Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Phân tích 5 vấn đề tâm lý thường xuất hiện ở nhà tham vấn khi tham vấn cho thân chủ.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (791 KB, 26 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA XÃ HỘI HỌC
------------

THAM VẤN TRONG CÔNG TÁC XÃ HỘI
Đề bài: Phân tích 5 vấn đề tâm lý thường xuất hiện ở nhà tham
vấn khi tham vấn cho thân chủ.

GVHD: PGS.TS Nguyễn Hồi Loan
Sinh viên: Phạm Kim Anh
MSSV: 15030211
Lớp: K60 Công tác xã hội


MỤC LỤC
I.

Khái niệm tham vấn .................................................................... 1

II.

Mục tiêu và các nguyên tắc trong tham vấn ............................... 2

III.

Các vấn đề tâm lý thường xuất hiện ở nhà tham vấn ................. 3
1. Cảm giác không an toàn về thân chủ ..................................... 3
2. Cảm xúc tức giận với thân chủ .............................................. 7
3. Tâm lý mặc cảm tội lỗi với thân chủ ..................................... 12
4. Tâm lý muốn được bảo vệ thân chủ ...................................... 16


5. Xuất hiện cơ chế phòng vệ với thân chủ ............................... 19

IV.

Kết luận ....................................................................................... 22

V.

Danh mục tài liệu tham khảo ...................................................... 24


I.

Khái niệm tham vấn

Tham vấn là một quá trình thiết lập tương quan trợ giúp chuyên nghiệp, sử dụng
những kỹ năng và kiến thức chuyên biệt để hiểu vấn đề của một người theo quan
điểm của họ, làm cho họ có thể thực hiện những hành động cần thiết để giải quyết
vấn đề của mình (Vellerman, 2010).
So sánh giữa tham vấn và công tác xã hội
Tham vấn

Giống

-

Công tác xã hội (CTXH)

Là nghề nghiệp nhằm giúp đỡ thân chủ cải thiện cuộc sống
và tình huống của họ.


-

-

Phạm vi cụ thể hơn:

-

Phạm vi rộng hơn tham vấn

chủ yếu tập trung vào

-

CTXH đưa ra sự can thiệp

các vấn đề tâm lý, tình

ở các lĩnh vực khác nhau

cảm của cá nhân,

nhằm giúp đỡ cá nhân,

nhóm và gia đình

nhóm, gia đình và cộng

Là một phần của


đồng.

CTXH,
Khác

giúp

mọi

- CTXH giúp thân chủ tiếp

người cải thiện chất

cận nguồn lực, biện hộ cho

lượng cuộc sống.

các quyền của thân chủ, góp
phần cải thiện luật pháp,
chính sách liên quan đến các
dịch vụ xã hội, làm việc để
cải thiện tình hình cá nhân,
gia đình và cộng đồng.

1


II.


Mục tiêu và các nguyên tắc trong tham vấn

1. Mục tiêu
Theo Carl Rogers, mục đích cuối cùng của tham vấn là giúp đối tượng phát huy
tiềm năng giải quyết vấn đề, qua đó giúp họ phát triển nhân cách.
Theo tiến sĩ Trần Thị Giồng, tham vấn có những mục tiêu cụ thể sau:
-

Giúp thân chủ giải quyết vấn đề hữu hiệu.

-

Ngăn ngừa để tránh tình trạng bất ổn, để vấn đề đừng xảy ra hoặc đừng thêm
trầm trọng.

-

Giúp củng cố các mối quan hệ, những thói quen tốt và giữ gìn các giá trị hiện
có (mà thời gian đã làm hao mòn).

-

Cải thiện, phục hồi.

-

Thay đổi, khai mở nhận thức, thái độ, hành vi hướng đến phát triển nhân cách.

2. Nguyên tắc đạo đức
Tham vấn viên phải tuân thủ các nguyên tắc đạo đức cơ bản sau:

-

Công bằng: tham vấn viên tôn trọng quyền và nhân phẩm của mọi người,
không thành kiến với một ai vì bất cứ lý do nào, đối xử bình đẳng và khách
quan trong tiếp cận và cung ứng dịch vụ.

-

Quyền tự quyết của thân chủ: tham vấn viên trao quyền quyết định vào tay
thân chủ, không thao túng, điều khiển thân chủ ngược với ý muốn của họ.

-

Quyền có sự riêng tư và bảo mật thông tin của thân chủ: tham vấn viên phải
bảo vệ tính riêng tư và tính bảo mật thông tin của thân chủ (chỉ tiết lộ thông
tin mật khi được sự ưng thuận của thân chủ).

-

Mở lòng: tham vấn viên cam kết gia tăng an sinh, đem lại lợi ích tốt nhất cho
thân chủ.

2


-

Tránh gây hại cho thân chủ: tham vấn viên tránh mọi hình thức lợi dụng thân
chủ. Không cung cấp các dịch vụ mà bản thân không có khả năng, phản đối sự
kém cỏi hay sai lạc trong thực hành của người khác.


-

Tự trọng: tham vấn viên nghiêm túc áp dụng tất cả các nguyên tắc trên, tự bồi
dưỡng kiến thức và tự chăm sóc bản thân, để tránh tác động tiêu cực trên thân
chủ, chịu sự giám sát/kiểm huấn để được nâng đỡ về chuyên môn và để phát
triển cá nhân.

III.

