MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU........................................................................................................................ 2
1. Lý do nghiên cứu...................................................................................................... 2
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài................................................2
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn................................................................4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu....................................................................4
5. Phương pháp nghiên cứu.................................................................................... 5
6. Ý nghĩa lý luận và giá trị thực tiễn..................................................................5
7 Kết cấu của đề tài:..................................................................................................... 6
CHƯƠNG I............................................................................................................................. 7
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THIẾT KẾ MỸ THUẬT TRUYỀN HÌNH.................7
I. Khái niệm chung....................................................................................................... 7
1. Khái niệm về mỹ thuật................................................................................... 7
2. Khái niệm về mỹ thuật truyền hình........................................................7
3. Thiết kế mỹ thuật truyền hình...................................................................7
II. Vai trò, chức năng của thiết kế mỹ thuật truyền hình..........................7
1. Vai trò của thiết kế mỹ thuật truyền hình............................................7
2. Chức năng của thiết kế mỹ thuật truyền hình....................................8
CHƯƠNG II......................................................................................................................... 10
HOẠ SĨ PHÍA SAU HẬU TRƯỜNG...........................................................................10
1. Họa sĩ thiết kế....................................................................................................... 10
2. Hoạ sĩ thiết kế kỹ xảo truyền hình.............................................................12
CHƯƠNG III....................................................................................................................... 12
CHƯƠNG III....................................................................................................................... 13
NHỮNG NGƯỜI PHỤ TRÁCH MỸ THUẬT PHÍA SAU HẬU TRƯỜNG...13
1. Hoá trang mỹ thuật truyền hình................................................................13
2. Ánh sáng mỹ thuật truyền hình..................................................................13
3. Đạo cụ mỹ thuật truyền hình.......................................................................16
4. Phục trang mỹ thuật truyền hình..............................................................17
5. Dựng cảnh trong mỹ thuật truyền hình.................................................17
6. Đạo diễn.................................................................................................................. 18
KẾT LUẬN.......................................................................................................................... 21
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................................. 22
1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do nghiên cứu
Tạo hình là một trong những thành tố cơ bản cấu tạo nên hình tượng điện
ảnh, giữ vai trò quan trọng đối với hiệu quả thể hiện tác phẩm phim truyện.
Ngày nay, những đột phá kỹ thuật dẫn sự phát triển nhanh mạnh của truyền
hình, Internet, kỷ nguyên kỹ thuật số cùng nhiều phương tiện truyền thông đa
phương tiện khác, phương thức biểu đạt tạo hình trong phim truyện VN đã và
đang phải đối diện với nhiều vấn đề phát sinh cần được nghiên cứu lý giải rõ
ràng Đó là những nội dung vừa mang giá trị thực tiễn chứa đựng tính học
thuật cao như: Tại sao chất lượng tạo hình trong nhiều bộ phim truyện ngày
càng sa sút, bộc lộ sự qua loa, thiếu chuyên nghiệp? Tại sao những chuẩn mực
tạo hình phim truyện nhiều khi bị xem nhẹ? Nguyên nhân gì đã và đang làm
nhạt đi sức hấp dẫn của hình ảnh phim truyện? Tại sao ngày một hiếm những
tác phẩm “nghe - nhìn” vừa hay về nội dung, vừa đạt giá trị cao về nghệ thuật
tạo hình trong thể hiện?
Tiểu luận “Thiết kế mỹ thuật trong truyền hình hiện đại” (Nghiên cứu
trường hợp một số phim truyện Việt Nam) mong muốn kiến giải những
nghiên cứu khoa học mang tính hệ thống, góp phần bổ sung vào lĩnh vực
nghiên cứu lý luận mỹ thuật – điện ảnh, và đúc rút kinh nghiệm ứng dụng
thực hành trong sáng tác - chế tác phim truyện.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Về loại hình, loại thể của nghệ thuật, sách Hình thái học của nghệ
thuật (2004) của M.Cagan đề cập đến nghệ thuật hình tượng, nghệ thuật âm
thanh; Các nghệ thuật “hình tượng” (tức hình tượng cảm quan), đến lượt nó,
lại chia thành “tạo hình” (điêu khắc, kiến trúc) hay “vẽ” mà hình thức cao
nhất là hội họa, và sự ra đời của điện ảnh là cái bao quát hội họa trong số
những yếu tố được nó tổng hợp lại, và thay đổi để tạo nên một thể sáng tạo
miêu tả mới;
2
Về Mỹ thuật học, trong Con mắt nhìn cái đẹp (2005) và Ghi chú về
nghệ thuật (2008), Nguyễn Quân đã đồng nghĩa khái niệm mỹ thuật và nghệ
thuật tạo hình. Các nghiên cứu Trang trí trong mỹ thuật truyền thống của
người Việt (2011), của Trần Lâm Biền, Thế giới biểu tượng trong Di sản văn
hóa Thăng Long - Hà Nội (2011) của Trần Lâm Biền,Trịnh Sinh, giúp người
làm phim vận dụng có hiệu quả vào các đề tài phim lịch sử, cổ trang trong:
tạo hình bối cảnh, tạo hình đạo cụ và tạo hình thiết kế phục trang, tạo hình mỹ
thuật hóa trang diện mạo nhân vật;
Về Mỹ học điện ảnh, nhiều tác giả nước ngoài đã bàn đến Mỹ học của
phim đã nghiên cứu các khái niệm, phạm trù, quy luật về các mối quan hệ
chằng chịt bên trong của quan hệ thẩm mỹ; Sách Bố cục khuôn hình ống kính
máy quay phim (1983) của tác giả Головня А., đề cập đến tính thẩm mỹ trong
bố cục khuôn hình, đề cao vai trò mỹ học trong tạo hình điện ảnh và Thế giới
Nghệ thuật phim truyện(1984), của Муриан В. bàn đến mỹ học và tâm lý,
cảm xúc cũng như tác động của tác phẩm điện ảnh đến thị hiếu người xem.
