TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP
(Hồ Chí Minh)
I. Khái quát về tác giả
Hồ Chí Minh là người gắn bó trọn đời với dân, với nước, với sự nghiệp giải phóng dân
tộc của Việt Nam và phong trào cách mạng thế giới. Người cũng là một nhà thơ, nhà văn
lớn. Sáng tác của Người gồm ba lĩnh vực chính: văn chính luận, truyện ký và thơ ca.
II. Khái quát về tác phẩm
Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, phát xít Nhật đầu hàng quân đồng minh. Trên toàn
quốc, nhân dân ta vùng dậy giành chính quyền. Ngày 26-8-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh từ
chiến khu Việt Bắc về tới Hà Nội. Tại căn nhà số 48 phố Hàng Ngang, Người soạn thảo bản
“Tuyên ngôn Độc lập”. Ngày 2-9-1945, tại quảng trường Ba Đình, Hà Nội, trước hàng vạn
đồng bào, Người thay mặt chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa đọc bản
Tuyên ngôn khai sinh ra nước Việt Nam mới.
III. Tổng kết
- “Tuyên ngôn Độc lập” là văn kiện lịch sử tuyên bố trước quốc dân đồng bào và thế
giới về việc chấm dứt chế độ thực dân, phong kiến ở nước ta, đánh dấu kỉ nguyên độc lập,
tự do của nước Việt Nam mới.
- Tác phẩm là một áng văn chính luận mẫu mực: lập luận chặt chẽ, lí lẽ đanh thép, ngôn
ngữ hùng hồn, vừa tố cáo đanh thép tội ác của thực dân Pháp, ngăn chặn âm mưu tái chiếm
nước ta của các thế lực thù địch và các phe nhóm cơ hội quốc tế, vừa bộc lộ tình cảm yêu
nước, thương dân và khát vọng độc lập, tự do cháy bỏng của tác giả và toàn dân tộc.
-1-
TÂY TIẾN
(Quang Dũng)
I. Giới thiệu tác giả
Quang Dũng là một người nghệ sĩ đa tài: viết văn, làm thơ, vẽ tranh, soạn nhạc; nhưng ông
trước hết là một nhà thơ mang hồn thơ lãng mạn, hào hoa. Là nhà thơ của “xứ Đoài mây trắng”, thơ
Quang Dũng giàu chất nhạc, chất họa. "Tây Tiến" có thể được xem là thi phẩm đặc sắc nhất trong
sự nghiệp sáng tác của Quang Dũng.
II. Khái quát tác phẩm
- Binh đoàn Tây Tiến được thành lập năm 1947, với địa bàn hoạt động rộng lớn, có nhiệm vụ
phối hợp với bộ đội Lào để bảo vệ biên giới Việt – Lào. Chiến sĩ Tây Tiến phần đông là trí thức trẻ
Hà Nội.
- Quang Dũng là chiến sĩ trong đơn vị Tây Tiến từ ngày đầu thành lập. Cuối năm 1948, chuyển
sang đơn vị khác, nhớ đơn vị cũ, ông đã viết bài thơ này. Bài thơ được viết tại làng Phù Lưu Chanh,
lúc đầu có tên là “Nhớ Tây Tiến”, sau đổi thành “Tây Tiến”, in trong tập “Mây đầu ô”. Bao trùm
bài thơ “Tây Tiến” là nỗi nhớ của tác giả về thiên nhiên, con người miền Tây, về những người lính
Tây Tiến anh hùng.
III. Tổng kết
Với cảm hứng lãng mạn và ngòi bút tài hoa, Quang Dũng đã khắc họa thành công hình tượng
người lính Tây Tiến trên cái nền cảnh thiên nhiên núi rừng miền Tây Bắc hùng vĩ, dữ dội và mĩ lệ.
Hình tượng người lính Tây Tiến mang vẻ đẹp lãng mạn, đậm chất bi tráng sẽ còn có sức hấp dẫn lâu
dài đối với người đọc.
