Tải bản đầy đủ (.doc) (37 trang)

Tiểu luận, Quản lý công tác giáo dục thể chất trong nhà trường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (169.02 KB, 37 trang )

Đề tài:
QUẢN LÝ CÔNG TÁC GIÁO DỤC THỂ CHẤT TRONG NHÀ
TRƯỜNG
1. Khái niệm
Thể dục thể thao nhà trường là cơ sở Thể dục thể thao quốc dân, là trọng
điểm phát triển Thể dục thể thao của 1 quốc gia. Tình hình Thể dục thể thao
trong trường học là nội dung quan trọng nhất để đánh giá trình độ phát triển Thể
dục thể thao của 1 quốc gia.
-Về mặt dân số:Thanh thiếu niên chiếm 1/3 dân số cả nước.
- Về mặt sức khoẻ: Trong thời kỳ giáo dục cơ sở nếu làm tốt giáo dục thể
chất sẽ ảnh hưởng đến việc tăng cường sức khoẻ, thể chất, nhân cách và hình
thành thói quen tập luyện sau này.
- Hầu như các nhà vô địch thế giới, những vận động viên ưu tú đều xuất
thân từ trường học.
- Việc phổ cập kiến thức Thể dục thể thao và việc nâng cao sức khoẻ, tố
chất cho toàn dân đều lấy nhà trường làm cơ sở.
2. Yếu tố ảnh hưởng đến trình độ phát triển Thể dục thể thao trường
học:
Trình độ phát triển giáo dục Thể chất nhà trường phụ thuộc vào yếu tố
sau:
- Phát triển sức sản xuất và thu nhập quốc dân.
- Đầu tư của nhà nước xã hội và cá nhân
- Trình độ quản lý giáo dục Thể chất trong các nhà trường.
- Quan tâm của xã hội với giáo dục Thể chất.
3.Vị trí công tác giáo dục Thể chất trong nhà trường.
giáo dục Thể chất trong nhà trường là nhiệm vụ chiến lược của chiến lược
Thể dục thể thao Việt Nam. Vấn đề này được Hiến pháp 92 (điều 14), chỉ thị
36/CT của Ban bí thư TW Đảng khoá 7, nhiều văn kiện, chỉ thị của đảng và nhà
nước nhấn mạnh. Vị trí chiến lược của giáo dục Thể chất là:
- giáo dục Thể chất trong nhà trường là bộ phận quan trọng của công tác
giáo dục, là cơ sở để phát hiện nhân tài thể thao.


- giáo dục Thể chất thực chất là đầu tư cho con người vì có nó con người
phát triển toàn diện.
- Người phát hiện ra việc đầu tư cho con người là các nhà kinh tế Mỹ. Họ
tổng kết 50 namư (1900-1959) thấy rằng nếu đầu tư vật chất tăng 4,5 lần thì lợi


nhuận tăng 3,5; nhưng đầu tư cho con người tăng 8,5 lần thì lợi nhuận tanưg
17,5 lần. Do đó, từ 1960-1975 Pháp đầu tư tăng 3 lần, Mỹ, Anh tăng 4 lần; Liên
bang Đức tăng 6 lần, Nhật tăng 10 lần. Nước đầu tư cho con người cao sẽ có đầu
tư cao cho Thể dục thể thao.
- 4. Thực trạng Thể dục thể thao trường học Việt Nam.
+ Sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với thể dục thể thao trong
nhà trường:
Thể dục, thể thao trong nhà trường vừa là một môn học vừa là một mặt
của giáo dục toàn diện, là một bộ phận của thể dục thể thao cho mọi người.
Nó bao gồm giáo dục thể chất bắt buộc (2 tiết một tuần với học sinh phổ
thông; từ 90-150 tiết/năm học đối với học sinh, sinh viên đại học, cao đẳng,
trung học chuyên nghiệp và dạy nghề) và các hoạt động thể thao ngoại khóa (tự
nguyện) ngoài giờ học (trong nhà trường hoặc ngoài nhà trường). Giáo dục thể
chất bắt buộc được gọi là giờ thể dục chính khóa hoặc giờ thể dục nội khóa.
Nhiệm vụ và mục tiêu của thể dục thể thao trường học là nâng cao sức
khỏe đảm bảo sự phát triển bình thường của cơ thể học sinh; phát triển các tố
chất thể lực và kỹ năng vận động cơ bản của con người; hình thành thói quen rèn
luyện thân thể, giữ gìn vệ sinh và rèn luyện đạo đức ý chí cho người học. Phát
triển thể dục thể thao trường học có tầm quan trọng đặc biệt trong việc chuẩn bị
nguồn nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Những vấn đề nói trên được quy định tại chương II – Luật Thể dục, Thể
thao (Quốc hội khóa 11 thông qua năm 2006) và quy định tại điều 7 Nghị định
122/2007/NĐ-CP ngày 26/6/2007 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn
thi hành Luật Thể dục, Thể thao. Những quy định này đã thể chế hóa quan điểm

của Đảng Cộng sản Việt Nam và tư tưởng Hồ Chí Minh về thể dục thể thao nói
chung và thể dục thể thao trường học nói riêng.
Tháng 10/1941, trong chương trình cứu nước của Mặt trận Việt Minh đã
nêu rõ: "…Khuyến khích, giúp đỡ nền thể dục quốc dân, làm cho nòi giống ngày
càng thêm mạnh. Trẻ em được Chính phủ đặc biệt săn sóc về Thể dục, Trí dục
và Đức dục…".


ngày 27/3/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 38 thiết lập tại
Bộ Quốc gia Giáo dục một Nha Thanh niên và Thể dục, trong đó có một Phòng
Thanh niên Trung ương và một Phòng Thể dục Trung ương, có việt nam "…
khuyên và dạy đồng bào tập thể dục…". Bác Hồ còn viết bài "Sức khỏe và thể
dục" đăng trên báo Cứu quốc (tiền thân của báo Nhân dân) và báo Việt Nam
Khỏe (tiền thân của báo Thể thao Việt Nam) trong đó, Người khẳng định "…giữ
gìn dân chủ, xây dựng nước nhà, gây đời sống mới, việc gì cũng cần phải có sức
khỏe mới làm thành công. Mỗi một người dân yếu ớt, tức là cả nước yếu ớt, mỗi
một người dân khỏe mạnh, tức là cả nước mạnh khỏe…".
Tháng 1 năm 1955, trong Lễ Khai giảng trường đại học Nhân dân Việt
Nam Bác Hồ đã căn dặn: "Thanh niên phải chuyên tâm đi học và công tác nhưng
cũng cần có vui chơi. Vui chơi lành mạnh là một bộ phận trong sự sinh hoạt của
thanh niên. Trong vui chơi cũng có giáo dục. Cần có những thứ vui chơi văn
hóa, thể thao có tinh thần tập thể và quần chúng…" (Hồ Chí Minh – Bàn về
công tác giáo dục – NXB Sự thật 1972).
Các sự kiện và những văn bản nói trên đã chứng minh rằng: Ngay từ trước
Cách mạng tháng 8 và sau khi chúng ta vừa giành được chính quyền và đang
phải chống lại 3 loại gioặc (đói – dốt – ngoại xâm) thì Trung ương Đảng và Bác
Hồ đã nêu quan điểm, tư tưởng chỉ đạo công tác thể dục thể thao (thể dục theo
nghĩa rộng) đối với thế hệ trẻ (học sinh). Vì đó là đối tượng chính của toàn bộ sự
nghiệp cách mạng của Đảng. Về mặt tổ chức, cơ quan quản lý nhà nước đầu tiên
và cao nhất về thể dục thể thao được đặt trong Bộ Quốc gia Giáo dục (trước đó

