1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tuyên truyền nói chung và tuyên truyền
cho đồng bào dân tộc thiểu số nói riêng là một
trong những nhiệm vụ quan trọng, chiến lược,
luôn được Đảng, Nhà nước quan tâm. Do vậy,
Đảng và Nhà nước đã xây dựng nhiều chủ trương,
chính sách, đầu tư các nguồn lực trong việc xây
dựng các chương trình tuyên truyền ở vùng đồng
bào dân tộc thiểu số sinh sống, góp phần quan
trọng trong việc tuyên truyền chủ chương, chính
sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, từng
bước nâng cao dân trí, tạo điều kiện thuận lợi để
đồng bào phát triển toàn diện.
Yên Bái là một tỉnh Miền núi, nằm ở khu
vực Tây Bắc của Tổ quốc, tập trung nhiều dân
tộc thiểu số cùng chung sống. Mỗi dân tộc đều
có văn hóa, phong tục tập quán, truyền thống
2
riêng của mình. Đời sống kinh tế, văn hóa xã hội
của vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số sinh
sống còn nhiều khó khăn. Đảng bộ tỉnh Yên Bái
luôn xác didhj quan điểm chung là đầu tư cho
tuyên truyền, giáo dục chính trị tư tưởng là đầu
tư trước một bước để ổn định chính trị, nâng cao
dân trí là điều kiện để thức đẩy phát triển kinh tế
xã hội nói chung. Tỉnh Yên Bái đã ban hành
nhiều chủ trương quan trọng, khai thác tốt các
kênh tuyên truyền như tuyên truyền miệng, tuyên
truyền bằng các phương tiện thông tin đại chúng,
tuyên truyền thông qua việc tổ chức mít tinh, cổ
động, tuyên truyền bằng các hoạt động văn hóa,
văn nghệ, thể dục thể thao và thông qua các hoạt
động của phong trào thi đua yêu nước nhằm
giáo dục, cổ vũ, khích lệ đồng bào dân tộc thiểu
số một lòng tin vào Đảng, vào đường lối phát
triển cả đất nước, tích cực lao đọng sản xuất,
xóa đói giảm nghèo bền vững.
3
Trong nhiều nhiệm kỳ đại hội liên tục từ
Đại hội Đảng bộ tỉnh Yên Bái lần thứ XV, XVI,
XVII và XVIII (giai đoạn 2000 - 2015) đều nhấn
mạnh: “...Quan tâm đến đời sống văn hóa tinh
thần cho đồng bào các dân tộc thiểu số, tạo điều
kiện tốt nhất để đồng bào phát triển toàn diện
mọi mặt”. Với tinh thần đó, tỉnh Yên Bái cũng
ban hành nghị quyết, giao cho mỗi ban, ngành
trong tỉnh nhận đỡ đầu và trợ giúp đỡ các xã có
đông đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống còn
nhiều khó khăn để từng bước phát triển kinh tế
xã hội, mà trọng tâm là nắm bắt tư tưởng, phối
hợp đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao
chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị và
cải thiện đời sống tinh thần cho nhân dân. Với sự
quan tâm này, đời sống kinh tế, xã hội vùng đồng
bào dân tộc thiểu số đã có được những bước tiến
đáng kể.
Tuy nhiên, trước những yêu cầu của thời
kỳ mới và những vấn đề nảy sinh trong thực tiễn,
4
nhất là trong tuyên truyền chủ trương chính sách
của Đảng, pháp luật của Nhà nước, trong công
cuộc phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo bền
vững và xây dựng khối đại đoàn kết các dân tộc
hiện nay đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số
Đảng bộ tỉnh Yên Bái đã bộc lộ một số bất cập,
chưa đáp ứng được yêu cầu của thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH,
HĐH) nông nghiệp, nông thôn hiện nay. Vấn đề
đó cần được kịp thời giải quyết, chấn chỉnh trên
nhiều mặt, trong đó có vấn đề về nâng cao chất
lượng, hiệu quả của công tác tuyên truyền.
Là một cán bộ quản lý, đồng thời cũng là
một người có nhiều năm công tác gắn bó với
tỉnh Yên Bái, tôi nhận thức được rằng nội dung,
phương pháp, quá trình, tần suất của công tác
tuyên truyền chính là yếu tố quan trọng ảnh
hưởng tới chất lượng công tác tuyên truyền cho
đồng bào các dân tộc thiểu số trong tỉnh. Xuất
phát từ những lý do trên, học viên chọn đề tài
5
“Công tác tuyên truyền đối với đồng bào dân
tộc thiểu số của Đảng bộ tỉnh Yên Bái giai
đoạn hiện nay” thuộc Chuyên đề 36 “Kỹ năng
công tác tư tưởng và vận động nhân dân của
cán bộ, đảng viên” làm tiểu luận.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu: Tiểu luận
nghiên cứu công tác tuyên truyền đối với đồng
bào dân tộc thiểu số của Đảng bộ tỉnh Yên Bái..
2.2. Phạm vi nghiên cứu: Công tác tuyên
truyền đối với đồng bào dân tộc thiểu số của
Đảng bộ tỉnh Yên Bái từ năm 2005 đến nay. Đề
xuất phương hướng giải pháp đến năm 2025.
6
NỘI DUNG
I. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG CỦA TIỂU LUẬN
1.1. ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ TỈNH YÊN BÁI
1.1.1. Quan niệm về đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh Yên Bái
Dân tộc, cũng như nhiều hình thức cộng đồng khác, dân tộc là sản phẩm của
một quá trình phát triển lâu dài của xã hội loài người. Cho đến nay, khái niệm dân
tộc được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh và xuất
phát từ nguyên tắc bình đẳng dân tộc, thì khái niệm “dân tộc thiểu số” không mang
ý nghĩa phân biệt địa vị, trình độ phát triển của các dân tộc. Địa vị, trình độ phát
triển của các dân tộc không phụ thuộc ở số dân nhiều hay ít, mà nó được chi phối
bởi những điều kiện kinh tế - chính trị - xã hội và lịch sử của mỗi dân tộc.
Vận dụng quan điểm trên vào điều kiện cụ thể của cách mạng nước ta, Đảng
Cộng sản Việt Nam luôn khẳng định quan niệm nhất quán của mình: Việt Nam là
một quốc gia thống nhất gồm 54 dân tộc thành viên, với khoảng trên 80 triệu người.
Trong tổng số các dân tộc nói trên thì dân tộc Việt (Kinh) chiếm 86,2% dân số, được
quan niệm là “dân tộc đa số”, 53 dân tộc còn lại, chiếm 13,8% dân số được quan
niệm là “dân tộc thiểu số” trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Khái niệm “dân
tộc thiểu số”, có lúc, có nơi, nhất là trong những năm trước đây còn được gọi là “dân
tộc ít người”. Mặc dù hiện nay đã có qui định thống nhất gọi là “dân tộc thiểu số”,
nhưng cách gọi “dân tộc ít người” vẫn không bị hiểu khác nội dung.
Đồng bào các dân tộc thiểu số trong tỉnh Yên Bái sống tập trung theo từng
cộng đồng người nhưng phân tán tại nhiều khu vực khác nhau trong tỉnh. Tại các
huyện vùng thấp chủ yếu là người Tày với 19% dân số toàn tỉnh. Người Dao chiếm
12% sống chủ yếu tại các huyện Yên Bình, Lục Yên và Văn Yên. Người Mông với
11% sống chủ yếu tại các huyện vùng núi Trạm Tấu và Mù Cang Chải. Người Thái
với 7% sống tập trung chủ yếu tại khu vực Mường Lò, Văn Chấn [Error: Reference
source not found].