Các vấn đề tâm lý thường xuất hiện ở nhà tham vấn

Khi làm việc với thân chủ, đôi khi xuất hiện những vấn đề tâm lí buộc các nhà
tham vấn phải đối diện với chúng. Điều này chủ yếu xuất phát từ sự thiếu tin
tưởng của nhà tham vấn đối với thân chủ hoặc vấn đề của thân chủ như chạm vào
nỗi đau tinh thần của chính nhà tham vấn, hoặc xuất phát từ chính sự thiếu bản
lĩnh, thiếu trải nghiệm của nhà tham vấn. Dưới đây là một số vấn đề tâm lý thường
nảy sinh ở nhà tham vấn trong quá trình làm việc với thân chủ.
1. Cảm giác không an toàn về thân chủ.
1.1 Ví dụ
- (1) Thân chủ bị lạm dụng tình dục bởi người thân trong gia đình và trong quá
trình trị liệu tham vấn, thân chủ vẫn tiếp tục sống cùng gia đình mình. Ở trường
hợp này, nhà tham vấn thường có cảm giác lo sợ thân chủ của mình sống trong
môi trường không được bảo vệ bởi lẽ chính nơi thân chủ sinh sống lại là
nguyên nhân của vấn đề. Vấn đề của thân chủ rất dễ được lặp lại và thân chủ
sẽ khó có thể thoát khỏi vấn đề đang gặp phải nếu như môi trường sống không
an toàn. Điều này dẫn đến quá trình tham vấn sẽ không thể đạt hiệu quả được.
Tuy nhiên nhà tham vấn khó có thể “kéo” thân chủ ra khỏi mối quan hệ gia

3



đình của họ. Vì vậy nhà tham vấn thường rơi vào trạng thái căng thẳng, “bất
ổn” về vấn đề của thân chủ
- (2) Thân chủ là bệnh nhi ung thư sống trong gia đình có phụ huynh luôn trong
tâm lý bi quan, suy nghĩ tiêu cực. Trong hoàn cảnh này của thân chủ, quá trình
điều trị bệnh ung thư có sự đóng góp rất lớn từ yếu tố tâm lí. Nhất là với thân
chủ hiện đang là bệnh nhi, tâm lí của thân chủ vẫn còn bị ảnh hưởng rất nhiều
từ gia đình. Nếu như phụ huynh của thân chủ - những người gần gũi với thân
chủ nhất mà luôn giữ tâm lý bi quan, tiêu cực, thì điều này chắc chắn cũng ảnh
hưởng đến tâm lí điều trị bệnh của thân chủ. Môi trường tâm lí này hoàn toàn
không an toàn cho một bệnh nhi đang điều trị ung thư. Chính vì thế nhà tham
vấn sẽ có tâm lí không an toàn về thân chủ mình, bởi lẽ thân chủ nếu tiếp tục
sống trong môi trường có sự tác động tâm lý tiêu cực liên tục thì quá trình điều
trị bệnh sẽ ngày càng đạt hiệu quả thấp, thậm chí dẫn đến những kết quả không
mong muốn. Hơn nữa, nhà tham vấn sẽ rất khó để kéo thân chủ ra khỏi mối
quan hệ gia đình này. Nên đây là nguyên nhân dẫn đến tâm lý không an toàn
của nhà tham vấn.
- (3) Thân chủ là người già cô đơn không nhận được sự chăm sóc từ con cái.
Con cái của thân chủ vì bận rộn nên không thường xuyên về nhà chăm sóc cho
thân chủ, con của thân chủ cũng không đồng ý đưa thân chủ vào trung tâm
chăm sóc người cao tuổi vì lí do sợ những định kiến xã hội về người con không
biết chăm lo cho bố mẹ. Nhà tham vấn ở trường hợp này rất dễ có cảm giác
không an toàn với thân chủ vì lí do thân chủ sẽ vẫn tiếp tục sống trong môi
trường không có sự chăm sóc của con cái, mà chỉ nhận được trợ cấp từ họ. Để
thay đổi sự việc này, nhà tham vấn cần can thiệp đến mối quan hệ gia đình của
thân chủ, việc đưa thân chủ ra ngoài mối quan hệ không an toàn này là điều
không phải dễ dàng gì vì đây là mối quan hệ gia đình của thân chủ.

4



1.2 Nguyên nhân xuất hiện cảm giác không an toàn về thân chủ của nhà
tham vấn
Cảm giác không an toàn với thân chủ xuất phát từ việc nhà tham vấn nắm bắt
được vấn đề của thân chủ cũng như biết được môi trường sống của thân chủ
hay những mối quan hệ xã hội xung quanh thân chủ (gia đình, xã hội, bạn bè,
đồng nghiệp,…). Điều đáng lưu ý ở đây là môi trường sống hay những mối
quan hệ xã hội của thân chủ hoàn toàn không an toàn đối với vấn đề thân chủ
đang gặp phải. Không an toàn ở đây có thể hiểu là nguy cơ có thể tiếp diễn
vấn đề, hoặc là nguyên nhân xảy ra vấn đề, hoặc là môi trường thuận lợi để
phát triển vấn đề. Tất cả những môi trường này đều được cho rằng là yếu tố
bất lợi trong quá trình tham vấn.
 Phân tích nguyên nhân xuất hiện cảm giác không an toàn về thân chủ từ
các ví dụ:
STT

Vấn đề của thân

Nguyên nhân xuất hiện cảm giác không

chủ

an toàn về thân chủ
“Gia đình thân chủ” - Đây là môi trường thân
chủ sẽ tiếp tục sinh sống, đây cũng chính là

Bị lạm dụng tình
Ví dụ (1)


dục

bởi

thân

trong

đình

người
gia

môi trường xuất hiện nguyên nhân của vấn
đề. Vấn đề chưa được giải quyết mà thân chủ
vẫn tiếp tục sống trong môi trường chứa
đựng cả nguyên nhân và cả động cơ có thể
tiếp tục thực hiện những hành vi lạm dụng
tình dục. Chính vì sự không an toàn trong
môi trường sinh sống, đã tạo nên sự bất an

5


trong tâm lý nhà tham vấn về thân chủ của
mình.
“Tâm lý tiêu cực, bi quan của phụ huynh
thân chủ” - Đây là môi trường tâm lý không
an toàn đối với thân chủ. Thân chủ bị ảnh
hưởng rất nhiều từ tâm lý của phụ huynh.

