Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

SỰ CẦN THIẾT KHÁCH QUAN PHẢI CHUYỂN DỊCH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (138.39 KB, 25 trang )

SỰ CẦN THIẾT KHÁCH QUAN PHẢI CHUYỂN DỊCH
CƠ CẤU CÔNG NGHIỆP TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP
KHU VỰC VÀ THẾ GIỚI
I. Cơ cấu kinh tế, cơ cấu ngành công nghiệp và chuyển dịch cơ cấu ngành công
nghiệp
1. Cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
1.1 Khái niệm và phân loại cơ cấu kinh tế.
Đứng trên quan điểm duy vật biện chứng và lý thuyết hệ thống có
thể định nghĩa cơ cấu kinh tế như sau: cơ cấu kinh tế là một tổng thể
hợp thành các yếu tố kinh tế của nên kinh tế quốc dân, giữa chúng có
mối quan hệ hữa cơ, những tương tác qua lại cả về mặt số lượng và
chất lượng, trong những không gian, thời gian và điều kiện kinh tế - xã
hội cụ thể. Chúng vận động, phát triển trong những mối quan hệ giữa
yếu tố hợp thành đó và tuân thủ các quy luật nhất định: chịu sự phát
triển đi lên của nền kinh tế và các xu thế của môi trường kinh tế trên
phạm vi quốc tế, vai trò vị trí cũng như mối quan hệ của các yếu tố cơ
cấu kinh tế sẽ thay đổi.
Sau đây chúng ta xem xét 3 loại cơ cấu kinh tế đóng vai trò quan
trọng trong sự phát triển của nên kinh tế Việt Nam là cơ cấu ngành
kinh tế, cơ cấu vùng kinh tế, cơ cấu thành phần kinh tế.
• Cơ cấu kinh tế ngành, là một hệ thống các ngành của nên
kinh tế có quan hệ hữu cơ vơi nhau. Mỗi một ngành có vai trò, vị trí
khác nhau trong hệ thống phân công lao động xã hội biểu hiện trước
hết ở tỷ trọng của chúng trong tổng thể cơ cấu ngành và mối liên hệ
qua lại trực tiếp, gián tiếp các ngành khác trong phạm vị quốc gia và cả
trên phạm vi quốc tế.
Khi phân tích cơ cấu ngành của một quốc gia người ta thường
phân theo 3 nhóm ngành chính:
- Nhóm ngành nông nghiệp, lâm nghiệp và ngư nghiệp
- Nhóm ngành công nghiệp và xây dựng.
- Nhóm ngành dịch vụ.


Xu hướng có tính quy luật chung của sự chuyển dịch cơ cấu ngành
kinh tế củ một quốc gia là chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá,
nghĩa là tỷ trọng và vai trò của ngành công nghiệp và dịch vụ có xu
hướng tăng nhanh hơn, còn tỷ trọng và vai trò của ngành nông nghệp
có xu hướng giảm.
• Cơ cấu kinh tế lãnh thổ. Nếu cơ cấu ngành kinh tế hình
thành từ quá trình phân công lao động xã hội và chuyên môn hoá sản
xuất thì cơ cấu kinh tế lãnh thổ. Xuất phát rừ sự khác nhau về điều kiện
tự nhiên, địa lý, điều kiện xã hội… Mà mỗi vùng lãnh thổ có điều kiện,
ưu thế khác nhau. Chính có sự khác nhau, nhằm phát huy thế mạnh của
mỗi vùng. Cơ cấu lãnh thổ hình thành cơ cấu liền với cơ cấu ngành. Việc
phát triển kinh tế lãnh thổ và hình thành cơ cấu kinh tế lãnh thổ phải
đảm bảo sự hình thành và phát triển có hiệu quả kinh tế lãnh thổ phải
đảm bảo sự hình thành và phát triển có hiệu quả của các ngành kinh tế
theo một có cấu hợp lý trên phạm vi cả nước.
Trong xu thế hội nhập kinh tế ngày nay càng sâu rộng, thì điều
quan trọng là phải giải quyết tốt việc phân bổ sản xuất theo lãnh thổ
kết hợp với phân công lao động trong các ngành kinh tế nhằm phát huy
lợi thế đất nước và tạo thế mạnh của các mặt hàng tham gia thương
mại quốc tế. Có nghĩa là sự phát triển vùng trên phạm vi cả nước; phát
triển của mỗi vùng không được làm ảnh hưởng tới phát triển của vùng
khác và của cả nước.
• Cơ cấu thành phần kinh tế. Nếu như sự phát triển đi lên của
kinh tế - xã hội cùng với quá trình phân công lao động xã hội và bố trí
lực lượng sản xuất theo lãnh thổ là cơ sở hình thành cơ cấu lãnh thổ,
thì chế độ sở hữu lại là cơ sở hình thành cơ cấu thành phần kinh tế. Một
cơ cấu thành phần hợp lý sẽ thúc đẩy phát triển nhanh lực lượng sản
xuất, phát huy sức mạnh các nguồn lực của đất nước. Sản xuất cái gì?
Sản xuất ở đâu? Sản xuất như thế nào? Sẽ phụ thuộc vào cơ cấu ngành
và cơ cấu vùng. Nhưng một vấn đề lớn la ai quyết định sản xuất thì đây