Từ các phân tích trên, có thể hiểu: Đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh Yên Bái
là những người sống trên địa bàn tỉnh Yên Bái, nằm trong cộng đồng các dân tộc
7
Việt Nam, có số dân ít, chiếm tỷ trọng thấp trong tương quan so sánh về lượng dân
số trong phạm vi toàn quốc.
1.1.2. Vai trò của đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh Yên Bái
Yên Bái có vị trí chiến lược hết sức quan trọng trong thời kỳ dựng nước và
giữ nước. Trải qua đấu tranh gian khổ, Nhân dân tỉnh Yên Bái nói chung, đồng bào
dân tộc thiểu số nói riêng đã hun đúc nên truyền thống yêu nước, đoàn kết, anh
dũng, kiên cường đấu tranh chống giặc ngoại xâm; cần cù, năng động, sáng tạo
trong lao động sản xuất.
Trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, ngay từ thế kỷ XVIII, đồng bào
dân tộc thiểu số đã đoàn kết, sát cánh cùng quân đội nhà Trần chiến đấu chống giặc
Nguyên - Mông góp phần đánh bại các cuộc xâm lược của chúng. Cuối thế kỷ
XIX, đầu thế kỷ XX, khi thực dân Pháp xâm lược, đồng bào các dân tộc thiểu số và
các sĩ phu đã liên tục đứng lên chống thực dân Pháp xâm lược, điển là các cuộc
khởi nghĩa và chiến đấu của đồng bào dân tộc Thái ở Tú Lệ (Văn Chấn), đồng bào
Tày ở làng Vần (Trấn Yên), đồng bào Dao và đồng bào Tày ở Lục Yên…
Đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh Yên Bái đã góp phần quan trọng trong việc
xây dựng các căn cứ cách mạng, đóng góp vào sự ra đời và phát triển của Đảng bộ
tỉnh Yên Bái. Trong những năm chiến đấu ác liệt đầy gian khổ, hy sinh, đồng bào
các dân tộc thiểu số luôn hết lòng cưu mang, đùm bọc, che chở cho cán bộ, chiến sĩ
cách mạng; có những đóng góp quan trọng trong việc làm thất bại âm mưu phá
loại, xâm lược, gây mất ổn định chính trị của các thế lực phản động.
Với điều kiện tự nhiên ưu đãi cho tỉnh Yên Bái những khu vực có có nguồn
tài nguyên dồi dào, đa dạng, phong phú như đất, rừng, khoáng sản,.. với tiềm năng
to lớn phát triển kinh tế, do đó, đồng bào dân tộc thiểu số có vị trí đặc biệt quan
trọng trong việc bảo vệ nguồn nước, môi trường sinh thái. Mỗi dân tộc thiểu số ở
tỉnh Yên Bái đều có văn hoá truyền thống riêng về ngôn ngữ, phong tục, tập quá, lễ
hội, trang phục riêng,…
Trong những năm qua, đồng bào các dân tộc thiểu số tỉnh Yên Bái luôn tin
tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, tích cực, chủ động thực hiện sáng tạo các chủ
trương của Đảng, chính sách của Nhà nước, đạt được những kết quả đáng khích lệ,
8
góp phần từng bước xây dựng Yên Bái trở thành tỉnh phát triển khá trong vùng
trung du và miền núi phía Bắc.
1.1.3. Đặc điểm của đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh Yên Bái
Yên Bái là tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam, gồm 29 dân tộc thiểu số cùng
chung sống, chiếm gần 54% dân số toàn tỉnh. Các dân tộc thiểu số ở Yên Bái sống
xen kẽ, quần tụ ở khắp các địa phương trên địa bàn của tỉnh, với những đặc điểm
cơ bản sau:
- Đồng bào các dân tộc thiểu số Yên Bái chung sống đoàn kết, hoà hợp.
- Các dân tộc thiểu số tỉnh Yên Bái cư trú xen kẽ nhau, có trình độ phát triển
kinh tế - xã hội không đồng đều, nhưng không có sự phân chia lãnh thổ và chế độ
xã hội riêng. Hiện nay, trên địa bàn tỉnh Yên Bái không có địa phương nào chỉ có
một cồng đồng hai dân tộc sinh sống. Do địa bàn cư trú, phong tục tập quán và tâm
lý, lối sống của các dân tộc, nên trình độ phát triển kinh tế - xã hội của vùng, miền
dân tộc không đồng đều. Một số dân tộc có dân số ít, ở vùng sâu, vùng xa, điều
kiện kinh tế - xã hội khó khăn, như: đồng bào dân tộc H’Mông, Dao, Khơ mú…
- Mỗi dân tộc có bản sắc văn hóa riêng, tạo nên bức tranh văn hóa tỉnh Yên
Bái đa dạng, phong phú, thống nhất.
- Địa bàn cư trú của các dân tộc thiểu số có vị trí chiến lược đặc biệt quan
trọng về chính trị, kinh tế, văn hóa, an ninh, quốc phòng, đối ngoại và bảo vệ bền
vững môi trường sinh thái. Đây là địa bàn có nguồn tài nguyên phong phú, đa
dạng, có hệ thống rừng phòng hộ, rừng đặc dụng phục vụ cho sự nghiệp phát triển
của đất nước và bảo vệ bền vững môi trường sinh thái. Trong tình hình hiện nay,
miền núi là địa bàn tiềm năng, mang tính chiến lược, cơ bản cho sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Kinh tế ở miền núi, các dân tộc thiểu số còn chậm phát triển, tình trạng du
canh, du cư, di dân tự do vẫn còn diễn biến phức tạp. Kết cấu hạ tầng (điện, đường,
trường, trạm, dịch vụ) ở vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ cách mạng vẫn còn khó
khăn, nhiều nơi môi trường sinh thái tiếp tục bị suy thoái.
9
- Tỉ lệ hộ đói nghèo ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi cao hơn so với bình
quân chung cả nước, khoảng cách chênh lệch về mức sống, về trình độ phát triển
kinh tế - xã hội giữa các dân tộc, giữa các vùng ngày càng gia tăng; chất lượng,
hiệu quả về giáo dục đào tạo còn thấp, công tác chăm sóc sức khỏe cho đồng bào
dân tộc thiểu số gặp nhiều khó khăn, một số bản sắc tốt đẹp trong văn hóa của các
dân tộc thiểu số bị mai một, một số tập quán lạc hậu có xu hướng phát triển.
- Hệ thống chính trị cơ sở ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi còn
yếu, tỉ lệ cán bộ có trình độ cao đẳng, đại học thấp. Năng lực, trình độ cán bộ xã,
phường còn hạn chế, số lượng đảng viên là người dân tộc thiểu số thấp, vẫn còn
thôn bản chưa có đảng viên. Hoạt động của cấp ủy, chính quyền, mặt trận và đoàn
thể ở nhiều nơi chưa sát dân, chưa tập hợp được đồng bào.