Trong quá trình điều trị mà thân chủ liên tục
tiếp xúc với tâm lý của phụ huynh mình
Tâm lý bi quan (luôn tiêu cực, bi quan) thì thân chủ cũng
Ví dụ (2)

của thân chủ là không thể nào mang trong mình tâm lý tích
bệnh nhi ung thư

cực được. Vấn đề ở đây liên tục bị ảnh
hưởng, tác động bởi chính môi trường thân
chủ tiếp xúc hàng ngày. Môi trường này vừa
là nguyên nhân của vấn đề, vừa là động cơ
của sự phát triển nan đề. Do đó, tham vấn
viên xuất hiện tâm lý bất an về thân chủ của
mình.
“Con cái của thân chủ” – Đây là môi trường
có sự gắn kết nhiều nhất với thân chủ nhưng

Người già cô đơn
Ví dụ (3)

không nhận được
sự chăm sóc của
con cái

đồng thời cũng là môi trường tạo nên vấn đề
của thân chủ. Vấn đền có nhiều khả năng sẽ
vẫn tiếp tục tiếp diễn nếu con của thân chủ
không thay đổi quan điểm, suy nghĩ đối với
việc chăm sóc bố mẹ mình. Vấn đề chỉ có thể

giải quyết nếu như con thân chủ thay đổi
cách thức hành xử. Môi trường không an

6


toàn tiếp tục diễn biến thì vấn đề sẽ không
thể nào giải quyết được dù nhà tham vấn có
can thiệp với thân chủ bằng cách thức hay
hướng tiếp cận nào.

1.3 Giải pháp, khuyến nghị với nhà tham vấn
Trong trường hợp nhà tham vấn có cảm giác không an toàn với thân chủ, nhà
tham vấn nên đặt mối quan tâm hàng đầu đến chính môi trường không an toàn đó.
Vì chính môi trường đó là nguyên nhân, động cơ của vấn đề, và nếu muốn giải
quyết vấn đề của thân chủ thì phải giải quyết những yếu tố môi trường không an
toàn trước. Có thể thấy đây là một công việc không dễ dàng đối với nhà tham vấn
vì hầu như những môi trường không an toàn xung quanh thân chủ đều là những
mối quan hệ khó tách rời (gia đình), chính vì thế trong trường hợp này, nhà tham
vấn như phải thực hiện hai trường hợp và tham vấn đối với hai (nhóm) thân chủ.
Vì không thể giải quyết một chiều từ phía thân chủ của mình, mà nhà tham vấn
còn phải tác động đến những yếu tố được cho là không an toàn đó thì mới có thể
giải quyết triệt để vấn đề thân chủ mong muốn.
2. Cảm xúc tức giận do thân chủ không đương đầu, không chịu trách nhiệm
về hành vi của bản thân, do thân chủ là người lệ thuộc, không có động
thái cho việc thay đổi nan đề của mình.
2.1 Ví dụ
- (1) Thân chủ là người nghiện rượu, thường xuyên rơi vào trạng thái không tỉnh
táo do uống quá nhiều rượu, mỗi lúc như vậy, thân chủ thường đánh vợ và con.
Thân chủ tìm đến nhà tham vấn với mong muốn nhận được sự hỗ trợ về tâm

lý, giúp bản thân không còn tính khí hung hăng, không còn đánh vợ và con
mỗi khi uống rượu say nữa. Thân chủ nhận thấy được tình trạng của mình và
7


đến gặp nhà tham vấn, tuy nhiên trong quá trình tham vấn, thân chủ không cho
rằng hành động đánh vợ, con của mình là sai do bản thân mình, mà chỉ là do
khi say nên không tỉnh táo; những lúc thân chủ tỉnh táo, thân chủ hoàn toàn
không đánh vợ và con. Thân chủ trong trường hợp này không nhận thấy được
hành vi của mình và không có động thái trong việc thay đổi nan đề của bản
thân.
- (2) Thân chủ là người nghèo bị suy giảm khả năng lao động, thân chủ tìm đến
nhà tham vấn với mong muốn có sự định hướng trong tâm lý để có thể thoát
khỏi cảnh nghèo đói này. Mặc dù tìm đến nhà tham vấn nhưng trong quá trình
làm việc, thân chủ luôn cho rằng việc mình thoát nghèo là không thể và không
chủ động trong việc tìm kiếm việc làm; thay vào đó thân chủ cho rằng mình
đã không còn khả năng lao động nữa. Thân chủ có thái độ buông xuôi, chấp
nhận hoàn cảnh nhưng vẫn muốn gặp nhà tham vấn để tìm một hướng giải
quyết mới cho cuộc đời của mình, tuy nhiên trong quá trình trị liệu, thân chủ
có thái độ không muốn đương đầu với hoàn cảnh, luôn trong trạng thái lo ngại,
thiếu tự tin, buông xuôi và không cố gắng.
- (3) Thân chủ là phụ nữ trẻ, đã bỏ đứa con trong bụng và hiện tại tâm lý bất ổn,
lo sợ và hoang mang, thân chủ tìm đến nhà tham vấn với hi vọng có thể xóa
bỏ tâm lý này của mình. Khi đến gặp nhà tham vấn, thân chủ cho rằng việc
mình quyết định bỏ đứa trẻ trong bụng là có nguyên nhân riêng của mình, vì
lí do chưa chuẩn bị sẵn sàng về tinh thần cũng như kinh tế và không cảm thấy
mình có quá nhiều lỗi lầm trong chuyện này. Thân chủ chỉ cảm thấy lo sợ vì
vẫn thường xuyên nghĩ đến và bị ám ảnh khá nhiều bởi việc mình đã nạo phá
thai.
2.2 Nguyên nhân xuất hiện tâm lý tức giận của nhà tham vấn

- Thứ nhất, có thể kể đến nguyên nhân của sự tức giận của nhà tham vấn là do
nhà tham vấn đã sử dụng quan điểm cá nhân để nhìn nhận vấn đề của thân chủ.
8


Có thể coi như đây là cách nhà tham vấn nhìn nhận vấn đề ở một chiều nhất
định mà chưa quan sát, phân tích vấn đề ở góc nhìn đa chiều. Nhà tham vấn
tức giận bởi theo góc quan sát cá nhân thì những việc làm của thân chủ là sai,
nhưng có thể theo một khía cạnh khác thì thân chủ có những lí do riêng khác
để thực hiện những điều đó. Cảm xúc tức giận xảy ra khi thân chủ dụng quan
điểm cá nhân, hiểu biết cá nhân và những quy gán xã hội của cá nhân để nhìn
nhận việc làm của thân chủ.
- Thứ hai, nguyên nhân của vấn đề này là do thân chủ hoàn toàn là người thiếu
chủ động, lệ thuộc, không đương đầu và không chịu trách nhiệm với hành vi
của mình. Nhà tham vấn dù phân tích theo khía cạnh nào cũng không thể nhận
thấy được sự hợp lý trong hành động của thân chủ, chính vì thế cảm xúc tức
giận này xảy đến một cách tự nhiên do sự mâu thuẫn trong phân tích của nhà
tham vấn và những nhận thức mà thân chủ vẫn cố tình không thay đổi.
 Phân tích nguyên nhân xuất hiện tâm lý tức giận của thân chủ qua các
ví dụ
Ví dụ