Sách Gọi tiếng cho hình (2011), của David Sonnenschein (Mỹ) bàn về ngôn
ngữ và hiệu quả thể hiện của hình ảnh và âm thanh; mối quan hệ phối trộn đặc
biệtgiữa âm thanh và hình ảnh; giữa âm thanh và nội dung truyện phim,thiết
kế âm thanhqua hiệu quả gợi mở và liên tưởng tạo hình;
Về Ký hiệu học, có nhiều nghiên cứu. Những tri thức điện ảnh (1995)
của tác giả J.Monaco, Ký hiệu học nghệ thuật Sân khấu (1997) của Erika
Fischer-Lichte, Ký hiệu học và mỹ học Điện ảnh của Iu.M.Lotman, coi tác
phẩm điện ảnh như một hệ thống ký hiệu và những tổng hợp các ký hiệu tạo
nên hình ảnh của phim. Với phương thức thuật truyện: bằng hình ảnh động,
bằng lời và bằng nhạc, giữa chúng hình thành những thành tố tạo hình cụ thể:
Ký hiệu lời nói, Ký hiệu những hoạt động không lời(nét mặt, động tác...), Ký
hiệu ngoại hình của diễn viên (mặt nạ, râu tóc, trang phục); Ký hiệu không
gian (trang trí bối cảnh, đạo cụ được bày biện và diễn xuất, hiệu quả ánh
sáng); Ký hiệu âm thanh không lời (tiếng động, lời thoại, âm nhạc). Sách Cấu
3
trúc văn bản nghệ thuật (2004),của Iu.M.Lotman cũng coi ngôn ngữ tạo hình
phim truyện như là hệ thống các ký hiệu, phim truyện là một hình thức kể
chuyện bằng hình ảnh động và tiếng nói. Trong Hành trình nghiên cứu Điện
ảnh Việt Nam (2007), của nhiều tác giả, GS.TS Đình Quang lý giải điện ảnh
đậm tính ký hiệu hơn cả trên sân khấu cũng như trong các nghệ thuật tượng
hình khác. Tác giả Đặng Văn Lung bàn về sự phân hợp trong sáng tác tập thể
đối với các thành phần làm phim truyện, khi tất cả đều có chuyên môn riêng,
có ngành học riêng và làm theo sự sáng tạo cao nhất của mình, rồi phối kết
các mảng riêng ấy thành gắn bó, trong một cấu trúc chặt chẽ, sống động;
Về Văn hóa học, sách Văn hóa Việt Nam, mấy vấn đề về lý luận và thực
tiễn (2006), tác giả Nguyễn Chí Bền, đã nêu lên những đặc trưng bản chất của
văn học nghệ thuật trong bức tranh toàn cảnh của một nền văn hóa khi bàn
đến khán giả và thị hiếu khán giả trong cảm thụ tác phẩm nghệ thuật nói
chung và khảo sát mỗi bộ phim truyện nói riêng.
