiều vấn đề trong vận chuyển hàng hóa giữa hai quốc gia như rủi ro
trong vận tải và bảo hiểm hàng hóa, từ đó gia tăng chi phí. Ngoài ra, khi vận chuyển
những hàng hóa có trọng lượng lớn trong điều kiện khoảng cách địa lý xa thì các vấn
đề vận chuyển hàng hóa cần có bảo hiểm, điều này cũng làm tăng chi phí trong giao
dịch thương mại giữa hai quốc gia có khoảng cách địa lý lớn. Khoảng cách địa lý có
18


tác động đến nhiều ngành hàng và mặt hàng xuất khẩu, không chỉ riêng xuất khẩu thủy
sản Việt Nam.
3.1.4. Tác động của các hiệp định thương mại đối với
xuất khẩu thủy sản ở Việt Nam
Ngành thủy sản Việt Nam có nhiều lợi thế và cơ hội xuất khẩu
khi tham gia TPP và FTA.
Đối với mặt hàng thủy sản, Hiệp định FTA xóa bỏ thuế quan hoàn
toàn (trừ cá ngừ đóng hộp và cá viên), cá ngừ đóng hộp áp dụng hạn
ngạch thuế quan là 11.500 tấn; trong Hiệp định CPTPPP, Canada và
Peru xóa bỏ thuế quan hoàn toàn về 0% ngay khi hiệp định có hiệu
lực, một số nước khác cắt giảm thuế theo lộ trình..
Việc ký kết FTA và TPP là cơ hội để các doanh nghiệp thủy sản
Việt Nam mở rộng thị trường xuất khẩu, đặc biệt là các thị trường
mới như Canada, Peru, Mexico…Đồng thời, nâng cao khả năng cạnh
tranh của hàng thủy sản Việt Nam so với nhiều đối thủ chưa tham
gia các FTA.
Mỹ, EU, Nhật Bản và Hàn Quốc chiếm tới 64,4% tổng giá trị xuất

khẩu thủy sản của Việt Nam. Vì thế, sự tham gia của các đối tác kinh
tế quan trọng trên vào các hiệp định thương mại đã đem lại những
lợi ích, cơ hội lớn cho xuất khẩu thủy sản Việt Nam. Các nước thành
viên tham gia TPP được giảm hơn 90% các loại thuế xuất nhập khẩu
hàng hóa. Đó sẽ là điều kiện tốt cho các doanh nghiệp xuất khẩu
thủy hải sản.
Hiệp định FTA Việt Nam – Hàn Quốc được ký kết giúp nâng khả
năng cạnh tranh của Việt Nam với Trung Quốc, Thái lan và Ecuador
(phải chịu thuế 20%).
Khi Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh Hải
quan (gồm Nga, Belarus và Kazakhstan) - Hiệp định VCUFTA - đi vào
thực thi, thủy sản là nhóm hàng được hưởng ưu đãi thuế ngay lập tức
19


từ khi Hiệp định có hiệu lực. Hầu hết các sản phẩm thủy sản đều
được bỏ thuế ngay khi hiệp định có hiệu lực
Với 11 nước thành viên tham gia TPP cùng Việt Nam là: Mỹ, Nhật
Bản, Canada, Australia, Singapore, Mexico, Malaysia, Newzealand,
Chile, Peru và Brunei đều là những đối tác quan trọng của thủy sản
Việt Nam. Đa số các nước đối thủ với Việt Nam đều chưa ký FTA với
các nước đối tác trên nên đây sẽ là lợi thế cạnh tranh về mặt thuế
nhập khẩu cho thủy sản Việt Nam. Ví dụ: với thị trường Hàn Quốc,
Việt Nam có lợi thế hơn so với đối thủ cạnh tranh trong ASEAN (Thái
Lan, Indonesia, Malaysia) và Trung Quốc. Đối với Liên minh Kinh tế Á
– Âu: Việt Nam là nước đầu tiên ký FTA nên có cơ hội cạnh tranh hơn
các nước đối thủ.
Đối với thị trường Mỹ: Việt Nam đều có lợi thế cạnh tranh hơn khi
Hiệp định TPP có hiệu lực vì các nước đối thủ như Ấn Độ, Ecuador,
Philippine Thái Lan, Indonesia đều không tham gia hiệp định.

