Tải bản đầy đủ (.docx) (40 trang)

Cơ sở lý luận về thanh toán quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (225.79 KB, 40 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Cơ sở lý luận về thanh toán quốc tế
I. KHÁI NIỆM VÀ VAI TRÒ CỦA THANH TOÁN QUỐC TẾ
1. Khái niệm về thanh toán quốc tế
Thanh toán quốc tế là việc thực hiện các nghĩa vụ chi trả tiền tệ phát sinh
từ các quan hệ kinh tế, thương mại, tài chính, tín dụng giữa các tổ chức kinh tế
quốc tế, giữa các hãng, các cá nhân của các nước khác nhau để kết thúc một
chu trình hoạt động trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại bằng hình thức chuyển
tiền hay bù trừ trên các tài khoản tại các ngân hàng.
Sự cần thiết của quan hệ thanh toán phát sinh từ quá trình quốc tế hoá
ngày càng gia tăng về thương mại, công nghiệp, dịch vụ. Quan hệ thanh toán
quốc tế dựa trên ngoại thương xuất nhập khẩu, kinh doanh tiền tệ để hưởng
chênh lệch lãi suất và tỷ giá.
Cơ sở kỹ thuật để thực hiện quan hệ thanh toán quốc tế là mạng thanh toán
quốc tế giữa các thành viên tham gia là các quốc gia riêng biệt.
Khác với thanh toán nội địa (trong phạm vi một nước) thanh toán quốc tế
thường gắn với việc trao đổi đông tiền của nước này sang đồng tiền của nước
khác. Nội tệ với chức năng là phương tiện thanh toán theo luật định trong
phạm vi một nước, sẽ không thể vượt qua giới hạn sử dụng của nó nếu như hai
bên liên quan trong hợp đồng mua bán không có một thoả thuận cụ thể nào về
vấn đề đó. Do vậy khi ký kết hợp đồng thương mại, tín dụng, hay dịch vụ các
bên thường đàm phán, thống nhất về ngoại tệ nào được dùng trong giao dịch
là đồng tiền của nước người bán hay người mua hay có thể là đồng tiền của
nước thứ ba.
Các đồng tiền được sử dụng trong thanh toán quốc tế chủ yếu là các laọi
ngoại tệ mạnh có khả năng chuyển đổi tự do như đôla Mỹ (USD), bảng Anh
- 1 -
Website: Email : Tel : 0918.775.368
(GBP), mác Đức (DEM), yên Nhật (JPY), frăng Pháp (FRF). Đặc biệt với sự ra
đời của đồng tiền chung châu Âu (EURO) ngày 1/1/1999 của liên minh châu Âu
sẽ tạo ra khả năng cạnh tranh gay gắt trên thị trường tiền tệ thanh toán quốc


tế để quyết định đồng tiền nào USD hay EURO sẽ chiếm tỷ lệ cao hơn trong giao
dịch thanh toán quốc tế.
Hiện nay, phần lớn việc chi trả trong thanh toán quốc tế được thực hiện
thông qua hệ thống giao dịch SWIFT (Hiệp hội viễn thông tài chính quốc tế).
Theo thống kê của tổ chức này thì các giao dịch tài chính tiền tệ quốc tế được
thực hiện qua mạng SWIFT chiếm 72% các giao dịch tài chính tiền tệ quốc tế
hàng ngày, còn lại được thực hiện thông qua con đường điện tín, bưu điện dưới
các hình thức uỷ nhiệm thu, chi hộ lẫn nhau giữa các ngân hàng, tỷ lệ trả bằng
tiền mặt trong thanh toán quốc tế chiếm một phần không đáng kể.
Ngoài ngoại tệ là yếu tố cơ bản không thể thiếu trong thanh toán quốc tế,
một yếu tố không kém phần quan trọng trong hoạt động này là các chứng từ.
Chứng từ là cơ sở để người thụ hưởng có quyền được đòi tiền và là căn cứ để
chấp nhận nợ hoặc từ chối thực hiện nghĩa vụ chi trả của mình. Các chứng từ
được tạo lập theo các luật lệ, tập quán của mỗi một quốc gia và phù hợp với
thông lệ quốc tế cho mỗi loại chứng từ được đưa ra sử dụng. Chúng có thể trở
thành đối tượng của một loại hình thương mại đặc biệt thông qua việc mua
bán của các ngân hàng, các tổ chức tiền tệ. Số lượng và loại chứng từ cũng
như hình thức cách tạo lập phụ thuộc vào phương thức thanh toán mà các bên
lực chọn.
Như trên đã phân tích thì phần lớn các giao dịch chi trả trong thanh toán
quốc tế đều thông qua hệ thống tài khoản tại các ngân hàng. Đồng tiền thanh
toán có thể là ngoại tệ có thể là bản tệ, song một khi đồng tiền bản tệ được đưa
vào sử dụng trong hợp đồng mua bán thì nhất thiết nó phải là ngoại tệ của
phía bên kia, hoặc đồng tiền của nước thứ ba, chủ yếu là ngoại tệ mạnh. Khác
- 2 -
Website: Email : Tel : 0918.775.368
với thanh toán nội địa, thanh toán quốc tế thường gặp nhiều rủi ro do biến
động của tiền tệ, sự bất ổn chính trị của một quốc gia, do vị trí địa lý của các
bên tham gia cách xa nhau làm hạn chế việc tìm hiểu khả năng thanh toán nợ
của con nợ. Do vậy các nghiệp vụ đảm bảo, bảo lãnh của ngân hàng, hoạt động