Những nghiên cứu đã có là những dữ kiện khoa học đáng tin cậy liên quan ít
nhiều đến đề tài. Song, do nhiều mục đích tiếp cận khác nhau nên tới nay vẫn
chưa có công trình nghiên cứu mang tính hệ thống, chuyên sâu và tiếp cận đa
- liên ngành nào về Nghệ thuật tạo hình trong phương thức biểu đạt tác phẩm
điện ảnh VN, về sự tổng hòa mọi hiệu quả tạo hình trong suốt tiến trình sáng chế tác tác phẩm.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Đề tài của luận án thuộc lĩnh vực nghiên cứu nghệ thuật tạo hình trong
phương thức biểu đạt tác phẩm điện ảnh, đóng góp một số lý luận mang tính
ứng dụng thực tiễn nhằm đóng góp một số kinh nghiệm có thể dùng làm tài
liệu tham khảo phục vụ lãnh vực sáng tác, chế tác phim và công tác nghiên
cứu, giảng dạy, học tập trong các chuyên ngành mỹ thuật - điện ảnh - truyền
hình
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4
* Đối tượng nghiên cứu của luận án là nghệ thuật tạo hình trong
phương thức biểu đạt tác phẩm điện ảnh, khi tham gia vào mọi phương
diện sáng tác của điện ảnh; lý giải mối quan hệ giữa nghệ thuật tạo hình với
tạo hình điện ảnh
* Phạm vi nghiên cứu: Không giới hạn khuôn định giới hạn thời gian
theo một giai đoạn cụ thể nào, nhằm tránh được những cái nhìn và nhận định
phiến diện, đồng thời có điều kiện khảo sát, nghiên cứu toàn diện mọi khía
cạnh nội dung và hình thức thể hiện nghệ thuật của mọi thành phần tạo tác
phẩm phim truyện.
5. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu liên ngành giao thoa giữa nghệ thuật tạo hình và tạo hình
phim truyện, liên quan đến: văn học (kịch bản, lời thoại), nghệ thuật biểu diễn
(diễn xuất của các nhân vật), nghệ thuật âm nhạc (nhạc phim)...và, nó còn cần
được xem xét trên cơ sở phương pháp nghiên cứu đa ngành để nhận diện: mỹ
học, mỹ thuật học, nghệ thuật học, ký hiệu học nghệ thuật, xã hội học, dân tộc
học, lịch sử, văn hoá học...Sử dụng phương pháp luận biện chứng, duy vật
lịch sử nhằm nghiên cứu các loại hình nghệ thuật đã tương tác hoàn thiện
ngôn ngữ thể hiện hình ảnh và hiệu quả thị giác trên màn ảnh; Sử dụng
phương pháp nghiên cứu khoa học xã hội định tính, gồm: Nghiên cứu điền dã,
NCS đã trực tiếp tham gia làm họa sĩ thiết kế mỹ thuật cho một số bộ phim
truyện VN; Nghiên cứu văn bản, tài liệu, các tác phẩm phim truyện, được
giải quyết theo phương pháp tiếp nhận, phân tích, tổng hợp, so sánh và mô
hình hoá; ngoài ra, thực hiện thao tác phân loại, đối chiếu, trích dẫn tài liệu,
dùng hình ảnh, tài liệu để chứng minh cho những kiến giải và sử dụng
phương pháp tham khảo chuyên gia khi xử lý phim ảnh, tư liệu, công trình
nghiên cứu lý luận, kết hợp với việc phỏng vấn sâu được thực hiện nhằm đúc
rút những kinh nghiệm từ thực tế làm phim.
6. Ý nghĩa lý luận và giá trị thực tiễn
5
Đóng góp lý luận có hệ thống về đặc trưng nghệ thuật tạo hình trong
phim truyện, về mối quan hệ cộng hưởng, giao thoa giữa nghệ thuật tạo hình
và tạo hình trong điện ảnh phim truyện; Đưa ra những kiến giải mang tính quy
luật thông qua những phương thức biểu đạt tạo hình; Xác định các quy tắc thể
hiện và phương thức biểu đạt nghệ thuật tạo hình tối ưu, nhằm đem lại chất
lượng nghệ thuật cao hơn; Nghiên cứu lý luận và thực hành ứng dụng nghệ
thuật tạo hình, xây dựng định chuẩn cho một bộ phim truyện qua các phương
thức biểu đạt tạo hình.
7 Kết cấu của đề tài:
Ngoài phần mở đầu và tiểu kết, tiểu luận bao gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát chung về mỹ thuật truyền hình
Chương 2: Hoạ sĩ phía sau hậu trường
Chương 3: Những người phụ trách mỹ thuật phía sau hậu trường.
6
CHƯƠNG I
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THIẾT KẾ MỸ THUẬT TRUYỀN HÌNH
I. Khái niệm chung
1. Khái niệm về mỹ thuật
Mỹ thuật được hiểu nôm na là “nghệ thuật của cái đẹp”( theo Hán Việt
“mỹ” nghĩa là ‘đẹp” và “thuật” là “nghệ thuật”). Đây là từ được dùng để
chỉ các loại hình nghệ thuật tạo hình chủ yếu là hội họa, điêu khắc. kiến
trúc, đồ họa.
Theo cách nhìn khác, mỹ thuật là cái đẹp do con người hoặc thiên nhiên
tạo ra mà mắt người nhìn thấy được. Vì thế người ta còn dùng từ “nghệ
thuật thị giác” để nói về mỹ thuật
Mỹ thuật bao gồm : Hội họa, Nhiếp ảnh, Điêu khắc, Nghệ thuật ứng
dụng, Kiến trúc
2. Khái niệm về mỹ thuật truyền hình
Mỹ thuật truyền hình là sự úng dụng mỹ thuật vào lĩnh vực truyền hình
như thiết kế sân khấu theo ý đồ, thiết kế ngoại cảnh khi thực hiện chương
trình ngoài trời, thiết kế về không gian, bối cảnhcủa một chương trình
truyền hình...
