Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

tieu luân LICH SU DANG đảng giải quyết mối quan hệ giữa độc lập dân tộc, tự chủ với đoàn kết quốc tế trong thời kỳ 1954 1975

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (159.45 KB, 21 trang )

MỤC LỤC


MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài
Như chúng ta đã biết, trong mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước của
dân tộc, dân tộc ta thường phải đương đầu với những kẻ thù lớn mạnh, có khi
cùng một lúc nhiều kẻ thù. Chúng có tiềm lực kinh tế, quân sự, khoa học – ky
thuật mạnh hơn ta nhiều lần. Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một xã hội
vốn là thuộc địa nửa phong kiến, với nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp, sản
xuất nhỏ, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Đất nước vừa trải qua
mấy chục năm chiến tranh, hậu quả là vô cùng nặng nề. Thực tiễn đất nước và
đấu tranh cách mạng đòi hỏi phải phát huy cao độ sức mạnh dân tộc, đồng thời
giành độc lập dân tộc tự do và xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân
dân. Đó là tất yéu khách quan, là vans đề có tính quy luật của cách mạng Việt
Nam. Sự giúp đỡ quốc tế là vô cùng to lớn, quan trọng, là yếu tố không thể thiếu
đối với thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Song độc lập tự chủ, tự cường và
tăng cường hợp tác quốc tế là hai mặt thống nhất trong đường lối chiến lược
nhất quán của Đảng và Nhà nước ta. Chính nhờ đường lối đó, trong cuộc kháng
chiến chống My cứu nước, quân dân ta đã tiêu diệt, làm tan rã và xóa bỏ toàn bộ
bộ máy chính quyền tay sai của đế quốc My, giải phóng hoàn toàn miền Nam,
đưa sự nghiệp chống My cứu nước đến thắng lợi cuối cùng, thắng lợi này đã mơ
ra một giai đoạn mới của cách mạng Việt Nam- giai đoạn cả nước quá độ lên
chủ nghĩa xã hội. Đó là một chiến công vĩ đại của thế kỉ XX, mãi mãi được ghi
vào lịch sử dân tộc như một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ
nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, là một thiên anh hùng ca bất hủ
của chiến tranh nhân dân Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh. Với mong muốn
nghiên cứu sâu hơn về đường lối đó nên em quyết định chọn đề tài “Đảng giải
quyết mối quan hệ giữa độc lập dân tộc, tự chủ với đoàn kết quốc tế trong
thời kỳ 1954-1975” làm đề tài cho bài tiểu luận của mình trong học phần:
“Những bài học kinh nghiệm của cách mạng Việt Nam”


2. Mục đích nghiên cứu
2


Thực hiện đề tài: “Đảng giải quyết mối quan hệ giữa độc lập dân tộc, tự
chủ với đoàn kết quốc tế trong thời kỳ 1954-1975”, tôi xác định cần đạy được
các mục đích sau đây: Làm rõ mối quan hệ giữa độc lập dân tộc, tự chủ với đoàn
kết quốc tế được Đảng giải quyết trong thời kỳ 1954-1975. Mặt khác, nghiên
cứu hoàn thành đề tài này giúp tôi làm quen được với việc nghiên cứu khoa học,
cũng như cho tôi them về mặt kiến thức và có thể sử dụng tiểu luận này làm đề
tài phục vụ cho công tác giảng dạy sau này.
3.Nhiệm vụ nghiên cứu
Phân tích những lý luận chung và cơ sơ hình thành tư tương đoàn kết quốc
tế của Đảng ta. Trên cơ sơ đó phân tich, làm rõ mối quan hệ giữa độc lập dân
tộc, tự chủ với đoàn kết quốc tế được Đảng ta giải quyết trong thời kỳ 19541975, từ đó rút ra đánh giá về việc giải quyết mối quan hệ này
4.Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được mục đích, yêu cầu đề ra, trong quá trình nghiên cứu, em đã sử
dụng các phương pháp chủ yếu sau đây: phương pháp lịch sử, phương pháp
logic, phương pháp phân tích – tổng hợp…
5. Kết cấu tiểu luận
Ngoài phần mơ đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và mục lục,
phần nội dung của tiểu luận gồm 2 chương.
Chương I : Đảng ta giải quyết mối quan hệ giữa độc lập dân tộc, tự chủ với
đoàn kết quốc tế trong thời kỳ 1954-1964
Chương II: Đảng ta giải quyết mối quan hệ giữa độc lập dân tộc, tự chủ với
đoàn kết quốc tế trong thời kỳ 1964-1975

3



NỘI DUNG
CHƯƠNG I : ĐẢNG GIẢI QUYÊT MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐỘC LẬP DÂN
TỘC, TỰ CHỦ VÀ ĐOÀN KẾT QUỐC TẾ THỜI KÌ 1954-1964
1.Chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ quốc
1.1. Quan điểm của C.Mác- Ăngghen về quan hệ quốc tế
C.Mác và Ăngghen là hai lãnh tụ thiên tài của giai cấp vô sản toàn thế giới,
các ông là những người sáng lập ra chủ nghĩa xã hội khoa học để đặt cơ sơ cho
việc nghiên cứu một cách đúng đắn về xã hội loài người, trong đó có những vấn
đề về quan hệ quốc tế.
Trong hoàn cảnh lịch sử thời dại của Mác-Ăngghen, giai cấp vô sản chưa
giành được chính quyền, vì vậy hai ông luôn nhấn mạnh đến sự đoàn kết phong
tào cộng sản và công nhân quốc tế. Ngay trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng
Sản”, Mác-Ăngghen nêu ra khẩu hiệu “Vô sản toàn thế giới đoàn kết lại”. Khẩu
hiệu đó đã trơ thành phương châm của phong tào cộng sản và công nhân quốc
tế. Các nhà sáng lập ra chủ nghĩa cộng sản khoa học xuất phát từ chỗ cho rằng
phát triển công nhân cách mạng do banr chất tự nhiên của nó và do các quy luật
lịch sử khách quan, nó là một phát triển quốc tế. Vì vậy, giai cấp vô sản cần phải
lấy sự thống nhất quốc tế của mình để chống lại các thế lực quốc tế tư bản. Nếu
không giai cấp vô sản sẽ không giành được thắng lợi và không tự giải phóng
được giai cấp mình. Trong “Tuyên ngôn thành lập Hội liên hiệp công nhân quốc
tế” do Mác khơi thảo đã nhấn mạnh rằng ‘Việc giải phóng giai cấp công nhân
đòi hỏi phải có sự hợp tác anh em của giai cấp vô sản các nước”.
Những quan niệm về đoàn kết quốc tế của Mác-Ăngghen là ngọn đuốc soi
đường cho sự đoàn kết nhất trí của giai cấp công nhân toàn thế giới. Đây cũng là
c[ sơ lý luận cho sự nhận thức của Đảng cộng sản về những vấn đề quốc tế trong
lịch sử, cũng nhý trong thời đại ngŕy nay để xây dựng đýờng lối, nguyęn tắc
đoŕn kết quốc tế.