tín dụng của các tổ chức tiền tệ, tài chính quốc tế ra đời như là một yếu tố
không thể thiếu để hỗ trợ cho hoạt động thanh toán quốc tế.
Hoạt động thanh toán quốc tế có thể mô hình hoá dưới dạng đơn giản như sau:
Giao hàng hoặc dịch vụ
Uỷ Báo
nhiệm có
chi
Thông báo trả tiền
Qua việc nêu lên một số vấn đề chung về thanh toán quốc tế, chúng ta có thể
thấy nó là một mắt xích không thể thiếu trong dây chuyền hoạt động kinh tế
quốc dân. Thanh toán quốc tế là khâu kết thúc của một giao dịch mua bán hàng
hoá hay dịch vụ, là cầu nối giữa người sản xuất và người tiêu dùng thông qua
việc chi trả lẫn nhau trong nghiệp vụ thanh toán quốc tế. Thanh toán quốc tế
đã góp phần chủ yếu để giải quyết mối quan hệ hàng hoá tiền tệ quốc tế, tạo
nên sự liên tục của quá trình tái sản xuất và đẩy nhanh quá trình lưu thông
hàng hoá quốc tế. Tuy nhiên, trong phạm vi nghiên cứu của chuyên đề này,
chúng ta chỉ xem xét thanh toán quốc tế như là việc chi trả những khoản ngoại
- 3 -
Người bánNgười mua
Ngân h ng trungà
gian
Ngân h ng bênà
bán
Ngân h ng bênà
mua
Website: Email : Tel : 0918.775.368
tệ, tín dụng có liên quan đến hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá đã được
thoả thuận trong hợp đồng ngoại thương.
2. Vai trò của thanh toán quốc tế
2.1. Vai trò của thanh toán quốc tế đối với hoạt động kinh tế quốc dân

Sự ra đời và phát triển của nền kinh tế sản xuất và trao đổi hàng hoá trên
thế giới gắn liền với sự ra đời, phát triển của tiền tệ và lưu thông tiền tệ. Trong
quá trình trao đổi hàng hoá, tiền tệ ra đời với chức năng là trung gian trao đổi
hàng hoá đặc biệt, làm vật ngang giá chung của các loại hàng hoá khác. Việc
xuất hiện đồng tiền trong lưu thông và trao đổi hàng hoá đã tạo tiền đề và thúc
đẩy mậu dịch quốc tế phát triển. Cùng với mối quan hệ giữa các nhà kinh
doanh xuất nhập khẩu ngày càng trở nên đa dạng và phong phú. Sự không
nhất trí về thờì gian của các chu trình sản xuất và tiêu thụ hàng hoá, hoạt động
thanh toán quốc tế - khâu kết thúc một giao dịch ngoại thương cũng trở nên
bức thiết và thường xuyên hơn, yêu cầu phảI được xem xét để hoàn thiện
nghiệp vụ thanh toán quốc tế theo luật lệ quốc gia cũng như phảI phù hợp với
thông lệ quốc tế và đáp ứng đòi hỏi của thị trường thương mại hoá toàn cầu là
hết sức cần thiết.
Sự trỗi dậy một cách nhanh chóng và mạnh mẽ của nền kinh tế ở một số
nước trên thế giới trong thập kỷ cuối của thế kỷ 20 đã chứng minh rằng kinh tế
của một nước không thể phát triển với một chính sách đóng cửa, trông vào tích
luỹ và trao đổi trong nước. Mà phảI biết phát huy mặt mạnh trong nước, tận
dụng khả năng có lợi từ bên ngoàI, biết phát huy lợi thế so sánh, biết kết hợp
sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại trong hợp tác kinh tế quốc tế. Văn kiện
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII đã xác định: "Nhiệm vụ đối ngoại trong
thời gian tới là củng cố hoà bình và tạo điều kiện quốc tế thuận lợi hơn nữa để
đẩy mạnh phát triển kinh tế-xã hội, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước,
phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc" và "Tiếp tục đường lối đối
- 4 -
Website: Email : Tel : 0918.775.368
ngoại độc lập tự chủ, mở rộng đa phương hoá và đa dạng hoá các mối quan hệ
đối ngoại với tinh thần Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng
đồng thế giới".
Thanh toán quốc tế phản ánh sự vận động có tính chất độc lập tương đối
của giá trị trong qua trình chu chuyển hang hoá và tư bản giữa các quốc gia.