lại thuộc về cơ cấu thành phần kinh tế. Đối với những nước đang phát
triển thì điều này là một vấn đề đnag nóng bỏng và đang đựơc tiếp tục
làm rõ.
1.2 -Chuyển dịch cơ cấu kinh tế:
Là quá trình biến đổi cơ cấu kinh tế từ dạng này sang dạng khác
phù hợp với sự phát triển của phân công lao động xã hội.
Chuyển dịch cơ cấu mang tính khách quan thông qua những nhận
thức chủ quan của con người. Khi có sự tác động của con người, trong
quá trình chuyển dịch cơ cấu đã hình thành một số khái niệm:
Điều chỉnh cơ cấu: Đó là quá trình chuyển dịch cơ cấu trên cơ sở
thay đổi một số nặt, một số yếu tố của cơ cấu, làm cho nó thích ứng với
điều kiện khách quan từng thời kỳ, không tạo ra sự thay đổi đột biến
tức thời.
Cải tổ cơ cấu: Đó là quá trình chuyển dịch cơ cấu đem tính thay
đổi về mặt bản chất so với thực trạng cơ cấu ban đầu, nhanh chóng tạo
ra sự đột biến.
1.3 Vai trò của chuyển dịch cơ cấu kinh tế:
Việc xây dựng một cơ cấu kinh tế hợp lý có ý nghĩa vô cùng quan
trọng. Vì sự tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế là hai
mặt của sự phát triển kinh tế. giữa chúng có mối quan hệ qua lại lẫn
nhau như mối quan hệ giữa lượng và chất. Cơ cấu kinh tế hợp lý sẽ thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế và đến lượt nó tăng trưởng kinh tế sẽ tạo điều
kiện cần thiết để hoàn thiện hơn nữa cơ cấu kinh tế trong tương lai. Vì
thế xét trên góc độ tác động đến quá tình phát triển, chuyển dịch cơ cấu
kinh tế có những vai trò cụ thể sau:
Thứ nhất:Chuyển dịch cơ cấu kinh tế sẽ tạo điều kiện thực hiện
các mục tiêu kinh tế- xã hội đã được vạch ra trong chiến lược của đất
nước cũng như của từng ngành, từng địa phương.
Thứ hai: Nhằm khai thác đầy đủ, hợp lý và có hiệu quả nhất các
nguồn lực phát triển, nhằm phát huy lợi thế so sánh, cho phép tạo ra

