MỞ ĐẦU
Sự ra đời của lý luận HTKT - XH đánh dấu bước ngoặt cách mạng trong
nhận thức xã hội, lịch sử. Với bản chất cách mạng và khoa học, lý luận HTKT XH đã đưa việc giải thích các quá trình xã hội ở dạng mô tả đến luận chứng
khoa học, mở ra kỷ nguyên nhận thức đúng đắn và cải tạo xã hội. Mặc dù trong
lịch sử có không ít những thế lực phản động đòi xét lại, xuyên tạc bản chất cách
mạng và khoa học của lý luận HTKT - XH nhưng nó vẫn thể hiện đầy đủ sức
sống mãnh liệt, trở thành lực lượng vật chất thúc đẩy xã hội phát triển đó là sự ra
đời của CNXH trên thế giới. Hiện nay, chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung và lý
luận HTKT - XH nói riêng lại phải đối mặt trực tiếp với những bất lợi phức tạp.
Trong điều kiện CNXH ở Liên Xô, Đông Âu sụp đổ thì các nước TBCN lại có
sự thích nghi, điều chỉnh và còn phát triển ở mức độ nhất định càng tạo ra hậu
thuẫn cho các thế lực phản động xuyên tạc, phủ nhận lý luận HTKT-XH, phủ
nhận chủ nghĩa Mác - Lênin. Vấn đề tiếp tục bảo vệ phát triển HTKT - XH trong
điều kiện hiện nay càng là vấn đề cấp bách trực tiếp.
Thực tiễn những năm đổi mới vừa qua với sự nghiệp CNH - HĐH đất nước
thu được những thành tựu quan trọng, khẳng định mục tiêu con đường quá độ
lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN, xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần định hướng xã hội chủ nghĩa là đúng đắn. Mặc dù vậy, các thế lực thù địch
vẫn không ngừng công kích làm chệch hướng XHCN, đặc biệt là chệch hướng
về kinh tế ở nước ta. Chúng lợi dụng những hạn chế còn tồn tại chưa được khắc
phục của ta và những bước tiến bộ về cuộc cách mạng KH - CN hiện đại của
CNTB, bôi nhọ CNXH, con đường XHCN, hướng lái nền kinh tế nước ta đi theo
con đường tư bản chủ nghĩa. Hiện nay trong nhân dân vẫn còn không ít người
ngộ nhận về những tuyên truyền của các thế lực thù địch, chưa tin tưởng sâu sắc
về con đường đi lên CNXH ở nước ta.
Hiện nay, cách mạng nước ta đang phải đối mặt trực tiếp với những nguy
cơ, thách thức có nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau, trong đó giữ
vững mục tiêu con đường quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN, xây dựng
nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa là vấn đề
1
khó khăn, phức tạp. Trong điều kiện hiện nay, với bản chất cách mạng và bản
lĩnh chính trị vững vàng, Đảng ta vẫn tiếp tục khẳng định mục tiêu, con đường
CNXH, con đường mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn từ đầu thế kỷ XX. Tuy
nhiên, yêu cầu cấp bách đặt ra là khẳng định đó phải được luận giải rõ cơ sở lý
luận, thực tiễn khoa học. Vì vậy, nghiên cứu bản chất cách mạng khoa học của
HTKT - XH và vận dụng trong xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay là vấn đề cần thiết cả về lý
luận và thực tiễn, có ý nghĩa to lớn đối với thắng lợi của sự nghiệp cách mạng
Việt Nam.
2
Chương 1
BẢN CHẤT CÁCH MẠNG KHOA HỌC CỦA
HỌC THUYẾT HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI
1.1. Quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin về hình thái kinh tế –
xã hội
C.Mác đã tiếp cận lịch sử xã hội loài người bằng phương pháp biện chứng
duy vật. Điểm xuất phát để nghiên cứu lịch sử xã hội là từ nền tảng vật chất của
xã hội, đó là phương thức sản xuất vật chất. C.Mác đưa ra phạm trù hình thái
kinh tế- xã hội bằng cách phân tích tất cả các quan hệ giữa người với người
trong đời sống xã hội. Trong hệ thống các quan hệ xã hội đa dạng, phong phú và
phức tạp đó, ông làm nổi bật lên các mối quan hệ giữa người với người trong
sản xuất vật chất. Đó chính là quan hệ kinh tế-vật chất của xã hội và chỉ rõ đây
là mối quan hệ cơ bản, đầu tiên, quyết định tất cả các mối quan hệ xã hội khác.