Nguyên nhân tâm lý tức giận của nhà tham vấn
Thân chủ cố chấp và không chấp nhận hành vi sai lầm của
mình. Dù thân chủ đã chủ động đến gặp nhân viên tham vấn
nhưng sau khi trò chuyện, phân tích của nhân viên tham
vấn, thân chủ vẫn cố chấp với quan điểm của mình. Không

Ví dụ (1)


cho rằng việc mình đánh vợ là do tính khí của bản thân,
thân chủ cho rằng nguyên nhân chính của hành vi là sự tác
động của rượu say chứ không phải do bản thân mình. Người
mắc lỗi ở đây là thân chủ mỗi khi say, chứ không phải bản
thân thân chủ. Sự cố chấp trong suy nghĩ của của thân chủ
dẫn đến tâm lý tức giận của nhà tham vấn trong trường hợp
9


này, mặc dù nhà tham vấn đã cố gắng phân tích nguyên
nhân của nan đề cũng như đề xuất những giải pháp giải
quyết nan đề nhưng thân chủ vẫn cương quyết giữ quan
điểm mình không sai.
Nguyên nhân của sự tức giận của NVXH trong ví dụ này là
do thân chủ không chủ động trong chính câu chuyện, vấn
đề của mình. Thân chủ nhận thấy được vấn đề của mình và
Ví dụ (2)

tìm đến nhà tham vấn nhưng khi tìm phương pháp giải
quyết nan đề thì thân chủ luôn trong cơ chế phản kháng và
từ chối mọi giải pháp. Thân chủ khá lệ thuộc và không có
niềm tin vào bản thân.
Trong trường hợp này, nhà tham vấn đã sử dụng những
quan điểm cá nhân trong việc nạo phá thai để phân tích nan
đề của thân chủ. Trường hợp này, nhà tham vấn thể hiện sự
tức giận là do bản thân NVXH có định kiến không tốt với
những người nạo phá thai, chính vì thế trong quá trình xem
xét những nguyên nhân nạo phá thai của thân chủ, nhà tham
vấn đã có những cảm xúc tức giận vì cho rằng hành vi của


Ví dụ (3)

thân chủ là hoàn toàn sai và thân chủ đã không chịu trách
nhiệm với hành vi của mình. Nếu như xem xét trên một góc
độ nào đó thì hành động phá thai của thân chủ là không
được chấp nhận, tuy nhiên với tư cách là NVXH, nhà tham
vấn cần phải xem xét trên nhiều góc độ (hoàn cảnh của thân
chủ, mối quan hệ xã hội xung quanh thân chủ, điều kiện
kinh tế, sức khỏe của thân chủ,…), không được đặt quan
điểm cá nhân vào quá trình phân tích.

10


2.3 Giải pháp cho nhân viên xã hội điều chỉnh tâm lý tức giận
Qua quá trình phân tích những nguyên nhân dẫn đến tâm lý tức giận của nhà
tham vấn, có thể thấy việc để cảm xúc cá nhân đan xen vào quá trình tham vấn
là một nguyên tắc không được cho phép đối với nhà tham vấn. Điều này làm
ảnh hưởng đến kết quả tham vấn và những nội dung tham vấn sẽ không mang
được tính khách quan, chính xác và có ích đối với thân chủ. Dưới đây là một
vài giải pháp đối với nhân viên xã hội, tránh sự việc để cảm xúc cá nhân đan
xen vào quá trình tham vấn, đặc biệt là những cảm xúc tức giận khi thân chủ
không chủ động, chối bỏ trách nhiệm với những hành vi của mình:
- Tìm hiểu theo nhiều khía cạnh các nguyên nhân dẫn đến sự việc của thân chủ,
đảm bảo nguyên tắc tôn trọng sự khác biệt và tôn trọng thân chủ.
- Không soi chiếu vấn đề của thân chủ vào những quan điểm, định kiến cá nhân
của nhà tham vấn. Trong Tiêu chuẩn Đạo đức của Hiệp hội Tham vấn và Phát
triển Hoa Kỳ, phần A, tổng quan điều 10 có ghi: “Nhà tham vấn không được
phép mang những điều riêng tư cá nhân vào trong quan hệ tham vấn. Đặc biệt
những vấn đề có thể gây hại hay ảnh hưởng xấu đến quan hệ tham vấn. Nhà

tham vấn phải luôn cảnh giác tới những ảnh hưởng tiêu cực như phân biệt đối
xử trong tham vấn do khách hàng là người thuộc chủng tộc khác hay giới tình
khác. Trái lại, nhà tham vấn phải bảo vệ quyền lợi và nhân phẩm cho khách
hàng trong quan hệ tham vấn”.
- Chấp nhận, nhiệt tình tôn trọng thân chủ như một con người có giá trị tự tại vô
điều kiện, bất kể hành vi, địa vị hoặc thái độ của người ấy. Thân chủ được tôn
trọng như một con người độc lập, để cho thân chủ có những cảm quan riêng
theo cung cách riêng của người ấy.