4



1.2. Những cống hiến của V.I.LENIN về quan hệ quốc tế
V.I.LÊNIN đã phát triển chủ nghĩa Mác lên một giai đoạn mới. Đặc biệt là
trong lý luận về quan hệ quốc tế.
Trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, Lenin đã nhận ra vai trò cách mạng của
phát triển giải phóng dân tộc. Trên cơ sơ đó, Lenin bổ sung vào khẩu hiệu: “Vô
sản toàn thế giới đoàn kết lại” của Mác-Ăngghen bằng khẩu hiệu: “Vô sản toàn
thế giới và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại”.
Sau Cách mạng Tháng Mười Nga (1917), Lenin tiếp tục phát triển và làm
phong phú thêm những quan điểm của chủ nghĩa Mác về quan hệ quốc tế trên cơ
sơ tổng kết kinh nghiệm của Nhà nước Xô-viết. Các quan điểm đó tập trung vào
những vấn đề sau:
Một là, mối quan hệ giữa chính sách đối nội và chính sách đối ngoại.
Hai là, phải kết hợp tính kiên định, tính nguyên tác và linh hoạt trong chính
sách đối ngoại của nhà nước vô sản.
Ba là, đảm bảo nguyên tắc chủ nghĩa quốc tế vô sản trong chính sách đối
ngoại của nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Bốn là, đảm bảo nguyên tắc chung sống hòa bình giữa các nước chế độ xã
hội khác nhau.
Tóm lại, quan điểm đoàn kết quốc tế của chủ nghĩa Mác-Lenin chính là thế
giới quan, phương pháp luận cho giai cấp vô sản toàn thế giới, là cơ sơ hình
thành đường lối quan hệ quốc tế của các dân tộc đi theo con đường cách mạng
vô sản
1.3.Tư tương Hồ Chí Minh về quan hệ quốc tê
. Tư tương Hồ Chí Minh về quan hệ quốc tế phong phú và mãi mãi là tư
tương chủ đạo cho việc hoạch định đường lối đối ngoại của Đảng cộng sản Việt
Nam. Đó là một hệ thống quan điểm các vấn đề quốc tế, về chiến lược, sách
lược cách mạng Việt Nam trong quan hệ với thế giới
Với bên ngoài, Hồ Chí Minh chủ trương đối ngoại rộng mơ, mơ rộng lực
lượng theo phương châm “thêm bạn bớt thù”, tránh đối đầu, “không gây thù oán

5


với một ai”, tìm ra điểm tương đồng, khai thác mọi khả năng có thể nhằm đoàn
kết lực lượng, hình thành mặt trận đoàn kết ủng hộ Việt Nam.
Người cũng yêu cầu quán triệt quan điểm độc lập, tự chủ, tự cường gắn liền
với đoàn kết hợp tác quốc tế. Độc lập tự chủ thể hiện ơ tính sáng tạo, chủ động
trong tư duy và hành động, không rập khuôn máy móc, không thụ động ỷ lại.
Cũng có nghĩa dân tộc Việt Nam phải tự mình vạch ra đường lối, chính sách đối
ngoại độc lập trên cơ sơ lợi ích quốc gia, nhưng đồng thời phải phù hợp với
chuẩn mực quốc tế, thích ứng với xu thế thời đại. Người nhấn mạnh “Nước ta là
một bộ phận của thế giới. Tình hình của nước ta có ảnh hương đến thế giới, mà
tình hình thế giới cũng có quan hệ đến nước ta”. Hồ Chí Minh yêu cầu các cán
bộ trong quan hệ đối ngoại cần nắm vững phương châm kiên trì về nguyên tắc,
giữ vững chiến lược nhưng mềm dẻo, linh hoạt về sách lược theo tinh thần “dĩ
bất biến, ứng vạn biến”
Tư tương Hồ Chí Minh về đối ngoại là vấn đề lớn, thuộc về hệ thống những
quan điểm của cách mạng Việt Nam về quan hệ quốc tế. Tư tương của Người sẽ
mãi mãi dẫn dường chỉ lối cho ngoại giao Việt Nam.
2.Tình hình thế giới sau hiệp định Giơ-ne-vo
2.1.Tình hình thế giới
Những năm trước và sau chiến thắng Điện Biên Phủ của Việt Nam, trên thế
giới là đỉnh cao của chiến tranh lạnh giữa hai hệ thống xã hội tư bản chủ nghĩa
và xã hội chủ nghĩa. Biểu hiện của nó được thông qua sự gia tăng nhanh chóng
về chi phí quân sự và thành lập các khối liên minh quân sự trên nhiều khu vực
thế giới .
Sau một thế giới tiến hành chiến tranh lạnh và chạy đua vũ trang giữa hai
khối quân sự NATO và Vacsava hay nói chính xác hơn là cuộc ganh đua quân sự
giữa hai siêu cường Liên Xô và My đã bắt đầu chững lại, thay vào đó là sự hòa
hoãn tạm thời giữa hai cường quốc.