C.Mác đã đi sâu giải phẫu xã hội tư bản chủ nghĩa, phát hiện ra các mối
quan hệ bản chất, tất yếu, ổn định trong mọi xã hội, từ đó tìm ra quy luật vận
động, phát triển của lịch sử xã hội. Mỗi xã hội có một kiểu quan hệ sản xuất
riêng biệt đặc trưng cho xã hội đó. Theo C.Mác: “Tổng hợp lại những quan hệ
sản xuất cấu thành cái mà người ta gọi là những quan hệ xã hội, cái gọi là xã hội
mà lại là một xã hội ở một giai đoạn phát triển lịch sử nhất định, một xã hội có
tính chất độc đáo, riêng biệt. Xã hội cổ đại, xã hội phong kiến, xã hội tư bản đều
là những thể tổng hợp các quan hệ sản xuất theo loại đó, mà mỗi thể tổng hợp ấy
đồng thời lại tiêu biểu cho một giai đoạn phát triển đặc thù trong lịch sử nhân
loại”.
C.Mác không nghiên cứu quan hệ sản xuất xuất một cách riêng biệt, mà coi
quan hệ sản xuất tồn tại tương ứng trên một trình độ phát triển nhất định của lực
lượng sản xuất. Hai mặt này hợp thành phương thức sản xuất của xã hội, là nền
tảng vật chất của mọi hình thái kinh tế- xã hội. Toàn bộ những quan hệ sản xuất vật
chất hiện thực là cơ sở hạ tầng của xã hội, tức là “cơ sở thực tại” trên ấy xây dựng
một kiến trúc thượng tầng tương ứng. Đó là những quan điểm về chính trị, đạo đức,
pháp luật, triết học…cùng các thể chế tương ứng.
3
V.I.Lênin đã kế thừa những tư tưởng cơ bản của C.Mác, phát triển và làm
phong phú thêm lý luận hình thái kinh tế- xã hội. V.I. Lênin nhấn mạnh, C.Mác
đã làm nổi bật lĩnh vực kinh tế trong các lĩnh vực khác của đời sống xã hội, tách
riêng quan hệ vật chất trong hệ thống quan hệ xã hội, coi đó là“bộ xương” của
cơ thể xã hội. V.I.Lênin đã phân biệt hai loại quan hệ xã hội là quan hệ vật chất
và quan hệ tư tưởng, trong đó quan hệ sản xuất là quan hệ vật chất. Phát hiện ra
những quan hệ vật chất của xã hội là quan hệ cơ bản quyết định các quan hệ xã
hội khác. Các nhà kinh điển đã xây dựng một phạm trù cơ bản của chủ nghĩa
duy vật lịch sử là phạm trù hình thái kinh tế- xã hội.
Hình thái kinh tế- xã hội là một phạm trù cơ bản của chủ nghĩa duy vật
lịch sử, dùng để chỉ xã hội ở từng nấc thang lịch sử nhất định với một kiểu quan
hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó, phù hợp với một trình độ phát triển nhất
định của lực lượng sản xuất và với một kiểu kiến trúc thượng tầng tương ứng
được xây dựng trên những quan hệ sản xuất ấy.
Phạm trù hình thái kinh tế - xã hội chỉ ra kết cấu xã hội trong mỗi giai
đoạn lịch sử nhất định bao gồm ba yếu tố cơ bản và phổ biến. Ba yếu tố đó là,
lực lượng sản xuất; quan hệ sản xuất (cơ sở hạ tầng) và kiến trúc thượng tầng
của xã hội. Đây là sự trừu tượng hoá, khái quát hóa những mặt, những yếu tố
chung nhất, phổ biến nhất của mọi xã hội ở bất kỳ giai đoạn lịch sử nào.