các cực tăng trưởng nhanh.
Thứ ba: Tạo điều kiện mở đường, thúc đẩy lực lượng sản xuất
phát triển, thúc đẩy sự phân công lao động giữa các ngành, vùng lãnh
thổ và cá thành phần kinh tế.
Thứ tư: Đảm bảo tăng cường sức mạnh về bảo vệ quốc phòng an
ninh góp phần quan trọng vào sự ổn định chính trị kinh tế đất nước.
Thứ năm:Tạo điều kiện cho nền kinh tế nhanh chóng hội nhập vào
nền kinh tế khu vực và thế giới.
1.4 - Các nhân tố cơ bản tác động tới quá trình chuyển dịch cơ
cấu kinh tế:
Sự hình thành cơ cấu kinh tế của một quốc gia chịu sự tác động
của nhiều nhân tố khách quan và chủ quan hết sức phức tạp. Các nhân
tố này có thể chia thành hai nhóm sau:
• Nhóm các nhân tố khách quan bao gồm:
Các nhân tố về điều kiện tự nhiên: tài nguyên thiên nhiên, khoáng sản, vị trí
địa lý, các nguồn năng lượng ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên đối với việc hình
thành cơ cấu kinh tế mang tính trực tiếp.
Các nhân tố kinh tế - xã hội bên trong của đất nước, nhu cầu thị
trường, dân số và nguồn lao sđộng, trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất, trình độ quản lý, hoàn cảnh lịch sử của đất nước. Tiến bộ khoa học -
công nghệ có ảnh hưởng rất lớn đến sự biến đổi cơ cấu kinh tế.
Ngoài ra, còn có các nhân tố bên ngoài như quan hệ kinh tế đối
ngoại và hợp tác phân công lao động quốc tế. Do sự khác nhau về điều
kiện sản xuất ở các nước, đòi hỏi phải có sự trao đổi kết quả lao động
với bên ngoài ở những mức độ và phạm vi khác nhau.
• Nhóm các nhân tố chủ quan: Bao gồm đường lối chính sách của đảng và
nhà nước, cơ chế quản lý, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội có ảnh
hưởng rất lớn đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Tóm lại, các nhân tố qui định cơ cấu kinh tế của một nước hợp thành một
hệ thống phức tạop tác động nhiều chiều và ở những mức độ khác nhau. Do đó cần

có quan điểm hệ thống, toàn diện và cụ thể khi phân tích và thực hiện chuyển dịch
cơ cấu kinh tế.
2. Cơ cấu ngành công nghiệp
2.1. Khái niệm công nghiệp
Ngành công nghiệp, theo định nghĩa của DANH TỪ KINH TẾ, nhà xuất bản sự
thật, Hà nội 1987 là "một ngành sản xuất vật chất độc lập có vai trò chủ đạo trong
nền kinh tế quốc dân, có nhiệm vụ khai thác tài nguyên thiên nhiên, chế biến tài
nguyên và các sản phẩm nông nghiệp thành những tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu
dùng". Khái niệm này thuộc về những khái niệm cơ bản của kinh tế chính trị học.
Theo khái niệm như vậy ngành công nghiệp đã có từ rất lâu phát triển từ trình độ
thủ công lên trình độ cơ khí, tự động, từ chỗ gắn liền với nông nghiệp trong khuôn
khổ của một nền sản xuất nhỏ, tự cung tự cấp rồi tách khỏi nông nghiệp bởi cuộc
phân công lao động lớn lần thứ hai để trở thành một ngành sản xuất độc lập và
phát triển cao hơn qua các giai đoạn hiệp tác giản đơn, công trường thủ công,
công xưởng... Tuy nhiên đề tài này không tập trung vào việc nghiên cứu sau về khía
cạnh kinh tế chính trị học của khái niệm ngành công nghiệp.
* Khái niệm chuyển dịch cơ cấu công nghiệp
Do các điều kiện phát triển công nghiệp luôn luôn vận động và biến đổi, yêu cầu của
đất nước với công nghiệp ở các giai đoạn phát triển cũng khác nhau, nên vị trí đất nước với
công nghiệp ở các giai đoạn phát triển cũng khác nhau, nên vị trí của các bộ phận hợp
thành công nghiệp cũng không cố định. Cơ cấu công nghiệp do vậy là một cơ cấu động.
Sự biến đổi của cơ cấu công nghiệp từ trạng thái này sang trạng thái khác cho phù
hợp với môi trường và yêu cầu phát triển gọi là sự chuyển dịch cơ cấu công nghiệp.
Sự thay đổi này được biểu hiện trên hai mặt cơ bản: thay đổi số lượng các phân
ngành, thay đổi tỷ trọng của từng phân ngành; thay đổi mối quan hệ tương tác giữa các
phân ngành và vai trò vị trí của từng phân ngành trong toàn ngành công nghiệp nói chung
và trong toàn nền kinh tế nói riêng.
Xác định và thực hiện phương hướng chuyển dịch cơ cấu công nghiệp là một vấn đề
mang tính chiến lược của quá trình xây dựng và phát triển công nghiệp của đất nước. Cơ
cấu công nghiệp phải khai thác một cách đầy đủ và có hiệu quả các nguồn lực, lợi thế của