-2-
VIỆT BẮC
(Tố Hữu)
I. Giới thiệu tác giả
Tố Hữu là lá cờ đầu của thơ ca cách mạng Việt Nam hiện đại. Thơ Tố Hữu mang phong cách
trữ tình – chính trị, thể hiện lẽ sống, tình cảm cách mạng của con người Việt Nam hiện đại nhưng
mang đậm chất dân tộc, truyền thống. Tố Hữu có nhiều tập thơ với nhiều bài thơ có giá trị, trong đó
đặc sắc nhất là bài thơ "Việt Bắc".
II. Khái quát tác phẩm
- Năm 1954, chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc thắng lợi. Hiệp định Giơnevơ về Đông Dương
được kí kết, miền Bắc được giải phóng. Tháng 10 năm 1954, những người kháng chiến từ căn cứ
miền núi trở về miền xuôi, Trung ương Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về lại Thủ đô.
Nhân sự kiện thời sự có tính lịch sử ấy, Tố Hữu sáng tác bài thơ "Việt Bắc".
- Bài thơ bộc lộ tâm trạng đầy lưu luyến, xúc động của cán bộ kháng chiến và đồng bào Việt
Bắc trong buổi chia tay. Chuyện ân tình cách mạng được tác giả khéo léo thể hiện như câu chuyện
tình yêu đôi lứa. Nhà thơ hóa thân vào hai nhân vật trữ tình để bộc lộ tâm tư, tình cảm của mình,
cũng là của người tham gia kháng chiến.
III. Tổng kết
"Việt Bắc" là khúc hùng ca và cũng là khúc tình ca về cách mạng, về cuộc kháng chiến và con
người kháng chiến. Thể thơ lục bát, lối kết cấu đối đáp, ngôn ngữ đậm sắc thái dân gian – tất cả đã
góp phần khắc sâu lời nhắn nhủ của Tố Hữu: Hãy nhớ mãi mãi và phát huy truyền thống quý báu
anh hùng bất khuất, ân nghĩa thủy chung của cách mạng, của con người Việt Nam.
-3-
ĐẤT NƯỚC
(Trích trường ca "Mặt đường khát vọng" – Nguyễn Khoa Điềm)
I. Giới thiệu tác giả
Nguyễn Khoa Điềm thuộc thế hệ các nhà thơ trẻ trưởng thành trong khói lửa của cuộc kháng
chiến chống Mĩ. Thơ Nguyễn Khoa Điềm giàu chất trí tuệ, xúc cảm dồn nén và suy tư sâu lắng, thể
hiện tâm tư của người trí thức về đất nước, con người Việt Nam. Nguyễn Khoa Điềm rất thành công
với những sáng tác thơ về đề tài đất nước, tiêu biểu nhất là trường ca "Mặt đường khát vọng", trong
đó có đoạn trích "Đất Nước".
II. Khái quát tác phẩm
- Trường ca "Mặt đường khát vọng" được tác giả hoàn thành ở chiến khu Trị - Thiên năm 1971.
Bản trường ca viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ đô thị vùng tạm chiếm miền Nam về non sông, đất
nước, về sứ mệnh của thế hệ mình, xuống đường đấu tranh hòa nhịp với cuộc chiến đấu chống đế
quốc Mĩ xâm lược.
- Đoạn trích "Đất nước" là phần đầu chương năm của bản trường ca "Mặt đường khát vọng".
Đoạn trích là những suy nghĩ của tác giả về đất nước được nhìn trên nhiều góc độ, với tư tưởng chủ
đạo là "Đất Nước của Nhân dân".
III. Tổng kết
Đoạn trích thể hiện cảm nghĩ mới mẻ của tác giả về đất nước qua những vẻ đẹp được phát hiện
ở chiều sâu trên nhiều bình diện: lịch sử, địa lí, văn hóa... Đóng góp riêng của đoạn trích là ở sự
nhấn mạnh tư tưởng "Đất Nước của Nhân dân" bằng hình thức biểu đạt giàu suy tư, qua giọng thơ
trữ tình – chính luận sâu lắng, thiết tha. Các chất liệu văn hóa dân gian được sử dụng nhuần nhị,
sáng tạo, đem lại sức hấp dẫn cho đoạn trích.
