HOẠT ĐỘNG TƯ VẤN CỔ PHẦN HÓA CỦA CÔNG TY CHỨNG
KHOÁN
1.1 Khái niệm, đặc điểm và phân loại công ty chứng khoán
1.1.1 Khái niệm và vai trò của Công ty chứng khoán
* Khái niệm
Công ty chứng khoán là một tổ chức định chế tài chính trung gian thực
hiện các nghiệp vụ trên thị trường chứng khoán
Ở Việt Nam, theo quyết định số 4 năm 1998 của Ủy ban chứng khoán
Nhà nước, công ty chứng khoán là công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu
hạn một thành viên hoặc từ hai thành viên trở lên, công ty hợp danh được Ủy
ban chứng khoán Nhà nước cấp giấy phép thực hiện một hoặc một số loại hình
kinh doanh chứng khoán.
Công ty chứng khoán có hoạt động rất đa dạng, phong phú và phức tạp,
khác hẳn so với các doanh nghiệp sản xuất hay thương mại thông thường. Tùy
theo từng tiêu chí mà công ty chứng khoán được phân chia như sau:
Theo nghiệp vụ kinh doanh:
- Công ty môi giới chứng khoán là CTCK chỉ thực hiện việc trung gian mua
bán chứng khoán cho khách hàng để hưởng hoa hồng.
- Công ty bảo lãnh phát hành chứng khoán là CTCK có lĩnh vực hoạt động
chủ yếu là thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh hưởng phí hoặc chênh lệch giá.
- Công ty kinh doanh chứng khoán là CTCK chủ yếu thực hiện nghiệp vụ tự
doanh, công ty tự bỏ vốn và chịu hậu quả kinh doanh.
- Công ty trái phiếu là CTCK chuyên mua bán các loại trái phiếu.
- Công ty chứng khoán không tập trung là CTCK hoạt động chủ yếu trên
thị trường OTC (thị trường không có trung tâm giao dịch, đó là mạng lưới các
nhà môi giới và tự doanh chứng khoán mua bán với nhau và với các nhà đầu tư)
và đóng vai trò là các nhà tạo lập thị trường.
Theo mô hình tổ chức kinh doanh:
Công ty chứng khoán được chia thành 2 loại:
- Công ty chứng khoán đa năng
Theo mô hình này, công ty chứng khoán thực hiện các dịch vụ tài chính tổng
hợp bao gồm kinh doanh chứng khoán, kinh doanh tiền tệ và các dịch vụ tài
chính khác. Mô hình này được tổ chức dưới 2 hình thức:
Loại đa năng một phần: Các ngân hàng muốn kinh doanh chứng khoán,
kinh doanh bảo hiểm phải lập công ty độc lập hoạt động tách rời.
Loại đa năng hoàn toàn: Các ngân hàng được kinh doanh chứng khoán,
kinh doanh bảo hiểm bên cạnh kinh doanh tiền tệ.
- Công ty chứng khoán chuyên doanh
Theo mô hình này, hoạt động chuyên doanh chứng khoán sẽ do các công
ty độc lập, chuyên môn hóa trong lĩnh vực chứng khoán đảm nhận; các ngân
hàng không được tham gia kinh doanh chứng khoán.
Theo tính chất sở hữu:
Có 3 loại hình thức tổ chức công ty chứng khoán cơ bản là: công ty hợp danh,
công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần.
- Công ty hợp danh
Là loại hình kinh doanh từ hai chủ sở hữu trở lên. Thành viên CTCK hợp
danh bao gồm: thành viên góp vốn và thành viên hợp danh. Các thành viên hợp
danh phải chịu trách nhiệm vô hạn bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa
vụ của công ty, còn thành viên góp vốn không tham gia điều hành công ty, họ
chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn trong phần vốn góp của mình đối với những
khoản nợ của công ty.
Khả năng huy động vốn của công ty hợp danh bị giới hạn trong số vốn
mà các hội viên có thể đóng góp.