3. Thiết kế mỹ thuật truyền hình
Thiết kế mỹ thuật truyền hình là thiết lập các mục đích ý tưởng vào
trong truyền hình. Thiết kế mỹ thuật truyền hình là sự kết hợp giữa nghệ
thuật và công nghệ
II. Vai trò, chức năng của thiết kế mỹ thuật truyền hình
1. Vai trò của thiết kế mỹ thuật truyền hình
Trong bất cứ một chương trình truyền hình nào thì thiết kế mỹ thuật truyền
hình đều đóng vai trò quan trọng. Nó là bước chuẩn bị cho một chương trình
truyền hình cũng như góp phần vào sự thành công của một chương trình
truyền hình
7
Thiết kế mỹ thuật truyền hình tạo dựng, chuẩn bị không gian cũng như sắp
xếp, bố trí các đạo cụ, các thiết bị, vật dụng cần thiết cho một chương trình
truyền hình.
Có thể nói Thiết kế mỹ thuật như là “một bộ quần áo” của một chương
trình truyền hình. Thiết kế mỹ thuật làm cho chương trình tuyền hình trỏ nên
hấp dẫn, gọi cảm xúc đối với người xem.
Trong một chương trình truyền hình, đạo diễn – quay phim – họa sĩ thiết
kế là ba nhân tố chủ yếu tạo dựng nên không gian, sự kiện trong một bối cảnh
cụ thể nhằm đảm bảo tính thong nhất về thẩm mỹ
2. Chức năng của thiết kế mỹ thuật truyền hình
Thiết kế mỹ thuật truyền là một khâu quan trọng không thể thiếu trong một
chương trình truyền hình.
Thiết kế mỹ thuật truyền hình tạo ra không gian, không khí, bối cảnh, dự
báo các tình huống có thể xảy ra nằm trong kịch bản chương trình.
Thiết kế mỹ thuật truyền hình dụ báo nội dung chương trình, chứa đụng
mọi sự kiện.Thiết kế mỹ thuật truyền hình có những chức năng sau đây:
+ Tạo bộ mặt không gian,thời gian của chương trình. Tạo dựng không gian
rộng hoặc hẹp trong nhà hoặc ngoài trời, thời gian ban ngày hoặc ban đêm.
+ Tạo nên các hoạt động của nhân vật. Nhân vật, diễn viên hoạt động
không phù hợp, chỗ đông người, chỗ ít người có thể vượt ra giới hạn không
gian của thiết kế.
+ Góp phần tạo nên các hành động của nhân vật. Thiết kế tạo nên các kĩ
xảo giúp nhân vật thực hiện được hành động phức tạp, tạo điều kiện cho hành
động của nhân vật.
+ Tạo nên các góc độ của ống kính. Thiết kế mỹ thuật đảm bảo cho quay
phim có được mọi góc độ như ý muốn. Các góc máy khác nhau cần phải có
hậu cảnh thích hợp, khi quay phim thay đổi góc quay thì người thiết kế đảm
bảo ở mọi góc độ đều có được nhũng khuôn hình như ý muốn.
8
+ Góp phần tạo nên các nhân vật. Hóa trang cho các nhân vật sao cho đúng
với tính cách nhân vật, bối cảnh của câu chuyện, kịch bản.
+ Thông qua công việc thiết kế mỹ thuật truyền hình góp phần giáo dục thẩm
mỹ nhận thức chung về bản sắc văn hóa dân tộc. Giữ gìn và phát huy tinh hoa
văn hóa dân tộc
9
CHƯƠNG II
HOẠ SĨ PHÍA SAU HẬU TRƯỜNG
1. Họa sĩ thiết kế
Họa sĩ thiết kế là người đồng hành với ê - kip chế tác gồm đạo diễn và
quay phim.
Cùng với họa sĩ thiết kế còn có những thành phần khác như: ánh sáng
mỹ thuật truyền hình, đạo cụ mỹ thuật truyền hình, hóa trang mỹ thuật
truyền hình, phục trang mỹ thuật truyền hình, dụng cảnh mỹ thuật truyền
hình, họa sĩ thiết kế kĩ xảo.
Trong các chương trình có liên quan đến lịch sử, như một bộ phim về
đề tài lịch sử, cần thiết phải tái hiện một gian đoạn lịch sủ nào đó thì không
thể thiếu họa sĩ thiết kế. Khó mà xác định được họa sĩ thiết kế đóng góp
bao nhiêu phần trăm vào thành công của một tác phẩm, nếu thiếu đi bàn
tay của họa sĩ thiết kế thì tác phẩm đó trở nên thiếu thuyết phục đối với
người xem.