Thời kì này, hệ thống xã hội chủ nghĩa ngày càng được củng cố. Tuy nhiên
vào cuối thập kỷ 50, sự gắn bó của hệ thống xã hội chủ nghĩa bắt đầu suy giảm,
6


mâu thuẫn Xô-Trung đã nảy sinh nhưng chưa bộc lộ công khai. Phong trào cộng
sản và công nhân quốc tế cũng đứng trước nguy cơ khủng hoảng về đường lối.
Sự chia rẽ trong nội bộ phe xã hội chủ nghĩa chẳng những làm suy yếu lực
lượng cách mạng thế giới, mà còn làm phức tạp hóa quan hệ quốc tế, gây bất lợi
cho phong trào giải phóng dân tộc và phong trào đấu tranh vì hòa bình, hữu nghị
giữa các dân tộc. Tình hình đó đặc biệt gây khó khăn cho cách mạng Việt Nam.
Mâu thuẫn Xô-Trung đã lập tức được đế quốc My tập trung khai thác nhằm phá
hoại phong trào cộng sản quốc tế, đồng thời trên cơ sơ khoét sâu ngăn cách XôTrung với hy vọng sẽ hạn chế được sự giúp đỡ cảu những nước này đối với Việt
Nam.
Thời kỳ này, phát triển giải phóng dân tộc trên khắp các lục địa Á-Phi-My
Latin đã làm tan rã từng mảng hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa thực dân, đế
quốc . Điều đáng chú ý là các dân tộc sau khi giành được độc lập, tuy khuynh
hướng phát triển xã hội có khác nhau, nhưng đều có điểm chung là phát triển đất
nước theo đường lối độc lập, tự chủ và ủng hộ phong trào hòa bình, tiến bộ xã
hội.
Ngoài việc các nước mới giành được độc lạp dần thoát khỏi ảnh hương của
My và chủ ghĩa thực dân kiểu cũ thì các nước tư bản trước đây lệ thuộc vào My
thì lúc này bắt đầu có xu hướng ly tâm thoát khỏi vòng khống chế của My.
Tình hình hai nước Lào và Campuchia sau Hiệp định Giơ-ne-vơ cũng có
nhiều phức tạp do chính sách can thiệp của My. Điều này đã phần nào tác động
đến liên minh chiến đấu của ba nước Đông Dương.
Nhưng diễn biến phức tạp của tình hình thế giới đòi hỏi Đảng Lao động
Việt Nam phải rất thận trọng, phải xem xét ky càng từ nhiều góc độ khi xây
dựng đường lối và giải quyết mối quan hệ giữa độc lập dân tộc, tự chủ với đoàn
kết quốc tế.

2.2.Tình hình trong nước
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp là bước ngoặt quan
trọng trong lịch sử đấu tranh giành độc lập của nhân dân ta. Thắng lợi này mơ
7


đường cho cách mạng Việt Nam bước vào thời kyfpt mới với những thuận lợi cơ
bản, nhưng trước mắt là những khó khăn chồng chất đang chờ đợi.
Ở miền Bắc, hậu quả chiến tranh đẻ lại là rất nặng nề. Nhiệm vụ trước mắt
của toàn dân trong thời ký này là tập trung lực lượng khức phục hậu quả chiến
tranh. Vì vậy, Đảng đã dồn mọi nỗ lực chỉ đạo công cuộc tái thiết đất nước và
đạt được
Ở miền Nam, ngay sau khi Hiệp định Giơ-ne-vơ vừa được ký còn chưa ráo
mực, My đã nhanh chóng hất cẳng Pháp, nhảy vào Đông Dương, đưa Ngô Đình
Diệm, một phần tử chống cộng cuồng tín về miền Nam làm thủ tướng, lập ra
chính quyền tay sai thân My.
Dựa vào sự ủng hộ của My, từ năm 1955 chính quyền Ngô Đình Diệm tập
trung lực lượng tấn công tiêu diệt các phe phái chống đối, tiến hành liên tục các
chiến dịch “tố cộng”, “diệt cộng”.
Trên cơ sơ đúc kết kinh nghiệm thực tiễn của đồng bào và chiến sĩ cả nước
trong hơn 4 năm đấu tranh gian khổ, tháng 1-1959, Nghị quyết của Hội nghị lần
thứ 15 Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng đã ra đời đáp ứng nguyện vọng bức
thiết của đồng bào làm đáy lên cao trào Đồng khơi mạnh mẽ, chuyển cách mạng
Việt Nam từ thoái trào và giữ gìn lực lượng sang thế tiến công.
Từ năm 1961 đến năm 1965, đế quốc My thi hành chiến lược “ chiến tranh
đặc biệt”. Đây là cuộc chiến tranh bằng quân đội tay sai với tiền của, vũ khí và
sự chỉ huy của My. Bằng những thắng lợi trên mặt trận quân sự, chính trị, quân
dân ta đã làm phá sản hoàn toàn chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của My, uy tín
của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam cũng được khẳng định trên trường
quốc tế.

Như vậy, những diến biến ơ Đông Dương, chính sách của các nước lớn và
đặc điểm quan hệ quốc té nói trên đã làm cho nhiệm vụ ngoại giao của Việt Nam
trơ nên rất nặng nề để làm sao vừa tranh thủ được sự ủng hộ của các nước vừa
giữ vững được sự độc lạp tự chủ trong đường lối.