Như vậy, nếu khâu thanh toán quốc tế được thực hiện nhanh chóng, an toàn,
chính xác thì nó đã trực tiếp tác động vào việc rút ngắn thời gian chu chuyển
vốn, giảm bớt và khắc phục những rủi ro liên quan tới sự biến động của tiền tệ,
tới khả năng thanh toán của con nợ, tạo điều kiện cho việc phát triển và mở
rộng hoạt động ngoại thương của mỗi nước.
Vị trí và tầm quan trọng của hoạt động thanh toán quốc tế ngày càng được
khẳng định trong hoạt động kinh tế quốc dân nói chung và hoạt động kinh tế
đối ngoại nói riêng. Đặc biệt trong bối cảnh hiện nay khi mỗi quốc gia đều đặt
hoạt động kinh tế đối ngoại lên hàng đầu, coi hoạt động kinh tế đối ngoại là
con đường tất yếu trong chiến lược phát triển kinh tế nước mình.
Thanh toán quốc tế là khâu quan trọng trogn quá trình mua bán hàng hoá,
dịch vụ giữa các tổ chức, cá nhân thuộc các quốc gia khác nhau. Nếu không có
hoạt động thanh toán quốc tế thì hoạt động kinh tế đối ngoại khó tồn tại và
phát triển được.
Nếu tổ chức hoạt động thanh toán quốc tế được tiến hành nhanh chóng, an
toàn, chính xác sẽ giảI quyết được mối quan hệ lưu thông hang hoá-tiền tệ giữa
người mua và người bán một cách trôI chảy và hiệu quả. Về mặt kinh doanh,
thanh toán tiền hàng thể hiện chất lượng của kinh doanh, nói lên hiệu quả kinh
tế và tài chính trong hoạt động của các doang nghiệp.
Trong điều kiện tiền tệ thường xuyên biến động, khả năng thanh toán của
con nợ bấp bênh, rủi ro trong việc thực hiện hợp đồng mua bán ngày càng
- 5 -
Website: Email : Tel : 0918.775.368
nhiều, vị trí và vai trò của hoạt động thanh toán quốc tế cũng vì thế mà được
khẳng định hơn. Trong đó các yếu tố về tiền tệ, về phương thức thanh toán,
biện pháp đảm bảo hối đoáI và đảm bảo thu được tiền hàng đối với nhà xuất
khẩu… cần được xem xét nghiên cứu kỹ lưỡng để lựa chọn áp dụng cho linh
hoạt với mỗi trường hợp.
2.2.Vai trò của thanh toán quốc tế đối với hoạt động kinh doanh của ngân
hàng.

Đối với hoạt động ngân hàng, việc hoàn thiện và phát triển hoạt động
thanh toán quốc tế có vị trí và vai trò hết sức quan trọng, nó không chỉ là một
dịch vụ thanh toán thuần tuý mà nó được coi là một mặt không thể thiếu được
trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng, nó bổ sung và hỗ trợ cho các mặt
hoạt động kinh doanh khác của ngân hàng.
Hoạt động thanh toán quốc tế của một ngân hàng phát triển đáp ứng được
đòi hỏi của khách hàng sẽ là điều kiện tốt để thu hút thêm khách về giao dịch,
trên cơ sở đó mà ngân hàng có thể tăng qui mô hoạt động của mình.
Nhờ đẩy mạnh hoạt động thanh toán quốc tế mà ngân hàng có thể mở rộng
hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu cũng như tăng cường được nguồn
vốn huy động đặc biệt là nguồn vốn ngoại tệ do tạm thời quản lý được vốn
nhàn rỗi của các doanh nghiệp có quan hệ thanht oán quốc tế qua ngân hàng.
Hoạt động thanht oán quốc tế tốt giúp cho ngân hàng phát triển được các
nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ, bảo lãnh và các dịch vụ ngân hàng quốc tế khác.
Nhờ có nguồn vốn ngoại tệ thu về lớn và đa dạng thông qua nghiệp vụ thanh
toán quốc tế.
Nghiệp vụ thanh toán quốc tế phát triển sẽ giúp cho ngân hàng nâng cao
được uy tín của mình trên thị trường quốc tế, trên cơ sở đó mà có thể khai thác
được nguồn vốn tài trợ của các ngân hàng nước ngoài và nguồn vốn trên thị
- 6 -
Website: Email : Tel : 0918.775.368
trường tài chính thế giới nhằm đáp ứng cao hơn nhu cầu vay vốn của khách
hàng.
Hoạt động thanh toán quốc tế giúp cho ngân hàng tăng thu nhập và tăng
cường khả năng cạnh tranh của ngân hàng trong cơ chế thị trường, đồng thời
nó giúp cho hoạt động ngân hàng vượt qua khỏi phạm vi quốc gia và hoà nhập
với hệ thống ngân hàng thế giới.
Tóm lại, thanh toán quốc tế trong hoạt động ngân hàng nói riêng và trong
hoạt động kinh tế quốc dân nói chung có một vị trí đặc biệt quan trọng. Nó là
một mắt xích không thể thiếu trogn dây chuyền hoạt động kinh tế kể từ khi