- Các thế lực thù địch luôn tìm cách lợi dụng những khó khăn về đời sống,
trình độ dân trí thấp của đồng bào và những sai sót của các cấp, các ngành trong
thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta để kích động tư tưởng ly
khai, tự trị, phá hoại truyền thống đoàn kết và thống nhất của cộng đồng các dân
tộc trên địa bàn tỉnh Yên Bái, nguy cơ gây mất ổn định chính trị, nhất là trên các
địa bàn chiến lược, trọng điểm.
1.2. CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN ĐỐI VỚI ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ
Ở YÊN BÁI - QUAN NIỆM, NỘI DUNG, HÌNH THỨC
1.2.1. Quan niệm
Trong giáo trình Nguyên lý công tác tư tưởng khi bàn về hình thái công tác
tư tưởng, Lương Khắc Hiếu chỉ rõ: Công tác tuyên truyền là một hình thái, một bộ
phận cấu thành của công tác tư tưởng nhằm truyền bá hệ tư tưởng và đường lối
chiến lược, sách lược trong quần chúng, xây dựng cho quần chúng thế giới quan
phù hợp với lợi ích của chủ thể hệ tư tưởng, hình thành và củng cố niềm tin, tập
hợp và cổ vũ quần chúng hành động theo thế giới quan và niềm tin đó.Trong công
tác tư tưởng của Đảng và Nhà nước ta, công tác tuyên truyền là hoạt động nhằm
truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và những tinh hoa văn hóa của dân tộc
10
và nhân loại… làm cho chúng trở thành nhân tố chi phối, thống trị trong đời sống
tinh thần của xã hội; động viên, cổ vũ tính tích cực, tự giác, sáng tạo của nhân dân
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Từ quan điểm đó, có thể hiểu: Công tác tuyên truyền đối với đồng bào dân
tộc thiểu số của Đảng bộ tỉnh Yên Bái là một nhiệm vụ công tác tư tưởng của
Đảng bộ, bao gồm hệ thống các hoạt động tuyên truyền, cổ động, tổ chức để
truyền bá đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đến đồng bào
dân tộc thiểu số nhằm hướng dẫn, động viên đồng bào hăng hái thực hiện đường
lối, chủ trương, chính sách đó, tích cực góp phần xây dựng, bảo vệ quê hương, đất
nước và củng cố niềm tin, mối quan hệ gắn bó giữa đồng bào dân tộc thiểu số với
Đảng, Nhà nước.
1.2.2. Nội dung chủ yếu của công tác tuyên truyền đối với đồng bào dân
tộc thiểu số tỉnh Yên Bái
Nội dung chủ yếu của công tác tuyên truyền đối với đồng bào dân tộc thiểu
số tỉnh Yên Bái đó là: Tuyên truyền chính trị, tuyên truyền kinh tế, tuyên truyền
văn hóa, tuyên truyền quốc phòng, an ninh.
- Tuyên truyền chính trị, đây là nội dung chủ yếu của công tác tuyên truyền.
Tuyên truyền chính trị tập trung vào việc phổ biến, truyền bá hệ tư tưởng của Đảng.
- Tuyên truyền văn hóa: nhằm xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc, làm nền tảng tinh thần của xã hội, gắn chặt với nhiệm vụ
phát triển kinh tế và xây dựng Đảng
- Tuyên truyền quốc phòng, an ninh: là trực tiếp tham gia thực hiện nhiệm
vụ xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân.
- Nội dung công tác tuyên truyền đối với đồng bào dân tộc thiểu số của
Đảng bộ tỉnh Yên Bái là nội dung các hoạt động mà Đảng bộ tỉnh Yên Bái xác
định nhằm thực hiện mục đích đặt ra. Nội dung công tác tuyên truyền chính sách
dân tộc do mục đích công tác tuyên truyền và nhiệm vụ cụ thể của mỗi giai đoạn
cách mạng quy định, gồm:
11
Một là, công tác tuyên truyền giáo dục về đường lối, chủ trương, chính sách
dân tộc của Đảng và Nhà nước trên địa bàn tỉnh.
Hai là, tuyên truyền về các chính sách nhằm thực hiện đại đoàn kết dân tộc
và phát huy truyền thống đó trong đồng bào các dân tộc thiểu số.
Ba là, tuyên truyền giáo dục truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân tộc,
truyền thống cách mạng của đồng bào các dân tộc thiểu số.
Bốn là, tuyên truyền trong đồng bào dân tộc thiểu số những điển hình tiên
tiến trong việc thực hiện chính sách dân tộc
Năm là, tuyên truyền chính sách dân tộc và thông qua cách làm ăn mới,
hướng dẫn chuyển giao những tiến bộ của khoa học và công nghệ vào sản xuất,
tích cực xóa đói, giảm nghèo, vươn lên làm giàu chính đáng
Sáu là, tuyên truyền, vận động đồng bào dân tộc thiểu số tích cực tham gia
xây dựng đời sống văn hóa, phát triển giáo dục, y tế, phòng chống các tệ nạn xã
hội, bài trừ các hủ tục lạc hậu
Bảy là, tuyên truyền, vận động đồng bào dân tộc thiểu số nâng cao cảnh
giác, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội
1.2.3. Hình thức công tác tuyên truyền đối với đồng bào dân tộc thiểu số
tỉnh Yên Bái
* Tuyên truyền miệng: Là phương thức tuyên truyền được tiến hành chủ yếu
bằng lời nói trong giao tiếp trực tiếp nhằm mục đích nâng cao nhận thức, củng cố
niềm tin và cổ vũ tính tích cực hành động của người nghe.
* Tuyên truyền bằng các hình thức thức tổ chức mít tinh, cổ động: Là hoạt
động chủ yếu thông qua những phương thức, công cụ riêng chủ yếu là các biện
pháp trực quan tác động trực tiếp vào nhận thức, tư tưởng, tình cảm của quần
chúng nhân dân, lôi cuốn họ vào những hoạt động theo mục tiêu đã định. Nó bao
gồm các hình thức: Qua hệ thống loa, phát thanh, truyền thanh; Pa nô, áp phích,
các khẩu hiệu; các phương tiện thông tin đại chúng; tuần hành, mít tinh…
* Tuyên truyền bằng các hoạt động văn hóa, văn nghệ: Là phương thức
tuyên truyền được tiến hành thống qua các hoạt động văn hóa, văn nghệ để tác
12
động trực tiếp vào nhận thức, tư tưởng, tình cảm của quần chúng Nhân dân, lôi
cuốn họ vào những hoạt động theo mục tiêu đã định.
* Tổ chức các phong trào thi đua yêu nước: Là phương thức tuyên truyền
được tiến hành thống qua các việc phát động thực hiện các phong trào thi đua yêu
nước để tác động trực tiếp vào nhận thức, tư tưởng, tình cảm của quần chúng Nhân
dân, khuyến khích họ thực hiện những hoạt động theo mục tiêu đã định.
- Phương pháp: Công tác tuyên truyền của Đảng có nhiều phương pháp,
trong đó có thể chia làm 3 phương pháp chính sau:
* Phương pháp thuyết phục: Là phương pháp dùng lý lẽ, các luận cứ, luận
chứng để hình thành ở mỗi cán bộ, đảng viên và Nhân dân một lập trường mới, có
thể thay đổi quan điểm hoặc hành vi của họ về một vấn đề nào đó.