8


3.Đảng giải quyết mối quan hệ giữa độc lập dân tộc, tự chủ với đoàn
kết quốc tế thời kỳ 1954-1964
Giữ vững độc lập tự chủ trong đường lối chủ nghĩa nói chung và đường lối
đối ngoại nói riêng là tư tương xuyên suốt trong quá trình xây dựng đường lối
của Đảng. Cho dù trong bối cảnh quan hệ quốc tế thời kì 1954-1964 có nhiều
vấn đề phức tạp, xuất phát từ chiến lược của các nước lớn và sự chi phối của các
nước lớn đối với các nước nhỏ, nhưng tinh thần độc lập, tự chủ vẫn luôn được
Đảng ta phát huy cao độ trong quá trình xây dựng đường lối đối ngoại.
Bài học kinh nghiệm rút ra từ Hội nghị Giơ-ne-vơ cho thấy Việt Nam đã
phải chịu sức ép của các nước lớn, dẫn đến kết quả giành được không trọn vẹn,
không tương xứng với những kết quả giành được trên chiến trường, đó là một
minh chứng cụ thể khẳng định rằng, độc lập tự chủ trong ngoại giao là nguyên
tắc đầu tiên cần phải giữ vững, nếu muốn nắm quyền chủ động giải quyết các
vấn đề quốc gia và quốc tế. Sau Hiệp định Giơ-ne-vơ, bài học về đường lối độc
lập tự chủ khi giải quyết các vấn đề, đã được Đảng ta xác định là một nguyên tắc
tiên quyets và cương quyết thực hiện nhất quán.
Một nội dung cơ bản trong đường lối của Đảng ta, là đường lối đối ngoại.
Thời kỳ này Đảng ta chủ trương nêu cao tư tương hòa bình, thực hiện nghiêm
chỉnh Hiệp định Giơ-ne-vơ, lên án những hành động phá hoại Hiệp định; tăng
cường đoàn kết quốc tế trên cơ sơ quan hệ chặt chẽ với Liên Xô, Trung Quốc,
các nước xã hội chủ nghĩa, với Lào và Campuchia, đồng thời mơ rộng quan hệ
với các nước và lực lượng khác trên thế giới theo tinh thần kiên định độc lạp tự

chủ với đoàn kết quốc tế.
Trong quan hệ với Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa, nghị
quyết Bộ chính trị (9-1954) đã chỉ rõ phương hướng đối ngoại của chúng ta là
“Tiếp tục phát triển và củng cố tình hữu nghị với Liên Xô, Trung Quốc và tất cả
các nước dân chủ khác”. Nghị quyết Hội nghị TƯ 7 (3-1955) của Đảng cũng xác
định rằng: “Củng cố không ngừng tình đoàn kết hữu nghị với Liên Xô, Trung
Quốc và các nước dân chủ nhân dân, thực hiện phối hợp chặt chẽ với các nước
anh em trong hoạt động quốc tế và đấu tranh ngoại giao”.
9


Các nhà lãnh đạo Trung Quốc từ lâu vẫn có ý định duy trì tình trạng Việt
Nam bị chia cắt thành hai miền, vì thế họ thýờng xuyên thuyết phục Việt Nam
phải “trýờng kì mai phục”, không nên tiến hành đấu tranh vũ trang ơ miền Nam.
Chủ tịch Mao Trạch Đông nói “Vấn đề là phải giữ biên giới hiện có. Phải giữ vĩ
tuyến 17…Thời gian có lẽ là dài đấy. Tôi mong thời gian dài thì sẽ tốt”. Ông
Đặng Tiểu Bình- Tổng Bí thư Đảng cộng sản Trung Quốc còn dọa: “ Dùng lực
lượng vũ trang để thống nhất nước nhà sẽ có hai khả năng: một là thắng và một
khả năng nữa là mất cả miền Bắc
Liên Xô chủ trương giữ nguyên hiện trạng hai miền Việt Nam, không ủng
hộ đường lối đấu tranh của Đảng ta ơ miền Nam để tránh “đụng chạm” với My
(lý do Liên Xô đưa ra với ta là sợ “đốm lửa cháy rừng”, sợ nổ ra chiến tranh thế
giới lần thứ ba)
Trước tình hình đó, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh, một mặt kêu gọi
nhân dân nêu cao tinh thần độc lập tự chủ, tự lực cánh sinh, mặt khác ra sức hoạt
động nhằm góp phần ngăn ngừa sự chia rẽ, cố gắng duy trì tình đoàn kết giữa
các nước xã hội chủ nghĩa, tranh thủ sự đồng tình của cả Liên Xô và Trung Quốc
đối với công cuộc xây dựng và chiến đấu của nhân dân ta.
Liên Xô và Trung Quốc liên tục công kích nhau trên các phương tiện thông
tin đại chúng. Năm 1963, Trung Quốc đưa ra “Cương lĩnh 25 điểm”, công bố 9

bài xã luận trên Nhân dân Nhật báo, đề nghị Việt Nam tham gia cùng chủ trì
triệu tập Hội nghị 11 đảng cộng sản ơ châu Á, nhưng đã bị chúng ta từ chối từ
chối làm cho Trung Quốc không hài lòng. Chủ tịch nước Cộng hòa Nhân dân
Trung Hoa Lưu Thiếu Kì trong chuyến thăm Hà Nội đã tỏ thái độ gay gắt với
chúng ta, đề nghị ta thay đổi quan điểm về “đoàn kết quốc tế”, tỏ rõ lập trường
chống Liên Xô(chống xét lại), không nhận viện trợ của Liên Xô. Về phía Liên
Xô, cũng từ chuyến thăm của Chủ tịch nước Trung Quốc Lưu Thiếu Kỳ đến Việt
Nam (5-1963), Liên Xô có thái độ không đồng tình một cách gay gắt vì cho rằng
Việt Nam đã theo Bác Kinh chống Matxcova. Trong bức thư ngày 28-11-1963
của TƯ Đảng Liên Xô gửi Chủ tịch Hồ Chí Minh và TƯ Đảng ta đã có những
lời lẽ không thiện chí: “Trong thời gian gần đây, một số hoạt động của các đồng
chí TƯ Đảng Lao động Việt Nam đã làm chúng tôi nghi ngại và phiền lòng, vì
10
10


những hành động đó rõ ràng đi ngược lại những lời tuyên bố của các đại biểu
Việt Nam về tình hữu nghị Xô-Viết”
Trước yêu cầu của Trung Quốc, Đảng ta đã khéo léo từ chối và lựa chọn
giải pháp dung hòa, tránh đối đầu trực tiếp với những vấn đề quốc tế mà hai bên
chưa thống nhất. Thái độ của Đảng ta đối với yêu cầu của họ là rất mềm mỏng
nhưng kiên định. Đảng giải thích để Chủ tịch Lưu Thiếu Kì rõ về lập trường có
tính nguyên tắc của ta là tiếp tục giương cao ngọn cờ đoàn kết quốc tế trong đó
có đoàn kết với Trung Quốc, chúng ta hoàn toàn ủng hộ ý kiến của Trung Quốc,
chúng ta hoàn toàn ủng hộ ý kiến của Trung Quốc về tổ chức Hội nghị thường
niên giữa bốn đảng Trung Quốc, Việt Nam, Lào và Indonesia, sau đó là ba đảng
( không có Indonesia), dưới các hình thức công khai, bí mật, ơ nhiều cấp độ.
Thông qua đó, các cuộc gặp gỡ trao đổi giữa lãnh đạo các đảng đã diễn ra, nhiều
vấn đề căng thẳng rong quan hệ quốc gia đã được làm mềm hóa trên tinh thần
đồng chí và tinh thần quốc tế vô sản. Từ những thành công trong việc xử lý vấn