chuẩn bị các bước cần thiết để sản xuất ra hàng hoá tới khi bán hàng thu tiền
về cho nhà xuất khẩu hay chi tiền ra để nhập hàng về phục vụ sản xuất, đời
sống con người sao cho đủ số lượng, đúng chất lượng. Nghiên cứu nội dung và
quá trình phát triển của nghiệp vụ thanh toán quốc tế, lựa chọn và xử lý yếu tố
trong nội dung của nó. Hoàn thiện các qui trình nghiệp vụ kỹ thuật sao cho phù
hợp với những đặc điểm tính chất nền kinh tế mỗi quốc gia, đáp ứng được yêu
cầu, mục đích tăng trưởng nền kinh tế lấy hoạt động kinh tế đối ngoại làm
nòng cốt trước hết là nhiệm vụ của Nhà nước, sau đó là nhiệm vụ của các cơ
quan chức năng, các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, của hệ thống ngân hàng
đặc biệt là hệ thống các ngân hàng thương mại - những người trực tiếp tham
gia vận hành nghiệp vụ thanh toán quốc tế vào guồng máy sản xuất kinh doanh
để tạo ra lợi nhuận.
II. QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN NGHIỆP VỤ THANH TOÁN QUỐC
TẾ.
1. Giai đoạn thanh toán quốc tế tự do và nhiều bên trước khủng hoảng TBCN
(1929).
- 7 -
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Đây là thời kỳ chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh, dựa trên cơ sở của chế
độ bản vị vàng của các quốc gia. Trong thời kỳ này cán cân trả tiền của các
nước TBCN tương đối ổn định, mặt khác chế độ tiền tệ tín dụng cũng ổn định
tương đối. Do đó thanh toán quốc tế TBCN cũng ở vào giai đoạn ít có biến
động. Tự do và nhiều bên là đặc điểm chủ yếu nhất của hoạt động thanh toán
quốc tế lúc này và nó hoàn toàn nhất trí với đặc điểm của chế độ bản vị vàng,
chế độ tín dụng quốc tế lúc đó.
Nội dung của hoạt động thanh toán quốc tế tự do và nhiều bên bao gồm 5
yếu tố sau:
1.1. Tự do mua bán ngoại hối.
Dưới chế độ thanh toán này các nguồn ngoại tệ thu, chi bất kể do nguyên nhân
nào với mục đích gì đều có thể mua bán bất kỳ lúc nào trên thị trường trong và

ngoài nước. Tự do mua bán ngoại hối làm cho tuyệt đại đa số bộ phận nghiệp
vụ ngoại hối đều tập trung tại ngân hàng thương mại. Việc cho vay và vay nợ
giữa các nước được bù trừ lẫn nhau ở mức cao nhất, giảm được đến mức thấp
nhất việc vận chuyển tiền tệ thế giới.
1.2. Vốn ngắn hạn và dài hạn tự do lưu động trên thế giới.
Với nội dung này không những mọi nhu cầu về tư bản của các nước được thoả
mãn mà còn điều hoà được cung cầu về ngoại hối và cân bằng được mức lãI
suất trên thế giới. Tác dụng của điều hoà cung cầu về ngoại hối và cân bằng
mức lãI suất là nguyên nhân làm cho việc lưu thông tư bản ngắn hạn và dàI
hạn trên quốc tế trở thành biện pháp quan trọng nhất để cân bằng cán cân trả
tiền quốc tế của các nước TBCN trong thời kỳ này.
1.3. Tự do xuất nhập khẩu vàng.
Trong điều kiện nếu cung và cầu ngoại hối không cân bằng nhau, các nước đều
có thể tự do xuất nhập khẩu vàng với tư cách là tiền tệ thế giới. Tự do xuất
- 8 -
Website: Email : Tel : 0918.775.368
nhập khẩu vàng đã làm thoả mãn hơn về nhu cầu ngoại hối và làm cho thanh
toán quốc tế được tiến hành một cách thuận lợi.
1.4. Thị trường tự do về ngoại hối và vàng.
Tự do mua bán ngoại hối, tự do lưu thông tư bản ngắn hạn và dài hạn, tự do
xuất nhập khẩu vàng không những được pháp luật bảo đảm mà còn có thị
trường tự do về ngoại hối và vàng làm cơ sở nghiệp vụ. Trên những thị trường
này bất cứ người nào, không kể nguyên nhân gì đều có thể mua bán ngoại hối
và vàng một cách tự do, tự do vay mượn tư bản ngắn hạn và dài hạn một cách
không hạn chế để thoả mãn nhu cầu về thanh toán quốc tế.
1.5. Thanh toán quốc tế nhiều bên.
Các mối quan hệ kinh tế trong đó có vay và trả nợ giữa các nước tư bản chủ
nghĩa được thanh toán theo cơ chế tự do bù trừ với nhau. Đó chính là việc
thanh toán quốc tế tự do và nhiều bên trong giai đoạn này.
2. Giai đoạn thanh toán quốc tế trong khuôn khổ hiệp định (sau 1933).