đất nước, bảo đảm công nghiệp có thể phát huy được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc
dân, tham gia tích cực vào sự phân công và hợp tác lao động quốc tế. Đó là tác dụng của
việc nghiên cứu cơ cấu công nghiệp đồng thời cũng là yêu cầu mà việc chuyển dịch cơ cấu
công nghiệp phải đạt được. Trong mỗi giai đoạn của quá trình chuyển dịch cơ cấu công
nghiệp, yêu cầu chung đó sẽ được cụ thể hoá cho phù hợp với khả năng và điều kiện của giai
đoạn đó.
2.2. Phân loại trong ngành công nghiệp.
Một trong những cách phân loại phục vụ cho các nghiên cứu liên quan tới
góc độ kinh tế chính trị học, ngành công nghiệp được phân ra các ngành sản xuất
tư liệu sản xuất và những ngành sản xuất tư liệu tiêu dùng và nhiều khi được hiểu
như là công nghiệp nặng (công nghiệp nhóm A) và ngành công nghiệp nhẹ (công
nghiệp B).
Theo giác độ liên quan đến cơ chế quản lý, người ta có công nghiệp quốc doanh và
công nghiệp ngoài quốc doanh, công nghiệp trung ương do nhà nước trung ương
quản lý và công nghiệp địa phương do nhà nước địa phương quản lý.
Theo cách phân loại có tính chất truyền thiong theo đặc trưng kỹ thuật
công nghệ của ngành và sản phẩm... ngành công nghiệp được chia ra thành 19
ngành kỹ thuật từ sản xuất năng lượng đến máy móc thiết bi, chế biến nông sản và
các sản phẩm khác... Các phân loại này đã sử dụng từ lâu và được chuyển đổi cho
phù hợp với hệ thông phân ngành quốc tế (ISIC) trong quá trình đổi mới và sử
dụng hệ thống tài khoản quốc gia phục vụ cho nghiên cứu kinh tế trong điều kiện
kinh tế thị trường.
Một cách phân loại khác cũng thường được sử dụng trong các nghien cứu
gần đây là chia ngành công nghiệp ra các ngành thượng nguồn và hạ nguồn.
Trong đó các ngành công nghiệp thượng nguồn bao gồm các ngành khai thác và
cung cấp nguyên vật liệu cho các hoạt động chế tác, sản xuất các sản phẩm cho
tiêu dùng của nền kinh tế (các ngành công nghiệp hạ nguồn). Gần với cách phân
loại này chúng ta có các ngành khai thác khoáng, chế tác, sản xuất và cung cấp
điện, nước ...
Để nghiên cứu các nguồn lực phát triển công nghiệp, người ta còn chia các

ngành công nghiệp theo mức độ sử dụng các yêú tố nguồn lực cơ bản. Theo cách
phân loại này chúng ta có: công nghiệp dựa trên cơ sở tài nguyên, công nghiệp sử
dụng nhều lao động, công nghiệp sử dụng nhiều vốn, công nghiệp có hàm lượng công
nghệ cao...
Khi nghiên cứu mức độ khả năng chiếm lĩnh thị trường- thị phần công
nghiệp, các ngành công nghiệp được chia ra công nghiệp hướng về xuất khẩu và
công nghịêp khai thác thị trường trong nước. Vì vậy trong quá trình nghiên cứu
phát triển công nghiệp, các vấn đề về thương mại (bao gồm cả ngoại thương và
nội thương) cũng cần được xem xét.
2.3. Vai trò, vị trí của chuyển dịch cơ cấu công nghiệp và ý nghĩa
đối với nước ta.
Chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp là một nội dung quan trọng và lâu
dài trong chiến lược phát triển công nghiệp nói riêng và trong chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội nói chung. Điều này xuất phát từ vị trí, vai trò quan trọng
của côgn nghiệp trong nền kinh tế quốc dân và tác dụng của việc hình thành cơ
cấu kinh tế hợp lý của ngành công nghiệp. Việc chuyển dịch từ cơ cấu cụ, không
hợp lý sang cơ cấu hợp lý sẽ tận dụng và phát huy được các nguồn lực của đất
nước để đáp ứng tốt nhất nhu cầu thị trường xã hội và thúc đẩy nền kinh tế, là
phương tiện quan trọng để thực hiẹn có hiệu quả các mục tiêu phát triển kinh tế
-xã hội theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Chuyển dịch cơ cấu công nghiệp
để tạo nên một cơ cấu hợp lý sẽ thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế (công
nghiệp- nông nghiệp- dịch vụ) theo hướng công nghiệp hoá; thúc đẩy cơ cấu vùng
lãnh thổ phát triển theo hướng hiệu quả trên cơ sở phát huy thế mạnh của mỗi
vùng; thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế theo hướng phát huy mọi
tiềm năng của các thành phần, không phân biệt đối xử khác nhau giữa các thành
phần. Những ý nghĩa này đặc biệt quan trọng với đặc điểm Việt Nam hiện nay.
Chuyển dịch cơ cấu công nghiệp theo hướng mở, năng động không chỉ cho phép sử
dụng hiệu quả các lợi thế của đất nước mà còn tranh thủ tối đa điều kiện thuận
lợi của bối cảnh quốc tế; tạo điều kiện tham gia sâu rộng, tham gia chủ động vào
phân công hợp tác quốc tế. Đối với Việt Nam hiện nay, chuyển dịch cơ cấu công