đề này, ta đã tranh thủ được sự ủng hộ giúp đỡ to lớn và hiệu quả của Trung
Quốc trên nhiều lĩnh vực.
Với Liên Xô bằng những hành động đúng đắn, đầy thiện chí và tính xây
dựng của Đảng và Hồ Chủ tịch, quan hệ Việt-Xô đã được giữ vững. Điều này
được thể hiện một phần thông qua sự viện trợ của Lien Xô và quan hệ buôn bán
hai bên.
Đảng ta còn nhiều lần vận động hai nước Xô-Trung hãy gạt bỏ mâu thuẫn
để tăng cường sức mạnh chống chủ nghia đế quốc, đồng thời cũng tỏ rõ ý thức
tự chủ về lập trường, quan điểm và đường lối đối ngoại của Việt Nam là không
chịu bất cứ sức ép nào từ bên ngoài, không để biến thành con bài trong tay
người khác.
Như vậy có thể nói dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí
Minh, Đảng ta đã giải quyết tốt mối quan hệ giữa độc lập dân tộc, tự chủ với
đoàn kết quốc tế trong hành động xử lý mối quan hệ Việt-Trung-Xô. Cũng nhờ
giải quyết tốt mối quan hệ này, chúng ta luôn duy trì được mối quan hệ tốt đẹp
với cả hai nước Xô-Trung, tranh thủ được sự giúp đỡ toàn diện và to lớn từ các
nước xã hội chủ nghĩa anh em. Đây là điều kiện khách quan tiên quyết đưa đến
11
11


thắng lợi trong công cuộc xây dựng hậu phương miền Bắc và góp phần đánh bại
các chiến lược chiến tranh của đế quốc My ơ miền Nam.
Tóm lại việc xây dựng, thực hiện và giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa
độc lập dân tộc, tự chủ với đoàn kết quốc tế trong đường lối đối ngoại của Đảng
ta trong thời kỳ 1954-1964 đã làm cho uy tín của Việt Nam được nâng cao
không ngừng trên trường quốc tế. Đảng ta không hề nao núng trước bất kỳ một
sức ép nào trong quan hệ với các quốc gia, Đảng ta luôn đề cao và duy trì
nguyên tắc độc lộc chủ về đường lối, không can thiệp vào công việc nội bộ của
nhau. Tuy nhiên, đối với Đảng ta nguyên tắc không bao giờ cứng nhắc. Trước sự

phản đối của Liên Xô, Trung Quốc về chủ trương khơi nghĩa vũ trang và chiến
tranh cách mạng ơ miền Nam, Đảng ta đã dùng phương sách giải quyết mềm
dẻo, để tránh căng thẳng trong quan hệ nhưng vẫn đảm bảo mục tiêu cách mạng.
Sự ra đời của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam (12-1960) là kết quả của
một đối sách khôn khéo, chẳng những làm yên lòng các đồng minh, chủ động
hạn chế phạm vi chiến tranh (nếu nổ ra), mà còn tranh thủ được sự đồng tình
ủng hộ của nhân dân thế giới, nhất là các nước thuộc “Phong trào không liên
kết”

12
12


CHƯƠNG II
ĐẢNG GIẢI QUYẾT MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐỘC LẬP DÂN TỘC,
TỰ CHỦ VỚI ĐOÀN KẾT QUỐC TẾ THỜI KÌ (1964-975)
1.Tình hình thế giới và trong nước sau năm 1964
1.1. Tình hình và thái độ của thế giới đối với Việt Nam
Trong khi nhân dân Việt Nam chiến đấu hi sinh chống xâm lược My và
đang rất cần đến sự ủng hộ giúp đỡ của cộng đồng quốc tế, thì những mâu thuẫn
tong nội bộ các nước xã hội chủ nghĩa lại tiếp tục bùng nổ, gây ra tình thế bất lợi
đối với cuộc kháng chiến của nhân dân ta, đặc biệt là sự bất đồng ngày càng sâu
sắc của hai đồng minh chiến lược là Liên Xô và Trung Quocs.
Trước hành động My mơ rộng chiến tranh và trực tiếp đưa quân vào
xâm lược miền Nam Việt Nam, thái độ của Liên Xô là lên án My, trực tiếp viện
trợ cho Việt Nam, nhưng lo ngại Việt Nam đánh lớn sẽ kéo theo Liên Xô vào
cuộc chiến tranh làm ảnh hương đến hòa hoãn Xô-My. Vì vậy, Liên Xô tuy có
viện trợ quân sự cho ta, nhưng hạn chế trang bị vũ khí tấn công kể cả số lượng
và chất lượng đặc biệt từ sau năm 1973. Còn Trung Quốc thái độ của họ đối với
cách mạng Việt Nam cũng tấ phức tạp. Một mặt Trung Quốc tuyren bố là “hậu

phương vững chắc của Việt Nam” nhưng lại nhắc chúng ta phải “tự lực cánh
sinh”. Trung Quốc nói srx ủng hộ Việt Nam đánh My đến cùng, song lại không
muốn Việt Nam đánh lớn, khuyên miền Bắc chỉ ủng hộ chứ không nên giúp
miền Nam.
Năm 1966, giữa lúc My leo thang chiến tranh ơ cả hai miền Việt Nam,
Trung Quốc tiến hành cuộc ‘đại cách mạng văn hóa vô sản”. Đây là vấn đề
thanh trừng nội bọ của Trung Quốc song cũng có gây không ít khó khăn cho
cách mạng Việt Nam.
Sơ dĩ, cả Liên Xô và Trung Quốc đều có thái độ trên đối với cách mạng
Việt Nam là do họ sợ ảnh hương đến xu thế hòa hoãn của mình với My.
Trong thời gian này, các nước xã hội chủ nghĩa và phong trào cộng sản
công nhân quốc tế đều bày tỏ thái độ căm phẫn với cuộc chiến tranh xâm lược
13
13