Điển hình của giai đoạn này là vào trước và sau chiến tranh thế giới lần
thứ hai, khởi đầu từ cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929-1933, cán cân
thanh toán quốc tế của nhiều nước tư bản trong giai đoạn này thâm hụt lớn.
Ngoại hối không đủ để cung cấp cho những nhu cầu đối ngoại, tỷ giá hối đoái
lên cao, vàng chạy ra nước ngoài, hệ thống tiền tệ, tín dụng thế giới bị khủng
hoảng. Kết quả là chế độ thanh toán quốc tế nhiều bên và tự do cũng bị lâm vào
tình trạng khủng hoảng và sau đó là tan vỡ, chế độ quản chế ngoại hối, chế độ
thanh toán "Clearing" tay đôi (bù trừ song phương) bắt đầu xuất hiện.
Trước hết là hiệp định thanh toán "Clearing" thuần tuý. Đây là loại hiệp
định mà hai bên hoàn toàn không phải trả ngoại tệ cho nhau đối với bất cứ
khoản chi nào hay trong bất cứ trường hợp nào.
- 9 -
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Sau đó là hiệp định trả tiền "Clearing" tay đôi quy định hai bên phảI thanh
toán cho nhau số tiền chênh lệch bằng ngoại hối. Hiệp định trả "Clearing" đầu
tiên được ký kết giữa Thuỵ Sỹ và áo ngày 12/11/1931, đến năm 1939 đã có tới
38 nước ký 178 hiệp định trả tiền "Clearing". Thanh toán mậu dịch quốc tế tiến
hành bằng những hiệp định trả tiền "Clearing" ngày càng tăng: năm 1937
chiếm 12% tổng kim ngạch mậu dịch quốc tế và đến những năm sau chiến
tranh thế giới lần thứ hai con số này đã lên tới 60%.
Bên cạnh các hiệp định thanh toán "Clearing" được ký kết giữa các nước,
các hệ thống tiền tệ quốc tế cũng lần lượt ra đời có ảnh hưởng trực tiếp đến
hoạt động thanh toán quốc tế. Hiệp định tiền tệ quốc tế thống nhất Bretton
Woods năm 1944 đưa ra một số nguyên tắc quan trọng như đồng đô la Mỹ
(USD) là đồng tiền chuẩn quốc tế, được đổi ra vàng (1 ounce = 35 USD); tỷ giá
hối đoái giữa các nước thành viên được hình thành trên cơ sở so sánh hàm
lượng vàng chính thức giữa tiền tệ của các nước thành viên và USD, nó không
được phép biến động quá phạm vi +1% của tỷ giá chính thức đã đăng ký tại
Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF).
Sự ra đời của hệ thống tỷ giá hối đoái mới này chỉ duy trì được sự ổn định