* Phương pháp nêu gương: Là phương pháp sử dụng những sự việc, hiện
tượng điển hình trong đời sống thực tế ở ngay địa phương, cơ sở ở địa bàn cụ thể, đưa
ra các kiểu hành vi, lối sống tác động đến cán bộ, đảng viên và Nhân dân, giúp họ
hình thành những hành vi, lối sống phù hợp theo gương điển hình.
* Phương pháp ám thị: Được sử dụng trong các hình thức tuyên truyền, cổ
động có sử dụng các hình vẽ, tranh ảnh, panô, áp phích... ngầm chỉ bảo cho biết.
- Lực lượng tuyên truyền của Đảng bộ tỉnh Yên Bái đối với đồng bào dân
tộc thiểu số:
Một là, các đảng bộ cơ sở, các chi bộ đảng trực tiếp tuyên tuyên truyền, vận
động quần chúng vùng dân tộc thiểu số hoặc thông qua đội ngũ đảng viên.
Hai là, mặt trận và các đoàn thể nhân dân làm công tác tuyên truyền vận
động đồng bào dân tộc thiểu số dưới sự lãnh đạo cuả cấp uỷ.
Ba là, tổ chức Nhà nước, cơ quan chính quyền có trách nhiệm làm công tác
tuyên truyền, vận động đồng bào dân tộc. Cán bộ, công chức Nhà nước phải tôn
trọng dân, gần dân, hiểu dân, phải biết tuyên truyền, vận động đồng bào các dân
tộc ủng hộ chính quyền, hợp sức với chính quyền để thực hiện các nhiệm vụ đề ra.
Nhà nước quản lý bằng pháp luật và bằng vận động quần chúng.
13
Bốn là, các lực lượng vũ trang (Quân đội, Công an...) chủ động và phối hợp
với các tổ chức chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân làm công
tác tuyên truyền, vận động đồng bào dân tộc thiểu số.
Năm là, các cơ quan thông tin đại chúng (Báo chí, Đài phát thanh - truyền
hình...), các cơ quan văn hoá, văn nghệ có trách nhiệm thường xuyên phổ biến,
tuyên truyền các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước.
2.2. CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN ĐỐI VỚI ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ
CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH YÊN BÁI GIAI ĐOẠN 2010 - 2015
2.2.1. Thực trạng
Thực hiện chủ trương của Đảng bộ Yên Bái, trong những năm qua công tác
tuyên truyền đối với đồng bào dân tộc thiểu số của tỉnh đã đạt được một số kết quả
nhất định.
2.2.1.1. Ưu điểm
* Nội dung tuyên truyền đối với đồng bào dân tộc thiểu số của Đảng bộ tỉnh
Yên Bái đã bước đầu có sự đổi mới phù hợp với đối tượng tuyên truyền và tình
hình thực tiễn của địa phương. Đa dạng hóa hình thức, phương pháp, phương tiện
tuyên truyền đối với đồng bào dân tộc thiểu số từng bước đáp ứng yêu cầu nhiệm
vụ chính trị của địa phương.
Công tác tuyên truyền đối với đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh Yên Bái được
thực hiện đa dạng, phong phú, phù hợp với từng đối tượng, hoàn cảnh. Phát huy
vai trò của cấp ủy, đội ngũ cán bộ, đảng viên, các cơ quan thông tin đại chúng, Mặt
trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị xã hội, các ban, ngành trong tỉnh, hệ thống
các trường học; thông qua hoạt động của các tổ chức đảng (sinh hoạt đảng), chế độ
hội họp của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội, của các cơ quan
hành chính Nhà nước tại địa phương; thông qua mối quan hệ giữa cán bộ, đảng
viên và đồng bào dân tộc thiểu số và nhất là thông qua hoạt động của đội ngũ báo
cáo viên các cấp, tuyên truyền viên cơ sở, người có uy tín trọng cộng đồng dân tộc
thiểu số để tuyên truyền, giáo dục đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước.
14
Phương thức tuyên truyền của Đảng bộ tỉnh Yên Bái đối với đồng bào dân
tộc thiểu số từng bước được cải tiến, ứng dụng khoa học công nghệ, lồng ghép các
loại hình nghệ thuật, nhất là những loại hình nghệ thuật gắn với phong tục, tập
quán, văn hóa của đồng bào dân tộc thiểu số để minh họa. Lựa chọn thời điểm
thích hợp để thu hút đông đảo đối tượng nghe.
Công tác lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp uỷ, chính quyền và sự tham gia của
các cơ quan, ban, ngành, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể đối với công tác dân tộc và
vận động đồng bào dân tộc được tăng cường. Cùng với việc xây dựng chương trình
hành động, Tỉnh uỷ đã cụ thể hóa các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước
ở Trung ương thành các Nghị quyết chuyên đề về phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh
đối với vùng dân tộc miền núi; khảo sát nghiên cứu giải pháp xóa đói giảm nghèo
cho các xóm bản vùng cao, tăng cường tổ chức bộ máy và bồi dưỡng, nâng cao trình
độ lý luận chính trị, nghiệp vụ chuyên môn cho đội ngũ cán bộ làm công tác dân tộc
từ tỉnh tới cơ sở.
Trong những năm qua, hoạt động của cơ quan quản lý nhà nước về công tác
dân tộc của tỉnh đã tích cực đẩy mạnh. Công tác tuyên truyền, vận động đồng bào
vùng dân tộc và miền núi trong việc thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước được thực hiện tốt.
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân tỉnh tích cực tuyên truyền chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhất là những vấn đề g bước
xóa bỏ các tập quán lạc hậu như mê tín dị đoan, tổ chức đám cưới, đám ma dài
ngày gây tốn kém không cần thiết... Mặt trận Tổ quốc các cấp trong tỉnh đã chủ
động phối hợp với các tổ chức thành viên, các ngành chức năng lựa chọn hình thức
tuyên truyền phù hợp với đặc điểm từng dân tộc, từng địa phương như: tuyên
truyền thông qua các buổi nói chuyện chuyên đề, sinh hoạt văn hóa, tọa đàm, cuộc
họp khu dân cư... Đồng thời phối hợp với Báo, Đài Phát thanh - Truyền hình mở
các chuyên trang, chuyên mục về chính sách dân tộc và tình hình thực hiện chính
sách dân tộc.
15
Coi trọng về hình thức tuyên truyền vận động trong vùng đồng bào dân tộc
thiểu số. Để các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước thực sự
đến được với đồng bào dân tộc thiểu số thì các hình thức tuyên truyền, vận động
phải ngày càng đa dạng hơn, cụ thể: Các hoạt động văn hóa thông tin, thể thao
được triển khai sâu rộng và có nhiều khởi sắc; hoạt động báo chí, văn học nghệ
thuật, phát thanh, truyền hình có nhiều tiến bộ, chuyển tải kịp thời những thông tin
về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội tới đồng bào dân tộc.