11


3. Nhà tham vấn có mặc cảm tội lỗi do cảm giác bất lực với bản thân trước
vấn đề của thân chủ.
3.1 Ví dụ
- (1) Thân chủ là một bệnh nhân chạy thận, rất có niềm tin và lạc quan vào kết
quả điều trị bệnh nhưng đã chờ đợi 6 năm nay vẫn chưa có ai đồng ý hiến thận
cho mình. Thân chủ tìm đến nhà tham vấn với mong muốn tiếp tục duy trì
được niềm tin, chờ đợi vào một kết quả tốt đẹp. Tuy nhiên, dần dần tâm lý
thân chủ sẽ tiến triển theo mức độ tiêu cực dần vì hi vọng mặc dù còn nhưng
thân chủ đã phải chờ đợi quá lâu. Hơn nữa tình trạng sức khỏe của thân chủ
đang ngày càng giảm sút. Nhà tham vấn trong trường hợp này ngoài việc động
viên sức khỏe tinh thần cho thân chủ thì không thể làm gì khác giúp thân chủ
cải thiện vấn đề. Cảm giác bất lực xảy ra với nhà tham vấn, do đó nhà tham
vấn có cảm giác mặc cảm và tội lỗi vì không giúp ích được gì nhiều cho thân
chủ của mình.
- (2) Thân chủ là Lesbian, muốn tự tử vì gia đình bắt thân chủ phải lấy chồng
và sinh con, tìm đến nhà tham vấn với mong muốn thay đổi suy nghĩ của gia
đình. Với vấn đề này của thân chủ, nhà tham vấn có trách nhiệm phân tích
những đặc điểm tâm lý của thân chủ cũng như của gia đình thân chủ đối với

việc lấy chồng và sinh con. Mặc dù thân chủ rất muốn công khai giới tính của
mình và mong muốn được chấp nhận, đặc biệt từ phía gia đình. Tuy nhiên gia
đình thân chủ ngoài việc không chấp nhận giới tính của thân chủ, thêm vào đó
còn yêu cầu thân chủ thực hiện đúng chức năng sinh học của giới tính ban đầu
khi mới được sinh ra (là nữ). Việc một lesbian như thân chủ bị bắt lấy chồng
và sinh con như là một sự xúc phạm với xu hướng tính dục đích thực của mình.
Do mâu thuẫn quá lớn này, đặc biệt là do sự cương quyết trong suy nghĩ của
gia đình thân chủ nên thân chủ có ý định tự tử. Nhà tham vấn trong trường hợp
này cần tác động tâm lý đến thân chủ, để qua đó thân chủ tác động lại tâm lý,
12


suy nghĩ đến gia đình mình. Tuy nhiên quá trình tham vấn gián tiếp này rất
khó mang lại hiệu quả, đặc biệt với gia đình cương quyết có định kiến với
Lesbian như gia đình thân chủ. Nhà tham vấn khi chỉ có thể tác động tâm lý
một chiều và không đem lại hiệu quả cao thì sẽ dẫn đến cảm giác bất lực với
sự giúp đỡ của mình.
- (3) Thân chủ là người nhiễm HIV nhưng rất muốn được có con, tìm đến nhân
viên tham vấn để phân tích các nguy cơ xảy ra, giúp bản thân đưa ra quyết
định cuối cùng. Cả thân chủ và nhà tham vấn đều hiểu rằng khả năng người
nhiễm HIV khi sinh con cũng sẽ nhiễm HIV là rất cao, tuy nhiên thân chủ lại
rất muốn tin vào tỉ lệ % hiếm hoi không nhiễm HIV để sinh con. Tỉ lệ đó dù
rất thấp nhưng chính thân chủ cũng không dám quyết định sinh con hay không.
Nhà tham vấn trong trường hợp này chỉ có thể phân tích được thực trạng những
nguy cơ có thể sảy ra nếu sinh con còn mọi quyết định vẫn nằm ở thân chủ.
Mặc dù thế, sự tham vấn trong trường hợp này chỉ mang tính chất tư vấn chứ
không giúp thân chủ được nhiều trong quá trình đưa ra quyết định. Thân chủ
vẫn đứng giữa lựa chọn thực hiện thiên chức của người con gái là làm mẹ hay
chọn việc không sinh con để đảm bảo an toàn cho đứa trẻ. Nhà tham vấn trong
trường hợp này có cảm giác bất lực với sự giúp ích của mình đối với quyết

định của thân chủ.
3.2 Nguyên nhân của cảm giác mặc cảm tội lỗi
Nguyên nhân của cảm giác mặc cảm, tội lỗi của thân chủ do bất lực với những
vấn đề thân chủ đang gặp phải. Có thể thấy, đa số trong trường hợp này, những
vấn đề của thân chủ muốn được giải quyết thì không chỉ phụ thuộc vào thân
chủ mà còn có sự tác động rất lớn từ những yếu tố xung quanh. Thường thì
những vấn đề của thân chủ sẽ được giải quyết bởi chính thân chủ, nhưng những

13


vấn đề trong trường hợp này còn được quyết định phần lớn bởi các yếu tố như:
may mắn, cơ hội, môi trường xã hội xung quanh thân chủ: gia đình, bạn bè,…
 Phân tích nguyên nhân xuất hiện tâm lý mặc cảm tội lỗi của nhân viên
xã hội qua các ví dụ:
Ví dụ

Nguyên nhân tâm lý mặc cảm, tội lỗi của nhân viên
xã hội
Ở trường hợp này, cách giải quyết duy nhất đối với vấn
đề của thân chủ là tìm được người hiến thận cho mình.
Tuy nhiên nhân viên xã hội lại không có khả năng giúp
đỡ thân chủ giải quyết vấn đề đó. Mọi sự tham vấn thâm

Ví dụ (1)

lý của nhà tham vấn lúc này đều không có sức ảnh hưởng
lớn đến cách thức giải quyết vấn đề. Chính vì điều đó,
dẫn đến cảm giác bất lực của nhà tham vấn, kéo theo đó
là tâm lý mặc cảm, tội lỗi vì không giúp ích được gì cho

thân chủ của mình.
Nguyên nhân tâm lý mặc cảm, tội lỗi của nhân viên xã
hội trong trường hợp này là do nhà tham vấn chỉ có thể
tác động tâm lý một chiều với thân chủ. Và nguyên nhân
sâu xa vấn đề của thân chủ lại xuất phát từ phía mối quan
hệ xung quanh thân chủ (gia đình). Chính vì thế, để giải