- Công ty trách nhiệm hữu hạn
Đây là loại công ty đòi hỏi trách nhiệm của những thành viên giới hạn
trong số vốn mà họ đã góp
Về phương diện huy động vốn, công ty TNHH đơn giản và linh hoạt hơn
so với công ty hợp danh, vấn đề tuyển đội ngũ nhân viên năng động hơn.
- Công ty cổ phần
Công ty cổ phần là một pháp nhân độc lập, với các chủ sở hữu là các cổ
đông. Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty
trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp của mình.
Công ty cổ phần có quyền phát hành chứng khoán ra công chúng theo
quy định của pháp luật.
* Vai trò của công ty chứng khoán
Công ty chứng khoán có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của thị
trường chứng khoán, các tổ chức phát hành, các nhà đầu tư và cơ quan quản lý
thị trường. Với mỗi chủ thể khác nhau trong nền kinh tế, vai trò của CTCK
được thể hiện dưới những góc độ khác nhau:
- Đối với các tổ chức phát hành
Thị trường chứng khoán ra đời đã tạo điều kiện cho các Doanh nghiệp tiếp cận
với một kênh huy động vốn mới linh hoạt và hiệu quả hơn. Doanh nghiệp không
phải phụ thuộc nhiều vào vốn đi vay từ các NHTM, mà có thể huy động vốn
trên thị trường chứng khoán thông qua việc phát hành chứng khoán. Công ty
chứng khoán là một trung gian tài chính với vai trò huy động vốn, làm cầu nối
giữa tổ chức phát hành và các nhà đầu tư; đồng thời là kênh dẫn vốn, phân phối
chứng khoán từ các tổ chức phát hành, những người có nhu cầu nắm giữ chứng
khoán, tạo ra một cơ chế huy động
vốn cho nhà phát hành và cho cả nền kinh tế thông qua thị trường chứng khoán,
giúp giảm chi phí huy động cho nhà phát hành.
- Đối với các nhà đầu tư
Công ty chứng khoán với chức năng là một trung gian tài chính, có trình độ
chuyên môn hóa cao, tham gia vào nhiều dịch vụ tư vấn khác nhau thông qua
việc nghiên cứu thị trường, rồi cung cấp thông tin đó cho các nhà đầu tư có tổ
chức và nhà đầu tư cá nhân, cung cấp một cơ chế giá cả nhằm giúp nhà đầu tư
có được sự đánh giá đúng thực tế và chính xác về khoản đầu tư của mình. Từ đó
giúp nhà đầu tư tiết kiệm được thời gian, chi phí giao dịch và giúp nâng cao tính
thanh khoản cho thị trường, nâng cao hiệu quả đầu tư.
Các nhà đầu tư luôn muốn có được khả năng chuyển tiền mặt thành chứng
khoán có giá và ngược lại trong một môi trương đầu tư ổn định, các Công ty
chứng khoán đảm nhận được chức năng chuyển đổi này, giúp cho nhà đầu tư
phải chịu ít thiệt hại nhất khi tiến hành đầu tư.
- Đối với thị trường chứng khoán
Hoạt động của công ty chứng khoán đã giúp công chúng và nhà đầu tư quen dần
với thị trường. Trên thị trường thứ cấp, CTCK phải cung cấp một cơ chế giá cả
cho nhà đầu tư, can thiệp trên thị trường góp phần điều tiết giá chứng khoán theo
quy luật cung cầu, làm tăng tính thanh khoản của các tài sản tài chính.
Trên thị trường sơ cấp, thông qua các nghiệp vụ bảo lãnh, phát hành chứng
khoán, môi giới, CTCK đã thực hiện tư vấn cho các tổ chức phát hành về mức
giá phát hành hợp lý, thực hiện các giao dịch mua bán chứng khoán sau khi phát
hành. Từ đó, giúp nhà đầu tư dễ dàng chuyển đổi chứng khoán thành tiền mặt và
ngược lại làm tăng tính thanh khoản cho chứng khoán.