của My và kiên quyết ủng hộ tinh thần, vật chất đối với cuộc chiến đấu vì sự
nghiệp chính nghĩa của nhân dân Việt Nam. Sau Hiệp định Paris, cộng đồng các
nước xã hội chủ nghĩa vui mừng ca ngợi thắng lợi của Việt Nam và bày tỏ sẵn
sàng giúp đỡ Việt Nam xây dựng lại miền Bắc xã hội chủ nghĩa, nhiều nước xóa
nợ cho Việt Nam, coi viện trợ của họ cho Việt Nam trong cuộc kháng chiến
chống My là viện trợ không hoàn lại.
Phần lớn các nước độc lập dân tộc và phong trào giải phóng dân tộc ơ ÁPhi-My Latinh ơ mức đọ khác nhau đã đồng tình ủng hộ ngày càng mạnh mẽ sự
nghiệp đấu tranh chính nghĩa của nhân dân Việt Nam. Lực lượng trung gian có
lợi cho My ngày càng giảm.
Trong khi đó, ơ My, sự thất bại của chính sách cải thiện đời sống đi đôi với
mơ rộng và liên tục bị thất bại trong chiến tranh Việt Nam đã làm cuộc khủng
hoảng nội bộ thêm trầm trọng. Đồng thời, một số nước tư bản phương Tay bao
gồm cả Nhật Bản đã lợi dụng việc My sa lầy ơ Việt Nam để vươn lên thoát khỏi
sự khống chế của My về chính trị, kinh tế và tiềm lực quân sự. Một số nước đã

tỏ thái độ phản đối My trong cuộc chiến tranh ơ Việt Nam.
Tình hình ơ Đông Dương thời kỳ này cũng khá phức tạp. Ở Campuchia, lực
lượng cách mạng bị chia rẽ. Lực lượng PônPốt-Yeeng Xari đối lập với Xihanucs
gây khó khăn cho Việt Nam trong việc tranh thủ Xihanuc. Còn ơ Lào, sau chiến
thắng của liên minh Lào-Việt tại Nậm Thà(1962), cách mạng Lào ngày càng gắn
bó với cách mạng Việt Nam.
Tóm lại, nét nổi bật trong quan hệ quốc tế thời kì này la cuộc chiến tranh
xâm lược của My ơ Việt Nam trơ thành mối quan tâm hàng đầu trong coong
luận thế giới và cả trong hoạt động quốc tế. Nhiệm vụ của Đảng ta là phải tiếp
tục đấu tranh vạch trần những thủ đoạn ngoại giao xảo quyệt của My, đồng thời
tranh thủ đến mức cao nhất sự ủng hộ cua thế giới đối với Việt Nam, tiếp tục
giải quyết tốt hơn mối quan hệ giữa độc lập dân tộc, tự chủ với đoàn kết quốc tế,
tạo môi trường quốc tế thuận lợi cho công cuộc giải phóng hoàn toàn miền Nam

14
14


1.2. Tình hình trong nước
Thất bại trong chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” ơ miền Nam Việt Nam từ
đầu năm 1965, từ đầu năm 1965, cuộc chiến tranh xâm lược của My leo thang
lên một bước mới. Đó là chiến lược “Chiến tranh cục bộ” với việc cho quân viễn
chinh My vào miền Nam Việt Nam, đẩy mạnh chiến tranh phá hoại bằng không
quân và hải quân đối với miền Bắc. Đây là cố gắng quân sự lớn nhất, bước leo
thang chiến tranh cao nhất của đế quốc My ơ miền Nam.
Ngày 7-4-1965, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi đồng bào và chiến sĩ
cả nước quyết tâm đánh thắng giặc My xâm lược.
Ở miền Bắc, do ta chuẩn bị ky càng về ý thức chiến đấu và hậu cần, vũ hí,
miền Bắc đã giáng trả bọn cướp My những đòn chí mạng, hàng ngàn máy bay
phản lực My đã bị bắn rơi trên những mục tiêu mà chúng gây tội ác. Miền Bắc

chẳng những trơ thành trận địa trực tiếp chon vùi quân My mà vẫn đảm nhận tốt
vai trò hậu phương lớn đối với miền Nam.
Trên chiến trường chính ơ miền Nam, quân giải phóng liên tục mơ những
chiến dịch tiêu diệt với quy mô ngày càng lớn vào quân My và chư hầu, làm phá
sản chiến lược “chiến tranh cục bộ” của My.
Từ năm 1969, My thực hiện chiến lược “ Việt Nam hóa chiến tranh”,
“Đông Dương hóa chiến tranh”, sử dụng quân ngụy với vũ khí và sự yểm trợ
của không quân để tiếp tục chiến tranh xâm lược thực dân kiểu mới và rút dần
quân My về nước.
Cuộc tiến công chiến lược 1972, ta đã giành được thắng lợi to lớn, làm
chuyển biến căn bản cục diện chiến tranh. Ngày 27-1-1973, My phải ký Hiệp
định Paris chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình Việt Nam và rút quân về nước.
Sau Hiệp định Paris, do My và tay sai tiếp tục chiến tranh phá hoại Hiệp
định, Đảng ta chủ trương nứm vững thời cơ, giữ vững chiến lược tiến công, phát
triển thực lực, tiến tới giải phóng miền Nam. Trưa ngày 30-4-1975, chiến dịch
giải phóng Sài Gòn-Hồ Chí Minh kết thúc thắng lợi. Đến ngày 2-5-1975, vùng
đồng bằng Sông Cửu Long và địa phương cuối cùng của miền Nam được hoàn
toàn giải phóng
15
15


Thắng lợi của sự nghiệp đấu tranh giải phóng miền Nam, công đầu phải kể
đến vai trò của miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Trong điều kiện bị chiến tranh miền
Bắc vẫn đạt được những thành tựu to lớn chưa từng thấy trong lịch sử.
Những thắng lợi trên cả 2 miền Bắc, Nam của quân và dân ta là cơ sơ quan
trọng để Đảng ta xác định con đường đấu tranh ngoại giao buộc kẻ thù phải chấp
nhận rút quân về nước, đồng thời cũng tạo điều kiện cho đường lối ngoại giao
mơ rộng quan hệ với thế giới, giải quyết mối quan hệ giữa độc lập tự chủ với
đoàn kết quốc tế.