-4-
SÓNG
(Xuân Quỳnh)
I. Giới thiệu tác giả
Là nhà thơ có cuộc đời bất hạnh, Xuân Quỳnh luôn khao khát tình yêu, mái ấm gia đình và tình
mẫu tử. Thơ Xuân Quỳnh là tiếng nói của người phụ nữ giàu yêu thương, khao khát hạnh phúc bình
dị đời thường; cũng là tiếng lòng của một người nhiều âu lo, day dứt, trăn trở trong tình yêu. Xuân
Quỳnh có rất nhiều bài thơ hay, tiêu biểu là bài thơ "Sóng".
II. Khái quát tác phẩm
Bài thơ "Sóng" được sáng tác năm 1967, trong chuyến đi thực tế của nhà thơ ở vùng biển Diêm
Điền, tỉnh Thái Bình, in trong tập "Hoa dọc chiến hào" (1968). Bài thơ gồm chín khổ thơ với nội
dung miêu tả về sóng biển và diễn tả tâm trạng của nhân vật trữ tình "em", người phụ nữ đang yêu.
III. Tổng kết
Qua hình tượng sóng, trên cơ sở khám phá sự tương đồng, hòa hợp giữa sóng và em, bài thơ
diễn tả tình yêu của người phụ nữ thiết tha nồng nàn, chung thủy, muốn vượt lên thử thách của thời
gian và sự hữu hạn của đời người. Từ đó thấy được tình yêu là một tình cảm cao đẹp, một hạnh
phúc lớn lao của con người.
-5-
NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ
(Nguyễn Tuân)
I. Giới thiệu tác giả
Nguyễn Tuân sinh ra trong một gia đình nhà Nho khi Hán học đã tàn. Ông là một nghệ sĩ tài ba,
uyên bác, có cá tính độc đáo. Là nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại, Nguyễn Tuân
sáng tác nhiều thể loại, song đặc biệt thành công ở thể tùy bút. Tác phẩm tiêu biểu nhất của Nguyễn
Tuân về thể loại này ở giai đoạn sau cách mạng tháng Tám là "Người lái đò sông Đà".
II. Khái quát tác phẩm
"Người lái đò sông Đà" được Nguyễn Tuân sáng tác sau chuyến đi thực tế gian khổ và hào hứng
tới miền Tây Bắc xa xôi, rộng lớn. Bài tùy bút được in trong tập "Sông Đà" xuất bản năm 1960. Nội
dung bài tùy bút là miêu tả con sông Đà và hình ảnh người lái đò vượt thác trên sông Đà, qua đó ca
ngợi "chất vàng mười" của thiên nhiên và con người Tây Bắc.
III. Tổng kết
"Người lái đò Sông Đà" là một áng văn đẹp được làm nên từ tình yêu đất nước say đắm, thiết
tha của một con người muốn dùng văn chương để ca ngợi vẻ đẹp vừa kì vĩ, hào hùng, vừa trữ tình,
thơ mộng của thiên nhiên, và nhất là của con người lao động bình dị ở miền Tây Bắc. Tác phẩm còn
cho thấy công phu lao động nghệ thuật khó nhọc, cùng sự tài hoa uyên bác của người nghệ sĩ
Nguyễn Tuân trong việc dùng chữ nghĩa để tái tạo những kì công của tạo hóa và những kì tích lao
động của con người.
-6-
AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG?