Ví dụ (2)

quyết vấn đề của thân chủ thì phải bắt nguồn từ giải quyết
trong suy nghĩ, nhận thức của gia đình thân chủ. Nhưng
trong trường hợp này, gia đình thân chủ không có nhu
cầu gặp nhân viên tham vấn, cũng như không có thái độ
thay đổi suy nghĩ, quan điểm ban đầu. Nhân viên xã hội
chỉ có thể tham vấn đến gia đình thân chủ một cách gián
14


tiếp đó là thông qua thân chủ của mình. Cách thức này
rất khó để đạt hiệu quả cao, theo đó, hiệu quả của quá
trình tham vấn này cũng từ đó mà không đạt như mong
đợi. Chính vì thế, nhà tham vấn có cảm giác mình không
thể giúp thân chủ giải quyết vấn đề của thân chủ, cũng
như bất lực trong việc tác động đến gia đình thân chủ.
Đối với thân chủ là người nhiễm HIV nhưng lại muốn có
con, điều này rất khó để có thể dự đoán được chính xác
người con sinh ra có nhiễm HIV hay không, nếu như
muốn biết chính xác kết quả thì trong quá trình mang
thai, thân chủ phải thực hiện kiểm tra liên tục, và khi phát
hiện có biểu hiện dương tính với HIV thì phải từ bỏ đứa

Ví dụ (3)

bé. Nhìn chung, cách giải quyết trong trường hợp này
không mang tính tuyệt đối hóa mà còn phụ thuộc vào sự
may mắn của thân chủ. Chính vì thế nhân viên xã hội
không thể can thiệp vào kết quả cũng như không thể dự
báo kết quả một cách cụ thể giúp thân chủ đưa ra được
quyết định của mình. Theo đó, cảm giác bất lực về bản
thân của nhà tham vấn sẽ xuất hiện.

3.3 Giải pháp cho nhà tham vấn giúp kiểm soát tâm lý mặc cảm, tội lỗi
Nhà tham vấn nên xác định rõ được giới hạn can thiệp của mình đối với vấn
đề của thân chủ. Không phải bất kì khía cạnh nào trong vấn đề của thân chủ
nhà tham vấn cũng có đủ khả năng giải quyết. Mặc dù mục đích cuối cùng của
quá trình tham vấn là giải quyết được vấn đề thân chủ mong muốn, tuy nhiên
không phải vấn đề nào của thân chủ cũng sẽ được giải quyết từ chính thân chủ,
15


có nhiều vấn đề phụ thuộc vào yếu tố cơ hội, sức khỏe, văn hóa,… Chính vì
thế, khi nhà tham vấn xác định được rõ khả năng can thiệp cũng như giới hạn
can thiệp của mình thì sẽ không còn cảm giác bất lực đối với vấn đề của thân
chủ nữa.
Nhà tham vấn nên tập trung vào giới hạn mình có thể can thiệp được và làm
tốt ở giới hạn đó. Có thể quá trình làm việc với nhà tham vấn sẽ không đem
lại cách giải quyết cuối cùng với vấn đề của thân chủ, nhưng cũng sẽ tác động
phần nào đến khía cạnh mà nhà tham vấn cùng thân chủ làm việc.
4. Nhà tham vấn có mong muốn bảo vệ thân chủ. Cảm giác muốn được bao
bọc, che chở đôi khi làm cho các tham vấn viên can thiệp quá sâu vào cuộc
sống riêng tư của thân chủ.

4.1 Ví dụ
- (1) Thân chủ là trẻ em lang thang là nạn nhân của bạo hành, tìm đến nhà tham
vấn với mong muốn ổn định lại tâm lý sau những hành vi bạo hành. Đối với
thân chủ vốn dĩ hoàn cảnh xuất thân của họ đã có nhiều khó khăn, lại mang
thêm những vấn đề khác (ở đây vấn đề là nạn nhân của bạo hành), thì nhà tham
vấn trong quá trình làm việc phải quan tâm đến cả 2 vấn đề của thân chủ. Thân
chủ là trẻ em lang thang, không được đi học, không có chỗ ngủ, phải đi kiếm
sống hàng ngày bằng những công việc chân tay như: lượm ve chai, bán vé số,
đánh giày,… Ngoài ra, thân chủ còn là nạn nhân của sự bạo hành bởi những
người lớn tuổi hơn: người chủ phân phối việc làm, người đi đường, người có
cùng hoàn cảnh nhưng lớn tuổi hơn và có kinh nghiệm hơn,… Nhân viên xã
hội khi làm việc với thân chủ, cảm thông hoàn cảnh của thân chủ nên có suy
nghĩ muốn được bảo vệ cho thân chủ. Chính vì thế, ngoài mục đích chính của
quá trình tham vấn là ổn định tâm lý của trẻ sau bạo hành thì tham vấn viên lại

16


muốn quan tâm đến nguyên nhân trẻ bị bỏ rơi và can thiệp vào việc đưa trẻ
vào làng S.O.S
- (2) Thân chủ là bệnh nhân ung thư không có điều kiện kinh tế, tìm đến nhà
tham vấn mong nhận được sự hỗ trợ về tinh thần để có thể có động lực tiếp tục
điều trị bệnh. Xuất phát điểm của thân chủ là một người sống trong gia đình
có điều kiện kinh tế khó khăn. Kể từ khi phát hiện và điều trị bệnh ung thư (U
trung thất trái) thì tình hình kinh tế gia đình thân chủ càng suy giảm. Nhà tham
vấn trong quá trình trị liệu tâm lý cho thân chủ, vì có sự thấu cảm với hoàn
cảnh của thân chủ, nhà tham vấn lại thực hiện thêm nhiệm vụ hỗ trợ thân chủ
tìm được nguồn lực kinh tế giúp thân chủ có thể yên tâm hơn trong quá trình
điều trị bệnh. Để thực hiện việc làm này, NVXH phải quan tâm đến hoàn cảnh
của gia đình cũng như những nguồn lực xung quanh thân chủ, thêm vào đó là

những mối quan hệ xung quanh thân chủ để có thể đưa ra sự phân tích cũng
như gợi ý có tính khả quan trong việc cải thiện kinh tế gia đình.
- (3) Thân chủ là người già neo đơn có sức khỏe yếu, tìm đến nhà tham vấn với
mong muốn tìm được niềm vui và có thể tạo được niềm vui cho bản thân trong
những ngày sống tại Trung tâm bảo trợ. Hoàn cảnh khó khăn của thân chủ
giống với hoàn cảnh của một người hàng xóm đã mất của nhà tham vấn, sự
giống nhau đó khiến nhà tham vấn có mong muốn được bảo vệ, quan tâm sâu
đến cuộc sống của thân chủ; vì nhà tham vấn không muốn kết thúc câu chuyện
của thân chủ cũng đáng tiếc như câu chuyện người hàng xóm của mình. Chính
vì vậy, ngoài việc giúp đỡ về mặt sức khỏe tinh thần, NVXH còn muốn giúp
đỡ thân chủ về mặt sức khỏe thể chất cũng như tìm kiếm những nguồn lực có
thể giúp đỡ thân chủ một cách thường xuyên và chu đáo hơn Trung tâm bảo
trợ thân chủ đang sống.