Phạm trù hình thái kinh tế- xã hội không chỉ mang tính trừu tượng, mà còn
mang tính cụ thể, cho phép xem xét xã hội ở từng quốc gia, dân tộc, trong từng giai
đoạn lịch sử cụ thể với các tiêu chí có thể xác định được với một quan hệ sản xuất
đặc trưng, một trình độ phát triển lực lượng sản xuất nhất định và một kiểu kiến
trúc thượng tiêu biểu cho bộ mặt tinhh thần của xã hội đó. Và như vậy đem lại một
nhận thức sâu sắc cho con người, đem lại tính cụ thể trong tư duy về lịch sử xã hội.
Sau khi trìu tượng hóa từng mặt, từng yếu tố cơ bản của lịch sử xã hội, phạm trù
hình thái kinh tế xã hội đem lại một sự nhận thức tổng hợp và sâu sắc về xã hội loài
người ở từng giai đoạn lịch sử nhất định.
Các yếu tố cơ bản nói trên vừa thống nhất, vừa có vị trí, vai trò khác nhau
trong sự tồn tại và phát triển của mỗi hình thái kinh tế -xã hội. Lực lượng sản
xuất là nền tảng vật chất của xã hội, tiêu chuẩn khách quan để phân biệt các thời
đại kinh tế khác nhau. Lực lượng sản xuất là kết quả của năng lực thực tiễn của
4
con người nhưng mang tính khách quan. Đây là yếu tố quyết định tới các yếu tố
khác của hình thái kinh tế-xã hội và xét đến cùng quyết định sự vận động, phát
triển của các hình thái kinh tế- xã hội trong lịch sử.
Quan hệ sản xuất là quan hệ kinh tế- vật chất giữa người với người mang
tính khách quan. Đây là quan hệ cơ bản, chi phối và quyết định mọi quan hệ xã
hội khác, đồng thời là tiêu chuẩn quan trọng nhất để phân biệt bản chất các chế
độ xã hội trong lịch sử.
Kiến trúc thượng tầng là sự thể hiện các mối quan hệ giữa người với người
trong lĩnh vực tinh thần, tiêu biểu cho bộ mặt tinh thần của đời sống xã hội.
Các yếu tố của hình thái kinh tế -xã hội có mối quan hệ biện chứng tạo
thành cơ chế vận hành của các hình thái kinh tế- xã hội trong lịch sử. Sự tác
động qua lại một cách biện chứng giữa lực lượng sản xuất; quan hệ sản xuất (cơ
sở hạ tầng); kiến trúc thượng tầng của xã hội hình thành sự vận động tổng hợp
của hai quy luật cơ bản: quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất và quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở
hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của xã hội.
Sự vận động phát triển của xã hội bắt đầu từ sự phát triển của lực lượng sản
xuất mà trước hết là sự biết đổi, phát triển của công cụ sản xuất. Công cụ sản xuất
là yếu tố động nhất, cách mạng nhất, có vai trò quyết định trong tư liệu sản xuất.
Con người là chủ thể thường xuyên sử dụng, cải tiến, sáng tạo ra công cụ sản xuất.
Cùng với sự phát triển của công cụ sản xuất là sự phát triển về tri thức, kinh
nghiệm, kỹ năng của người lao động. Mỗi bước phát triển của lực lượng sản xuất
đều tạo khả năng, điều kiện và đặt ra yêu cầu khách quan cho sự biến đổi của quan
hệ sản xuất. Đặc biệt khi lực lượng sản xuất đã phát triển về chất, tất yếu diễn ra sự
thay thế quan hệ sản xuất cũ lỗi thời, lạc hậu bằng một quan hệ sản xuất mới tiến
bộ, phù hợp với một lực lượng sản xuất đã phát triển. Đồng thời với sự ra đời của
một quan hệ sản xuất mới là sự thay đổi về chất của cơ sở hạ tầng xã hội. Cơ sở hạ
tầng xã hội mới ra đời tất yếu dẫn đến sự biến đổi, phát triển căn bản (nhanh, chậm,
ít, nhiều) của kiến trúc thượng tầng của xã hội. Hình thái kinh tế xã hội cũ mất đi,
hình thái kinh tế xã hội mới ra đời. Cứ như vậy, xã hội loài người là một tiến trình
lịch sử- tự nhiên; là sự nối tiếp nhau từ thấp đến cao của các hình thái kinh tế-xã
hội từ cộng sản nguyên thuỷ đến chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và
5
đang tiến lên hình thái kinh tế xã hội xã hội chủ nghĩa. Đó là kết quả tác động tổng
hợp của các quy luật khách quan. Trong đó có sự thống nhất giữa quy luật chung,
cơ bản, phổ biến với quy luật đặc thù và quy luật riêng của lịch sử xã hội.