Đối với thị trường EU: các nước đối thủ như Ấn Độ, Thái Lan,
Indonesia, Philippine đều chưa ký FTA song phương mà chỉ được
hưởng ưu đãi thuế quan theo GSP. Việt Nam cũng như một số nước
đối thủ cạnh tranh như Ấn Độ, Thái Lan, Phillipines, Indonesia rất dễ
đạt ngưỡng trưởng thành của GSP trong thời gian tới. Do vậy, khi FTA
VN – EU có hiệu lực Việt Nam sẽ có lợi thế so với hầu hết các nước
SXXK cạnh tranh.
Ngoài các lợi thế về mặt thuế quan, ngành thủy sản Việt Nam
cũng có thêm nhiều cơ hội thu hút đầu tư nước ngoài, nâng cao công
nghệ sản xuất và chất lượng sản phẩm.
Các doanh nghiệp cũng có điều kiện tham gia vào chuỗi cung
ứng khu vực nhờ sự dịch chuyển đầu tư của các tập đoàn đa quốc gia
và đa dạng hóa nguồn cung nguyên liệu. Đặc biệt, việc tham gia các
FTA thế hệ mới yêu cầu Nhà nước phải cải cách thể chế, từ đó doanh
nghiệp có môi trường kinh doanh ổn định và minh bạch hơn.
20


Tuy nhiên, bên cạnh những lợi thế, FTA và TPP cũng đem đến
một số thách thức nhất định. Cụ thể, doanh nghiệp Việt Nam phải
cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài ngay tại thị trường nội
địa; đối mặt với các các hàng rào kỹ thuật, tiêu chuẩn chất lượng và
quy tắc xuất xứ khá chặt chẽ.
Hơn nữa, trong bối cảnh tự do hóa thương mại toàn cầu thì lợi
thế cạnh tranh về thuế quan chỉ mang tính giai đoạn, doanh nghiệp
Việt Nam cần phải nhanh chóng đổi mới công nghệ để có thể tham
gia vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu mới có thể phát triển
bền vững.
3.2. Mô hình định lượng phân tích các nhân tố ảnh
hưởng tới xuất khẩu thủy sản ở Việt Nam

Xem xét sự phụ thuộc của sản lượng xuất khẩu thủy sản của Việt
Nam vào:
-

GDPi (của Việt Nam)
GDPj (của nước đối tác),
POPi (dân số Việt Nam),
POPj (dân sô nước đối tác),
Biến giả FTA (Việt Nam và nước đối tác có kí hiệp định thương mại tự

-

do FTA hay không)
Biến giả TPP (Việt Nam và nước đối tác có kí hiệp định TPP hay

-

không)
Biến giả ASEAN (nước đó thuộc ASEAN hay không)
Biến giả EU (nước đó thuộc EU hay không)
Biến giả EAEU (nước đó thuộc EAEU hay không)
Dist (khoảng các 2 nước)
3.2.1. Mô hình tổng thể:

• Phương trình hồi quy tổng thể (PRF) có dạng :
lnExport = β1+ β2 x lnGDPi + β3 x lnGDPj + + β4 x lnPOPi – β5
x lnPOPj + β6 x FTA + β7 x TPP + β8 x ASEAN + β9 x EU + β10 x
EAEU + β11 x lnDist + i
• Phương trình hồi quy mẫu (SRF) có dạng :
21



= β1+ β2 x lnGDPi + β3 x lnGDPj + + β4 x lnPOPi – β5 x
lnPOPj + β6 x FTA + β7 x TPP + β8 x ASEAN + β9 x EU + β10 x EAEU
+ β11 x lnDist
Các biến, thước đo biến, đơn vị của các biến được giải thích ở
bảng sau:
Tên
biến
Exp

Giải thích

Đơn vị

Dấu kì vọng

Sản lượng xuất khẩu thủy
sản của Việt Nam
GDP Việt Nam

Nghìn
USD
USD

+

GDPj
GDP nước đối tác
POPi

Dân số Việt Nam
POPj
Dân số nước đối tác
Biến giả VN và nước đó kí FTA. = 1
FTA
nếu có kí, = 0 nếu không

Biến giả VN và nước đó kí TPP. = 1
TPP
nếu có kí, = 0 nếu không

Biến giả Nước đối tác có thuộc
ASEAN
ASEAN hay không. = 1 nếu
thuộc, = 0 nếu không
thuộc
Biến giả Nước đối tác có thuộc EU
EU
hay không. = 1 nếu thuộc,
= 0 nếu không thuộc
Biến giả Nước đối tác có thuộc
EAEU
EAEU hay không. Giá trị =
1 nếu thuộc, = 0 nếu
không thuộc
Dist
Khoảng cách 2 nước (Việt
Nam tới nước đối tác)

USD

Người
Người

+
+
+
+

GDPi

Chạy hồi quy:
• Sử dụng lệnh reg trong stata ta được:

