Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Làng ngư dân ven biển Nam Trung Bộ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.39 MB, 5 trang )

Thông báo Khoa học và Công nghệ* Số 1-2013

94

LÀNG NGƯ DÂN VEN BIỂN NAM TRUNG BỘ
ThS. NCS. Trần Văn Hiến
Phó trưởng Khoa Kiến trúc, trường Đại học Xây dựng Miền Trung
Tóm tắt: Nội dung cơ bàn của bài viết: mô tả khái quát về sự hình thành các cụm dân cư,
làng ngư dân ven biển của người Việt vùng Nam Trung Bộ theo tiến trình mở rộng bờ cõi về
phía Nam. Đồng thời nêu ra một số đặc trưng cơ bản trong đời sống cộng đồng ngư dân ven
biển về: tập quán, phong tục, nghề nghiệp, lối sống, cách sống và những lễ hội.
Từ khóa: Làng ngư dân, ven biển, văn hóa, lịch sử, phong tục tập quán, lễ hội.

1. Sự hình thành các làng ngư dân
Về cơ bản, các cụm dân cư ven biển
của người Việt được hình thành song song với
tiến trình mở rộng bờ cõi về phía Nam. Thời
kỳ hình thành rõ nét và được công nhận của
các làng ngư dân ven biển Nam Trung Bộ là
vào giai đoạn Trịnh – Nguyễn phân tranh.
Khởi đầu, thì đây là nghề mang đặc thù
tại các vùng đất, bãi ngang hay vùng cửa sông
ven biển,… là nghề cá ngư dân quy mô nhỏ,
mang tính truyền thống, cha truyền con nối và
gắn liền với dân cư ven biển. Theo thời gian lâu
dài đã dần hình thành các nghề khai chuyên
thác hải sản và làng nghề cá đặc trưng truyền
thống mang dấu ấn ngư dân. Qua tiến trình phát
triển, trong mỗi làng ngư dân thường có sự kết
hợp giữa khai thác, chế biến, kết hợp dịch vụ
nghề cá và nghề khác. (Hình 1).



H1.Làng ngư dân ven biển Tam Quan Bắc – tỉnh
Bình Định

Nhiều làng ngư dân hình thành từ các
Lạch, mà sự hình thành Lạch là từ các làng
gần biển có quy mô lớn mà ra. Làng có từ lâu
đời, nhưng lạch xuất hiện từ khi có sự phân
công lao động của làng. Một cách tự nhiên,
một số người khai thác cá biển (ở làng gần
biển) tách ra và dần dần họ có cuộc sống chủ
động, tập quán, phong tục, nghề nghiệp, lối
sống, cách sống và những lễ hội khác, họ khác
xa với người sống nông nghiệp và cũng từ ấy
họ lập ra thành lạch, làng. Các Lạch khi không
tách ra khỏi sự quản lý của làng, họ vẫn hình
thành những điểm tụ cư, gọi tên riêng như:
Lạch Phú Thường, Lạch Nhơn Hội.
Các làng ngư dân, thường thì cứ ba
năm là họp toàn thể Lạch để bầu ra ông Vạn
Tổng, Vạn Lạch mới. Tiêu chuẩn để bầu
chọn Vạn Tổng, Vạn Lạch là người có cả
đức tài, có uy tín. Ngoài ra có những cuộc
họp kiểm điểm các thành viên trong Lạch va
chạm nhau trên biển khi đánh cá, tài sản bị
hư hỏng buộc phải bồi thường bằng công
hoặc là tiền bạc. Do tính tập thể cao nên mỗi
khi kiểm điểm, hay huy động tiền bạc để
giúp đỡ, tài trợ hay cho ngày lễ hội thì họ
giải quyết rất nhanh và rất sòng phẳng.

Vạn Tổng, Vạn Lạch còn thay mặt
cho Lạch mình đi thăm và điếu phúng khi
các Lạch khác trong tỉnh mời về dự những