Trong những năm qua, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy đã biên tập, xuất bản cuốn
Thông tin nội bộ gửi đến các chi bộ thôn, bản, tổ dân phố, người uy tín trong cộng
đồng dân tộc thiểu số đảm bảo 1 cuốn/tháng. Báo Yên Bái mỗi năm đã xuất bản
72.000 ấn phẩm Báo Yên Bái vùng cao dịch tiếng Việt sang tiếng Mông để phục vụ
đồng bào dân tộc thiểu số. Đài Truyền hình tỉnh hằng năm phát 1.095 chương trình
phát thanh và 144 chương trình truyền hình bằng 3 thứ tiếng Mông ,Thái , Dao
phục vụ đồng bào dân tộc thiểu số.Các loại báo, tạp chí đã được cấp đầy đủ, đúng
đối tượng và kịp thời. Các địa phương, đặc biệt vùng dân tộc thiểu số đã hình thành
các đội thông tin lưu động, thông qua hoạt động văn hóa, văn nghệ để tuyên truyền
chính sách dân tộc đến với đồng bào dân tộc thiểu số. Đồng thời thông qua hình thức
bằng các cuộc thi tìm hiểu các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước ngày
càng được mở rộng hơn. Đặc biệt đối với vùng sâu, vùng xa hình thức tuyên truyền
miệng có vai trò vô cùng quan trọng trong việc định hướng thông tin kịp thời, đúng
đắn cho đồng bào dân tộc thiểu số hiểu.
Đánh giá về chất lượng phương thức tuyên truyền của Đảng bộ tỉnh, Báo cáo
kết quả tuyên truyền của Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy giai đoạn 2010 - 2015 khẳng
định: Nhiều đảng bộ cơ sở và trên cơ sở đã năng động, sáng tạo trong việc quán
triệt, triển khai các nghị quyết, chỉ thị của Đảng và đưa nghị quyết của Đảng vào
cuộc sống, đã tổ chức được trên 5.000 cuộc tuyên truyền với các hình thức khác
nhau thu hút trên 20.000 lượt người tham dự. Qua đó, chất lượng công tác tuyên
truyền từng bước được nâng lên, đại đa số cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên
16
và quần chúng Nhân dân đã nắm chắc các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước [16].
* Lực lượng làm công tác tuyên truyền đối với đồng bào dân tộc thiểu số ở
Đảng bộ tỉnh Yên Bái cơ bản đã đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị
Trong những năm qua các Đảng bộ cơ sở và các chi bộ đảng trong tỉnh trực
tiếp tuyên truyền, vận động đồng bào dân tộc thiểu số, thông qua đội ngũ đảng
viên, báo cáo viên, tuyên truyền viên bằng năng lực tuyên truyền, giải thích, thuyết
phục của mình đối với từng đối tượng quần chúng trong vùng dân tộc thiểu số.
Phát huy vai trò của cấp ủy và đảng viên trực tiếp làm công tác tuyên truyền, vận
động, tập trung xây dựng đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên vừa có phẩm
chất, vừa có năng lực làm lực lượng nòng cốt trong công tác tuyên truyền miệng.
Mặt trận Tổ quốc tỉnh và các đoàn thể nhân dân trong tỉnh làm công tác tuyên
truyền vận động đồng bào đồng bào dân tộc thiểu số dưới sự lãnh đạo cấp ủy. Đối
tượng vận động của các đoàn thể là các đoàn viên, hội viên.
Các tổ chức Nhà nước trong tỉnh, các cơ quan chính quyền có trách nhiệm
làm công tác tuyên truyền, vận động đồng bào dân tộc thiểu số. Cán bộ công chức
Nhà nước phải tôn trọng dân, gần dân, hiểu dân, phải biết tuyên truyền, vận động
đồng bào dân tộc thiểu số
Các lực lượng vũ trang trong tỉnh như quân đội, công an, bộ đội chủ động
phối hợp với các tổ chức chính quyền, mặt trận, các đoàn thể nhân dân làm công
tác tuyên truyền, vận động đồng bào dân tộc thiểu số.
Các cơ quan thông tin đại chúng trong tỉnh: Đài Phát thanh - Truyền hình
tỉnh, Báo Yên Bái, Sở Thông tin và Truyền thông... có trách nhiệm thường xuyên
phổ biến, tuyên truyền các chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà
nước. Chú trọng đổi mới và nâng cao chất lượng hiệu quả công tác tuyên truyền,
vận động trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Cấp ủy và chính quyền các cấp của tỉnh có nhiệm vụ làm công tác tuyên
truyền, vận động, chú ý sử dụng tốt các lực lượng như: giáo viên, cán bộ y tế, cán
bộ văn hóa, các chiến sĩ lực lượng vũ trang nhân dân, các già làng, trưởng bản
17
những người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số tham gia làm công tác tuyên
truyền, vận động.
Qua thực tế điều tra cho thấy Đảng bộ tỉnh luôn xem công tác cán bộ, xây
dựng đội ngũ cán bộ toàn diện và đồng bộ các cấp là “công việc gốc” của Đảng, là
khâu “then chốt” của nhiệm vụ then chốt, “quyết định sự thành bại của cách mạng,
gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ”. Vì vậy, Đảng bộ tỉnh
Yên Bái đã xây dựng đội ngũ cán bộ và đội ngũ báo cáo viên các cấp và tuyên
truyền viên cơ sở có đạo đức, phẩm chất trong sáng, có bản lĩnh chính trị vững
vàng, có trình độ, năng lực hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ qua các thời kỳ.
Theo Báo cáo của Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy: trong những năm qua, cấp ủy
các cấp của Đảng bộ tỉnh Yên Bái đã ban hành các văn bản để củng cố, kiện toàn
đội ngũ báo cáo viên theo hướng tinh gọn, chú trọng năng lực, chuyên môn, nghiệp
vụ, có tinh thần trách nhiệm trong công tác, có ý thức kỷ luật trong nói và viết,
từng bước đáp ứng yêu cầu công việc được giao, thực sự trở thành lực lượng nòng
cốt trong công tác tuyên truyền miệng của Đảng bộ tỉnh. Hệ thống tổ chức và
phương thức hoạt động của đội ngũ báo cáo viên có nhiều đổi mới. Đội ngũ báo
cáo viên của Tỉnh ủy được thành lập và duy trì hoạt động đều đặn. Các huyện, thị,
thành ủy trực thuộc đã kiện toàn đội ngũ và ban hành quy chế hoạt động của đội
ngũ báo cáo viên. Đội ngũ báo cáo viên cơ sở bước đầu hoạt động có hiệu quả, trở
thành lực lượng chủ yếu trong công tác tuyên truyền tại các chi, đảng bộ, các đoàn
thể chính trị - xã hội ở cơ sở, nhất là ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Hiện nay, đội ngũ báo cáo viên của tỉnh Yên Bái được xây dựng thành hệ
thống 3 cấp từ tỉnh đến cơ sở. Tính đến năm 2015, số lượng báo cáo viên của tỉnh
là 1.685 người (trong đó báo cáo viên cấp tỉnh là 46 người, báo cáo viên cấp huyện
là 312 người và báo cáo viên cơ sở là 1.303 người). Chất lượng như sau:
- Đội ngũ báo cáo viên Tỉnh ủy: Trình độ chuyên môn: Đại học và sau đại
học chiếm 97,83%, trình độ cao đẳng chiếm 2,17%. Trình độ lý luận chính trị: cao
cấp, cử nhân chiếm 93,47%, trung cấp chiếm 6,53%. Về thành phần dân tộc: Dân
tộc Kinh chiếm 80,43%, dân tộc Tày chiếm 13,04%, dân tộc Thái chiếm 4,34%,
dân tộc H’Mông chiếm 2,17% [13].