- Đối với các cơ quan quản :ý thị trường
Công ty chứng khoán nắm giữ các tài khoản giao dịch của khách hàng, thực
hiện các giao dịch mua bán chứng khoán. Từ đó CTCK có được những thông tin
giao dịch trên thị trường, thông tin về các tổ chức phát hành, nhà đầu tư và các
loại cổ phiếu, trái phiếu của các tổ chức phát hành đó. CTCK có vai trò cung
cấp những thông tin về thị trường chứng khoán cho các cơ quan có thẩm quyền,
cơ quan quản lý thị trường; nhờ đó mà các cơ quan quản lý có thể kiểm soát,
chống các hiện tượng thao túng, lũng đoạn, bóp méo thị trường, bảo vệ quyền
lợi cho các nhà đầu tư.
1.1.2 Đặc điểm của công ty chứng khoán
* Mục tiêu hoạt động của CTCK
CTCK tạo thêm kênh huy động vốn mới cho các chủ thể trong nền kinh
tế, trợ giúp Chính phủ điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Mục tiêu hoạt động chính của
CTCK là tìm kiếm lợi nhuận cho chính bản thân công ty thông qua hoạt động
cung cấp các dịch vụ chuyên ngành trên TTCK và các hoạt động kinh doanh
cho chính công ty, thông qua hoạt động tự doanh với công cụ chính trên thị
trường vốn là cổ phiếu và trái phiếu.
* Nguyên tắc hoạt động của CTCK
- Nguyên tắc đạo đức
CTCK phải đảm bảo trung thực và công bằng vì lợi ích của khách hàng;
làm việc có trình độ, kĩ năng, tận tình, có tinh thần trách nhiệm.
CTCK khi thực hiện nghiệp vụ tư vấn phải cung cấp thông tin đầy đủ cho
khách hàng, giải thích rõ ràng rủi ro mà khách hàng có thể phải gánh chịu.
Có nghĩa vụ bảo mật cho khách hàng, không được tiết lộ thông tin về tài
khoản của khách hàng khi chưa được khách hàng đồng ý trừ khi có yêu cầu của
cơ quan quản lý Nhà nước.
Nghiêm cấm sử dụng các thông tin nội bộ để mua bán chứng khoán cho
chính mình, gây thiệt hại tới lợi ích của khách hàng.
CTCK không được tiến hành các hoạt động có thể làm cho khách hàng và
công chúng hiểu lầm về giá cả, giá trị và bản chất của chứng khoán hoặc các
hoạt động khác gây thiệt hại cho khách hàng.
- Nguyên tắc tài chính
• Đảm bảo yêu cầu về vốn, cơ cấu vốn và nguyên tắc hạch toán, báo
cáo theo quy định của UBCK Nhà nước, đảm bảo nguồn tài chính
trong cam kết kinh doanh chứng khoán với khách hàng.
• CTCK không được dùng tiền của khách hàng làm nguồn tài chính
của mình, ngoại trừ trường hợp số tiền đó dùng phục vụ cho giao
dịch của khách hàng.
• CTCK phải tách bạch tiền và chứng khoán của khách hàng với tài
sản của mình. CTCK không được dùng chứng khoán của khách
hàng làm vật thế chấp để vay vốn trừ trường hợp được khách hàng
đồng ý bằng văn bản.
1.2 Các hoạt động của Công ty chứng khoán
1.2.1 Hoạt động môi giới chứng khoán
Môi giới chứng khoán là một hoạt động kinh doanh chứng khoán, trong
đó một công ty chứng khoán đại diện cho khách hàng tiến hành các giao dịch
thông qua cơ chế giao dịch tại sở giao dịch chứng khoán hay thị trường OTC mà
chính khách hàng phải chịu trách nhiệm đối với hậu quả kinh tế của việc giao
dịch đó.
Hoạt động môi giới chứng khoán là hoạt động trung gian, đại diện mua
bán chứng khoán cho khách hàng để hưởng hoa hồng. Đồng thời, cung cấp các
sản phẩm dịch vụ tư vấn đầu tư, nối liền khách hàng với bộ phận nghiên cứu
đầu tư, khuyến nghị đầu tư, nối liền người bán với người mua. Và trong những
trường hợp nhất định, nhân viên môi giới còn đáp ứng nhu cầu tâm lý cho khách
hàng, trở thành những người bạn, người chia sẻ lo âu, căng thẳng và đưa ra
những lời khuyên, động viên kịp thời để giúp khách hàng có những quyết định
đúng đắn nhất.