22

+

+
+

+
+

Km

+


Hình 4. Kết quả chạy lệnh reg


Từ kết quả trên ta có:
• Phương trình hồi quy tổng thể (PRF) có dạng :
lnExport = -102.7598 + - 0.5438438 x lnGDPi + 0.0758407 x
lnGDPj + 6.284335 x lnPOPi – 0.1502104 x lnPOPj + 2.272868 x
FTA + 1.440752 x TPP – 4.581887 x ASEAN – 0.5049757 x EU –
3.936982 x EAEU + 1.059283 x lnDist +

i

• Phương trình hồi quy mẫu (SRF) có dạng :
= -102.7598 + - 0.5438438 x lnGDPi + 0.0758407 x lnGDPj +
6.284335 x lnPOPi – 0.1502104 x lnPOPj + 2.272868 x FTA +
1.440752 x TPP – 4.581887 x ASEAN – 0.5049757 x EU – 3.936982
x EAEU + 1.059283 x lnDist
Phân tích kết quả chạy hồi quy :
- R-Squared = 0.0631, tức là các biến GDP, dân số Việt Nam và
nước đối tác, FTA, TPP, ASEAN, EU, EAEU, Dist giải thích được 6.31%


Giá trị p-value của biến lnGDPi, lnPOPi, EU lớn hơn mức ý nghĩa α =
0.1
23


 Không có cơ sở để bác bỏ H0  biến GDPi, POPi và EU có thể
không ảnh hưởng đến sản lượng xuất khẩu thủy sản của Việt Nam
đến các nước.
Ý nghĩa của các tham số trong mô hình:
β1 = -102.7598, có nghĩa là trong điều kiện các nhân tố khác
không đổi và các biến độc lập bằng không, sản lượng xuất khẩu của

Việt Nam sẽ là –102.7598 USD. Tuy nhiên, hệ số chặn này không có ý
nghĩa thực tế, vì không có trường hợp GDP, dân số, khoảng cách địa
lý đều bằng 0. – Không có ý nghĩa thống kê
β2 = - 0.5438438, không có ý nghĩa thống kê
β3 = 0.0758407, không có ý nghĩa thống kê
β4 = 6.284335, không có ý nghĩa thống kê
β5 = – 0.1502104, có nghĩa là trong điều kiện các nhân tố khác
không đổi, dân số của nước đối tác tăng 1%, sản lượng xuất khẩu
thủy sản của nước ta giảm 0.15021014%
β6 = 2.272868, có nghĩa là trong điều kiện các nhân tố khác
không đổi nếu Việt Nam và nước đối tác tham gia kí kết hiệp định
thương mại tự do FTA, sản lượng xuất khẩu Thủy sản của Việt Nam
tăng 227,2868%
β7 = 1.440752, có nghĩa là trong điều kiện các nhân tố khác
không đổi, nếu Việt Nam và nước đối tác tham gia kí kết hiệp định
TPP, sản lượng xuất khẩu thủy sản của Việt Nam tăng 144.0752%
β8 = - 4.581887, có nghĩa là trong điều kiện các nhân tố khác
không đổi, nếu nước đối tác thuộc ASEAN, sản lượng xuất khẩu thủy
sản của Việt Nam giảm 458.1887%

24


β9 = – 0.5049757, không có ý nghĩa thống kê
β10 = – 3.936982, có nghĩa là trong điều kiện các nhân tố khác
không đổi, nếu nước đối tác thuộc khối liên minh Kinh tế Á Âu, sản
lượng xuất khẩu thủy sản của Việt Nam giảm 393.6982%
β11 = 1.059283, có nghĩa là trong điều kiện các nhân tố khác
không đổi, khoảng cách giữa 2 nước tăng lên 1%, sản lượng xuất
khẩu của nước ta tăng 1.059283%

3.2.2. Kiểm định giả thuyết về hệ số hồi quy
a. Kiểm định giả thuyết về hệ số hồi quy
Kiểm tra các hệ số hồi quy có ý nghĩa thống kê hay không hay
ảnh hưởng của các biến giải thích lên biến phụ thuộc với mức ý nghĩa
10%.
Cặp giả thuyết thống kê:
• Xét β1:
Có: p>|t| = 0.628
So sánh thấy p-value >
Kết luận: Không bác bỏ Ho hay các biến khác ngoài các biến giải
thích được chọn không ảnh hưởng đến giá trị xuất khẩu thủy sản của
Việt Nam.
•Xét β2:
Có: p>|t| = 0.680
So sánh thấy p-value >
Kết luận: Không bác bỏ Ho hay biến tổng sản phẩm quốc nội của
Việt Nam không ảnh hưởng đến giá trị xuất khẩu thủy sản của Việt
Nam.
• Xét β3:
25


×