18
- Đội ngũ báo cáo viên cấp ủy huyện: Trình độ chuyên môn: Cao đẳng, đại
học và sau đại học chiếm 84,93%, trung cấp chiếm 12,82%, sơ cấp chiếm 2,25%.
Trình độ lý luận chính trị: cao cấp, cử nhân chiếm 58,98%, trung cấp chiếm 39,1%,
sơ cấp chiếm 1,92%. Về thành phần dân tộc: Dân tộc Kinh chiếm 42%, dân tộc
Tày chiếm 31,5%, dân tộc Dao chiếm 10%, dân tộc Nùng chiếm 2%, dân tộc Thái
chiếm 7% H’Mông chiếm 8,5% [13].
- Đội ngũ báo cáo viên cấp ủy cơ sở: Trình độ chuyên môn: Cao đẳng, đại
học và sau đại học chiếm 49,3%, trung cấp chiếm 42,3%, sơ cấp chiếm 8,44%.
Trình độ lý luận chính trị: cao cấp, cử nhân chiếm 20,8%, trung cấp chiếm 58,2%,
sơ cấp chiếm 21%. Về thành phần dân tộc: Dân tộc Kinh chiếm 25%, dân tộc Tày
chiếm 48%, dân tộc Dao chiếm 10%, dân tộc Nùng chiếm 5%, dân tộc Thái chiếm
5,6% H’Mông chiếm 6,4% [13].
Qua tổng hợp kết quả hoạt động của đội ngũ báo cáo viên các cấp, trung
bình hàng năm, đội ngũ báo cáo viên từ tỉnh đến cơ sở đã tổ chức được 6.814 buổi
tuyên truyền cho trên 390.931 lượt người nghe (trong đó, 4.246 buổi tuyên truyền
trong Đảng, 2.568 buổi tuyên truyền trong Nhân dân và lực lượng vũ trang). Trong
đó, báo cáo viên cấp tỉnh đã tổ chức 270 buổi tuyên truyền cho trên 23.008 lượt
người nghe; báo cáo viên cấp ủy huyện đã tổ chức 1.404 buổi tuyên truyền cho
82.758 lượt người nghe và báo cáo viên cơ sở đã tổ chức 5.140 buổi tuyên truyền
cho 285.147 lượt người nghe [13].
2.1.1.2. Hạn chế
* Nội dung công tác tuyên đối với đồng bào dân tộc thiểu số của Đảng bộ
tỉnh Yên Bái tuy đã có sự đổi mới, nhưng còn có những hạn chế nhất định, chưa
đáp ứng tốt nhất thực tiễn cuộc sống
Nội dung tuyên truyền chưa thực sự đổi mới nhằm đạt hiệu quả cao và còn
xa rời thực tiễn. Các nội dung tuyên truyền còn dài và còn chồng chéo, nên việc
nắm bắt các nội dung đối với đồng bào chỉ mang tính chung chung, hình thức,
chưa cụ thể từng nội dung. Nhận thức và sự lãnh đạo của một số cấp ủy Đảng,
chính quyền địa phương đối với công tác tuyên truyền đối với đồng bào dân tộc
thiểu số chưa quan tâm đúng mức. Một số Đảng bộ chưa làm tốt việc quản lý, công
19
tác tuyên truyền nên chất lượng tuyên truyền giáo dục không cao, việc kiểm tra,
biểu dương những cán bộ đảng viên gương mẫu chưa thường xuyên; đồng thời
việc xử lý kỷ luật cán bộ, đảng viên vi phạm theo quy định của Đảng và Nhà nước
còn chưa quyết liệt. Tư duy, nhận thức của một số cấp ủy Đảng, cán bộ đảng viên
của một số địa phương, đoàn thể, chưa đánh giá đúng vị trí, vai trò của công tác
tuyên truyền và đội ngũ làm công tác tuyên truyền ở vùng đồng bào dân tộc thiểu
số, chưa biết tranh thủ phát huy vai trò của người có uy tín trong cộng đồng dân tộc
thiểu số, của già làng, trưởng thôn, bản. Việc giáo dục truyền thống yêu nước, lòng
tự hào dân tộc, truyền thống cách mạng của đồng bào dân tộc đặc biệt đối với thế
hệ trẻ còn hạn chế.
* Chưa đổi mới trong việc xác định hình thức và lực lượng làm công tác
tuyên truyền
Hình thức tuyên truyền còn nghèo nàn, chưa phù hợp với đối tượng tuyên
truyền. Các hình thức mà đồng bào dân tộc thiểu số tiếp nhận có sự chênh lệch
giữa các hình thức.
Mặt khác, Đảng bộ tỉnh Yên Bái chưa xây dựng được đội ngũ làm công tác
tuyên truyền đủ mạnh đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nhất là ở vùng đồng bào đồng bào dân tộc thiểu
số. Lực lượng tuyên truyền trước hết là đội ngũ cán bộ làm công tác dân tộc và đội
ngũ cán bộ tuyên truyền cả chuyên và không chuyên, đó là các cán bộ giảng dạy lý
luận các trường, các cấp, các ngành, đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên… có vị
trí quan trọng trong tuyên truyền chính sách dân tộc, nhưng trên thực tế đội ngũ cán
bộ này chưa được xây dựng một cách bài bản do đó trong công tác tuyên truyền còn
hết sức khó khăn, nhất là chất lượng đội ngũ báo cáo viên các cấp và tuyên truyền
viên cơ sở (lực lượng nòng cốt).
* Chưa thực sự đổi mới về phương pháp, kỹ năng tuyên truyền đối với đồng
bào dân tộc thiểu số
Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện Đề án 05-ĐA/TU của Đảng bộ tỉnh Yên
Bái về công tác tuyên truyền chỉ rõ: Chưa kết hợp chặt chẽ hoạt động tuyên truyền
20
miệng của Đảng với các loại hình tuyên truyền khác. Chưa có sự phối hợp giữa đội
ngũ báo cáo viên của cấp ủy với đội ngũ những người làm công tác tuyên truyền của
các ban, ngành, đoàn thể, nhất là đội ngũ bí thư chi bộ, tổ trưởng tổ dân phố, trưởng
thôn, bản để đảm bảo việc đưa thông tin nhanh đến mọi đối tượng, nhất là đồng bào
dân tộc thiểu số [13].
Khái quát lại công tác tuyên truyền đối với đồng bào dân tộc thiểu số của
Đảng bộ tỉnh Yên Bái còn những tồn tại và hạn chế nhất định làm cản trở sự thành
công của công tác tuyên truyền.
3. PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN ĐỐI VỚI ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ
CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH YÊN BÁI TỪ NAY ĐẾN NĂM 2025
Tr ên cương vị là cán bộ nguồn của tỉnh Yên Bái, học viên đề xuất phương
hướng và giải pháp nh ư sau
3.1. Phương hướng công tác tuyên truyền đối với đồng bào dân tộc thiểu
số của Đảng bộ tỉnh Yên Bái
Phương hướng cụ thể của trong công tác tuyên truyền đối với đồng bào dân
tộc thiểu số của Đảng bộ tỉnh Yên Bái là:
- Các cấp uỷ đảng phải không ngừng tăng cường sự lãnh đạo đối với công
tác tuyên truyền; xác định tầm quan trọng của công tác tuyên truyền đối với đồng
bào dân tộc thiểu số trong tình hình mới.