(Hoàng Phủ Ngọc Tường)
I. Giới thiệu tác giả
Hoàng Phủ Ngọc Tường là một trí thức yêu nước, nhà văn gắn bó mật thiết với xứ Huế, có vốn
hiểu biết sâu rộng trên nhiều lĩnh vực. Ông là nhà văn chuyên về bút kí. Sáng tác của ông luôn có sự
kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và trữ tình, giữa nghị luận và tư duy đa chiều với lối hành
văn hướng nội, súc tích, mê đắm, tài hoa. Tác phẩm tiêu biểu nhất của Hoàng Phủ Ngọc Tường là
bút kí "Ai đã đặt tên cho dòng sông?".
II. Khái quát tác phẩm
Bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” được tác giả sáng tác tại Huế năm 1981, in trong tập sách
cùng tên. Bài bút kí gồm ba phần, đoạn trích trong sách giáo khoa thuộc phần đầu bài bút kí, miêu
tả sông Hương ở thượng nguồn, sông Hương chảy về thành phố Huế và rời khỏi kinh thành, sông
Hương trong mối liên hệ với lịch sử dân tộc, với cuộc đời và thi ca.
III. Tổng kết
Đoạn trích bài bút kí "Ai đã đặt tên cho dòng sông?" là đoạn văn xuôi súc tích và đầy chất thơ
về sông Hương. Nét đặc sắc làm nên sức hấp dẫn của đoạn văn là những xúc cảm sâu lắng được
tổng hợp từ một vốn hiểu biết phong phú về văn hóa, lịch sử, địa lí và văn chương cùng một văn
phong tao nhã, hướng nội, tinh tế và tài hoa.
-7-
VỢ CHỒNG A PHỦ
(Tô Hoài)
I. Vài nét về tác giả
Tô Hoài là nhà văn có sức sáng tạo dồi dào bậc nhất trong nền văn học Việt Nam hiện đại. Ông
có vốn hiểu biết rất phong phú, sâu sắc về phong tục, tập quán của nhiều vùng khác nhau trên đất
nước ta đặc biệt là vùng miền núi Tây Bắc. Trong sự nghiệp sáng tác của mình ông đã để lại dấu
ấn riêng với rất nhiều tác phẩm trong đó nổi tiếng nhất là truyện “Vợ chồng A Phủ”.
II. Khái quát tác phẩm
Truyện “Vợ chồng A Phủ” được Tô Hoài sáng tác năm 1952, in trong tập "Truyện Tây Bắc".
Truyện tập trung thể hiện nỗi thống khổ của người Mèo ở Tây Bắc dưới ách thống trị của bọn
chúa đất và lũ Tây đồn; sự thức tỉnh và vùng dậy của họ để giành lấy tự do, hạnh phúc và tham
gia kháng chiến giải phóng quê hương. Đoạn trích mà chúng ta được học thuộc phần đầu của
truyện ngắn, nói về cuộc sống của Mị và A Phủ ở Hồng Ngài.
III. Tổng kết
“Vợ chồng A Phủ” là câu chuyện về những người dân lao động ở vùng cao Tây Bắc không cam
chịu bọn thực dân, chúa đất áp bức, đày đọa, giam hãm trong cuộc sống tăm tối đã vùng lên phản
kháng, đi tìm cuộc sống tự do. Tác phẩm khắc họa những nét riêng biệt về phong tục, tập quán,
tính cách và tâm hồn người dân các dân tộc thiểu số bằng một giọng văn nhẹ nhàng, tinh tế,
đượm màu sắc và phong vị dân tộc, vừa giàu tính tạo hình, vừa giàu chất thơ.
-8-
VỢ NHẶT
(Kim Lân)
I. Vài nét về tác giả
Kim Lân là nhà văn chuyên viết truyện ngắn, thế giới nghệ thuật của ông thường tập trung miêu
tả về khung cảnh nông thôn và hình tượng người nông dân. Ông viết chân thật, xúc động về cuộc
sống nông thôn và người dân quê mà ông hiểu sâu sắc cảnh ngộ và tâm lí của họ - những con
người gắn bó tha thiết với quê hương và cách mạng. “Vợ nhặt” là một trong những truyện ngắn
xuất sắc nhất của ông.