là trong Bộ Thanh niên). Điều này càng thể hiện tầm nhìn chiến lược của Đảng
về công tác giáo dục thể chất và thể dục thể thao trường học.
Từ đó đến nay, trong mỗi kỳ đại hội Đảng toàn quốc hoặc trong từng
nhiệm kỳ, Trung ương Đảng đều ban hành các nghị quyết, chỉ thị, thông tri về
thể dục thể thao nói chung và thể dục thể thao trường học nói riêng.
Trong Chỉ thị 36/CT-TW ngày 24/3/1994 về công tác thể dục thể thao
trong giai đoạn mới, Ban Bí thư Trung ương Đảng xác định mục tiêu đến năm
2000 thể dục thể thao trường học phải đạt: "Thực hiện giáo dục thể chất trong tất


cả các trường học. Làm cho việc tập luyện thể dục thể thao trở thành nếp sống
hàng ngày của hầu hết học sinh, sinh viên…". Muốn vậy thì "…Ban cán sự
Đảng Bộ Giáo dục và Đào tạo và Ban cán sự Đảng Tổng cục Thể dục thể thao
phải phối hợp chỉ đạo tổng kết công tác giáo dục thể chất, cải tiến chương trình
giảng dạy, tiêu chuẩn rèn luyện thân thể, đào tạo giáo viên thể dục thể thao cho
trường học các cấp tạo điều kiện cần thiết về cơ sở vật chất để thực hiện chế độ
giáo dục thể chất bắt buộc ở tất cả các trường học…".
Trong Chỉ thị 17/CT-TƯ ngày 23/10/2002 về phát triển thể dục thể thao
đến năm 2010, Ban Bí thư TƯ Đảng xác định "Đẩy mạnh hoạt động thể dục thể
thao nâng cao thể trạng và tầm vóc của người Việt Nam. Phát triển phong trào
thể dục thể thao quần chúng với mạng lưới cơ sở rộng khắp; Đào tạo bồi dưỡng
đội ngũ vận động viên thành tích cao… Đẩy mạnh hoạt động thể dục thể thao ở
trường học, tiến tới đảm bảo mỗi trường học đều có giáo viên thể dục chuyên
trách và lớp học thể dục đúng tiêu chuẩn, tạo điều kiện nâng cao chất lượng giáo
dục thể chất; Xem đây là một tiêu chí công nhận trường chuẩn quốc gia… Tăng
đầu tư của Nhà nước cho việc phát triển thể dục thể thao ở trường học, ở nông
thôn và miền núi…".
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI năm 2011 xác định 1 trong
3 mũi đột phá chiến lược để phát triển kinh tế xã hội đất nước đến năm 2020 là:
"Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tập

trung vào việc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân; gắn kết chặt
chẽ việc phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học công
nghệ. Cần tập trung xây dựng nhân cách con người Việt Nam về lý tưởng, trí
tuệ, đạo đức, lối sống, thể chất, lòng tự hào dân tộc, trách nhiệm xã hội, ý thức
chấp hành pháp luật, nhất là trong thế hệ trẻ… Làm tốt công tác giáo dục thể
chất trong trường học… nước ta mạnh phong trào thể dục thể thao đại chúng,
tập trung đầu tư nâng cao chất lượng một số môn thể thao thành tích cao mà
nước ta có ưu thế; Kiên quyết chống tiêu cực trong thi đấu thể thao.
Tháng 12/2011, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 08/NQ-TW về công
tác thể dục thể thao, trong đó xác định mục tiêu và giải pháp nâng cao chất


lượng công tác giáo dục thể chất và thể thao trong nhà trường đến năm 2020:
"…phấn đấu 90% học sinh, sinh viên đạt tiêu chuẩn rèn luyện thân thể… Cần
quan tâm đầu tư đúng mức thể dục thể thao trường học, với vị trí là bộ phận
quan trọng của phong trào thể dục thể thao; là một mặt của giáo dục toàn diện
nhân cách học sinh, sinh viên… Xây dựng và thực hiện Đề án tổng thể phát triển
giáo dục thể chất và thể thao trường học… Thực hiện tốt giáo dục thể chất theo
chương trình nội khóa; phát triển mạnh các hoạt động thể thao của học sinh, sinh
viên, bảo đảm mục tiêu phát triển thể lực toàn diện và kỹ năng vận động cơ bản
của học sinh, sinh viên, góp phần đào tạo năng khiếu và tài năng thể thao… Đổi
mới chương trình và phương pháp giáo dục thể chất, gắn giáo dục thể chất với
giáo dục ý chí, đạo đức, giáo dục quốc phòng, giáo dục sức khỏe và kỹ năng
sống của học sinh, sinh viên… Đãi ngộ hợp lý và phát huy năng lực đội ngũ giáo
viên thể dục hiện có; mở rộng và nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng đội
ngũ giáo viên, hướng dẫn viên thể dục cho trường học; củng cố các cơ sở nghiên
cứu khoa học về tâm sinh lý lứa tuổi và thể dục thể thao trường học…".
Trên đây là những văn bản, văn kiện của Đảng nói về thể dục thể thao
trường học. Hệ thống các văn bản pháp luật của Quốc hội và Chính phủ cũng
quy định rất rõ ràng về giáo dục thể chất và thể thao trong nhà trường.

Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992, tại điều
41 có quy định "Nhà nước và xã hội phát triển nền thể dục thể thao dân tộc,
khoa học và nhân dân. Nhà nước thống nhất quản lý sự nghiệp phát triển thể dục
thể thao; Quy định chế độ giáo dục thể chất bắt buộc trong trường học. Khuyến
khích và giúp đỡ phát triển: Các hình thức tổ chức thể dục thể thao tự nguyện
của nhân dân, tạo các điều kiện cần thiết để không ngừng mở rộng các hoạt động
thể dục thể thao quần chúng, chú trọng hoạt động thể thao chuyên nghiệp, bồi
dưỡng các tài năng thể thao".
Luật Thể dục, Thể thao năm 2006 quy định "Giáo dục thể chất là môn học
chính khóa, thuộc chương trình giáo dục nhằm cung cấp kiến thức, kỹ năng vận
động, góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện. Hoạt động thể thao trong
nhà trường là hoạt động tự nguyện của người học, được giai cấp theo phương


thức ngoại khóa phù hợp với sở thích, giới tính, lứa tuổi và sức khỏe, nhằm tạo
điều kiện cho người học thực hiện quyền vui chơi, giải trí, phát triển năng khiếu
thể thao" (Điều 29).
Luật Thể dục, Thể thao cũng quy định rõ trách nhiệm của Bộ trưởng Bộ
Giáo dục – Đào tạo chủ trì phối hợp với Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Thể dục
thể thao làm 5 việc, đó là: Xây dựng chương trình giáo dục thể chất; Đào tạo bồi
dưỡng giáo viên thể dục thể thao; hướng dẫn hoạt động ngoại khóa trong hệ
thống các trường học của cả nước (công lập và ngoài công lập); Quy định tiêu
chuẩn đánh giá thể lực học sinh và tổ chức hệ thống thi đấu thể thao cấp quốc
gia rành riêng cho học sinh, sinh viên mà trọng tâm là Hội khỏe Phù Đổng và
Đại hội Thể dục thể thao sinh viên toàn quốc tổ chức 4 năm một lần; Trách
nhiệm của các bộ, ngành phải xây dựng cơ sở vật chất bố trí giáo viên thể dục
cho các trường thuộc bộ, ngành quản lý; Trách nhiệm của Ủy ban nhân dân cấp
tỉnh phải quy hoạch đất đai, xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị và đảm bảo
chỉ tiêu biên chế giáo viên thể dục cho các trường công lập ở địa phương (Điều
21); Trách nhiệm mỗi nhà trường phải thực hiện chương trình thể dục nội khóa