- Các cấp ủy đảng, chính quyền, các đoàn thể chính trị xã hội từ tỉnh đến các
thôn, bản, tổ dân phố là nhiệm vụ của toàn Đảng và cả hệ thống chính trị, là trách
nhiệm của mỗi đảng viên. Phải nêu cao tinh thần trách nhiệm của các cấp ủy đảng,
đặc biệt là người đứng đầu.
- Công tác tuyên truyền đối với đồng bào dân tộc thiểu số phải căn cứ vào
đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhiệm vụ
chính trị của đơn vị, địa phương mà nghị quyết đại hội đảng bộ cấp mình và cấp
trên đã đề ra trong nhiệm kỳ mới.
- Công tác tuyên truyền đối với đồng bào dân tộc thiểu số phải hướng tới
việc cổ vũ phong trào thi đua yêu nước tại tùng địa phương, động viên toàn Đảng,
21
toàn dân, toàn quân trên địa bàn thành phố phấn đấu hoàn thành các chỉ tiêu, nhiệm
vụ chính trị của các ngành, các cấp.
- Tăng cường các hoạt động thông tin để cán bộ, đảng viên và Nhân dân,
nhất là đồng bào dân tộc thiểu số nâng cao ý thức trách nhiệm, góp phàn đảm bảo
giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo điều kiện để phát triển kinh tế
- xã hội. Cần đẩy mạnh hơn nữa các nội dung tuyên truyền về giáo dục chủ nghĩa
yêu nước, giáo dục đạo đức cách mạng, xây dựng nền văn hóa mới, con người mới
xã hội chủ nghĩa.
- Không ngừng tiếp tục xây dựng, củng cố đội ngũ báo cáo viên các cấp và
tuyên truyền viên cơ sở đảm bảo tính kế thừa và phát triển, nâng cao chất lượng
hoạt động của lực lượng báo cáo viên, tuyên truyền viên, chăm lo đào tạo, bồi
dưỡng và cập nhật tri thức khoa học, các thành tựu lý luận cho đội ngũ báo cáo
viên, tuyên truyền viên.
3.2. NHỮNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC TUYÊN
TRUYỀN ĐỐI VỚI ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH YÊN BÁI
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
3.2.1. Nâng cao nhận thức trách nhiệm của Đảng bộ trong công tác tuyên
truyền cho đồng bào dân tộc thiểu số
Công tác tuyên truyền đối với đồng bào dân tộc thiểu số nhất thiết phải sự
quan tâm đầu tư đúng mức từ nhận thức đúng đắn, đầy đủ của các Đảng bộ tỉnh và
của cả hệ thống chính trị, trước hết là trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân, nhất là
bí thư cấp ủy, người chính quyền các cấp.
Phải tăng cường sự lãnh đạo và tích cực đổi mới công tác chỉ đạo, tổ chức
thực hiện của các cấp ủy đảng đối với công tác tuyên truyền. Hằng tháng, hằng quý
các cấp ủy đảng cần có chủ trương, biện pháp cụ thể lãnh đạo, chỉ đạo công tác
này, nhằm đảm bảo mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước cũng như các nghị quyết, chỉ thị của cấp ủy cấp mình đến được với mọi
cán bộ, đảng viên và được tuyên truyền sâu rộng đến các tầng lớp Nhân dân một
cách kịp thời và đầy đủ nhất. Chủ động phổ biến, quán triệt đường lối, chính sách
lớn của Đảng và Nhà nước cũng như định hướng tuyên truyền những sự kiện chính
22
trị quan trọng trong nước và quốc tế cho đội ngũ báo cáo viên; xây dựng, ban hành
các quy chế và cụ thể hóa các chế độ, chính sách; nhất là việc cung cấp thông tin,
tư liệu, tài liệu, chế độ đãi ngộ, tạo điều kiện cho công tác tuyên truyền hoạt động
ngày càng có hiệu quả.
Chủ động bố trí, sắp xếp và kiện toàn đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền
viên của cấp mình đảm bảo cơ cấu, số lượng hợp lý và đào tạo, bồi dưỡng, nâng
cao chất lượng báo cáo viên đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.
Các cấp ủy, bí thư, người đứng đầu chính quyền, các cơ quan, đơn vị phải có
chương trình, kế hoạch lãnh đạo, chỉ đạo công tác tuyên truyền; đối với cấp ủy cơ
sở phải phân công cán bộ phụ trách công tác tuyên truyền. Trong tuyên truyền,
quán triệt nghị quyết đại hội Đảng các cấp, đồng chí bí thư cấp ủy trực tiếp truyền
đạt, dành thời gian để cán bộ, đảng viên được nghiên cứu, trao đổi, hiểu rõ, nắm
chắc tinh thần Nghị quyết; đồng thời gợi mở những nội dung cần thảo luận,
dành thời gian thỏa đáng cho cán bộ, đảng viên được trao đổi, tham gia ý kiến
đóng góp vào dự thảo chương trình hành động của cấp ủy cấp mình… .
Hàng năm và sau mỗi nhiệm kỳ đại hội, phải tiến hành sơ kết, tổng kết, đánh
giá kết quả và vai trò của công tác tuyên truyền, hoạt động của lực lượng tuyên
truyền, có chế độ khen thưởng kịp thời và kiên quyết đưa ra khỏi danh sách những
báo cáo viên, tuyên truyền viên không hoàn thành nhiệm vụ.
Bố trí nguồn kinh phí hợp lý để nâng cao chất lượng các phương tiện, trang
thiết bị phục vụ cho công tác tuyên truyền, nhất là tuyên truyền đối với đồng bào
dân tộc thiểu số; nâng cao chất lượng sóng phát thanh, tăng mức hưởng thụ văn
hóa cho đồng bào vùng cao, nâng cao chất lượng, hiệu quả tuyên truyền của Báo
Yên Bái, Báo Yên Bái vùng cao, Văn nghệ Yên Bái, cuốn Thông tin nội bộ, Tài
liệu báo cáo viên và Tài liệu công tác tuyên giáo, báo cáo viên cơ sở.
Ban tuyên giáo các huyện, thị, thành ủy và Tỉnh ủy phải phát huy vai trò là
nòng cốt, là cơ quan chủ lực về công tác chính trị, tư tưởng để tham mưu tích cực,
hiệu quả với cấp uỷ đảng về hoạt động tuyên truyền tại các địa phương; giúp các
cấp uỷ kiểm tra, giám sát các hoạt động tuyên truyền miệng; trực tiếp chỉ đạo hoạt
động tuyên truyền của địa phương. Đồng thời nắm bắt và phản ánh kịp thời tình
23
hình tư tưởng của cán bộ, đảng viên và nhân dân, báo cáo kịp thời về hiệu quả,
chất lượng của công tác tuyên truyền tại địa phương, đơn vị; tham mưu cấp uỷ
đảng cấp mình lãnh đạo, chỉ đạo, định hướng các hoạt động tuyên truyền, cổ động.
Tham mưu xây dựng và ban hành quy chế hoạt động của đội ngũ báo cáo viên
cùng cấp; phát thẻ cho đội ngũ báo cáo viên; tổ chức các cuộc thi báo cáo viên,
tuyên truyền viên giỏi.