Thông báo Khoa học và Công nghệ* Số 1-2013

ngày lấy cốt ông Nam Hải hoặc lễ hội Cầu
ngư hàng năm, khi thấy cần thiết dẫu cả
đội, gươm, chèo bả trạo cùng đi khi có
Lạch nào cần.
2. Những đặc trưng về xã hội của làng xã
ven biển
2.1. Phương thức hoạt động lao động sản xuất
Khi tiếp cận với biển, khuynh hướng
được ưu tiên của người Việt ở Bắc Bộ và
Nam Bộ là “quai đê lấn biển” để có ruộng
làm nông nghiệp. Nhưng người Việt ở Vùng
Duyên hải Nam Trung Bộ lại khác và gần
như con người ở đây buộc phải thích nghi
với biển, sống dựa vào biển.
Nguyên nhân chủ yếu là do thiên
nhiên tạo nên ở vùng biển miền Nam Trung
Bộ có các luồng hải lưu gần bờ đã đem đến
cho vùng biển này những nguồn tài nguyên
biển dồi dào, luồng tôm cá lớn đi sát bờ.
Mặt khác do địa hình có núi vươn ra sát
biển, hoạt động nông nghiệp khó khăn do
đồng bằng chật hẹp, nên khi di cư tới vùng
đất này người Việt phải chọn phương thức

sinh kế dựa vào biển. Hoạt động sản suất
bao gồm: đánh bắt thủy hải sản, làm muối,
mắm, làm ghe, thuyền, sản xuất nông ngư
cụ, hậu cần nghề cá,… Người ta có thể khai
thác biển một cách đơn lẻ nhưng để tạo ra
hiệu quả cao thì những hoạt động lao động
sản xuất của họ cần phải gắn kết, liên kết
với nhau. (Hình 2).

Hình 2. Xưởng đóng tàu thuyền khai thác thủy
hải sản

95

Các làng ven biển còn trồng và khai
thác đới thực vật, động vật ven bờ như: vớt
tảo rong biển để chế biến thành thực phẩm;
khai thác san hô để làm vật liệu xây dựng;
trồng cối, đay để dệt thảm, chiếu; khai thác
các rừng ngập mặn sú, vẹt, đước, dương …
đặc biệt là cây dừa.
Ngoài ra, tại các vùng có điều kiện
đặc thù đan xen giữa đồng bằng châu thổ
sông nước với vùng đới biển ven bờ, hoạt
động nông nghiệp trồng lúa nước, cây lương
thực, hoa quả,… cũng được người dân ven
biển khai thác mạnh. Tuy nhiên các vùng đất
như thế là rất hiếm ở duyên hải Nam Trung
Bộ điển hình cá biệt là đồng bằng Tuy Hòa.
Tại đây có tồn tại một số làng đặc trưng vừa

làm biển, vừa làm nông.
2.2. Hình thức Cư trú
Cộng đồng ngư dân biển hình thành,
định cư và có ý thức cộng đồng, bảo bộc
nhau rất chặt chẽ. Ở các làng chài ven biển
nhà cửa thường được xây dựng san sát bên
nhau, không phải vì thiếu đất đai mà vì thể
hiện tính cộng đồng cao. Hình thức định cư
lập làng xóm trên các dãi đất ven bờ biển
dần trở thành một hình thức cư trú chủ đạo
của cộng đồng ngư dân Nam Trung Bộ. Nhà
cửa, công trình công cộng, cộng đồng,… hầu
như rất đơn giản và toàn bộ tài chính chủ
yếu tập trung vào các phương tiện sản xuất
như lưới lộng, thúng mủn, ghe tàu.
Một hình thức cư trú khác là ngư dân
dùng thuyền vừa làm phương tiện khai thác
vừa làm nhà để ở. Từ đó hình thành nên một
số làng chài nổi trên đầm vịnh biển. Tuy
nhiên vì nhiều lý do khác nhau như: địa
hình, khí hậu, tập quán,… nên loại hình cư
trú này không phát triển phổ biến ở vùng
biển Nam Trung Bộ.