theo quy định, phải hướng dẫn hoạt động ngoại khóa cho người học, phải quản
lý sử dụng có hiệu quả cơ sở vật chất và phải đảm bảo an toàn cho học sinh
trong tập luyện và thi đấu thể thao (Điều 22); Trách nhiệm và quyền lợi của giáo
viên thể dục và học sinh thể dục (Điều 23 và 24); Trách nhiệm của Đoàn thanh
niên cộng sản Hồ Chí Minh và các tổ chức xã hội về tập đoàn truyền thông đối
với giáo dục thể chất và thể thao trường học (Điều 26).
Nghị định số 112/2007/NĐ-CP của Chính phủ quy định Bộ Giáo dục –
Đào tạo chủ trì phối hợp với Ủy ban Thể dục thể thao và Bộ Nội vụ ban hành
chuẩn mực quốc gia về môn học thể dục trong nhà trường; Tiêu chuẩn giáo viên
thể dục thể thao; Định mức biên chế giáo viên thể dục thể thao cho từng cấp
học, bậc học (Khoản 1 và 2 Điều 7). Trách nhiệm của cơ quan quản lý giáo dục
và mỗi nhà trường phải tạo điều kiện hoạt động cho các câu lạc bộ thể dục thể
thao của học sinh, sinh viên; Đầu tư xây dựng và sử dụng đúng mục đích đất đai
và cơ sở vật chất của thể dục thể thao trong trường học (Khoản 3 và 4 Điề 7).


Tháng 12/2010, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 2198/QĐTTg phê duyệt Chiến lược phát triển thể dục thể thao Việt Nam đến 2020, trong
đó xác định nhiệm vụ và giải pháp phát triển thể dục thể thao trường học. Để
thực hiện được các nhiệm vụ này, Chính phủ sẽ ban hành Nghị định về phát triển
giáo dục thể chất và hoạt động thể thao trường học. Thực hiện trách nhiệm theo
các quy định của Pháp luật, Bộ Giáo dục – Đào tạo và Bộ Văn hóa, Thể thao và
Du lịch đã và sẽ ban hành các văn bản quy phạm pháp luật để phối hợp chỉ đạo
điều hành hoạt động giáo dục thể chất và thể thao trong toàn bộ hệ thống giáo
dục quốc dân theo xu hướng xã hội hóa và cải cách hành chính mà trong đó
điểm mấu chốt là: Các cơ quan quản lý nhà nước xây dựng ban hành và kiểm
tra, giám sát các chuẩn mực về Giáo dục thể chất và thể thao trong mỗi cấp học,
bậc học; Các tổ chức xã hội và thể dục thể thao phải sớm được kiện toàn, đủ sức
thực hiện các hoạt động tác nghiệp về thể dục thể thao trường học.
Mục tiêu làm cho khoảng 1/4 dân số của cả nước được chăm sóc chu đáo
nhất về "Thể dục", để cùng với "Trí lực, đức dục, mỹ dục và giáo dục lao động"

tạo nên các thế hệ con người Việt Nam cường tráng về thể chất, trong sáng về
đạo đức, phong phú về tinh thần và có trí tuệ cao để xây dựng đất nước giàu
mạnh và phát triển bền vững đúng như mong ước của Đảng, Bác Hồ và toàn dân
tộc.
+ Thực trạng giáo dục thể chất trong trường học trong thời gian qua:
Về giáo dục thể chất nội khóa: Tính đến năm 2013, cả nước có trên 90%
số trường học thực hiện tốt chương trình giáo dục thể chất chính khóa có nề nếp
theo quy định; trên 60% số trường học có hoạt động thể dục thể thao ngoại khóa
có nền nếp, tổ chức thường xuyên các hoạt động thể thao cho học sinh, sinh
viên;
Hình thức tổ chức và nội dung tập luyện tập đoàn truyền thông của học
sinh sinh viên ngày càng đa dạng và dần đi vào nền nếp. Trong đó, các sinh hoạt
dưới hình thức câu lạc bộ thể dục thể thao trường học có tổ chức, có người
hướng dẫn ngày càng được phát triển. Nhiều nội dung tập luyện phong phú được
đưa vào các hoạt động ngoại khóa đặc biệt là các môn thể thao dân tộc, trò chơi


dân gian được đưa vào lồng ghép với phong trào thi đua "trường học thân thiện,
học sinh tích cực".
Các hoạt động thi đấu thể thao từ trung ương đến cơ sở ngày càng phát
triển đa dạng, hệ thống thi đấu lớn như Hội khỏe Phù Đổng các cấp, Đại hội thể
thao sinh viên toàn quốc cùng hàng chục giải thi đấu cấp toàn quốc hàng năm,
thu hút hàng chục triệu học sinh sinh viên tham gia.
Đội ngũ giáo viên, giảng viên thể dục thể thao ở các trường học được đào
tạo, nâng cao kiến thức đã từng bước đáp ứng được yêu cầu về chuyên môn,
nghiệp vụ; cơ sở vật chất, sân chơi, bãi tập, công trình thể thao, dụng cụ tập
luyện thi đấu thể thao ở trường học các cấp đã bước đàu được quy hoạch và đầu
tư xây dựng.
Công tác chỉ đạo điều hành tiếp tục được tăng cường, sát với thực tế, thể
hiện ở các văn bản quy phạm pháp luật ngày một hoàn thiện đáp ứng yêu cầu

thực tiễn của nhà trường theo từng lĩnh vực trong công tác thể dục thể thao
trường học; về chủ trương đổi mới hoặc, sách giáo khoa và phương pháp giáo
dục theo hướng lấy học sinh làm trung tâm, phát huy tính tích cực, sáng tạo và
chủ động của học sinh trong học tập, mặt khác, công tác nghiên cứu khoa học về
giám sát tài chính và y tế trong trường hợp học ngày càng được chú trọng.
Công tác vận động tuyên truyền nâng cao nhận thức được tổ chức dưới
nhiều hình thức phong phú, góp phần vào việc nâng cao hiệu quả công tác giáo
dục thể chất, xây dựng nếp sống lành mạnh, đẩy lùi tệ nạn, giáo dục nhân cách
lối sống thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện cho học sinh sinh viên.
Tham gia các hạn chế thể dục thể thao trong khu vực và quốc tế, đoàn Thể
thao Việt Nam luôn khẳng định được vị thế của thể thao học sinh, sinh viên trên
trường quốc tế. Điều đó được chứng minh qua số lượng huy chương của đoàn
Thể thao sinh viên Việt Nam liên tục tăng dần qua mỗi kỳ đại hội. Cụ thể, tại
Đại hội thể thao sinh viên thế giới tại Serbia (tháng 7 năm 2009), đoàn Thể thao
sinh viên Việt Nam đã giành 02 HCB, 01 HCĐ xếp thứ 45/143 đoàn tham dự.
Ngay sau đó 2 tháng (tháng 9/2009), tại Đại hội sinh viên Đông Nam Á diễn ra


tại Thái Lan đoàn Thể thao sinh viên Việt Nam đã giành 18 HCV, 16 HCB và 23
HCĐ, xếp thứ 2 toàn đoàn…
Hàng năm, đều tổ chức các giải thể thao cho học sinh, sinh viên nhằm
đánh giá công tác giáo dục thể chất và luyện tập của các nhà trường. Đặc biệt,
theo chu kỳ 4 năm/1 lần, ngành Giáo dục và Đào tạo phối hợp với các cơ quan
ban, ngành liên quan tổ chức nhiều hoạt động lớn như: Hội khỏe Phù Đổng toàn
quốc, Đại hội thể thao sinh viên toàn quốc, Hội thi nghiệp vụ sư phạm văn nghệ
thể thao các trường sư phạm toàn quốc, Hội thi Văn hóa thể thao các trường phổ
thông dân tộc nội trú toàn quốc.
Tuy nhiên, ở một số cơ sở công tác giáo dục thể chất trong trường học
chưa được quan tâm đúng mức, thậm chí có lúc còn bị coi nhẹ, thiếu bình đẳng
so với các môn học khác. Hệ thống các cơ sở, sân bãi phục vụ giáo dục thể chất