Trong tiến trình lịch sử xã hội loài người, hình thái kinh tế-xã hội cộng
chủ nghĩa ra đời là tất yếu khách quan. Bởi vì, phát triển là xu hướng tất yếu, cơ
bản của lịch sử xã hội. Chủ nghĩa tư bản không phải là nấc thang phát triển cuối
cùng của xã hội loài người. Chính những mâu thuẫn cơ bản trong lòng xã hội tư
bản đã quyết định sự vận động, phát triển, diệt vong của hình thái kinh tế – xã
hội tư bản chủ nghĩa và sự ra đời tất yếu của hình thái kinh tế- xã hội cộng sản
chủ nghĩa. Những tiền đề vật chất cho sự ra đời của hình thái kinh tế- xã hội
cộng sản chủ nghĩa đã xuất hiện ngay trong lòng xã hội tư bản. Đó là lực lượng
sản xuất hiện đại với tính chất xã hội hóa cao và giai cấp vô sản tiên tiến, cách
mạng đã phát triển cả về số lượng và chất lượng. Đồng thời trong kiến trúc
thượng tầng xã hội cũng hình thành hệ tư tưởng cách mạng và khoa học đó là
chủ nghĩa Mác-Lênin. Sự thay thế hình thái kinh tế- xã hội tư bản chủ nghĩa
bằng hình thái kinh tế-xã hội cộng sản chủ nghĩa tất yếu phải thông qua cuộc
đấu tranh giai cấp giữa giai cấp vô sản với giai cấp tư sản, mà đỉnh cao là cuộc
cách mạng vô sản.
1.2. Sự phát triển của các hình thái kinh tế- xã hội là một quá trình
lịch sử- tự nhiên
1.2.1. Biện chứng lôgíc - lịch sử trong sự phát triển lịch sử loài người
Xã hội loài người phát triển qua các giai đoạn lịch sử, ứng với những trình
độ phát triển khác nhau. C.Mác viết:" Tôi coi sự phát triển của các hình thái kinh
tế xã hội là một quá trình lịch sử- tự nhiên" 1. Xu hướng cơ bản, xu hướng chung
của sự vận động, phát triển lịch sử loài người là do sự chi phối của các quy luật
khách quan, mà xét đến cùng là sự phát triển của lực lượng sản xuất. Lôgíc của
toàn bộ tiến trình phát triển lịch sử loài người là sự kế tiếp nhau của các hình
thái kinh tế- xã hội từ thấp đến cao. Đó là con đường tất yếu của tiến bộ lịch sử.
Mặt khác, sự phát triển của xã hội loài người còn mang tính lịch sử. Khác với
quy luật tự nhiên, quy luật xã hội phải thông qua hoạt động của con người; đồng
1
6
thời quy luật xã hội được biểu hiện ra cũng thông qua chính hoạt động của con
người. Các hình thái kinh tế- xã hội như những trạng thái khác nhau về chất
trong tiến trình lịch sử, với các tiêu chí về sự phát triển của lực lượng sản xuất,
kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng, kiểu kiến trúc thượng tầng tương ứng. Quy luật
xã hội thể hiện tính xu hướng. Sự vận động của toàn bộ lịch sử xã hội được xem
xét trong phạm vi rộng và thời gian dài, tức xét dưới dạng khái quát, trìu tượng
hoá, nhưng trong một thời điểm nhất định của một xã hội cụ thể thường có
những biểu hiện dường như không trùng khớp với quy luật chung, phổ biến. Sự
phát triển của các hình thái kinh tế- xã hội cụ thể, của các giai đoạn xã hội, các
quốc gia, dân tộc cụ thể bao giờ cũng mang tính phong phú, nhiều vẻ, đa dạng,
phức tạp. Sự phát triển đó bao gồm cả những bước quanh co, thậm chí những
bước thụt lùi lớn, bao gồm cả khả năng rút ngắn, bỏ qua những giai đoạn phát
triển lịch sử nhất định. V.I.Lênin khẳng định: “Tính quy luật chung của sự phát
triển lịch sử toàn thế giới đã không loại trừ mà trái lại còn bao hàm một số giai
đoạn phát triển mang những đặc điểm về hình thức hoặc về trật tự của sự phát
triển đó”. Tiến trình lịch sử xã hội loài người là kết quả của sự thống nhất biện
chứng giữa lôgíc và lịch sử.