Thông báo Khoa học và Công nghệ* Số 1-2013

2.3. Phong tục tập quán
Người dân biển là dân ăn “sóng nói
gió”, thường thì họ hay phản ứng tức thì, khi

một việc gia đó là trái với ý của họ. Nhưng ấy
không phải là bản chất, khi việc xong rồi thì
thôi, không câu nệ, không ghim gút, hòa cả
làng ấy là bản chất tốt đẹp của người dân xứ
biển. Họ hiểu rằng từ xa xưa để lại câu : Đầm
tư-ngư chung. Cá tôm là đối tượng không thể
riêng ai, nay ở biển này, mai đến biển khác.
Muốn đánh bắt được phải đoàn kết lại để vây
đánh nhiều đàn cá nổi, cá di cư theo mùa vụ.
Vì vậy họ có cuộc sống tập thể, trao đổi nhau
những kinh nghiệm, giúp nhau nghề nghiệp
tôn vinh và bầu chọn những người có kinh
nghiệm tài giỏi, có đức độ vào làm vạn trưởng,
vạn lạch để dìu dắt họ trong những lúc khó
khăn hoạn nạn; có thể sánh như một già làng ở
vùng dân tộc miền núi. Trong cuộc sống, ngư
dân phải nhờ vào kinh nghiệm, sự mạnh mẽ và
thành kính tôn thờ các thần của biển cả. Vì
vậy có thể nói, trong văn hóa của người Việt ở
vùng đất này có chất biển đậm màu và thể
hiện rõ nét trong nếp sống, văn hóa với những
phong tục, tập quán, tín ngưỡng thờ thần Nam
Hải (hài cốt cá voi), lễ hội cầu ngư dân gian.
Về ẩm thực, thành phần chủ yếu là thủy hải
sản, những thành phần khác: thịt gia súc, rau
quả, … thường có được là nhờ trao đổi với các
làng nông nghiệp, làng miền núi.
3. Phân loại làng ngư dân tại vùng ven
biển Nam Trung Bộ
3.1. Phân loại theo khu vực địa lý – địa hình

Làng ngư dân ven vịnh - đầm - phá: là
một quần thể dân cư (điểm dân cư) ở khu vực:
các vùng nước biển cạn, có nước thường
xuyên, có độ sâu dưới 6m khi thủy triều thấp
bao gồm: Các bãi lầy liên triều, bao gồm đầm

96

lầy ngập mặn, thảm cỏ ngập mặn, các cánh
đồng muối... Khác với các vịnh biển có khu
vực nối thông biển tương đối lớn, các đầm phá nước lợ đến nước mặn có ít nhất một điểm
thông nối với biển tương đối hẹp.
Hệ sinh thái là các thảm thủy sinh bán
nhật triều ở biển; các thảm tảo bẹ, cỏ biển,
các đồng cỏ biển nhiệt đới; Các rạn san hô;
Các bờ biển đá; bao gồm cả các đảo đá ngoài
khơi, các vách đá ở biển; Những bờ biển cát,
đá cuội hay sỏi; gồm cả các dải cát, mũi đất
và đảo cát nhỏ, bao gồm cả hệ thống đụn.
Sinh kế của làng dựa vào việc khai thác tài
nguyên thủy hải sản ở mực nước nông là
chính. (Hình 3).

Hình 3. Làng ngư dân ven vịnh đầm (Vịnh Văn
Phong Khánh Hòa)

Làng ngư dân ven biển - cửa sông:
các cụm ngư dân sinh kế tại các Vùng cửa
sông ven biển. Đây là vùng chịu sự tương
tác giữa môi trường nước biển và nước ngọt,

hình thành môi trường nước lợ với sự pha
trộn các tính chất của môi trường nước biển
và nước ngọt nội địa.
Hệ sinh thái điển hình của vùng cửa
sông ven biển bao gồm các thành phần như
vùng châu thổ, vùng đồng bằng ven biển, các
vùng đất ngập nước, các bãi biển và cồn cát,
các rạn san hô, các vùng rừng ngập mặn, đầm


Thông báo Khoa học và Công nghệ* Số 1-2013

97

phá và các đặc trưng ven bờ khác. Chính
những khu hệ khác nhau này cùng sự pha trộn
giữa môi trường nước biển và nước ngọt đã
tạo ra nguồn lợi thủy sản vô cùng đa dạng và
phong phú. (Hình 4).

Hình 5. Làng ngư dân bãi ngang ven biển xã
Hòa Hiệp Bắc, Hòa Hiệp Trung, Hòa Hiệp Nam
– Phú Yên (vùng bờ trực tiếp với biển )

Hình 4. Làng ngư dân ven biển cửa sông Lại
Giang (Bình Định)

Làng ngư dân bãi ngang: các cụm
ngư dân sinh kế tại các bờ cát, sỏi, đá ven
biển. Đây là vùng chịu sự tương tác giữa

môi trường biển và đất liền, hình thành môi
trường biển và chịu ảnh hưởng rõ rệt tính
chất đại dương. Đất vùng này mẫn cảm với
các điều kiện biến đổi của môi trường như
dễ bị xói lở do tác động của sóng gió.
Về hệ sinh thái, tính đa dạng sinh học,
vùng bãi ngang có thể được chia làm hai
phần: phần dưới nước và trên cạn. Phần dưới
nước chia ra sinh vật tầng mặt, sinh vật tầng
nước nông và sinh vật tầng nước sâu. Nhìn
chung đa dạng sinh học ở vùng ven biển rất
phong phú và đa dạng. Tính đa dạng này phụ
thuộc nhiều vào điều kiện môi trường tự
nhiên như nhiệt độ, chế độ nước, môi trường
đất. Đối với vùng đất cao, ít ngập triều và
không có nước ngọt, đất dễ nhiễm mặn và
khô thì đa dạng sinh học nghèo nàn. (Hình 5).