Khi có kịch bản trong tay, họa sĩ
thiết kế sẽ cùng đạo diễn bàn bạc ý
tưởng hình thành bộ phim. Đạo
diễn sẽ phải trình bày cách thể
hiện, cùng trao đổi, xây dựng cá
tính nhân vật. Ví dụ một nhân vật
nam nóng tính thì sẽ sử dụng
những màu có vẻ thô kệch một chút, sử dụng những mầu nóng, kiểu dáng
trang phục hơi thô ráp … Để làm nổi bật tính cách nhân vật này, kinh
nghiệm của họa sĩ thiết kế là vô cùng quan trọng. Họ sẽ cùng đạo diễn
“phát hiện” ra nét chính nhất của nhân vật, gắn họ với số phận và thực tế
cuộc sống để các cảnh quay thuyết phục hơn.
10
Một trong những
khâu vất vả nhất
trong công đọa thiết
kế bối cảnh cho một
bộ phim là đi chọn
cảnh. Một ngày, đạo
diễn, quay phim và
họa sĩ thiết kế có thể
đi hang trăm cây số
để tìm ra những cảnh phù hợp để đặt máy. Có những bôi cảnh không sử
dụng được chop him nhưng việc đi thực tế nhiều sẽ giúp cho họa sĩ thiết kế
có được nhiều tư liệu quan trọng về cuộc sống thường nhật. Trong quá trình
này, những cảnh đã được hoạch định trên giấy có thể được sửa đổi.
Nhận thức được vai trò quan trọng của họa sĩ thiết kế đối với các
chương trình, các đạo diễn đánh giá cao công việc và sự hỗ trợ đắc lực
của các họa sĩ thiết kế. Đạo diễn- NSND Trần Phương nhận định: “Ta vẫn
chưa có studio để thục hiện những cảnh quay cần thiết nên công việc dàn
dựng bối cảnh sẽ rất khó khăn. Trước khi bấm máy, đạo diễn sẽ cùng họa
sĩ thiết kế chọn bối cảnh, nếu không làm tốt khâu này thì sẽ vất vả vì phải
làm đi làm lại. Có thể nói, công việc của họa sĩ thiết kế và đạo diễn gắn bó
11
mật thiết với nhau. Nếu họa sĩ không làm đúng thì đạo diễn cũng sẽ đổ
theo”
2. Hoạ sĩ thiết kế kỹ xảo truyền hình
Kỹ xảo tĩnh chủ yếu hoạt động hậu kì của chương trình theo yêu cầu ý
tưởng của đạo diễn với nghiệp vụ chuyên môn của mình cũng đưa ra các ý
tưởng phù hợp đảm bảo tính mục đích và thẩm mỹ. Chủ yếu là hiệu ứng
kỹ thuật 3D của đồ họa vi tính như logo, bảng chữ từ chương trình cắt và
các hình đồ họa khác .
Kỹ xảo động hoạt động hậu kỳ của chương trình theo yêu cầu và ý
tưởng của đạo diễn với những nghiệp vụ chuyên môn của mình đưa ra các
ý tưởng phù hợp đảm bảo tính mục đích, tính thẩm mỹ. Chủ yếu là các
hiệu ứng kỹ thuật 3D của đò họa vi tính nhu logo, tít chương trình, bảng
chữ, hình cắt… các kỹ xảo khác cho nôi dung chương trình.
Bố cục các không gian kỹ xảo cảnh, nền kĩ xảo, cảnh kĩ xảo, nhân vật
kĩ xảo và động vật, phương tiện cần có liều lượng phù hợp với tiết tấu
chương trình đó tránh lạm dụng làm rối hoặc khuôn hình bị đặc.
12
CHƯƠNG III
NHỮNG NGƯỜI PHỤ TRÁCH MỸ THUẬT PHÍA SAU
HẬU TRƯỜNG
1. Hoá trang mỹ thuật truyền hình
Làm đẹp (chủ yếu dùng cho nhân vật tập trung thuần túy khác phục các
điểm khuyết trên gương mặt của phát thanh viên)
Đặc điểm chung nhân vật, quần chúng, nhóm quần chúng, công nhân,
nông dân, binh lính, công chức, dân tộc, vùng miền.
Bản chất nhân vật:
chính
diện,
phản
diện
(nhũng nhân vật trung tâm
làm nên cốt truyện) trung
gian.