17


4.2 Nguyên nhân tâm lý muốn được bảo vệ thân chủ của nhà tham vấn
- Thứ nhất, có thể thấy nguyên tắc của nhà tham vấn là phải đồng cảm với hoàn
cảnh của thân chủ. Chính vì lẽ đó, nếu như nhà tham vấn quá đồng cảm lại
chính là nguyên nhân của tâm lý muốn được bảo vệ thân chủ này. Chỉ khi đồng
cảm thì nhà tham vấn mới có thể xuất phát tâm lý muốn được chăm lo, bảo vệ
của thân chủ của mình. Nhà tham vấn ở đây đã đặt quá nhiều tình cảm cá nhân
vào hoàn cảnh của thân chủ, chính vì thế xuất phát những sự giúp đỡ ngoài
phạm vi nhà tham vấn cần làm. Sự xuất hiện của tâm lý này dẫn đến việc nhà
tham vấn buộc phải quan tâm quá sâu vào đời sống riêng tư của thân chủ để
có thể giúp đỡ thân chủ trong những khía cạnh khác
- Thứ hai, xuất phát từ sự tương đồng trong hoàn cảnh của thân chủ đối với một
hoàn cảnh mà nhà tham vấn từng gặp hoặc từng trải qua trong quá khứ. Sự
tương đồng này kích thích sự đồng cảm của nhà tham vấn với hoàn cảnh của

thân chủ một cách nhanh chóng.
 Phân tích nguyên nhân xuất hiện tâm lý muốn được bảo vệ, quan tâm
chăm sóc thân chủ của nhà tham vấn qua các ví dụ:
Ví dụ

Nguyên nhân tâm lý muốn được bảo vệ, quan tâm,
chăm sóc cho thân chủ
Xuất phát từ hoàn cảnh đáng thương cũng như những

Ví dụ (1)

khó khăn thân chủ đang gặp phải, thân chủ trong 2 ví
dụ này gặp trên 2 vấn đề và vấn đề nào cũng rất khó
khăn. Chính vì thế, nhân viên xã hội đã nảy sinh những

Ví dụ (2)

cảm xúc đồng cảm quá lớn, muốn được quan tâm, chăm
sóc cho thân chủ.

Ví dụ (3)

Ngoài nguyên nhân do hoàn cảnh khó khăn của thân
chủ, ở trường hợp này, sự đồng cảm quá lướn của nhân
18


viên xã hội còn xuất phát từ sự tương đồng đối với một
trường hợp NVXH đã gặp trong quá khứ. Điều này gợi
nhớ nhà tham vấn những kí ức, thôi thúc nhà tham vấn

cảm xúc muốn được bảo vệ thân chủ.

4.3 Giải pháp đối với nhà tham vấn
Như đã phân tích nguyên nhân ở trên, nguyên nhân của vấn đề này xuất phát
từ bản thân nhà tham vấn, chính vì thế nhà tham vấn nếu muốn tránh tâm lý
muốn bảo vệ, chăm sóc cho thân chủ thì cần xác định rõ ranh giới tham vấn
của mình nằm ở đâu và tôn trọng nguyên tắc “Có quan điểm lịch sử cụ thể và
quan điểm toàn diện, phát triển trong cách nhìn nhận, giải quyết vấn đề của
thân chủ”. Nhà tham vấn không được sử dụng những tình cảm cá nhân vào
việc giải quyết vấn đề của thân chủ, điều này rất dễ dấn đến sự vi phạm ranh
rới can thiệp cũng như sự thiếu khách quan trong tham vấn tâm lí.
5. Nhà tham vấn khi làm việc với thân chủ cũng có thể rơi vào trạng thái
phòng vệ do những vấn đề của thân chủ gợi lại vấn đề cá nhân của nhà
tham vấn. Những quá khứ mà chính nhà tham vấn, một cách vô thức
không muốn nhắc đến, nay nó lại được lặp lại ở các thân chủ của mình.
Đây là một cách thức mà người vào nghề trợ giúp cần phải học cách
đương đầu với bản thân thông qua biểu hiện gián tiếp ở thân chủ.
5.1 Ví dụ
- (1) Thân chủ là phụ nữ có chồng ngoại tình, tìm đến nhà tham vấn với hi vọng
có thể giúp thân chủ không còn suy nghĩ tiêu cực, nhanh chóng lấy lại cân
bằng tâm lý để ổn định lại cuộc sống hôn nhân. Trong trường hợp này, nhà
tham vấn là nam, đã lập gia đình và đã từng là người ngoài tình. Trong quá
trình tham vấn với thân chủ, nhà tham vấn đã gợi nhớ lại trường hợp của bản
19


thân và cảm thấy xấu hổ trước thân chủ, e ngại trước những lời mắng nhiếc,
mỉa mai của thân chủ đối với chồng của mình. Chính điều này đã làm cho quá
trình tham vấn trở nên kém hiệu quả vì nhà tham vấn đã không thể đưa ra
những phân tích khách quan tới thân chủ.