2. Đảng giải quyết mối quan hệ giữa độc lập dân tộc , tự chủ với đoàn
kết quốc tế trong thời kỳ 1964-1975
Thời kỳ này, Đảng ta tiếp tục tập trung giải quyết mối quan hệ giữa độc lập
dân tộc, tự chủ với đoàn kết quốc tế. Đảng chủ trương trung thành với dường lối
ngoại giao mơ rộng quốc tế đã vạch ra, trên cơ sơ giữ gìn, củng cố mối quan hệ
đặc biệt với các nước trong phe xã hội chủ nghĩa mà trọng tâm là hai nước XôTrung, Đảng ta đã làm tất cả những gì có thể để làm được để vun đắp cho quan
hệ Việt-Xô-Trung phát triển
Tuy nhiên trong bối cảnh các nước xã hội chủ nghĩa và phong trào cộng sản
và công nhân quốc tế đang bị chia rẽ sâu sắc do mối bất đồng Xô-Trung. Đảng ta
và chủ tịch Hồ Chí Minh phải xử lý nhiều mối quan hệ phức tạp, đan xen, chồng
chéo giữa ta với Liên Xô và Trung Quốc, sao cho vừa giữ vững được đường lối
đối ngoại độc lập, tự chủ của ta vừa tranh thủ được sự ủng hộ và giúp đỡ tối đa
độc lập, đồng thời vừa góp phần vào việc khôi phục sự đoàn kết giữa các nước
xã hội chủ nghĩa và giữa các Đảng cộng sản và công nhân trên thế giới.
Trong quan hệ với Liên Xô, ta chủ trương phát huy mặt tích cự trong
chính sách đối ngoại của ban lãnh đạo mới, coi trọng vai trò cường quốc và lợi
ích chiến lược toàn cầu của Liên Xô trong quan hệ quốc tế. Vì vậy, tránh trực
tiếp phê phán ý định của Liên Xô thúc đảy hòa hoãn với My trong bối cảnh My
leo thang và sa lầy trong cuộc chiến tranh Việt Nam. Song ta yêu cầu Liên



phải giữ vững lập trường ủng hộ Việt Nam về chính trị, tinh thần và vật chất để
ta tiếp tục đẩy mạnh công cuộc kháng chiến đến thắng lợi cuối cùng như đã thỏa
16
16


thuận giữa lãnh đạo cấp cao hai nước. Ta đề nghị Liên Xô cũng thể hiện lập
trường đó trong đấu tranh ơ các diễn đàn quốc tế, trong hoạt động ơ Liên Hợp

Quốc và trong quan hệ với các nước lớn, nhất là với My. Ta mong Liên Xô cùng
ta và các nước anh em huy động lực lượng vì hòa bình, dân chủ và độc lập dân
tộc, ủng hộ sự nghiệp chính nghĩa của nhân dân Việt Nam.
Ta cũng không phủ nhận hoàn toàn lời khuyên của Liên Xô sớm tìm giải
pháp kết thúc chiến tranh thông qua thương lượng. Ta cũng không công khai phê
phán Liên Xô có gợi ý muốn ta tạm thời giảm chi viện cho miền Nam và xuống
thang để kéo My cùng xuống, một điều không thể có được khi đế quốc My tăng
cường và mơ rộng chiến tranh và tương quan lực lượng ơ chiến trường và thế
giới chưa cho phép ta thực hiện. Ta kiên trì giải thích với Liên Xô, ghi nhận ý
định sớm tìm giải pháp kết thúc chiến tranh và sẽ thực hiện điều đó khi điều kiện
chin muồi.
Với Trung Quốc, khi cuộc “đại cách mạng văn hóa vô sản” diễn ra, ta cũng
không trực tiếp công kích, coi đó là công việc nội bộ của Trung Quốc và mong
muốn tình hình đất nước này sớm ổn định và không làm ảnh hương đến sự ủng
hộ, chi viện của Trung Quốc đối với cuộc kháng chiến của Ta và không gây trơ
ngại cho việc quá cảnh hàng viện trợ từ Liên Xô, Đông Âu, cho ta.
Khi ta tuyên bố điều kiện ngừng ném bom hoàn toàn sẽ có thương lương
trực tiếp giữa ta với My (vào dịp dầu năm 1967). Trung Quốc tỏ ý muốn ta đánh
mà chưa vội đàm (trái với Liên Xô). Ta kiện trì trao đổi, giải thích với Trung
Quốc về bước đi sách lược của ta nhằm kiềm chế My, động viên phong trào
chống chiến tranh, đồng thời lấy được thực tế diễn biến ơ chiến trường, sự
chuyển hóa lực lượng thế giới để Trung Quốc hiểu rõ hơn đường lối của ta.
Ngược lại sau này, khi thỏa thuận riêng rẽ với My, Trung Quốc lại muốn Việt
Nam “trường kì mai phục”, tức là “tạm ngừng” cuộc chiến đấu để ngồi đàm
phán. Quan điểm của Đảng ta vẫn tỏ ra tôn trọng xem xét ý kiến này, nhưng về
hành động. Ta vẫn làm theo đường lối của ta.
Đảng ta cũng chủ trương trước sau như một giữ vững và củng cố mối quan
hệ tốt với Lào và Campuchia, góp phần giành chính quyền và phong trào cách
17
17