1. 2.2. Vấn đề phát triển bỏ qua một hay vài hình thái kinh tế – xã hội
trong tiến trình lịch sử
Toàn bộ lịch sử xã hội loài người phát triển tuần tự từ thấp đến cao qua
tất cả các hình thái kinh tế- xã hội đã có, xét đến cùng là do sự phát triển của
lực lượng sản xuất. Tuy nhiên, do đặc điểm về lịch sử, về không gian, thời gian,
với các điều kiện khách quan và chủ quan nhất định, có quốc gia phát triển tuần
tự, có quốc gia phát triển bỏ qua một hay vài hình thái kinh tế- xã hội nào đó.
Do quy luật phát triển không đều, trên thế giới thường xuất hiện những
trung tâm phát triển cao hơn, đồng thời bên cạnh đó còn có những vùng, những
quốc gia, dân tộc ở trình độ phát triển thấp, thậm chí rất thấp. Thực tiễn lịch sử cho
thấy, thời cổ đại đã từng xuất hiện và tồn tại những trung tâm phát triển cao như
Trung Quốc, Ấn Độ, Hi Lạp, La Mã. Giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản đã xuất
hiện các nước Tây Âu với trình độ phát triển kinh tế – xã hội cao như Anh, Pháp,
7
Đức. Hiện nay, Mỹ, Nhật Bản, Tây Âu là ba trung tâm tư bản chủ nghĩa phát triển
cao của thế giới. Bên cạnh đó còn có các vùng, các khu vực vẫn ở trình độ phát
triển thấp như các nước châu Phi, Mỹlatinh… Do sự giao lưu, hợp tác quốc tế
mà giữa các trung tâm, các khu vực, các quốc gia xuất hiện khả năng một số
nước đi sau có thể rút ngắn tiến trình lịch sử. Quy luật kế thừa sự phát triển lịch
sử luôn cho phép các quốc gia, dân tộc cụ thể có thể bỏ qua các giai đoạn phát
triển không cần thiết để vươn tới trình độ tiên tiến của nhân loại. Tuy nhiên, việc
phát triển bỏ qua một hay vài hình thái kinh tế xã hội, bên cạnh những điều kiện
khách quan của thời đại, còn phụ thuộc vào nhân tố chủ quan của mỗi quốc gia,
dân tộc.
Nhân loại đã chứng kiến trong lịch sử, các nước Nga, Ba Lan, Đức…đã phát
triển từ chế độ cộng sản nguyên thuỷ lên chế độ phong kiến không qua chế độ
chiếm hữu nô lệ; Mỹ, Canađa…phát triển từ chế độ chiếm hữu nô lệ lên chế độ tư
bản chủ nghĩa không qua chế độ phong kiến; Trung Quốc đang phát triển từ chế độ
phong kiến lên chế độ xã hội chủ nghĩa không qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Lịch sử
cũng đã chứng minh Việt Nam từ xã hội cộng sản nguyên thuỷ phát triển lên chế độ
phong kiến không qua phát triển chế độ chiếm hữu nô lệ… Như vậy, vấn đề phát
triển rút ngắn, bỏ qua một hay vài hình thái kinh tế-xã hội là phù hợp với quy luật
phát triển khách quan của lịch sử loài người. Bản chất của sự phát triển rút ngắn xã
hội là rút ngắn các giai đoạn, các bước đi của nền văn minh loài người, cốt lõi là sự
tăng trưởng nhảy vọt của lực lượng sản xuất.