Xuất phát từ những yêu cầu trên, đòi hỏi người hành nghề môi giới phải
có những phẩm chất, tư cách đạo đức và thái độ công tâm, cung cấp cho khách
hàng những dịch vụ tốt nhất. Người hành nghề môi giới không được phép xúi
giục khách hàng mua bán để kiếm hoa hồng, mà chỉ nên đưa ra những lời
khuyên hợp lý để hạn chế tối đa sự thiệt hại cho nhà đầu tư.
Người môi giới chứng khoán phải có những kĩ năng sau:
- Kĩ năng truyền đạt thông tin
Phẩm chất, hay thái độ của người môi giới đối với công việc, với bản thân và
với khách hàng được truyền đạt rõ ràng tới hầu hết tất cả mọi người mà người
môi giới giao dịch. Để thành công trong việc bán hàng, người môi giới phải đặt
khách hàng và lợi ích khách hàng lên trên hết. Đây là điểm then chốt trong hoạt
động dịch vụ tài chính và được thể hiện ngay khi tiếp xúc với khách hàng.
- Kĩ năng tìm kiếm khách hàng
Có nhiều phương pháp tìm kiếm khách hàng tùy thuộc vào sự nỗ lực và ý thức
không ngừng tìm kiếm khách hàng của người môi giới chứng khoán. Có 6
phương pháp tìm kiếm khách hàng thông dụng nhất, bao gồm:
Những đầu mối được gây dựng từ công ty hoặc các tài khoản chuyển
nhượng lại;
Những lời giới thiệu khách hàng;
Mạng lưới kinh doanh;
Các chiến dịch viết thư;
Các cuộc hội thảo;
Gọi điện làm quen
- Kĩ năng khai thác thông tin
Người môi giới chứng khoán nắm được các nhu cầu tài chính, các nguồn lực và
cả mức độ chấp nhận rủi ro của khách hàng. Đồng thời, hiểu cách nghĩ và ra
quyết định đầu tư của khách hàng, cũng như những tình cảm bên trong có thể
ảnh hưởng tới phản ứng của họ đối với mối quan hệ giúp đỡ khiến bạn có thể
đáp ứng được nhu cầu của họ.
Kĩ năng thu thập thông tin đem lại cho người môi giới chứng khoán mọi thông
tin, tăng khối lượng tài sản được quản lý và làm tăng sự trung thành của khách
hàng.
1.2.2 Hoạt động tự doanh chứng khoán
Tự doanh là việc công ty chứng khoán tự tiến hành các giao dịch mua bán
các chứng khoán cho chính mình
Hoạt động tự doanh của công ty chứng khoán có thể được thực hiện trên
thị trường giao dịch tập trung hoặc trên thị trường OTC. Tại một số thị trường
vận hành theo cơ chế khớp giá, hoạt động tự doanh của công ty chứng khoán
được thực hiện thông qua hoạt động tạo lập thị trường, CTCK đóng vai trò nhà
tạo lập thị trường, nắm giữ một số lượng nhất định của một số loại chứng khoán
và thực hiện mua bán với các khách hàng nhằm hưởng phí giao dịch và chênh
lệch giá.
Doanh thu từ hoạt động tự doanh là nguồn thu chủ yếu của công ty chứng
khoán, mục đích của hoạt động tự doanh nhằm thu lợi nhuận cho chính công ty
thông qua hành vi mua, bán chứng khoán với khách hàng. Tuy nhiên, hoạt động
này có thể dẫn đến xung đột giữa công ty với khách hàng. Vì thế, luôn có sự
tách biệt giữa hoạt động môi giới và hoạt động tự doanh.