nghiệp hợp lý còn thúc đẩy giải quyết những cản trở, tháo gỡ bế tắc cho các yếu tố
phát triển như là: hình thành cơ cấu lao động hợp lý đi đối với đào tạo công nhân,
cán bộ đáp ứng tốt yêu cầu phát triển trong mỗi giai đoạn phát triển đất nước;
hướng dẫn đầu tư của nhà nước và của khu vực tư nhân, khu vực nước ngoài theo
hướng hiệu quả trên cơ sở phát huy tốt các lợi thế đất nước, góp phần thực hiện
quản lý kinh tế theo cơ chế thích hợp...
a) Công nghiệp trực tiếp đóng góp một phần quan trọng trong tăng trưởng
kinh tế.
Ngành công nghiệp, khi phát triển bản thân nó là một khu vực đóng một
phần lớn trong tổng sản phẩm xã hội.
ở hầu hết các Quốc gia trên thế giới ngành công nghiệp đều chiếm tỷ trọng
cao và ngày càng có xu hướng tăng lên. Ngoại trừ các quốc gia phát triển, ở đó tỷ
trọng của khu vực công nghiệp và dịch vụ rất lớn trong tổng sản phẩm quốc nội.
Quốc gia trên thế
Ở Vịêt Nam điều này được thể hiện rất rõ, tỷ trọng công nghiệp trong GDP
đang ngày càng tăng từ 19,8% năm 1991 lên tới 22,8% năm 1995 và năm 2005
ước đạt 42%
Bằng chỉ tiêu giá trị gia tăng công nghiệp và tỷ trọng của nó trong GDP
chúng ta có thể thấy được vai trò của công nghiệp trong đóng góp trực tiếp vào
tăng trưởng kinh tế. Và trong nhưng năm gần đây công nghiệp Việt nam đã đạt
được tốc độ tăng trưởng tương đối cao ở phần lớn các phân ngành công nghiệp
và hầu như ở tất cả các vùng lãnh thổ.
Tốc độ tăng trưởng công nghiệp đạt tới trên 10% đến 15% bình quân năm (
thậm chí có lúc trên 15%). Sự phát triển nhanh chóng của công nghiệp góp phần
tăng nhanh tích luỹ để đầu tư phát triển đất nước.Một cách khác nữa để thấy rõ
được vai trò của công nghiệp trong tăng trưởng là bằng phương pháp hạch toán
tăng trưởng GDP ta cũng có thể thấy được mức đóng góp của công nghiệp vào
tăng trưởng GDP. Nói một cách khác qua hạch toán tăng trưởng chúng ta thấy
được vai trò của mỗi một ngành trong phát triển kinh tế và đặc biệt cho thấy vai
trò của công nghiệp ngày càng tăng trong tăng trưởng của các quốc gia đang phát