Theo quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, một dân tộc muốn quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa phải có đủ những điều kiện khách
quan và nhân tố chủ quan. Muốn thực hiện thành công quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, trước hết trên thế giới hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa đã ra đời
và tỏ rõ sự ưu việt trong thực tế; chủ nghĩa tư bản đã bộc lộ sự hạn chế, lỗi thời,
phản động; phải có sự giúp đỡ về vật chất và tinh thần của các nước xã hội chủ
nghĩa đi trước. Cùng với điều kiện khách quan, các quốc gia, dân tộc phải có đủ
nhân tố chủ quan như vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản; đất nước đã sẵn sàng
những yếu tố nội lực để thực hiện sự quá độ lên chủ nghĩa xã hội
8
1.3. Giá trị khoa học và cách mạng của học thuyết hình thái kinh tế
xã hội
1.3.1. Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa Mác - Lênin là cơ
sở phương pháp luận khoa học trong nhận thức sự phát triển xã hội
Học thuyết HTKT - XH đã đặt cơ sở, nguyên tắc phương pháp luận khoa
học để nghiên cứu tất cả các mặt của xã hội. Chẳng những nó chỉ rõ bản chất của
một xã hội cụ thể, phân biệt chế độ xã hội này với chế độ xã hội khác mà còn
thấy được tính lặp lại, tính liên tục của mối quan hệ giữa con người với tự nhiên
trong quá trình sản xuất xã hội. V. I. Lênin viết: "Xã hội là một cơ thể sống đang
phát triển không ngừng (chứ không phải là một cái gì được kết thành một cách
máy móc và do đó cho phép có thể tuỳ ý phối hợp các yếu tố xã hội như thế nào
cũng được), một cơ thể mà muốn nghiên cứu nó thì cần phải phân tích một cách
khách quan những QHSX cấu thành một hình thái xã hội nhất định và cần phải
nghiên cứu những quy luật vận hành phát triển của hình thái xã hội đó" [8, tr.
198]
Với việc phát hiện ra quy luật vận động của các HTKT - XH, C. Mác đã
làm ra một cuộc cách mạng trong nhận thức về đời sống xã hội, về nghiên cứu
xã hội với tính cách là một phạm trù xã hội học được hiểu như là đặc trưng bản
chất của đời sống con người, của lao động và mọi mặt sinh hoạt của con người,
là tính cộng đồng của con người được biểu hiện dưới những hình thức xã hội
khác nhau (các nhóm xã hội, các tập đoàn xã hội). Bất kỳ một xã hội nào cũng
tồn tại như một hệ thống các quan hệ cộng đồng của con người, giữa người này
với người khác và với cộng đồng. Hoạt động của con người trong cuộc sống thì
muôn màu, muôn vẻ, trên nhiều lĩnh vực, có nhiều mặt ở nhiều khía cạnh nên
quan hệ cộng đồng giữa con người với con người và với cộng đồng như một
hoàn cảnh sống là rất đa dạng và phong phú nhưng bao giờ cũng có những mối
quan hệ cơ bản trong các hoạt động cơ bản của con người chi phối các quan hệ
và các hoạt động khác. Chính từ trong hệ thống tổng thể các quan hệ xã hội
phong phú và phức tạp, tưởng chừng như hỗn độn và ngẫu nhiên ấy, C. Mác đã
9
tìm ra những quan hệ cơ bản có tính quy luật làm cơ sở cho nhận thức khoa học
về hệ thống xã hội.
Học thuyết về HTKT - XH của C. Mác là chìa khoá để hiểu các quan hệ xã
hội trong hệ thống tổng thể, ở cấp độ tổng thể. Đây là bộ khung, bộ sườn như V.
I. Lênin đã nói của một cơ thể xã hội. Đó là biểu hiện của quan điểm duy vật
lịch sử trong xem xét xã hội của C. Mác. Trong lao động con người phải tham
gia vào những quan hệ xã hội nhất định tất yếu, độc lập với ý chí của họ, những
QHSX tương ứng với một trình độ phát triển nhất định của LLSX vật chất.