3.2.2. Đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp tuyên truyền cho phù
hợp với đặc điểm của đồng bào dân tộc thiểu số
Việc đổi mới nội dung, phương pháp tuyên truyền đối với đồng bào dân tộc
thiểu số phải căn cứ vào thực tiễn sinh động của từng địa phương, đơn vị là một
yêu cầu hết sức cần thiết trong giai đoạn hiện nay.
- Về nội dung tuyên truyền miệng, các cấp uỷ đảng cần lưu ý:
+ Phải kịp thời định hướng trọng tâm, trọng điểm theo yêu cầu định hướng
tư tưởng cần tập trung vào những nội dung nào, lĩnh vực nào để cả hệ thống chính
trị thực hiện trong một thời điểm nhất định.
+ Việc xác định trọng tâm, trọng điểm tuyên truyền cần được thực hiện từng
tháng nhằm giúp cho đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên theo yêu cầu thứ tự ưu
tiên, mức độ về tầm quan trọng của nội dung cần tuyên truyền định hướng tư tưởng,
tạo sự thống nhất trong nhận thức và hành động của xã hội hướng đến một mục đích
cụ thể rõ ràng mà yêu cầu nhiệm vụ chính trị đặt ra.
+ Nội dung tuyên truyền phải bao hàm một cơ cấu thông tin hợp lý, thể hiện
qua sự cân đối, phù hợp giữa thông tin chính trị, thông tin kinh tế với thông tin văn
hóa, khoa học -kỹ thuật; giữa thông tin về các vấn đề trong nước với quốc tế; giữa
vấn đề toàn quốc với nhiệm vụ chính trị của từng địa phương, cơ sở. Coi trọng việc
thông tin về những văn kiện, những chủ trương, chính sách lớn, mới của Đảng và
Nhà nước; những sự kiện chính trị trong nước, quốc tế; những vấn đề xã hội và đối
tượng nghe quan tâm. Luôn luôn bao gồm những vấn đề trọng tâm của nhiệm vụ
chính trị đặt ra tại thời điểm đó bên cạnh những nội dung vấn đề mà công tác tuyên
truyền phải thực hiện thường xuyên, liên tục, kiên trì.
24
+ Nội dung tuyên truyền phải đổi mới theo hướng vừa đáp ứng yêu cầu định
hướng nhiệm vụ chính trị của Đảng vừa đáp ứng nhu cầu thông tin của cán bộ,
đảng viên và nhân dân các dân tộc ở thời điểm hoạt động tuyên truyền diễn ra.
+ Nội dung tuyên truyền phải chính xác, phong phú, đa dạng để phục vụ và
đáp úng nhu cầu thông tin cho nhiều loại đối tượng xã hội khác nhau; phải kịp thời
để đảm bảo tính thời sự; phải cân đối về liều lượng đối với đặc điểm của từng đối
tượng tuyên truyền.
+ Quan điểm đổi mới nội dung tuyên truyền đối với đồng bào dân tộc thiểu
số cần được quán triệt rõ theo tinh thần: nếu tuyên truyền thiếu định hướng trọng
tâm trọng điểm hàng tháng sẽ làm cho công tác tuyên truyền không phát huy hết
tác dụng của nó làm phân tán lực lượng và sức tập trung dẫn đến hiệu quả thực
hiện nhiệm vụ chính trị thiếu sự đồng bộ, làm hạn chế kết quả thực hiện nhiệm vụ
chính trị cụ thể của địa phương yêu cầu tại thời điểm đó đặt ra.
+ Cần phải tăng cường các hoạt động tuyên truyền trên các lĩnh vực như:
thành tựu kinh tế - xã hội của địa phương; giới thiệu các gương điển hình tiên tiến
của địa phương, đơn vị; giáo dục chủ nghĩa yêu nước và đạo đức cách mạng cho
các tầng lớp nhân dân; các sự kiện chính trị - xã hội mà quần chúng quan tâm; xây
dựng nền văn hóa mới, con người mới XHCN; phản bác chống lại các luận điệu sai
trái của các thế lực thù địch đang chống phá ta trên lĩnh vực tư tưởng.
+ Để làm phong phú và tăng sức thuyết phục của nội dung tuyên truyền, Ban
tuyên giáo các cấp ủy đảng cần tăng cường điều tra, khảo sát xã hội, nghiên cứu dư
luận xã hội một cách nghiêm túc, trung thực để bổ sung vào nội dung tuyên truyền.
Biểu dương, cổ vũ động viên những nhân tố mới và những tập thể, cá nhân điển
hình, tiên tiến của phong trào yêu nước.
- Về phương thức tuyên truyền, nói chung là cách thức tiến hành hoạt động
tuyên truyền cần lưu ý các giải pháp:
+ Phải dựa trên cơ sở lý luận về mối quan hệ biện chứng giữa nội dung và
hình thức, trong đó nội dung quyết định hình thức.
25
+ Phải luôn luôn đổi mới cho phù hợp với nội dung tuyên truyền và đáp ứng
yêu cầu nhiệm vụ chính trị đặt ra mà hoạt động tuyên truyền miệng phải đảm bảo
để tạo nhận thức, hành động đúng đắn của người được tuyên truyền.
+ Phải linh hoạt tuỳ theo hoàn cảnh thực tế và phù hợp với đối tượng tuyên
truyền, khách thể tuyên truyền mà chủ thể tuyên truyền phải hết sức quan tâm và
chủ động đổi mới.
+ Các cấp uỷ phải tăng cường chỉ đạo đổi mới phương thức tuyên truyền két
hợp với sự chủ động tích cực, tính năng động sáng tạo của mỗi chủ thể thực hiện
công tác tuyên truyền. Lãnh đạo xây dựng đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên,
lực lượng chính trị nòng cốt đồng thời với việc chủ trì phối hợp các “binh chủng”
làm công tác tuyên truyền bên trong và bên ngoài hệ thống chính trị.
+ Mở rộng các hoạt động tuyên truyền theo mô hình 1-1 (một người tuyên
truyền đối với một đối tượng cụ thể nhất định).
+ Cần kết hợp các phương thức tuyên truyền với các loại hình nghệ thuật
khác một cách phù hợp để tăng sức lôi cuốn, hấp dẫn đối với người nghe.
+ Đẩy mạnh thông tin hai chiều theo hướng dân chủ hóa và tăng cường đối
thoại. Thông qua thông tin phản hồi, thông qua việc trao đổi để nắm bắt tình hình
tư tưởng của đối tượng và dư luận xã hội. Trên cơ sở đó, làm căn cứ cho việc lựa
chọn, đổi mới nội dung và phương thức. Trong điều kiện hiện nay, cần tăng cường
phương pháp đối thoại và kết hợp hài hòa đối thoại với độc thoại.
3.2.3. Phát huy sức mạnh tổng hợp của các tổ chức, lực lượng làm công
tác tuyên truyền
Các cấp ủy đảng cần tập trung tuyên truyền, giáo dục các chủ trương của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước cho cán bộ, đảng viên và Nhân dân các
dân tộc tỉnh Yên Bái, qua đó nâng cao năng lực, nhận thức để mỗi cán bộ, đảng
viên thực hiện tốt nhiệm vụ của người cán bộ, đảng viên.
Phát huy vai trò, trách nhiệm của bí thư cấp ủy, người đứng đầu chính
quyền, các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể các cấp, bí thư chi bộ, trưởng thôn bản,
người có uy tín trong cộng đồng dân tộc thiểu số trong công tác tuyên truyền.