Nhân vật điển hình : +
Lãnh tụ Hồ Chí Minh,
Lênin…
+ Nhân vật lịch sử Trần
Hóa trang cho diễn viên
Hưng Đạo, Nguyến Trãi
2. Ánh sáng mỹ thuật truyền hình
Ánh sáng mỹ thuật truyền hình là hơi thở, cầu nối giữa họa sĩ thiết kế và
quay phim. Màu sắc trong ánh sáng mỹ thuật truyền hình thường có tỉ lệ:
+ 60% đồng sắc
+ 30% bổ túc
+ 10% hiệu ứng
13
Ánh sáng không gian phải đảm bảo tạo không gian với 3 lớp xa, gần,
cận. Tạo trong studio những ánh sáng không gian như tự nhiên, nội ngày,
ngoại ngày. Không cần thể hiện trạng thái mà không phá vỡ các yêu cầu
ánh sáng khác như ánh sáng nhân vật xuất hiện trong Déco, ánh sáng trang
trí (ánh sáng từ các hiệu ứng, khối cảnh, vật cảnh như bàn ghế, logo, bục có
lắp đèn khí neonsai, đèn tia, đèn hát).
Ánh sáng nhân vật : Theo yêu cầu của nội dung chương trình các nhân
vật cá tính. Các nhân vật trơn mà hóa trang đã tạo hình sần thì ánh sáng
nhân vật rất quan trọng, nó là chủ thể của khuôn hình mà quay phimkhacs
theo ý đồ của đạo diễn mỗi khi có nhân vật xuất hiện. Ánh sáng nhân vật
lại phải có những đèn riêng để chuyên (chăm sóc), nó đảm bảo các yêu cầu
cơ bản ven, chính, phụ mà không phá vỡ ánh sáng của không gian bối cảnh
(làm mất đi chiều sâu trạng thái cảnh, sạn hình vì đổ bóng…).
Ánh sáng trạng thái: theo nội dung chương trình ánh sáng trạng thái sẽ
phải tạo ra cac trạng thái không gian như:
14
+ Ban ngày (sáng, trưa, chiều)
+ Ban đêm (hoàng hôn muộn,
đêm tối, bình minh)
+ Trạng thái khác (bão, mưa,
sấm chớp, khói lửa…)
+ Tâm trạng khác (vui, buồn,
suy tưởng, linh cảm…)
Với thể loại áp dụng vào các
trạng thái đã nêu ở trên để đồng
hành với hóa trang, diễn xuất của
diễn viên sẽ phức tạp hơn so với
ánh sáng nhân vật, vì vậy đòi hỏi
công tác ánh sáng phải có sự
thống nhất với các thành phần chế tác.
Ánh sáng trang trí: được họa sĩ thiết kế bố trí theo ý tưởng đã định với
các thể loại khác nhau như tọa đàm, giao lưu, ca nhạc…thì ánh sáng không
gian, ánh sáng nhân vật không làm át đi hiệu quả ánh sáng trang trí (ánh
sáng trang trí ví như những đồ trang sức trên khuôn mặt người đẹp). Nếu
ánh sáng không gian và ánh sáng nhân vật mạnh quá thì làm giảm đi hiệu
quả của ánh sáng trang trí và ngược sáng không gian yếu quá thì ánh sáng
trang trí nổi mạnh át đi ánh sáng không gian tạo phản cảm. Vì vậy phải hài
hòa giữa ba loại ánh sáng đẻ tạo nên hiệu quả cho từng thể loại mà vẫn tạo
được chủ thể của bối cảnh.
Ánh sáng nghệ thuật sắp đặt khác: ánh sáng tự do hơn, theo yêu cầu của
đạo điễn ánh sáng và đạo diễn hình với từng chủ đề phụ thuộc vào các
phương tiện: dàn đèn điện tử, hệ thống chiếu sáng hiện đại khác…để thực
hiện trong các chương trình ca nhạc trẻ, cảnh thần thoại và các hiệu ứng kĩ
xảo khác…
15
3. Đạo cụ mỹ thuật truyền hình
Là đò dùng vào công việc diễn xuất của diễn viên thực hiện theo ý đồ
của đạo diễn góp phần quan trọng cho tạo bối cảnh hỗ trowjddawc lực cho
việc tạo hình nhân vật
Các chức năng cơ bản của đạo cụ:
+ Chức năng là đạo cụ diễn xuất là phương tiện được thực hiện hành
động và trạng thái diễn xuất, thể hiện tính cách nhân vật theo ý đồ tác giả.
+ Chức năng là đạo cụ kỹ thuật kĩ xảo tùy theo loại hình nghệ thuật sân
khấu điện ảnh. Ví dụ tạo viên gạch giả, đá, kính vỡ, dao đâm vào diễn viên
mà không gây thương tích, những cú nhào lộn, ngã, đâm xe trong những
pha hành độngmà vẫn an toàn cho diễn viên khi diễn xuất.
+ Chức năng đạo cụ tạo cảnh :
mang tính sắp đặt bố cục để trang
trí cho bối cảnh, cá tính nhân vật sở
hữu bởi ý đồ của tác giả gần cho bối
cảnh có một tâm trạng trạng thái
nào đó vừa cụ thể vừa khái quát
ddienr hình tùy theo loại hình và thể
loại cho phù hợp tránh cường điệu
hóa hoặc tự nhiên quá.