và thể thao trường học còn trong tình trạng thiếu thốn, lạc hậu, không chỉ trong
các trường phổ thông mà cả trong khối các trường đại học, cao đẳng.
Hệ thống tổ chức quản lý nhà nước về giáo dục thể chất và thể thao
trường học luôn bị thay đổi, phân tán dẫn tới hiệu quả hoạt động hạn chế; nội
dung hoạt động thể thao ngoại khóa trong nhà trường còn nghèo nàn, chưa thực
sự tạo được sự hứng thú cho học sinh, sinh viên. Giáo viên thể dục còn thiếu về
số lượng, hạn chế về chất lượng chuyên môn; chế độ, chính sách đối với đội ngũ
giáo viên thể chất còn nhiều bất cập.
Năm học 2012-2013, năm đầu thực hiện Nghị quyết 08-NQ/TW của Bộ
Chính trị, trước những yêu cầu mới, với mục tiêu và nhiệm vụ của công tác giáo
dục thể chất và thể thao trường học đó là:
Đẩy mạnh công tác giáo dục thể chất và thể thao trường học, bảo đảm yêu
cầu phát triển toàn diện, góp phần nâng cao thể trạng, tầm vóc người Việt Nam,
làm nền tảng cho phát triển thể thao thành tích cao và xây dựng lối sống lành
mạnh trong tầng lớp thanh, thiếu niên.
Nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục thể chất và hoạt động thể thao
trong trường học; đổi mới nội dung, giáo trình, chương trình giáo dục thể chất


phù hợp với thể chất học sinh, sinh viên Việt Nam và tăng cường tổ chức các
hoạt động ngoại khóa với các tiêu chí đánh giá cụ thể, linh hoạt.
5. Nhiệm vụ cụ thể cần triển khai của giáo dục thể chất nhà trường
5.1. Nhiệm vụ
- Tăng cường chất lượng dạy và học thể dục chính khóa.
- Đổi mới nội dung, giáo trình, chương trình giáo dục thể chất phù hợp
với thể chất học sinh Việt Nam và tăng cường tổ chức các hoạt động ngoại khóa
với các tiêu chí đánh giá cụ thể, linh hoạt; kết hợp đồng bộ y tế học đường với
dinh dưỡng học đường.
- Xây dựng hệ thống các trường, lớp năng khiếu thể thao, đẩy mạnh công
tác đào tạo, bồi dưỡng nhân tài thể thao cho quốc gia.

- Phát triển thể dục thể thao ngoại khóa, xây dựng các loại hình câu lạc bộ
TDTT trường học; khuyến khích học sinh tham gia hoạt động ngoại khóa trong
các câu lạc bộ, các lớp năng khiếu thể thao. Củng cố và phát triển hệ thống thi
đấu thể dục thể thao giải trí thích hợp với từng cấp học, từng vùng, địa phương.
- Tăng cường chỉ đạo triển khai thực hiện Quy hoạch cơ sở giáo dục đào
tạo có cơ sở vật chất đáp ứng hoạt động TDTT trường học theo quy chuẩn quốc
gia.
- Tăng cường xây dựng cơ chế, chính sách, đào tạo, chuẩn hóa đội ngũ
giáo viên, hướng dẫn viên TDTT; đẩy mạnh huy động các nguồn xã hội hóa đầu
tư xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị dụng cụ tập luyện trong các cơ sở giáo
dục, đào tạo. Hỗ trợ về cơ sở vật chất, trang thiết bị luyện tập thể dục thể thao,
hướng dẫn viên TDTT cho các cơ sở giáo dục vùng đồng bào dân tộc thiểu số và
miền núi thuộc diện khó khăn theo quy định của Nhà nước.
- Tăng cường công tác đào tạo giáo viên TDTT, công tác bồi dưỡng
nghiệp vụ hoạt động ngoại khóa cho hướng dẫn viên TDTT; tăng cường công tác
giáo dục truyền thông trong giáo dục thể chất và hoạt động thể thao trường
học…
5.2. Mục tiêu công tác giáo dục thể chất và thể thao trong nhà trường
đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030


+ Tỷ lệ học sinh, sinh viên thực hiện chương trình giáo dục thể chất chính
khóa đạt 100% từ năm 2015 trở đi đối với tất cả các cấp học, bậc học.
Từ sau năm 2015, phấn đấu nâng cao chất lượng giáo dục thể chất chính
khóa, đáp ứng yêu cầu và xu thế phát triển của đất nước.
+ Tỷ lệ học sinh tham gia tập luyện thể dục, thể thao ngoại khóa thường
xuyên ở các cấp học:
. Tiểu học: Đạt 45% vào năm 2015, đạt 60% vào năm 2020 và đạt trên
70% vào năm 2030.
. Trung học cơ sở: Đạt 50% vào năm 2015, đạt 70% vào năm 2020 và đạt

trên 85% vào năm 2030.
. Trung học phổ thông: Đạt 75% vào năm 2015, đạt 80% vào năm 2020 và
đạt trên 90% vào năm 2030.
+ Tỷ lệ học sinh đạt tiêu chuẩn đánh giá, xếp loại thể lực học sinh theo
quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo:
. Tiểu học và trung học cơ sở: Đạt 85% vào năm 2015, đạt 90% vào năm
2020 và đạt 95% vào năm 2030.
. Trung học cơ sở: Đạt 85% vào năm 2015, đạt 90% vào năm 2020 và đạt
95% vào năm 2030.
. Trung học phổ thông: Đạt 85% vào năm 2015, đạt 90% vào năm 2020 và
đạt trên 95% vào năm 2030.
+ Tỷ lệ trường thực hiện đầy đủ các hoạt động giáo dục thể chất và thể
thao trong nhà trường ở các cấp học, bậc học:
. Mẫu giáo: Đạt 45% vào năm 2015, đạt 60% vào năm 2020 và đạt trên
90% vào năm 2030.
. Tiểu học: Đạt 40% vào năm 2015, đạt 60% vào năm 2020 và đạt trên
90% vào năm 2030.
. Trung học cơ sở: Đạt 45% vào năm 2015, đạt 65% vào năm 2020 và đạt
trên 90% vào năm 2030.
. Trung học phổ thông: Đạt 60% vào năm 2015, đạt 70% vào năm 2020 và
đạt trên 90% vào năm 2030.


. Trung cấp chuyên nghiệp và trung cấp nghề, cao đẳng và cao đẳng nghề,
đại học: Đạt 70 vào năm 2015, đạt 80% vào năm 2020 và đạt trên 90% vào năm
2030.
+ Tỷ lệ giáo viên, giảng viên thể dục, thể thao trên số học sinh, sinh viên
ở các cấp học, bậc học:
- Tiểu học: Đạt 01/450 vào năm 2015, đạt 01/400 vào năm 2020 và đạt
01/350 vào năm 2030.