của tỷ giá các đông tiền cho đến năm 1968. Với sự kiện câu lạc bộ vàng Paris
giảI thể tháng 3/1968 và chế độ hai giá vàng hình thành, việc chuyển đổi USD
ra vàng bị công phá mãnh liệt. Giá vàng tăng vọt, USD mất giá dẫn tới cuộc đào
thảI USD, săn lùng JPY và DEM. Cho đến tháng 8/1971, nước Mỹ tuyên bố
ngừng việc đổi đô la Mỹ ra vàng, từ đó hệ thống tiền tệ Bretton Woods sụp đổ.
Sau sự sụp đổ của hệ thống tiền tệ Bretton Woods là sự ra đời của hiệp định
Smithsonian, theo đó Mỹ đã chính thức phá giá đồng USD 7,95% (1 ounce =
38USD). Đồng thời biên độ giao động của tỷ giá hối đoáI giữa các đồng tiền
được nới rộng lên +2,25%. Cho đến tháng 2/1973, sau khi Mỹ tuyên bố phá giá
đồng USD lần thứ hai 10% thì hiệp định Smithsonian hoàn toàn sụp đổ. Từ thời
- 10 -
Website: Email : Tel : 0918.775.368
điểm này quan hệ tiền tệ giữa các nước chuyển từ cơ chế tỷ giá cố định sang cơ
chế thả nổi.
Tóm lại, đặc trưng về hoạt động thanh toán quốc tế giai đoạn trong khuôn
khổ hiệp định là một khi hoạt động thanh toán được thực hiện trong khuôn khổ
hiệp định Chính phủ thì nó trở thành chế độ thanh toán quốc tế mang tên của
hiệp định đó.
3.Đặc trưng của hoạt động thanh toán quốc tế trong giai đoạn hiện nay
Hoạt động thanh toán quốc tế tồn tại trong mối quan hệ mật thiết với các
hoạt động khác trong nền kinh tế quốc dân, đặc biệt nội dung chiến lược phát
triển kinh tế đối ngoại, chính sách tiền tệ tín dụng, chế độ quản lý ngoại hối của
mỗi quốc gia. Đồng thời việc tổ chức quản lý và thực hiện các hoạt động này
phảI dựa trên cơ sở luật quốc gia, tập quán quốc gia, các thông lệ thực hành
quốc tế như UCP 500, URC 522 của phòng thương mại quốc tế và các hiệp định
được ký kết giữa các nước. Do vậy ở mỗi giai đoạn khác nhau của sự phát triển
kinh tế thế giới nói chung và mỗi quốc gia nói riêng thì hoạt động thanh toán
quốc tế cũng mang sắc thái và đặc trưng riêng. Giai đoạn hiện nay thì hoạt
động thanh toán quốc tế có những đặc trưng chủ yếu sau.
3.1. Đồng đô la Mỹ (USD) không còn là đồng tiền chuẩn duy nhất trong

thanh toán quốc tế.
Từ sau sự kiện tan vỡ của hệ thống tiền tệ quốc tế thống nhất Bretton
Woods (1971), đồng đô la Mỹ không còn được tự do đổi ra vàng, chế độ tỷ giá
cố định giữa đồng tiền các quốc gia với đồng đô la Mỹ bị phá vỡ thì đồng đô la
Mỹ không còn là đồng tiền chuẩn quốc tế. Trong thanh toán quốc tế hiện nay,
ngoàI đồng đô la Mỹ còn sử dụng nhiều đồng tiền của các quốc gia khác. Việc
sử dụng đồng tiền nào là tuỳ thuộc vào sự thoả thuận của các bên trong hợp
đồng kinh tế. Trong thực tế thấy rằng các đồng tiền mạnh, có khả năng chuyển
- 11 -
Website: Email : Tel : 0918.775.368
đổi cao như USD, FRF, DEM, JPY, GBP… được nhiều nước sử dụng trong các hợp
đồng ngoại thương, thanh toán tín dụng quốc tế và dự trữ ngoại hối của các
nước. Đặc biệt từ 1/1/1999, đồng tiền chung châu Âu ra đời (EURO) đang là
đồng tiền mới hấp dẫn trên thị trường thanh toán quốc tế. Trong tương lai một
vàI năm nữa sẽ thay thế cho nhiều đồng tiền của các nước trong khối liên minh
kinh tế tiền tệ châu Âu (15 nước châu Âu trong đó có 11 nước tham gia đầu
tiên).
Đặc điểm nổi bật của các đồng tiền các quốc gia này là các đồng tiền này
đều không còn được đổi ra vàng, hàm kim lượng công bố trước đây của nó đều
không có giá trị về mặt kinh tế, chỉ mang giá trị danh nghĩa. Hầu hết các đồng
tiền áp dụng cơ chế thả nổi nên giá trị của nó thường xuyên biến động và bị chi
phối bởi nhiều yếu tố như lạm phát, quan hệ cung cầu, lãi suất, các chính sách
tài chính tiền tệ của các quốc gia đó. Tỷ giá giữa các đồng tiền biến động từng
ngày, từng giờ, điều đó ảnh hưởng rất lớn đến sự ổn định và an toàn trong
hoạt động kinh tế và thanh toán quốc tế.
Để thiết lập trật tự cho các quan hệ trao đổi mậu dịch, quan hệ thanh toán
quốc tế và các quan hệ kinh tế quốc tế khác giữa các quốc gia trong khu vực và
trên thế giới đã xuất hiện các liên minh tiền tệ, tín dụng quốc tế khu vực cùng
với sự thống nhất tiền tệ khu vực và thành lập các ngân hàng trung ương khu
vực. Như vậy sẽ tiết kiệm được chi phí khi chuyển đổi giao dịch giữa các nước,