3.2. Phân loại khác
Phân loại theo ngành nghề: Làng
thuần ngư nghiệp; Làng ngư nghiệp kết hợp
nghề sản xuất ngư cụ; Làng ngư nghiệp kết
hợp nghề chế biến thủy sản; Làng ngư
nghiệp kết hợp dịch vụ thương mại, du lịch
Phân loại theo khu vực đô thị nông thôn: Làng ngư dân trong đô thị;
Làng ngư dân ven đô; Làng ngư dân vùng
nông thôn.
Tóm lại, mỗi làng ngư dân có những
điểm giống nhau cơ bản: Về vị trí: Nơi ở
phải tránh cho được gió mùa đông bắc, phải

được che khuất, gió, bão, sóng đổ và bãi neo
đậu tàu thuyền. Vì đối với vùng Nam Trung
Bộ khi gió mùa đông bắc đến cũng chính là
mùa mưa, bão, lụt, sóng to, gió lớn. Quan hệ
cộng đồng Dân cư: quần cư thường theo
huyết thống giòng họ, bà con, bạn thuyền…
nhằm thuận lợi cho việc ra biển cả. Công
trình Nhà cửa: các cụm nhà ở chen chúc,
không có lối đi, vách sát vách, nhà sát nhà
quan hệ rất gần gũi. Nhược điểm gây ra là
các sinh hoạt cá nhân và cộng đồng rất mất vệ
sinh và kém văn hóa nhiều mặt. Quan niệm,
tập quán: tư tưởng trọng nam, sử dụng lao


Thông báo Khoa học và Công nghệ* Số 1-2013

động nam là phổ biến và việc tăng dân số
không có kế hoạch đến nay vẫn còn tồn tại.
Vì mục đích đơn giản là sinh nhiều con để có
nhiều con trai đi làm biển, khỏi thuê mướn
tốn công và bị động, lứa tuổi lao động là rất
sớm. Do đó việc học hành của các lứa tuổi,
đặc biệt là con trai cha mẹ ít quan tâm, chỉ
quan tâm đến thể xác rồi bắt xuống thuyền
kéo neo, tát nước. Lễ hội: thường tổ chức các
lễ hội cầu ngư, đua thuyền, cúng kỵ, cữ kiêng,
các làng chỉ khác nhau về hình thức, về thời
gian trong năm.
Vùng Nam Trung Bộ có một chuỗi

các làng ngư dân trải dài ven biển với vị trí
địa lý thuận lợi về giao thông đường sắt,

98

đường bộ, đường thủy, đường hàng không,
có nhiều tiềm năng biển để phát triển dịch vụ
- du lịch, nuôi trồng, khai thác thủy hải sản
ven và xa bờ… Do đó, cần được quy hoạch
cụ thể theo định hướng phát triển kinh tế
nông, lâm, ngư nghiệp gắn liền với các hoạt
động công nghiệp và phi công nghiệp khác;
nhằm gắn liền các lợi ích vốn có và cân bằng
kinh tế chính trị giữa các vùng miền. Đồng
thời đáp ứng nhu cầu về vật chất và tinh thần,
thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế xã hội,
nâng cao và cải thiện đời sống của nhân dân
nông thôn, đẩy mạnh tiến trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa và đô thị hóa nông thôn.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Nguyễn Đình Tư. 2003. Non nước Khánh Hòa, Nxb Thanh Niên, Hồ Chí Minh.
[2] Nguyễn Đình Tư. 1965. Non nước Phú Yên, Nxb Tiền Giang, Sài Gòn.
[3] Quách Tấn. 2004. Non nước Bình Định, Nxb Thanh Niên.
[4] Viện Kinh tế và Quy hoạch Thủy sản, Bộ Thủy sản - Hà Xuân Thông. 2003. Đặc điểm của
các cộng đồng dân cư ven biển Việt Nam, Tài liệu tập huấn bảo tồn biển, Tp.Nha Trang.
[5] Nhiều Tác giả, Văn hóa vùng Biển: tập hợp các bài viết tham luận, hội thảo do hội VNDGVHCDT Tỉnh Phú Yên tổ chức tháng 10- 2004.




×