+ Chức năng hỗ trợ :
Đạo cụ trong phim Harry Potter
hỗ trợ đắc lực và hữu cơ với tạo hình nhân vật (phuc tran, hóa trang) nó
làm rõ bản chất cá tính, sở trường, sở thích, thân phận hoàn cảnh của nhân
vật. Ví dụ các kiêu dáng của túi sách, cặp sách, đồng hồ đeo tay, tẩu
thuốc…
+ Chức năng kép và chức năng lien hệ : đạo cụ diễn xuất nhân vật
không sử dụng khi nó nàm trong bối cảnh thì nó lại trỏ thành đạo cụ tạo
cảnh (đạo cụ tĩnh) ví dụ cái nón, mũ, túi sách trên tường…và đạo cụ tạo
16
cảnh trỏ thành đạo cụ diễn xuất, ví dụ diễn viên đang soi gương, hành
động đạp gương…
Người họa sĩ đạo cụ là trợ thủ đắc lực của họa sĩ thiết kế là người tạo hình
thứ 2 cùng với họa sĩ phục trang, hóa trang, ánh sáng cũng ví như họa sĩ
thiết kế là diễn viên trung tâm thứ 2 của nghệ thuật tong hợp (sân khấu
điện ảnh). Đòi hỏi người họa sĩ đạo cụ phải có kiến thức tỏng hợp đầy đủ
và sâu sắc (vốn văn học, triết, ngoại ngữ…). Cùng tham gia nghiên cứu
kich bản tham mưu cố vấn cho đạo diễn, cho họa sĩ thiết kế cùng thực hiên
ý đồ tạo hình. Phối hợp hành động và chủ động sáng tạo.
4. Phục trang mỹ thuật truyền hình
Làm rõ thành phần nhân vật thong qua trang phục đó người xem thấy
được thành phần nhân vật đó ( trừ cải trang để thực hiên câu chuyện : nông
dân, công nhân, lính, học sinh…)
Làm rõ bản chất cá tính nhân vật, tính cách điệu trang phục cao ở các
nhân vật phản diện, quan tham, kẻ độc ác, mưu mô nham hiểm…
5. Dựng cảnh trong mỹ thuật truyền hình
Dựng cảnh chỉ đạo : người thực hiện công việc chỉ đạo của công việc
này là lao động kỹ thuật cần phải có những yêu cầu tối thiểu sau:
+ Có thẩm mỹ
+ Có kỹ thuật nghiệp vụ lĩnh hội đủ các yêu cầu công việc từ học sĩ
thiết kế phối hợp các công việc của đạo cụ tạo cảnh để dựng bối cảnh tù
các bản vẽ, sơ đồ hiện trường, sơ đồ mặt bằng bản vẽ, phối cachr tổng thể,
phối cảnh từng góc, sơ đồ bố quang, sơ đò tuyến ddienj, sơ đồ hoạt động
camera, tổ chức sắp xếp côn việc đáp ứng theo yêu cầu của họa sĩ thiết kế
chính.
Dựng cảnh thao tác đòi hỏi phải có kỹ năng của việc yêu cầu có đầu óc
sắp xếp công việc một cách khoa học, thực hiện công việc lao đọng theo
dựng cacnhr chỉ đạo cần có sức khỏe tố và nhanh nhẹn.
17
6. Đạo diễn
Mỗi chương trình truyền hình bạn xem hàng ngày đều có tổng đạo diễn.
Công việc của người đạo diễn chương trình truyền hình hơi khác so với
đạo diễn phim thông thường. Họ chủ yếu làm chương trình theo những cấu
trúc đã xác định rõ thay vì để cho trí tưởng tượng tung hoành như trong
phim hư cấu. Tuy nhiên, họ vẫn cần phải phát huy tính sáng tạo cao để mỗi
chương trình có thêm nhiều điểm hấp dẫn khán giả. Sự hấp dẫn đó đến từ
việc thực hiện tốt từng khâu nhỏ: người dẫn chương trình, phần phỏng vấn
khán giả, thực hiện các phóng sự nhỏ xen kẽ, kĩ thuật trường quay, ánh
sáng, âm thanh, khách mời...
Người đạo diễn
chương trình truyền
hình phải bao quát
đầy đủ các bộ phận
cấu thành nên cả
chương trình, có sự
dàn xếp sắp đặt về
nhân
vật,
câu
chuyện... nhưng hạn chế tối đa tính hư cấu, mà nghiêng về tính tả thực
hơn. Nghề này có liên quan mật thiết đến nghề báo. Trên thực tế, có rất
nhiều đạo diễn chương trình truyền hình là nhà báo, hoặc làm công việc
gần gũi với báo chí.
Để có những chương trình truyền hình bạn thường xem, người đạo diễn
đã phải chuẩn bị trước đó hàng tháng trời. Họ có thể ghi hình trong mỗi
đợt (vài ngày đến một tuần) số lượng chương trình đủ dùng cho cả tháng
hoặc nhiều hơn thế.