II. Khái quát về tác phẩm
Truyện ngắn "Vợ nhặt" được in trong tập "Con chó xấu xí", có tiền thân là tiểu thuyết “Xóm ngụ
cư” được viết ngay sau Cách mạng tháng Tám nhưng dang dở và thất lạc bản thảo. Sau khi hòa
bình lập lại (1954), ông dựa vào một phần cốt truyện cũ để viết nên truyện ngắn này. Truyện tập
trung phản ánh bối cảnh nạn đói thảm khốc năm 1945 và cuộc sống của người dân trong nạn đói
đó.
III. Tổng kết
Truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân không chỉ miêu tả tình cảnh thê thảm của người nông dân
nước ta trong nạn đói khủng khiếp năm 1945 mà còn thể hiện được bản chất tốt đẹp và sức sống
kì diệu của họ: ngay trên bờ vực của cái chết họ vẫn hướng về sự sống, khát khao tổ ấm gia đình
và thương yêu đùm bọc lẫn nhau. Nội dung nhân đạo sâu sắc và cảm động đó được thể hiện qua
một tình huống truyện độc đáo, cách kể chuyện hấp dẫn, miêu tả tâm lí khá tinh tế, dựng đối
thoại sinh động.
-9-
RỪNG XÀ NU
(Nguyễn Trung Thành)
I. Vài nét về tác giả
Nguyễn Trung Thành là nhà văn gắn bó với Tây Nguyên trong cả hai cuộc kháng chiến chống
Pháp và chống Mĩ. Sự gắn bó, hiểu biết và lòng yêu mến đối với thiên nhiên và con người Tây
Nguyên chính là cơ sở để Nguyễn Trung Thành trở thành người đầu tiên và là người góp nhiều
công sức nhất trong việc đưa văn chương hiện đại về với Tây Nguyên và đưa Tây Nguyên đến
với văn chương hiện đại. Trong sự nghiệp của mình ông đã để lại dấu ấn riêng với nhiều tác
phẩm tiêu biểu, trong đó có truyện ngắn “Rừng xà nu”.
II. Khái quát tác phẩm
“Rừng xà nu” được hoàn thành ở khu căn cứ của chiến trường miền Trung Trung bộ năm 1965.
Tác phẩm ra mắt lần đầu tiên trên Tạp chí văn nghệ quân giải phóng miền Trung Trung bộ, sau
đó được in trong tập “Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc”. “Rừng xà nu” phản ánh quá
trình vùng lên đấu tranh để giành lấy tự do của dân làng Xô Man anh dũng.
III. Tổng kết
“Rừng xà nu” là một thiên truyện mang ý nghĩa và vẻ đẹp của một khúc sử thi trong văn xuôi
hiện đại. Với lời văn trau chuốt, giàu hình ảnh, tác phẩm đã tái hiện được vẻ đẹp tráng lệ, hào
hùng của núi rừng, của con người và của truyền thống văn hóa Tây Nguyên.
Thông qua câu chuyện về những con người ở một bản làng hẻo lánh, bên những cánh rừng xà nu
bạt ngàn, xanh bất tận, tác giả đã đặt ra vấn đề có ý nghĩa lớn lao của dân tộc và thời đại: để cho
sự sống của đất nước và nhân dân mãi mãi trường tồn, không có cách nào khác hơn là phải cùng
nhau đứng lên, cầm vũ khí chống lại kẻ thù tàn ác.
- 10 -
CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA
(Nguyễn Minh Châu)
I. Vài nét về tác giả
Nguyễn Minh Châu được coi là một trong những cây bút tiên phong của văn học Việt Nam thời
kì đổi mới. Truyện ngắn của ông đi sâu khám phá sự thật đời sống ở bình diện đạo đức thế sự.
Tâm điểm những khám phá nghệ thuật của ông là con người trong cuộc mưu sinh, trong hành
trình nhọc nhằn kiếm tìm hạnh phúc và hoàn thiện nhân cách. Trong cuộc đời cầm bút của mình
ông đã để lại rất nhiều tác phẩm trong đó “Chiếc thuyền ngoài xa” được coi là truyện ngắn xuất
sắc nhất của ông sau 1975.