tránh được rủi ro đối với việc giao dịch tiền tệ giữa các nước, lãI suất sẽ giảm
và hội tụ theo một mức chung, các doanh nghiệp sẽ không sợ bị rủi ro nhiều về
giá cả, dễ dàng trong việc ra các quyết định đầu tư, kinh doanh.
3.2. Trên thế giới vẫn còn tồn tại hai chế độ quản chế ngoại hối đối đầu
nhau.
Vấn đề quản lý ngoại hối là một nội dung rất quan trọng trong hoạt động
ngoại thương và thanh toán quốc tế. Mặc dù hiện nay trong nền kinh tế hàng
- 12 -
Website: Email : Tel : 0918.775.368
hoá, các chủ thể tham gia trong các hợp đồng mua bán đều tuân thủ theo các
nguyên tắc "bình đẳng", " hai bên cùng có lợi", "tự do cạnh tranh" song các mối
quan hệ về tiền tệ, cơ chế thanh toán ở mỗi nước lại có những đặc điểm riêng.
Các đặc điểm này được thể hiện trong các chính sách quản chế ngoại hối đại
diện cho hai nhóm nước khác nhau:
Nhóm các nước tư bản phát triển thực hiện chế độ ngoại hối tự do, các
đồng tiền quốc gia được tự do tham gia vào thanh toán quốc tế, tự do chuyển
đổi từ đông tiền nước mình sang đồng tiền nước ngoàI, tự do chuyển vốn ra
nước ngoàI hoặc từ nước ngoàI vào trong nước. Một số nước như Mỹ, Pháp,
Anh các chủ thể kinh tế tự do mở tàI khoản ở nước ngoàI, tại các nước này
không còn chế độ cấp giấy phép ngoại hối.
Nhóm các nước còn lại, đại bộ phận là các nước đang phát triển và kém
phát triển, thực hiện chế độ quản chế ngoại hối nghiêm ngặt, không được mua
bán ngoại hối tự do, không được mở tàI khoản ở ngân hàng nước ngoàI nếu
chưa có giấy phép của cơ quan quản lý có thẩm quyền của Nhà nước. Các đồng
tiền của các nước này chưa có khả năng chuyển đổi nên chưa được tham gia
vào quan hệ thanh toán quốc tế.
3.3. Các liên minh tiền tệ, tín dụng ra đời và ngày càng có vai trò quan
trọng đối với các quốc gia.
Dưới tác động của nhiều yếu tố như lạm phát, tình hình cán cân thanh toán
quốc tế, tình hình cung cầu ngoại tệ, mức lãi suất, các chính sách tài chính tiền

tệ của mỗi quốc gia, tỷ giá hối đoái giữa các đồng tiền thường xuyên biến động,
khả năng thanh toán bấp bênh dẫn đến rủi ro trong hoạt động thanh toán quốc
tế.
Trước tình hình đó, bên cạnh vai trò của ngân hàng nhà nước hoặc cơ
quan quản lý ngoại hối của nhà nước trực tiếp tham gia mua bán ngoại hối để
- 13 -
Website: Email : Tel : 0918.775.368
điều tiết quan hệ cung cầu trên thị trường, để điều chỉnh tỷ giá lên hoặc xuống
hoặc ổn định theo mức độ mong muốn, tuy nhiên muốn thực hiện được chính
sách này thì ngân hàng trung ương phảI có một lượng dự trữ ngoại hối lớn.
Nếu ở một nước nào đó tình trạng cán cân thanh toán quốc tế liên tục bị thiếu
hụt thì khó có thể thực hiện được chính sách này. Để giảI quyết vấn đề đó một
số tổ chức tàI chính, tiền tệ, tín dụng quốc tế ra đời nhằm giúp các nước cảI
thiện cán cân thanh toán, ổn định tỷ giá hối đoái. Trong các tổ chức tàI chính
thì quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) và ngân hàng thế giới (WB) đóng vai trò hết sức
quan trọng, bằng việc cho vay của mình IMF và WB không những đã hỗ trợ cho
sự phục hồi kinh tế ở các nước chịu cảnh tàn phá của chiến tranh mà còn giúp
đỡ các nước thành viên trong việc cân bằng cán cân thanh toán bị thâm hụt
của họ.
Bên cạnh đó còn có các ngân hàng quốc tế khu vực như Ngân hàng phát
triển liên Mỹ-IADB, Ngân hàng phát triển châu Phi-AFBD, Ngân hàng phát triển
châu á. Những tổ chức này ra đời nhằm mục đích cấp tín dụng, bảo trợ và cảI
thiện cán cân thanh toán của các nước trong khu vực.
Ngân hàng thanh toán quốc tế (BIS) là một tổ chức tài chính quốc tế ra đời
trong bối cảnh khởi đầu chiến tranh thế giới lần thứ nhất. Một trong những
chức năng hoạt động của BIS là tham gia với tư cách là người bảo trợ hoặc đại
lý thanh toán quốc tế mà các nước thanh toán đã thoả thuận uỷ nhiệm. Mặc dù
có bề dày hơn 50 năm hoạt động và mong mỏi tự khẳng định là một tổ chức
siêu quốc gia về điều chỉnh độc quyền nhà nước, kết quả mà BIS đạt được vẫn
tỏ ra khiêm tốn, trong thập kỷ gần đây hoạt động chủ yếu trong phạm vi hợp