-

(2) Thân chủ là người cuồng tín, luôn tin vào bói toán; thân chủ khi có người
nhà bị bệnh và đã chữa bệnh theo phương pháp nhờ thầy bói nhưng bệnh tình
chưa thuyên giảm, thân chủ đến gặp nhà tham vấn với mong muốn có thể tiếp
tục xây dựng niềm tin vào bói toán. Trường hợp này, nhà tham vấn lại là người
không có niềm tin vào bất kì tôn giáo nào, cũng không bao giờ tin vào bói
toán. Chính vì thế khi NVXH thực hiện tham vấn cho thân chủ sẽ xuất hiện cơ
chế phòng vệ vì quan điểm của 2 bên là hoàn toàn khác nhau. Nhà tham vấn
buộc phải từ bỏ quan niệm không tin vào bói toán của mình để phân tích trường
hợp của thân chủ nếu muốn quá trình làm việc được khách quan.
5.2 Nguyên nhân xuất hiện tâm lý phòng vệ của nhà tham vấn
Nhà tham vấn khi làm việc với thân chủ có thể rơi vào trạng thái phòng vệ là
do những vấn đề của thân chủ gợi lại vấn đề cá nhân của nhà tham vấn. Những
quá khứ mà chính nhà tham vấn, một cách vô thức không muốn nhắc đến, nay
nó lại được lặp lại ở các thân chủ của mình. Ở một trường hợp khác, có thể do
vấn đề mà thân chủ đang gặp phải lại ở phía đối lập với vấn đề nhà tham vấn
đã hoặc đang gặp. Nhìn chung, nguyên nhân chính của tâm lý phòng vệ này là
do những vấn đề của thân chủ gợi nhớ nhà tham vấn những quan điểm, câu
chuyện đối lập trong lập trường hoặc không muốn nhắc lại trong quá khứ.
 Phân tích nguyên nhân xuất hiện tâm lý phòng vệ của nhà tham vấn qua
các ví dụ:

20


Ví dụ

Nguyên nhân tâm lý phòng vệ của nhà tham vấn
Với trường hợp này, nhà tham vấn có xu hướng phòng

vệ với thân chủ của mình vì chính bản thân mình từng
nằm trong hoàn cảnh người chồng của thân chủ. Mọi
sự tham vấn sẽ không mang tính khách quan nếu như

Ví dụ (1)

nhà tham vấn không loại bỏ được những cảm xúc cá
nhân từ câu chuyện trong quá khứ của bản thân. Nhà
tham vấn phòng vệ vì chưa đương đầu được với hoàn
cảnh của bản thân, nay hoàn cảnh lại được khơi gợi lại
ngay trong vấn đề của thân chủ mình.
Nguyên nhân nhà tham vấn xuất hiện tâm lý phòng vệ
trong trường hợp này là do vấn đề cần tham vấn tâm
lý cho thân chủ lại nằm ở trường phái đối lập với quan
điểm của nhà tham vấn. Một người không tin vào tôn
giáo, bói toán như NVXH lại phải thực hiện hỗ trợ tâm
lý để tiếp tục giữ niềm tin vào bói toán. Ở trường hợp

Ví dụ (2)

này, do tham vấn viên chưa phân biệt được ranh giới
giữa quan điểm cá nhân và quan điểm cần có của nhà
tham vấn. Chính vì thế nhà tham vấn còn mang những
định kiến cá nhân về vấn đề tín ngưỡng để phân tích
vấn đề của thân chủ. Điều này vô hình chung xây dựng
nên cơ chế tâm lý phòng vệ với thân của từ tham vấn
viên

21



5.3 Giải pháp cho nhà tham vấn
Cũng giống như sự xuất hiện của những hình thái tâm lý đã phân tích phía
trên, sự xuất hiện của tâm lý phòng vệ với thân chủ là một cách thức mà người
vào nghề trợ giúp cần phải học cách đương đầu với bản thân thông qua biểu
hiện gián tiếp ở thân chủ. Cụ thể, nhà tham vấn khi bắt đầu làm việc với thân
chủ thì phải loại bỏ được hết những định kiến cá nhân, cảm xúc của những câu
chuyện trong quá khứ,… tất cả những gì liên quan đến câu chuyện cá nhân
người tham vấn sẽ không được phép gây ảnh hưởng, tác động đến những nội
dung tham vấn. Câu chuyện của thân chủ là những câu chuyện riêng biệt, mỗi
vấn đề đều mang những nan đề khác nhau, xuất phát từ những nguyên nhân,
xuất hiện trong những hoàn cảnh khác nhau. Dù cho vấn đề của thân chủ có
gợi nhớ quá khứ hay mâu thuẫn tới mức nào thì với nguyên tắc là một nhà
tham vấn thì tham vấn viên vẫn phải tiếp cận nó với tư cách là một câu chuyện
mới mẻ, và tiếp cận với quan điểm của một nhà tham vấn trung thực, tôn trọng
sự khác biệt.
IV.

Kết luận

Thực tế để trở thành một nhà tham vấn chuyên nghiệp là rất khó. Công việc của
nhà tham vấn là luôn đối mặt với những vấn đề phức tạp và căng thẳng. Những
vấn đề mà bản thân thân chủ cũng không muốn đối mặt, không muốn khoét sâu
thêm những trải nghiệm đau buồn của mình và càng không dễ khi phải thay đổi
nhận thức, tình cảm, hành vi của mình - những quan niệm, thói quan tạo nên bản
tính họ.
Chính vì thế, để trở thành một nhà tham vấn chuyên nghiệp, nhân viên xã hội cần
tuân chủ những quy tắc, đạo đức đề ra với một tham vấn viên:

22



1. Giữ bí mật
2. Thân chủ trọng tâm
3. Chấp nhận thân củ
4. Tôn trọng thân chủ
5. Tin tưởng vào khả năng tự giải quyết của thân chủ
6. Nhà tham vấn không gắn mình vào mối quan hệ cá nhân với thân chủ
7. Bảo vệ phúc lợi của thân chủ
Hơn nữa, nhà tham vấn cần trau dồi cho bản thân những kỹ năng tham vấn tâm lý
cơ bản như:
1. Kỹ năng lắng nghe
2. Kỹ năng quan sát
3. Kỹ năng phản hồi
4. Kỹ năng đặt câu hỏi
5. Kỹ năng thấu hiểu
6. Kỹ năng diễn giải
7. Kỹ năng xử lí sự im lặng
8. Kỹ năng thông đạt
9. Kỹ năng cung cấp thông tin
10.Kỹ năng bộc lộ bản thân
11.Kỹ năng đương đầu

23


×