II. Khái quát tác phẩm
Truyện “Chiếc thuyền ngoài xa” lần đầu được in trong tập “Bến quê” (1985), sau đó được lấy
làm tên chung cho một tuyển tập truyện ngắn (in năm 1987). Thông qua câu chuyện này, Nguyễn
Minh Châu muốn gửi gắm tới người đọc một thông điệp sâu sắc: phải có cái nhìn đa chiều để
phát hiện ra bản chất của cuộc sống.
III. Tổng kết
Từ câu chuyện về một bức ảnh nghệ thuật và sự thật cuộc đời đằng sau bức ảnh, truyện ngắn
“Chiếc thuyền ngoài xa” mang đến một bài học đúng đắn về cách nhìn nhận cuộc sống và con
người: một cách nhìn đa diện, nhiều chiều, phát hiện ra bản chất thật đằng sau vẻ đẹp bên ngoài
của hiện tượng. Cách khắc họa nhân vật, xây dựng cốt truyện, sử dụng ngôn ngữ rất linh hoạt,
sáng tạo đã góp phần làm nổi bật chủ đề - tư tưởng của tác phẩm.
- 11 -
HỒN TRƯƠNG BA, DA HÀNG THỊT
(Lưu Quang Vũ)
I. Vài nét về tác giả
- Lưu Quang Vũ sinh ra trong một gia đình trí thức, cha là nhà viết kịch Lưu Quang Thuận, nên
thiên hướng và năng khiếu nghệ thuật của ông đã sớm bộc lộ từ nhỏ.
- Lưu Quang Vũ tưng tham gia quân đội trong thời kì kháng chiến chống Mĩ, đây là thời kì thơ
ông bắt đầu nở rộ, được bạn đọc yêu thích.
- Ông không chỉ là một hiện tượng đặc biệt của sân khấu kịch trường những năm 80 của thế kì
XX, mà còn được coi là một trong những nhà soạn kịch tài năng nhất của nền văn học Việt Nam
hiện đại. Kịch Lưu Quang Vũ tham dự vào dòng chảy mãnh liệt của đời sống, thể hiện khát vọng
về cái đẹp, cái thiện, về sự hoàn thiện nhân cách con người, thể hiện ý thức công dân và cảm
hứng nghệ sĩ sâu sắc; lại được ngọn gió dân chủ và đổi mới của xã hội tác động nên kịch của
Lưu Quang Vũ càng có điều kiện phát triển.
- Lưu Quang Vũ giã từ cuộc đời ở tuổi 40, giữa lúc tài năng đang vào độ chín.
II. Khái quát chung
- “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” được Lưu Quang Vũ sáng tác năm 1981, công diễn lần đầu năm
1984. Vở kịch được sáng tác theo hướng khai thác cốt truyện dân gian để gửi gắm những suy
nghĩ về nhân sinh, về hạnh phúc, kết hợp phê phán một số tiêu cực trong cuộc sống hiện đại.
- Đoạn trích là phần lớn cảnh VII. Đây cũng là đoạn kết của vở kịch, đúng vào lúc xung đột
trung tâm của vở kịch lên đến đỉnh điểm. Đoạn trích tập trung diễn tả sự đau khổ, dằn vặt và
quyết định cuối cùng vô cùng cao thượng của nhân vật hồn Trương Ba.
III. Tổng kết
Qua đoạn trích vở kịch “Hồn trương ba da hàng thịt”, Lưu Quang Vũ muốn gửi tới người đọc
thông điệp: Sự sống chỉ thực sự có ý nghĩa khi con người được sống tự nhiên với sự hài hòa giữa
thể xác và tâm hồn. Con người phải luôn luôn biết đấu tranh với nghịch cảnh, với chính bản thân,
chống lại sự dung tục để hoàn thiện nhân cách và vươn tới những giá trị tinh thần cao quý.
- 12 -