mạng ơ 2 nước này duy trì chính sách hòa bình, trung lập và không liên kết,
chống lại âm mưu can thiệp, lật đổ của đế quốc My và các thế lực phản động.
Trong quá trình xây dựng đường lối đối ngoại với hai nước này. Đảng ta luôn
quán triệt nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ quyền, lợi ích và nguyện vọng chính
đáng của mỗi dân tộc, đồng thời giữ vững tinh thần độc lập, tự chủ của ta, cùng
nhau đoàn kết, liên minh chống kẻ thù chung.
Cùng với đó, Đảng ta cũng chủ trương đẩy mạnh đoàn kết quốc với các
nước và các lực lượng tiến bộ trên thế giới cho cuộc kháng chiến chống My cứu
nước của nhân dân ta.
Như vậy, nhờ đường lối đối ngoại đứng đắn và giải quyết tốt mối quan hệ
giữa độc lập dân tộc, tự chủ với đàn kết quốc tế đã góp phần thức tỉnh lương tri
nhân loại và làm chuyển biến cục diện quốc tế của chiến tranh ngày càng
nghiêng về phía có lợi cho cuộc chiến đấu của dân tộc nhỏ chống lại chiến tranh
xâm lược hiện tại của cường quốc đế quốc đầu sỏ. Điều đó đã đưa lại một số
hiện tượng đặc biệt đầy lý thú của quan hệ quốc tế hiện đại trong thế kỉ XX.
Chưa bao giờ trong lịch sử một cuộc đấu tranh của dân tộc nhỏ yếu, chống một
cường quốc hùng mạnh hàng đầu thế giới lại được loài người tiến bộ ủng hộ
mạnh mẽ và bền lâu đến thế. Hơn nữa đây là lần thứ 2 liên tiếp , sau cuộc kháng
chiens chống thạc dân Pháp xâm lược (1945-1954), cuộc kháng chiến chống đế
quốc My vì độc lập, tự do và hòa bình của nhân dân ta lại được sự đồng tình,
ủng hộ của nhân dân và các tầng lớp xã hội của chính quốc gia đã đưa quân xâm
lược nước ta

KẾT LUẬN
18
18



Đối với Đảng ta, việc nắm vững nguyên tắc độc lập, tự chủ không có
nghĩa là xây dựng đường lối máy móc, cứng nhắc mà phải biết giải quyết bất
đồng thông qua đàm phán để đi đến thống nhất. Song cũng phải kiên quyết thực
hiện những mục tiêu đã định, không nghiêng ngả trước bất cứ sức ép nào từ bên
ngoài, khong tham quyền lợi kinh tế mà thay đổi lập trường theo nước này
chống nước khác. Thực tiễn lịch sử quan hệ Việt-Xô-Trung đã có những thời kì
tất căng thẳng (xuất phát từ mâu thuẫn Trung-Xô), nhưng Việt Nam vẫn kiên
định đường lối riêng theo tinh thần đoàn kết trong sáng để thuyết phục các nước
an hem, không xúi bảy, lợi dung mâu thuẫn giữa các nước để cầu lợi và cúng
không lệ thuộc vào bên ngoài dù với bất kỳ ký do gì.
Điều đáng chú ý là thời kì này Đảng ta luôn phát huy tinh thần độc lập
tự chủ trong xây dựng đường lối nhưng không phải cô lập, mà gắn liền độc lập
tự chủ với đoàn kết quốc tế. Chính là nhờ luôn luôn nêu cao tinh thần độc lập, tự
chủ trong hoạch định đường lối và hoàn chỉnh đường lối đối ngoại. Vấn đề là dù
trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng không để cho sứ mạng của dân tộc bị lệ thuộc
vào nước khác, cho dù đó là những nước đông minh.
Trong tình hình hiện nay, nguy cơ mất chủ quyền độc lập dân tộc không
phải đã hết mà đượcbiểu hiện dưới nhiều hình thức mới. Các nước lớn đặc biệt
là các nước đế quốc không bao giờ chịu từ bỏ âm mưu xâm lược, chiếm đoạt thị
trường. Song bây giờ không phải thời đại của sung đạn và của quân đội viễn
chinh xâm lược, mà bằng kinh tế, bằng “diễn biến hòa bình”, các nước đế quốc
luôn tìm cơ hội để buộc các nước nhỏ, yêu, nghĩa phụ thuộc vào mình. Nếu
chúng ta mất cảnh giác thì sẽ bị hủy hoại bản sắc văn hóa, đạo đức trơ thành
những “con nợ” về kinh tế mà bị lệ thuộc vào các cường quốc kinh tế. Bài học
về giải quyết mối quan hệ giữa độc lập dân tộc, tự chủ với đoàn kết quốc tế của
Đảng(1954-1975) hơn lúc nào hết phải được nhận thức và soi rọi vào thực tiễn.
Điều quan trọng nhất là trong bất kỳ điều kiện, hoàn cảnh nào cũng phải đặt
quyền lợi dân tộc lên trên hết, đó là nguyên tắc bất di, bất dịch nếu không thực
hiện đúng, chúng ta sẽ mất thế chủ động, chớp thời cơ hợp tác và hội nhập toàn
19

19


diện với tất cả các nước trong khu vực và trên thế giới mà không sợ mất bản sắc,
hòa tan hay chệch hướng.

20
20


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Ban chỉ đạo tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị: Tổng kết cuộc kháng
chiến chống My cứu nước thắng lợi và bài học, NXB.Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 1995

2.

Bộ Quốc phòng – Viện Lịch sử quân sự Việt Nam : Lịch sử kháng chiến chống
My cứu nước, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 1996, tập 1

3.

C.Mác và Ăngghen Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tập 16

4.

Đảng cộng sản Việt Nam : Văn kiện Đảng toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà
Nội, năm 2001, tâp 15


5.

Đảng cộng sản Việt Nam : Văn kiện Đảng toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà
Nội, năm 2001, tập 16

6.

Hồ Chí Minh Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 1996, tập 7

7.

V.I.LENIN Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Matxcova, 1980, tập 32

8.

V.I.LENIN Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Matxcova, 1977, tập 41

9.

Đinh Xuân Lý: Tư tương Hồ Chí Minh về đối ngoại và sự vận dụng của Đảng
trong thời kì đổi mới, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005

10.

Viện nghiên cứu chủ nghĩa Mác-Lenin và tư tương Hồ Chí Minh: Lịch sử Đảng
cộng sản Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, tập II

21
21




×