triển.
b) Công nghiệp góp phần quan trọng trong việc tạo tiền đề cơ sở vật chất
kỹ thuật cho các hoạt động kinh tế- xã hội.
Điều này là hiển nhiên và phù hợp với những nguyên lý chung về phát triển
kinh tế. Các sản phẩm công nghiệp ngoài việc phục vụu cho những mục tiêu tiêu
dùng cả của chính phủ cũng như tiêu dùng cá nhân thì một phần lớn các sản phẩm
kỹ thuật cơ bản máy móc thiết bị kỹ thuật được dùng để trang bị cho hoạt động
kinh tế - xã hội khác.
Cũng theo kết quả điều tra và phân tích cùng với các dữ liệu từ các bảng I-O
do Tổng Cục Thống Kê cung cấp, các công nghiệp cơ bản cung cấp đầu vào vật tư
kỹ thuật cho hầu hết tất cả các ngành kinh tế kỹ thuật ( có ngành sử dụng tới
40% đầu vào từ các ngành công nghiệp cơ bản).
Xét trên tổng thể, ngành công nghiệp cung cấp 50,77% giá trị đầu ra cho
nhu cầu sử dụng trong các ngành kinh tế quốc dân. Giá trị đầu ra công nghiệp
cung cấp cho các ngành kinh tế chiếm tới xấp xỉ 60% tổng nhu cầu đầu vào từ các
ngành kinh tế. Rõ ràng công nghiệp có một vị trí quan trọng trong phát triển kinh
tế quốc dân.
Ngoài những tác động có tính trực tiếp đến các hoạt động kinh tế - xã hội
nói trên, những tác động gián tiếp của sự phát triển công nghiệp nhìn chung khó
có thể lượng hoá được. Với sự hỗ trợ của công nghiệp nhiều ngành kinh tế phát
triển đã tạo ra việc làm và thu nhập, nâng cao đời sống của nhân dân trên mọi
miền đất nước.
c) Công nghiệp phát triển tạo động lực thúc đẩy các ngành kinh tế- xã hội
khác phát triển.
Ngược với việc trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật và cung cấp vật tư kỹ thuạt
cho các hoạt động kinh tế- xã hội, sự phát triển của công nghiệp còn có tác dụng
lôi kéo các hoạt đông kinh tế - xã hội phát triển. Trước hết, công nghiệp là nơi tiêu
thụ các sản phẩm từ một số ngành kinh tế kỹ thuật khác. Thứ hai, công nghiệp
phát triển tạo nhiều cơ hội việc làm cho đông đảo nhân dân. Thứ ba, sự phát triển
của công nghiệp làm thay đổi nhanh chóng bộ mặt xã hội của một quốc gia. Thứ

tư, với một chiến lược phát triển công nghiệp hợp lý chú trọng nhiều tới sự phát
triển bền vững của một quốc gia, sự phát triển công nghiệp góp phần làm giảm
bớt sự khác biệt giữa các khu vực dân cư.
Theo các số liệu thống kê có được cho năm 1995, 28,46% giá tị đầu ra nông
nghiệp; 34,39% giá trị ngành lâm sản cũng như 37,15% giá trị ngành thuỷ sản
cung cấp cho các hoạt động công nghiệp trong đó chủ yếu là công nghiệp chế biến
các sản phẩm của các ngành đó.
Xét trên khía cạnh tạo việc làm, chỉ riêng số chỗ làm việc trong các hoạt
động công nghiệp do nhà nước quản lý đã có tới trên 600 nghìn, còn lực lượng lao
động công nghiệp trong khu vực công nghiệp vừa và nhỏ, thủ công nghiệp, công
nghiệp ở nông thôn là rất lớn.
3. Các nhân tố ảnh hưởng đến chuyển dịch cơ cấu ngành
công nghiệp.
3.1 Yêu cầu và điều kiện hội nhập khu vực và thế giới.
Hội nhập khu vực và thế giới là một nhu cầu tất yếu của bất cứ một quốc
gia nào nếu muốn đất nước mình được phát triển. Do đó, nền kinh tế nói chung,
ngành công nghiệp nói riêng của đất nước phải tham gia vào quá trình phân công
và hiệp tác trên phạm vi quốc tế. ngành công nghiệp của mỗi quốc gia phải tham
gia vào các chế định chung. các chế định chung đó đề cập đến hầu hết các vấn đề
của kinh tế như: việc dịch chuyển các dòng tư bản, các luồng chuyển giao công
nghệ, mở cửa cho đầu tư, sự phân công về các lĩnh vực, tự do hoá thương mại.
Khái niệm thị trường theo quan niệm hành chính lãnh thổ đang dần nhường bước
cho khái niệm thị trường kinh tế. Như vậy, cơ cấu công nghiệp phải tính đến các

×