PTSX đời sống vật chất quyết định quá trình sinh hoạt xã hội, chính trị và tinh
thần nói chung.
Phạm trù HTKT - XH đem lại những nguyên tắc phương pháp luận xuất
phát để nghiên cứu xã hội, loại bỏ đi cái bề ngoài, cái ngẫu nhiên, đi sâu vào cái
bản chất, ổn định từ các hiện tượng phong phú để chỉ ra cái lô gíc, quy luật vận
động của lịch sử. Dựa vào học thuyết đó, C. Mác phân loại các HTKT - XH đã
phát triển trong lịch sử như; cộng đồng nguyên thuỷ, PTSX Châu Á cổ đại,
phong kiến và tư bản hiện đại. Nguyên lý mà C. Mác nêu ra về mối quan hệ nhân
quả giữa LLSX, QHSX và KTTT, được sử dụng làm phương pháp tiếp cận xã hội
học đối với xã hội tổng thể, tự nó đòi hỏi phải tiến hành nghiên cứu cụ thể trên
các xã hội khác nhau, các quốc gia, các dân tộc khác nhau. Như vậy, học thuyết
HTKT - XH không phải là một cách phân loại xã hội máy móc, không phải là một
giáo điều.
Trong PTSX của cải vật chất, con người luôn luôn phải thiết lập hai mối
quan hệ cơ bản đó là mối quan hệ giữa con người với tự nhiên và mối quan hệ
giữa con người với con người. Trình độ và tính chất của hai mối quan hệ này là
thước đo sự phát triển xã hội, nhưng mỗi loại quan hệ ấy lại có ý nghĩa khác
nhau trong sự phát triển xã hội. Sự phát triển của xã hội bao giờ cũng là quá
trình thống nhất giữa tiến hoá xã hội và cách mạng xã hội, giữa sự tiến bộ về
khoa học và công nghệ với sự tiến bộ về chính trị, xã hội và kinh tế.
Sự phát triển của LLSX và sự tiến bộ của KH - CN mang tính chất và đặc
trưng riêng của nó. Nó luôn luôn phải giải quyết mâu thuẫn giữa trình độ nhận
10
thức của con người với yêu cầu khám phá hiện thực tự nhiên nhằm đáp ứng nhu
cầu phát triển xã hội, sự tiến bộ của nó được ghi dấu bởi trình độ phát triển của
công cụ lao đông, hay bằng trình độ phát triển của các nền văn minh.
1.3.2. Học thuyết hình thái kinh tế xã hội của chủ nghĩa Mác - Lê nin là
cơ sở khoa học xác định điểm xuất phát, mục tiêu, mô hình xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở nước ta
Học thuyết HTKT - XH của C. Mác không chỉ là cơ sở phương pháp luận
khoa học để nghiên cứu sự phát triển của xã hội mà còn là cơ sở để Đảng ta xác
định điểm xuất phát mục tiêu, mô hình xây dựng CNXH ở nước ta.
Nước ta thực hiện quá độ từ một xã hội vốn là thuộc địa nửa phong kiến,
trong đó nền kinh tế phổ biến là sản xuất nhỏ có tính chất tự cấp, tự túc, bỏ qua
chế độ TBCN tiến lên CNXH. Đất nước lại trải qua nhiều năm chiến tranh tàn
phá, với những hậu quả rất nặng nề. Chính điều này nó quy định nội dung đặc
thù của thời kỳ quá độ ở nước ta.
Rõ ràng, nhiệm vụ của chúng ta không phải là cải biến xã hội TBCN thành
XHCN, cũng như không phải là chuyển những quan hệ cũ TBCN sang quan hệ
XHCN. Ở nước ta, đối tượng của sự cải biến cách mạng lại là xã hội với trình độ
LLSX còn thấp, với cơ cấu kinh tế - xã hội rất phức tạp với những con đường do
lịch sử để lại vừa có những truyền thống tốt đẹp, vừa có những phong tục tập
quán lạc hậu. Chính những đặc điểm đó quy định nội dung, nhiệm vụ, hình thức,
biện pháp, bước đi và độ dài của kiểu quá độ ở nước ta khác về nguyên tắc với
kiểu quá độ từ CNTB lên CNXH. Cần phải thấy được điểm xuất phát và đặc
điểm của sự quá độ lên CNXH ở nước ta để góp phần vào việc xây dựng CNXH
thích hợp với hoàn cảnh nước ta.