- Trung học cơ sở và trung học phổ thông: Đạt 01/400 vào năm 2015, đạt
01/350 vào năm 2020 và đạt 01/300 vào năm 2030.
- Trung cấp chuyên nghiệp và trung cấp nghề, cao đẳng và cao đẳng nghề,
đại học: Đạt 01/500 vào năm 2015, đạt 01/400 vào năm 2020 và đạt 01/300 vào
năm 2030.
+ Diện tích sân tập dành cho giáo dục thể chất và thể thao trong nhà
trường ở các cấp học, bậc học (m2/học sinh, sinh viên)"
- Tiểu học: Đạt 01m2 vào năm 2015, đạt 1,5m2 vào năm 2020 và đạt 02m2
vào năm 2030.
- Trung học cơ sở và trung học phổ thông: Đạt 1,5m 2 vào năm 2015, đạt
02m2 vào năm 2020 và đạt 2,5m2 vào năm 2030.
- Trung cấp chuyên nghiệp và trung cấp nghề, cao đẳng và cao đẳng nghề,
đại học: Đạt 02m2 vào năm 2015, đạt 03m2 vào năm 2020 và đạt 04m2 vào năm
2030.
6. Nguyên tắc quản lý giáo dục thể chất nhà trường
- Nguyên tắc định hướng: Thể dục thể thao phục vụ mục tiêu giáo dục
chung. Hoàn thành mục tiêu tập đoàn truyền thông trong trường học. Giáo dục
chủ nghĩa yêu nước, công bằng, tôn trọng kỷ luật, ham thích tập đoàn truyền
thông.
- Nguyên tắc tổng thể: Đảm bảo có sự liên kết giữa phương châm giáo
dục, chính sách giáo dục, lý luận giáo dục và thể dục thể thao, kinh phí giáo dục,
sân bãi, dụng cụ, điều kiện, hoàn cảnh.


- Nguyên tắc dân chủ: Dân chủ rộng rãi, phát huy tích cực của cả hệ
thống.
- Nguyên tắc quy phạm: Chế độ rõ ràng, minh bạch, phù hợp đạo đức sư
phạm xã hội chủ nghĩa, lời nói văn minh.
- Nguyên tắc giáo dục: Thể dục thể thao có tác dụng giáo dục học sinh:
trong tập luyện, thi đấu hăng say, trung thực, tôn trọng luật chơi, trọng tài…

7. Kế hoạch quản lý giáo dục thể chất nhà trường
7.1. Mục tiêu quản lý vi mô
Mục tiêu quản lý thể dục thể thao nhà trường gồm mục tiêu giáo dục và
mục đích quản lý. Mục tiêu giáo dục là cond hóa phương châm giáo dục toàn
diện (thể dục thể thao là tri thức, thể chất, phẩm chất). Quá trình quản lý mục
tiêu: xác định, thực hiện và quản lý đánh giá mục tiêu.
Nội dung một mục tiêu giáo dục thể chất gồm:
- Mục tiêu thể chất.
- Mục tiêu nhân sự.
- Mục tiêu giảng dạy.
- Mục tiêu huấn luyện.
- Mục tiêu thi đấu.
7.2. Phân loại kế hoạch thể dục thể thao trường học
+ Kế hoạch dài hạn: trên 5 năm, căn cứ từ quy hoạch thể dục thể thao
quốc gia, địa phương và ngành. Nó gồm nội dung, biện pháp thực hiện mục tiêu.
+ Kế hoạch thể dục thể thao năm (học kỳ)
Xây dựng từ kế hoạch dài hạn.
Phương án, bước đi, thời gian, yêu cầu, biện pháp.
Kế hoạch năm gồm: kế hoạch giảng dạy, ngoại khóa, nghiệp vụ, nghiên
cứu khoa học, bồi dưỡng.
Làm các kế hoạch trên cần căn cứ từ ý kiến lãnh đạo, từ điều kiện cán bộ
và kinh phí.
7.3. Tổ chức quản lý cán bộ thể dục thể thao trong nhà trường


* Cơ quan quản lý cán bộ thể dục thể thao là Vụ Tổ chức Bộ Giáo dục –
Đào tạo, ở các cấp là sở, phòng giáo dục.
- Biên chế, kinh phí, sân bãi do cơ quan quản lý ngành giáo dục qudl
- Hiệu trưởng, khoa trưởng có trách nhiệm với công tác thể dục thể thao.
- Ngành thể dục thể thao (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch…) có sự giám

sát về giáo dục thể chất (đề xuất Chính phủ có giải pháp kịp thời).
* Những quy định về công tác giáo dục thể chất:
- Giáo viên, giảng viên giáo dục thể chất
1. Giáo viên, giảng viên giáo dục thể chất là những người được đào tạo tại
các trường đại học sư phạm thể dục, thể thao, các trường đại học, cao đẳng thể
dục, thể thao và các trường đại học, cao đẳng sư phạm có mã ngành đào tạo giáo
viên chuyên ngành giáo dục thể chất và bảo đảm các tiêu chuẩn quy định tại
Điều 77 Luật Giáo dục.
2. Giáo viên, giảng viên giáo dục thể chất thực hiện quyền và nhiệm vụ
theo quy định; hàng năm kiểm tra đánh giá, xếp loại thể lực cho người học theo
Quyết định số 53/2008/QĐ-BGDĐT ngày 19/8/2008 của Bộ trưởng Bộ Giáo
dục – Đào tạo; hướng dẫn tập luyện thể thao ngoại khóa cho người học và được
tính giờ giảng dạy khi tham gia hướng dẫn giờ tập luyện thể thao ngoại khóa.
- Nội dung, hoặc giáo dục thể chất
1. Nội dung phải phù hợp với đặc điểm tâm, sinh lý lứa tuổi, giới tính và
phải dựa trên cơ sở phân loại sức khỏe, trình độ tập luyện của người học.
2. chương trình phải bảo đảm tính khoa học, tính hệ thống và tính kế thừa
phù hợp theo từng bậc học, cấp học và trình độ đào tạo.
- Tiêu chuẩn cơ sở vật chất bảo đảm cho giáo dục thể chất và thể thao
trong nhà trường
1. Tiêu chuẩn về cơ sở vật chất bao gồm: Sân tập, phòng tập luyện đa
năng hoặc nhà tập luyện đa năng, các trang thiết bị giáo dục thể chất và dụng cụ
thể thao để đảm bảo thực hiện có hiệu quả trong quá trình dạy học và hoạt động
thể thao trong nhà trường phù hợp với từng bậc học, cấp học.


2. Đối với các trường xây mới phải bảo đảm cơ sở vật chất đủ tiêu chuẩn
theo quy định của Bộ Giáo dục – Đào tạo.
3. Đối với các trường có mã ngành đào tạo giáo viên chuyên ngành giáo
dục thể chất phải có đủ cơ sở vật chất để bảo đảm đào tạo giáo viên đạt chất

lượng chuyên môn tốt.
- Tổ chức xã hội về thể dục, thể thao trong các cơ sở giáo dục
1. Thành lập chi Hội thể thao học sinh, chi Hội thể thao Đại học và
Chuyên nghiệp và các câu lạc bộ thể thao được sự bảo trợ của các cơ sở giáo
dục với mục đích tạo mọi điều kiện thuận lợi cho cán bộ, giáo viên và người học
tham gia tập luyện và thi đấu các môn thể thao trong và ngoài ngành.
2. Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, chi Hội thể thao cơ sở, các
câu lạc bộ thể thao có trách nhiệm đề xuất với người đứng đầu cơ sở giáo dục
phối hợp để tổ chức tập luyện thể thao ngoại khóa và thi đấu các giải truyền
thống của nhà trường.
3. Tăng cường công tác xã hội hóa giáo dục thể chất và thể thao trong nhà
trường. Vận động, tạo điều kiện thu hút các tổ chức kinh tế xã hội, các doanh
nghiệp, cá nhân đầu tư đóng góp trí tuệ, công sức và tài chính, xây dựng cơ sở
vật chất, trang thiết bị giáo dục thể chất, dụng cụ thể dục, thị trường và tài trợ
(hỗ trợ kinh phí) cho công tác giáo dục thể chất và hoạt động thể thao ngoại
khóa trong các cơ sở giáo dục.
4. Các cơ sở giáo dục phoíh chặt chẽ với các trung tâm thể dục, thể thao
tại các quận, huyện, thị xã, tranh thủ sự giúp đỡ về cơ sở vật chất, tạo mọi điều
kiện tốt nhất để thực hiện công tác giáo dục thể chất và tổ chức các hoạt động
thể thao ngoại khóa cho người học.
- Hệ thống tổ chức thi đấu thể thao trường học
1. Bộ trưởng Bộ Giáo dục – Đào tạo ban hành Quyết định:
a) Hội khỏe Phù Đổng goàn quốc tổ chức định kỳ 4 năm một lần;
b) Đại hội thể thao sinh viên toàn quốc, Hội thi Văn hóa, thể thao các
trường phổ thông dân tộc nội trú toàn quốc với chu kỳ 4 năm một lần;