Công ty chứng khoán hoạt động tự doanh phải đáp ứng điều kiện về vốn
và con người. CTCK phải có đủ một số vốn nhất định theo quy định của pháp
luật, việc quy định mức vốn nhằm đảm bảo các CTCK thực sự có vốn và dùng
vốn của họ để kinh doanh. Còn con người cũng là yếu tố quyết định đến sự
thành công của hoạt động tự doanh, nhân viên thực hiện nghiệp vụ tự doanh
phải có trình độ chuyên môn nhất định, có khả năng tự quyết cao và đặc biệt là
có tính nhạy cảm trong công việc.
Công ty chứng khoán vừa kinh doanh chứng khoán cho chính mình vừa làm
trung gian thực hiện lệnh cho khách hàng, vì thế có thể dẫn đến mâu thuẫn lợi
ích giữa khách hàng và công ty. Yêu cầu đối với công ty chứng khoán được đặt
ra:
- Tách biệt quản lý: các CTCK phải có sự tách biệt giữa nghiệp vụ tự
doanh và nghiệp vụ môi giới để đảm bảo tính minh bạch, rõ ràng trong hoạt
động.. Sự tách bạch này bao gồm cả yếu tố con người và các quy trình nghiệp vụ.
Các CTCK phải có đội ngũ nhân viên riêng biệt để thực hiện nghiệp vụ tự
doanh, các nhân viên này phải hoàn toàn tách biệt với bộ phận môi giới
- Ưu tiên khách hàng
Công ty chứng khoán phải tuân thủ nguyên tắc ưu tiên cho khách hàng khi thực
hiện nghiệp vụ tự doanh, lệnh giao dịch của khách hàng phải được xử lý trước
lệnh tự doanh của công ty. Do có tính đặc thù về khả năng tiếp cận thông tin và
chủ động trên thị trường nên các CTCK có thể sẽ dự đoán trước được diễn biến
của thị trường và sẽ mua hoặc bán tranh của khách hàng nếu không có nguyên
tắc này. Nguyên tắc này đảm bảo tính công bằng cho các khách hàng trong quá
trình giao dịch chứng khoán.
- Bình ổn thị trường
Các CTCK với khả năng chuyên môn và nguồn vốn lớn có thể thông qua hoạt
động tự doanh góp phần rất lớn trong việc điều tiết cung cầu, bình ổn giá cả của
các loại chứng khoán trên thị trường. Bên cạnh đó, CTCK phải tuân thủ một số
quy định khác như: giới hạn về đầu tư, lĩnh vực đầu tư…Mục đích của các quy
định này là nhằm đảm bảo một độ an toàn nhất định cho các CTCK trong quá
trình hoạt động, tránh những sự đổ vỡ gây thiệt hại chung cho cả thị trường.
- Hoạt động tạo lập thị trường
Các CTCP khi mới phát hành chứng khoán chưa có thị trường giao dịch, để tạo
thị trường cho các chứng khoán, CTCK phải thực hiện tự doanh thông qua việc
mua bán chứng khoán, tạo tính thanh khoản trên thị trường thứ cấp.
Có 2 hình thức giao dịch trong hoạt động tự doanh:
• Giao dịch gián tiếp: Công ty chứng khoán đặt các lệnh mua và bán chứng
khoán trên sở giao dịch, lệnh của họ có thể thực hiện với bất kì khách
hàng nào không được xác định trước.
• Giao dịch trực tiếp: Là giao dịch tay đôi giữa một khách hàng với CTCK
hoặc giữa hai CTCK thông qua thương lượng. Đối tượng của giao dịch
trực tiếp là các loại chứng khoán đăng ký giao dịch ở thị trường OTC.
1.2.3 Hoạt động bảo :ãnh phát hành chứng khoán
Hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán là việc tổ chức bảo lãnh giúp
tổ chức phát hành thực hiện các thủ tục trước khi chào bán chứng khoán, tổ
chức việc phân phối chứng khoán, và giúp bình ổn giá chứng khoán trong giai
đoạn đầu sau khi phát hành.
Hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán là nghiệp vụ đem lại doanh
thu cao nhất cho công ty chứng khoán. Do đó, yêu cầu đối với các CTCK trong