18
Ngoài ra, cũng có
những đạo diễn làm
các
phim/
quảng
cáo.
đoạn
Đặc
trưng cơ bản của
công việc này là đặc
biệt chú trọng đến
hình ảnh, âm thanh
ấn tượng.
Những đoạn phim đó thường rất ngắn (10 - 30 giây), nên yêu cầu về
hình ảnh và âm thanh là rất cao, sao cho nó có thể ghi dấu ấn mạnh nhất
vào giác quan và trí nhớ của người xem. Nó phải mang tính khác lạ, nhịp
điệu nhanh, hình ảnh sắc nét, âm thanh cuốn hút. Hiện nay, nhiều đạo diễn
phim truyện và phim truyền hình vẫn thường tham gia làm phim quảng cáo
để tạo nguồn thu, lấy đó làm điều kiện để nuôi dưỡng sự nghiệp điện ảnh
của mình.
Đạo diễn chương trình truyền hình có những nỗi vất vả riêng. Nhiều
khi họ phải tới những địa phương xa để thực hiện các chương trình, phóng
sự đặc biệt. Mặt khác, tần số phát sóng dày, khung giờ nghiêm ngặt. Người
đạo diễn chương trình truyền hình không có bất kì lý do nào để trì hoãn
không hoàn thiện chương trình trước giờ phát sóng. Họ buộc phải có
chương trình vào đúng giờ qui định. Điều này khác với đạo diễn phim và
đạo diễn sân khấu.
Đạo diễn chương trình truyền hình chỉ đạo thực hiện các chương trình
theo cấu trúc chương trình có sẵn. Thường trong mỗi đợt ghi hình, họ phải
làm từ 3 - 5 chương trình/một ngày. Cường độ làm việc đối với họ lúc đó
cũng rất lớn. Bắt đầu ngày làm việc lúc 8 giờ sáng, nhưng kết thúc lúc 2
giờ đêm là chuyện bình thường. Bởi vì chương trình hôm nay không thể
bỏ dở để mai quay tiếp. Cùng các nhân vật, người dẫn chương trình gặm
19
bánh mì ngay trên sân khấu để thực hiện nốt các cảnh quay diễn ra rất
thường xuyên.
Công việc của một đạo diễn truyền hình khác hẳn với công việc của
một đạo diễn điện ảnh, họ phải chịu một lúc rất nhiều áp lực như kinh phí
hạn hẹp và thời luợng phát sóng ngắn ngủi, đồng thời vẫn phải đảm bảo
chất luợng nghệ thuật cho tác phẩm.
Đối với những chương trình truyền hình như gameshow, thể thao,
phóng sự…, họ không thể làm chủ hoàn toàn các hành động của nhân vật,
vai trò của người đạo diễn truyền hình chủ yếu là dựng hình, biên tập nội
dung hình ảnh làm sao cho người xem dễ hiểu và hài lòng nhất.
20
KẾT LUẬN
Một chương trình truyền hình thành công hay thất bại phụ thuộc vào việc
có thu hút, hấp dẫn được khán giả hay không?
Từ khâu hình thành kịch bản dến khâu tổ chức sắp xếp, bố trí nhân sự đòi
hỏi sự thông nhất ý kiến giữa các thành phần của một chương trình truyền
hình. Trong đó ba thành phần họa sĩ thiết kế, đạo diễn, quay phim là ba thành
phần chính cấu thành nên một chương trình truyền hình.
Mặc dù, mỗi thành phần đêu có những nhiệm vụ và chuyên môn riêng
nhưng giữa các thành phần đều có mối quan hệ hữu cơ với nhau. Nhà quay
phim có thể góp ý cho họa sĩ thiết kế về bối cảnh, ánh sáng, cách trang trí, sắp
xếp đạo cụ. Họa sĩ thiết kế có thể góp ý cho đạo diễn về diễn xuất của nhân
vật, các hành động của nhân vật sao cho không vượt qua giới hạn của bối
cảnh, sân khấu.
Nếu thiếu đi họa sĩ thiết kế thì chương trình đó trở nên không hoàn thiện,
nhà quay phim phải “tự chơi” với khuôn hình của mình, tức là tự mình phải
sắp xếp, bố trí bối cảnh cho cảnh quay của mình. Thiếu đi họa sĩ thiết kế,
quay phim sẽ mất phương hướng và khuôn hình trỏ nên không có hồn. Họa sĩ
thiết kế và quay phim được ví như là một đôi đũa. Như vậy, họa sĩ thiết kế có
vai trò rất quan trọng trong một chương trình truyền hình.
21
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. www.wikipedia.com
2. www.skda.edu.vn
3. www.mythuatvietnam.info
4. www.vietbao.vn
5. Ảnh minh họa nguồn Internet.
6. Giáo trình giảng dạy của họa sĩ Quách Trường Sơn.
22