c) Hội thi Thể thao học sinh khuyết tật toàn quốc và các giải thể thao cho
giáo viên và học sinh, sinh viên với chu kỳ 2 năm một lần;
d) Đại hội Thể thao học sinh, sinh viên quốc tế theo quy định của các Hội

đồng, liên đoàn Thể thao học sinh, sinh viên quốc tế.
2. Ủy ban nhân dân các cấp ban hành quyết định tổ chức Hội khỏe Phù
Đổng cấp tỉnh, cấp huyện và các giải thể thao học sinh, sinh viên.
3. Người đứng đầu các cơ sở giáo dục quyết định: Hội khỏe Phù Đổng
cấp trường và các giải thể thao khác trong nhà trường.
4. Bộ trưởng Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội quyết định giải thi
đấu cấp toàn quốc cho học sinh, sinh viên trong các cơ sở dạy nghề 3 năm một
lần.
8. Một số quy định về chương trình môn học giáo dục thể chất (trong
trường cao đẳng, đại học không chuyên thể dục, thể thao)
8.1. Mục tiêu chương trình
* Mục tiêu chung
Trang bị cho người học hiểu biết về vị trí, vai trò của thể dục, thể thao đối
với con người và xã hội; nắm được kiến thức cơ bản, kỹ năng thực hành một số
môn học của chương trình, nhằm bảo vệ và tăng cường sức khỏe, nâng cao thể
chất, góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện cho sinh viên.
* Mục tiêu cụ thể
a) Về kiến thức: Hiểu được ý nghĩa tác dụng của thể dục, thể thao đối với
con người; vị trí, vai trò của giáo dục thể chất và các hoạt động thể dục, thể thao
trong hoạt động giáo dục đại học;
b) Về kỹ năng: Thực hành được kỹ thuật cơ bản các môn giáo dục thể chất
trong chương trình, biết vận dụng một số phương pháp tự tập luyện, để rèn luyện
thể chất, bảo vệ sức khỏe;
c) Về thái độ hành vi: Tự giác, tích cực học tập theo nhóm; xây dựng thói
quen tập luyện thể dục, thể thao; rèn luyện thể chất thường xuyên một cách khoa
học.
8.2. Nội dung chương trình


* Chương trình môn học giáo dục thể chất bao gồm 3 học phần; khối

lượng quy định 5 tín chỉ đối với trình độ đại học và trình độ cao đẳng được cụ
thể như sau:
Học phần
Lý thuyết chung
Thực hành bắt buộc
Thực hành tự chọn

Số tín chỉ
01
02
02

* Thời lượng tín chỉ: Một tín chỉ lý thuyết bằng 15 tiết; một tín chỉ thực
hành được quy định từ 30 – 45 tiết.
* Học phần lý thuyết
a) Yêu cầu
Nắm được một số nội dung cơ bản của môn Lý luận và phương pháp thể
dục thể thao; Y sinh học thể dục thể thao; Lý thuyết môn chuyên ngành trong
các học phần của chương trình;
Nắm được một số phương pháp tập luyện và những kiến thức có liên quan
để người học có thể tự tập luyện, nâng cao sức khỏe và thể chất;
Hiểu biết một số điều luật, phương pháp tổ chức thi đấu và trọng tài các
môn thể thao trong chương trình môn học giáo dục thể chất;
b) Điều kiện: Dạy học phần lý thuyết chung trước khi học các học phần
thực hành bắt buộc và học phần thực hành tự chọn;
c) Mô tả học phần: Tóm tắt lịch sử hình thành, phát triển thể dục, thể thao
trên thế giới và Việt Nam; một số khái niệm cơ bản về thể dục, thể thao; vị trí,
vai trò, ý nghĩa tác dụng của thể dục, thể thao trong xã hội và trường học;
phương tiện, phương pháp, nguyên tắc tập luyện thể dục, thể thao; một số kiến
thức cơ bản về phòng ngừa chấn thương và sơ cứu; luật, phương pháp tổ chức

thi đấu và trọng tài các môn thể thao trong chương trình;
* Học phần thực hành
a) Học phần thực hành bắt buộc
Yêu cầu: Nắm được nội dung cơ bản trong học phần thực hành bắt buộc
của chương trình môn học giáo dục thể chất; biết luật, phương pháp tổ chức thi


đấu và trọng tài một số môn thể thao trong chương trình môn học giáo dục thể
chất; biết phương pháp tự tập luyện và rèn luyện sức khỏe;
Điều kiện: Được thực hiện sau khi kết thúc học phần lý thuyết chung về
giáo dục thể chất;
Mô tả học phần: Kiến thức, kỹ năng thực hành các môn Thể dục, Điền
kinh, Bơi lội… phù hợp với đặc điểm và tính chất ngành nghề đào tạo; luật,
phương pháp tổ chức thi đấu và trọng tài; phương pháp tự tập luyện và rèn luyện
sức khỏe.
b) Học phần thực hành tự chọn
Yêu cầu: Nắm được nội dung cơ bản học phần thực hành tự chọn của
chương trình môn học giáo dục thể chất; nắm vững luật, phương pháp tổ chức
thi đấu và trọng tài môn thể thao tự chọn; biết phương pháp tự tập luyện kỹ
thuật, chiến thuật nhằm nâng cao thành tích thể thao;
Điều kiện: Được thực hiện sau khi kết thúc học phần thực hành bắt buộc;
Mô tả học phần: Kiến thức và kỹ năng thực hành các môn Bóng chuyền,
Bóng đá, Bóng rổ, Bóng ném, Cầu lông, các môn Võ… phù hợp với sở thích và
nguyện vọng người học; luật, phương pháp tổ chức thi đấu và trọng tài; phương
pháp tự tập luyện để nâng cao thành tích thể thao.
8.3. Xây dựng và hướng dẫn thực hiện chương trình
- Việc xây dựng chương trình môn học giáo dục thể chất phải đảm bảo
tính kế thừa, logic và khoa học.
- Chương trình môn học giáo dục thể chất được thực hiện từ năm học đầu
tiên, khi người học mới nhập học; học từ 2 đến 3 kỳ học liên tục đối với toàn

khóa học.
- Lớp học lý thuyết nếu bố trí lớp ghép phải phù hợp với phương pháp
dạy, học và phù hợp với điều kiện thực tế và quy định của từng cơ sở giáo dục
đại học; tổ chức lớp học thực hành từ dưới 35 đến 40 người học/1 giảng viên, tối
đa không quá 80 người học/lớp học. Hệ số quy đổi sang giờ chuẩn được quy
định đối với giảng viên như sau:


a) Hệ số quy đổi đối với giờ giảng dạy lý thuyết chung: Thực hiện theo
quy định hiện hành;
b) Hệ số quy đổi đối với giờ giảng dạy thực hành:
Một tiết giảng dạy thực hành (bao gồm lý thuyết chuyên ngành và thực
hành) ngoài sân bãi hoặc trong nhà tập
Số lượng người học
Từ dưới 35 đến 40
Từ 41 đến 50
Từ 51 đến 60
Từ 61 đến 80