tác tiền tệ EEC.
Bên cạnh các tổ chức tài chính tín dụng quốc tế, một số nước ký hiệp định
hỗ trợ tín dụng như hiệp định SWAP (Swing Agreement Of Payment) giữa Mỹ
và 14 nước tư bản. Nội dung của hiệp định này là các nước sử dụng tín dụng
- 14 -
Website: Email : Tel : 0918.775.368
SWAP dựa vào vốn dự trữ ngoại hối của nhau để cứu nguy cho đồng tiền của
một nước nào đó bị nguy cơ mất giá.
Hiệp hội viễn thông tài chính liên ngân hàng toàn cầu (SWIFT) ra đời tháng
5/1973 với 239 ngân hàng đầu tiên tại châu Âu và Bắc Mỹ. HIện nay SWIFT đã
có trên 6600 thành viên là các tổ chức tài chính mà chủ yếu là các ngân hàng
thuộc 184 nước. Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam hiện nay là ngân hàng duy
nhất của Việt Nam là thành viên của hiệp hội này. Trung bình mỗi ngày có trên
4 triệu bức điện gửi qua mạng SWIFT, trong đó điện thanh toán chiếm khoảng
72,5%.
Sự ra đời của mạng SWIFT là một bước ngoặt lớn trong hoạt động thanh toán
quốc tế của hệ thống ngân hàng. Nhờ mạng SWIFT mà thông tin giữa các ngân hàng
được chuyển nhanh hơn, chính xác hơn, an toàn hơn và chi phí rẻ hơn lại không giới
hạn trên phạm vi toàn cầu. Việc sử dụng các mẫu điện SWIFT được tiêu chuẩn hoá
bằng các trường bức điện với ngôn ngữ thống nhất, ngắn gọn rõ ràng đã tăng tính
thống nhất, giảm tối thiểu các lỗi dễ mắc phảI, rút ngắn thời gian thao tác đánh điện
và duyệt điện. Các nghiệp vụ ngân hàng được cụ thể hoá dễ sử dụng không chỉ trong
phạm vi ngân hàng mà còn phục vụ cho việc truyền thông tin giữa ngân hàng và khách
hàng.
III. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG THANH TOÁN
QUỐC TẾ.
1. Cán cân thanh toán quốc tế.
Sự hợp tác và tham gia phân công lao động quốc tế tăng lên không những
làm cho trao đổi hàng hoá trong nước gia tăng mà còn làm cho trao đổi hàng
hoá dịch vụ giữa các nước phát triển, các liên hệ kinh tế giữa các nước ngày

càng mật thiết và dần dần hình thành một thị trường thế giới thống nhất.
- 15 -
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Trên cơ sở phát triển của các mối quan hệ kinh tế giữa các nước, sự liên kết
về chính trị và văn hoá giữa các nước ngày càng thắt chặt. Những mối quan hệ
thường xuyên về các mặt kinh tế, chính trị và văn hoá giữa các nước này đã
làm phát sinh những quyền lợi và nghĩa vụ tiền tệ của nước này đối với nước
khác.
Hoạt động thanh toán quốc tế là nhịp cầu nối quan trọng cho quá trình
giao lưu thương mại cũng như du lịch dịch vụ giữa nước này với nước kia.
Những hoạt động chuyển đổi tiền tệ từ nước này sang tiền tệ nước khác để tìm
ra sự ngang giá chung cho giao dịch thương mại là vô cùng cần thiết. Hoạt
động thanh toán quốc tế có được thực hiện kịp thời hay không có ảnh hưởng
lớn tới cán cân thanh toán của mỗi nước.
1.1. Khái niệm về cán cân thanh toán quốc tế.
Cán cân thanh toán quốc tế là bảng đối chiếu giữa những khoản tiền mà
nước ngoài trả cho một nước và những khoản tiền mà nước đó trả cho nước
ngoàI trong một thời gian nhât định.
Cán cân thanh toán quốc tế chia làm hai loại. Cán cân thanh toán trong một
thời kỳ nhất định và cán cân thanh toán tại một thời điểm nhất định.
Cán cân thanh toán giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong hệ thống cán cân
của các nước. Tình trạng của nó sẽ ảnh hưởng đến sự thay đổi của tỷ giá hối
đoái, đến tình hình ngoại hối của các nước, đến ngoại thương và ảnh hưởng
đến toàn bộ nền kinh tế của một quốc gia.
1.2. Các hạng mục của cán cân thanh toán quốc tế.
-Hạng mục thường xuyên: ghi những khoản giao dịch về hàng hoá, dịch vụ
và các khoản chuyển dịch thanh toán giữa hai nước. Hạng mục này còn được
gọi là cán cân thanh toán vãng lai. Bao gồm:
 Xuất nhập khẩu hàng hoá
- 16 -

×