Hệ số
1,0
1,2
1,4
1,6

c) Hệ số quy đổi đối với hướng dẫn, huấn luyện đội tuyển thi đấu các môn
thể thao:
Số lượng người học
- Từ 5 trở xuống (môn thể thao cá nhân)
- Từ 10 trở xuống (môn thể thao đồng đội)

- Từ 6 đến 10 (môn thể thao cá nhân)
- Từ 11 đến 15 (môn thể thao đồng đội)
- Từ 11 đến 15 (môn thể thao cá nhân)
- Từ 16 đến 20 (môn thể thao đồng đội)

Hệ số
1,0
1,2
1,4

d) Hệ số quy đổi các hoạt động khác:
Kiểm tra tiêu chuẩn thể lực và sức khỏe ban đầu cho người học, tổ chức
thi đấu trong trường hoặc dẫn đội tuyển thể thao thi đấu ngoài trường, thời gian
01 ngày làm việc từ 6 đến 8 giờ được tính bằng 3 giờ chuẩn;
- Giờ học thực hành phải có giảng viên giảng dạy; các trường không sử
dụng giờ học này để người học tự học.
- Thủ trưởng cơ sở giáo dục đại học ban hành chương trình môn học chi
tiết và tổ chức biên soạn giáo trình, tài liệu môn học giáo dục thể chất để phục
vụ cho việc dạy, học hoặc sử dụng giáo trình phù hợp đã được Bộ Giáo dục –
Đào tạo thẩm định.


- Đối với người học bị khuyết tật, dị tật bẩm sinh hoặc bị các bệnh không
có khả năng vận động cơ sở giáo dục đại học cần biên soạn bài tập phù hợp với
điều kiện người học thuộc đối tượng này.
- Cơ sở giáo dục đại học có nhà tập thể thao, sân vận động, bể bơi, sân
bãi, dụng cụ và đội ngũ giảng viên đủ tiêu chuẩn, căn cứ vào khối lượng chương
trình để xây dựng chương trình môn học giáo dục thể chất nâng cao cho người
học có nhu cầu.
8.4. Đánh giá kết quả học tập

- Đánh giá kết quả học tập môn học Giáo dục thể chất cho người học trình
độ đại học, trình độ cao đẳng theo Quy định đào tạo đại học và cao đẳng hệ
chính quy hiện hành.
- Điểm kết thúc học phần môn học:
a) Người học có đủ số lần kiểm tra cho mỗi học phần theo quy định; mỗi
lần kiểm tra đạt từ 5 điểm trở lên và vắng không vượt quá 20% thời gian cho
mỗi học phần sẽ được dự thi kết thúc học phần. Người học phải dự thi đủ các
học phần quy định trong chương trình;
b) Việc kiểm tra, đánh giá các học phần và kiến thức môn học đối với
những người học bị khuyết tật, dị tật bẩm sinh, cần được vận dụng phù hợp với
người học ở đối tượng này;
c) Đối với hình thức đào tạo theo niên chế:
- Điểm tổng hợp đánh giá các học phần tính theo thang điểm 10, bao gồm
điểm kiểm tra thường xuyên, điểm kiểm tra định kỳ và điểm thi kết thúc học
phần. Trong đó điểm thi kết thúc học phần phải có trọng số không dưới 50% của
điểm học phần. Điểm học phần phải đạt từ 5 trở lên và làm tròn đến một chữ số
thập phân;
- Kết quả học tập môn Giáo dục thể chất là điểm trung bình cộng của
điểm các học phần, làm tròn đến một chữ số thập phân;
d) Đối với hình thức đào tạo theo tín chỉ;
- Điểm học phần là tổng điểm của tất cả các điểm đánh giá bộ phận của
học phần sau khi nhân với trọng số tương ứng. Điểm học phần làm tròn đến một


chữ số thập phân. Điểm đánh giá bộ phận và điểm thi kết thúc học phần được
chấm theo thang điểm 10, làm tròn đến một chữ số thập phân;
- Kết quả học tập môn học Giáo dục thể chất là điểm trung bình chung
tổng các điểm học phần, làm tròn đến một chữ số thập phân; không tính kết quả
học tập môn Giáo dục thể chất theo điểm chữ.
QUẢN LÝ CÔNG TÁC THI ĐẤU THỂ THAO

I. Đại cương về thi đấu thể thao
Thể thao thi đấu là một bộ phận cấu thành quan trọng của thể dục thể
thao. Mục đích của thi đấu thể thao là khai quật toàn bộ năng lực thi đấu tiềm
tàng của con người, tạo lạp các thành tích thể thao xuất sắc. Trong quá trình thực
hiện mục đích ờ thi đấu thể thao, huấn luyện thể thao là con đường quan trọng
nhất, cơ bản nhất, còn thi đấu thể thao không chỉ là phương pháp nâng cao năng
lực thi đấu mà quan trọng hơn là trong những hoàn cảnh nhất định, thông qua
việc tạo lập thành tích xuất sắc, thì năng lực thi đấu và vận động viên đã có được
mới được thể hiện rõ, mới thể hiện được tác dụng xã hội của thi đấu thể thao. Do
đó, hoạt động thể dục thể thao bắt buộc phải tiến hành thi đấu thể thao, thi đấu
thể thao là một trong những con đường phát hiện nhân tài, tuyển chọn nhân tài,
bồi dưỡng nhân tài. Thi đấu thể thao không chỉ là cơ hội tăng thêm hiểu biết, thể
hiện tài năng, giao lưu trao đổi kinh nghiệm giữa các vận động viên mà còn có
thể đạt được mục đích phát huy truyền thống, tự hào dân tộc, làm phong phú đời
sống văn hóa tinh thần quần chúng nhân dân.
1.1. Khái niệm về thi đấu thể thao
Thi đấu thể thao là bộ phận cấu thành quan trọng, là đặc trưng của thể
thao. Chúng ta có thể tìm hiểu về thi đấu thể thao từ nghĩa rộng và nghĩa hẹp.
Xét theo nghĩa hẹp, thi đấu thể thao là phương thức tổ chức đọ sức giữa
các năng lực thi đấu để giành được thành tích xuất sắc căn cứ vào tiêu chuẩn
đánh giá riêng biệt của các môn thi đấu. Thi đấu thể thao kết thúc cùng với kết
quả của cuộc đọ sức giữa các năng lực thi đấu của vận động viên hay chính là sự


ra đời của thành tích thể thao. Thành tích thi đấu muốn được xã hội công nhận
cần phải được thể hiện trong thi đấu chính thức được tổ chức chuyên nghiệp. Do
đó công tác tổ chức và quản lý thi đấu thể thao cần phải được tiến hành theo các
quy định và thông lệ quốc tế về thi đấu, nếu không sẽ ảnh hưởng đến việc thể
hiện trình độ của các vận động viên, ảnh hưởng trực tiếp đến thành tích thi đấu
của họ.

Xét theo nghĩa rộng, thi đấu thể thao không chỉ là phương thức đánh giá,
thể hiện thành tích thi đấu mà còn là một hiện tượng xã hội với nhiều hình thái
và chức năng, có vai trò đặc thù với việc xây dựng giá trị văn hóa xã hội. Thành
tích thể dục thể thao không chỉ phản ánh năng lực thi đấu và trình độ thi đấu của
người tham gia mà còn phản ánh trình độ chính trị, kinh tế văn hóa và khoa học
kỹ thuật của nước chủ nhà hoặc khu vực đăng cai.
Ngoài ra, từ hình thức của thi đấu thể thao, thi đấu thể thao là cuộc tranh
tài căn cứ vào nội dung thể dục chủ yếu của môn thi đấu thể thao, dưới sự chủ trì
của trọng tài căn cứ theo nguyên tắc thống nhất để tổ chức và tiến hành thi đấu
cá nhân hoặc tập thể giữa các vận động viên hoặc các đội thể thao.
1.2. Kết quả của thi đấu thể thao
Bất kỳ một sự kiện thi đấu thể thao quy mô lớn nào cũng đều do một số
lượng nhất định các hạng mục thi đấu thể thao cấu thành. Mỗi một giải đấu
thành công đều quyết định bởi điều kiện, trình độ và sự phối hợp ăn khớp giữa
các yếu tố cấu thành. Hoạt động thi đấu thể thao nào xét từ tổng quan cũng đều
được cấu thành bởi 5 hệ thống con là người tham gia thi đấu, điều kiện vật chất
thi đấu, tổ chức thi đấu, bảo đảm thi đấu và các phương tiện truyền thống đại
chúng. Thiếu sót bất kỳ một mặt nào cũng không thể tạo nên hoạt động thi đấu
thể thao hoàn chỉnh.
a) Người tham gia hoạt động thi đấu
Người tham gia hoạt động thi đấu bao gồm vận động viên tham gia thi
đấu, trọng tài, người lãnh đạo tổ chức, người phục vụ quản lý và khán giả. Trong
đó nhân tố quan trọng nhất không thể thiếu là người tham gia thi đấu. Tất cả
hoạt động của những người tham gia hoạt động thi đấu khác đều nhằm mục đích


để người tham gia thi đấu thành công hơn, tiến hành tranh tài xuất sắc hơn. Thi
đấu đơn giản không nhất thiết phải bao gồm tất cả những thành phần trên, nhưng
bố cục hoàn chỉnh thì giải đấu sẽ hoàn thiện và hấp dẫn hơn.
b. Điều kiện vật chất

Điều kiện vật chất thi đấu gồm có sân thi đấu, thiết bị, dụng cụ bắt buộc
và cung cấp nơi ăn nghỉ đi lại cho người tham gia thi đấu. Điều kiện vật chất có
vai trò vô cùng quan trọng trong việc thiết lập thành tích trong thi đấu thể thao.
Người tham gia thi đấu có trình độ càng cao thì yêu cầu về điều kiện vật chất thi
đấu càng cao hơn.
c. Ban tổ chức thi đấu
Ban tổ chức thi đấu là hạt nhân quản lý thi đấu, tổ chức này quản lý các
mặt về quy tắc thi đấu, quy trình thi đấu và sắp xếp thi đấu, vận hành thi đấu,
đồng thời xác nhận tư cách của người tham gia thi đấu, kiểm định thành tích và
kỷ lục thi đấu, có trách nhiệm về công tác tổ chức thi đấu.
d. Bảo vệ thi đấu
Bảo vệ thi đấu chủ yếu bao gồm: Bảo vệ an toàn và kiểm tra y tế. Thiết
lập hệ thống bảo vệ thi đấu có vai trò quan trọng trong việc quyết định thi đấu có
diễn ra thuận lợi hay không, có làm hài lòng người tham gia thi đấu hay không.
e. Truyền thông đại chúng
Vai trò của truyền thông đại chúng trong các giải thi đấu thể thao ngày
càng lớn hơn, không chỉ bảo đảm việc khán giả tại các quốc gia hay khu vực của
mỗi vận động viên có thể kịp thời nắm bắt tình hình thi đấu mà còn có vai trò
lớn trong việc tuyên truyền tinh thần thi đấu của vận động viên và hỗ trợ trong
việc xác định thành tích một cách công bằng.
1.3. Hạng mục và phân loại thi đấu thể thao
a. Phân loại hạng mục thi đấu thể thao
Căn cứ theo các tiêu chuẩn phân loại khác nhau có thể tiến hành phân loại
thi đấu thể thao thành các hạng mục khác nhau. Các phương pháp đánh giá khác
nhau phản ánh đặc điểm của mỗi hạng mục thể thao, do đó xây dựng hệ thống
phân loại hạng mục thi đấu theo phương pháp đánh giá thành tích thể thao sẽ có


tác dụng tích cực trong việc thành lập và cải tiến quy tắc thi đấu và tổ chức thi
đấu.

* Phân loại theo phương pháp đánh giá thành tích thể thao
Theo phương pháp này có thể phân hạng mục thi đấu thể thao thành 5
loại: Loại trắc lượng, loại chấm điểm, loại trúng đích, loại giành thắng lợi và
loại giành điểm.
- Hạng mục thi đấu định lượng
Trình độ thi đấu cao hay thấp của vận động viên hạng mục thi đấu định
lượng thể hiện trong khi thi đấu có thể đo lường chính xác được. Chỉ số đo
lường gồm có chỉ số tốc độ (thời gian), chỉ số khoảng cách (độ xa và độ cao),
chỉ số trọng lượng và chỉ số môi trường.
- Hạng mục thi đấu loại chấm điểm
Do trọng tài căn cứ vào tiêu chuẩn và phương pháp xác định theo quy tắc
thi đấu để cho điểm vận động viên, căn cứ vào số điểm cao thấp để xếp hạng.
Các môn thi đấu mang tính nghệ thuật đều thuộc loại này.
- Hạng mục thi đấu loại trúng đích
Trong khi thi đấu hạng mục này, tính số lần đánh trúng khu vực mục tiêu
phòng thủ đặc biệt của đối thủ, bên có số lần đánh trúng nhiều hơn sẽ giành
chiến thắng. Rổ bóng trong bóng rổ, khung thành trong bóng đá, bóng ném,
bóng nước cùng với khu vực ăn điểm trên cơ thể đối thủ trong các môn đấu võ
đều thuộc vào khu vực mục tiêu phòng thủ đặc biệt. Phần lớn các hạng mục
thuộc loại này, một lần trúng đích được tính một điểm, trong thi đấu bóng rổ, để
phân biệt độ khó trong những vị trí và điều kiện khác nhau, mỗi lần trúng đích
có thể đạt từ 1-3 điểm.
- Hạng mục thi đấu loại giành thắng lợi
Phương pháp tính thành tích của loại này tương đối đặc biệt. Trong điều
kiện thông thường, giống như loại trúng đích. Nhưng nếu trong quá trình thi đấu
quyền anh nếu đánh đối thủ ngã xuống đất sau một thời gian chưa đứng dậy
được hay trong thi đấu Judo nếu thắng 1 ván đấu, thì có thể tuyên bố thắng lợi
toàn trận, không cần tiếp tục thi đấu theo kiểu trúng đích tính điểm nữa.



- Hạng mục thi đấu loại giành điểm
Những môn thể thao theo cách lưới như bóng bàn, cầu lông, tennis đều
thuộc loại này. Căn cứ vào số điểm giành được khi thi đấu nhiều hay ít (thể hiện
ở việc bên nào giành được số điểm theo quy định trước) để quyết định thắng bại.
* Căn cứ vào phương pháp so sánh kết quả thi đấu thể thao để phân loại
hạng mục thi đấu thể thao
Căn cứ theo tính chất thi đấu có thể phân thành hai loại là loại cạnh tranh
và loại đối kháng. Trong đó loại cạnh tranh có thể căn cứ theo đặc điểm của nó
để phân thành các hạng mục căn cứ theo các chỉ số thời gian, khoảng cách, trọng
lượng, chấm điểm; loại đối kháng có thể phân theo số lượng người hoặc loại
cách lưới, loại cùng sân thi đấu.


×