Nghiên cứu mô hình CNXH là một dạng nghiên cứu rất phức tạp và đặc thù
của từng phương pháp nghiên cứu mô hình hoá. Bởi vì, mô hình CNXH thuộc
vào loại mô hình lý tưởng. Ở mô hình này không chỉ phản ánh sự tồn tại vận
động của các nguyên lý, các quy luật và các quan hệ xã hội, mà còn phản ánh
hoạt động thực tiễn hết sức phong phú, sinh động với những đặc điểm lịch sử
dân tộc đa dạng. Song không giống như mô hình trong các nghiên cứu chuyên
11
biệt khác, mô hình CNXH là bức tranh có tính chất khái quát về một xã hội đang
được xây dựng cao hơn khác về chất so với chế độ TBCN.
Về tổng quan, mô hình CNXH ở trình độ khái quát bao gồm những đặc
trưng tất yếu của mô hình ở phạm vi hình thái. Song không dừng lại ở đó mà bên
cạnh những đặc trưng tất yếu phản ánh sự tác động của những quy luật chung.
Mô hình CNXH mà một quốc gia cụ thể nào đó hoạch định và thực hiện bao giờ
cũng mang trong nó những nét đặc thù về lịch sử, văn hóa, dân tộc của quốc gia
đó. Hoàn toàn phù hợp với lý thuyết về mô hình hóa là bên cạnh sự tồn tại của
mô hình về một hệ thống nào đó người ta còn có thể và cần phải xây dựng mô
hình về các tiểu hệ thống của chính hệ thống đó. Trong hoạt động thực tiễn sẽ là
sai lầm nếu việc xây dựng mô hình chỉ dừng lại ở trình độ mô hình phổ quát mà
không đi tới xây dựng mô hình cụ thể.
Như vậy, nói mô hình cụ thể không có nghĩa là phải chi tiết hóa toàn bộ
hoạt động của xã hội XHCN. Sự trừu tượng hóa luôn luôn là thao tác bắt buộc
trong mọi sự nghiên cứu mô hình hóa. Tuy vậy, mọi mô hình khi được xây dựng,
khi được hiện thực hóa trong thực tiễn bao giờ cũng phải quát triệt tính hiện thực
của tính khả thi. Trước đây, kế hoạch xây dựng CNXH ở Liên Xô và Đông Âu
đã đi theo một mô hình khá xác định, với những nội dung cơ bản như: Nhà nước
XHCN về thực chất là chuyên chính vô sản; LLSX về cơ bản là nền đại công
nghiệp cơ khí - điện khí hóa theo đường lối ưu tiên phát triển công nghiệp nặng.
QHSX XHCN dựa trên cơ sở chế độ sở hữu toàn dân và tập thể, nền kinh tế
được quản lý theo cơ cấu kế hoạch hóa tập trung thống nhất.
Trong bối cảnh thời đại ngày nay, việc xây dựng mô hình CNXH ở Việt
Nam, trên thực tế chính là đòi hỏi tất yếu khách quan của việc vận dụng và phát
triển học thuyết HTKT - XH nói riêng, chủ nghĩa Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ
Chí Minh về CNXH nói chung đáp ứng yêu cầu nội tại bức xúc của bản thân
cách mạng Việt Nam.
Thực tiễn lịch sử đã chứng minh, ngay từ năm 1930 trong cương lĩnh đầu
tiên của mình Đảng ta đã định hướng cơ bản cho mô hình XHCN ở Việt Nam.
Trải qua các thời kỳ khác nhau của lịch sử, mô hình ấy đã dần được bổ sung và
12
phát triển hoàn thiện. Với cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ đổi mới
năm 1991, Đảng ta đã trình bày những nội dung của CNXH, đó là: “Do nhân
dân lao động làm chủ. Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên LLSX hiện đại
và chế độ công hữu về các TLSX chủ yếu. Có nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản
sắc dân tộc. Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công làm theo
năng lực, hưởng theo lao động. Có cuộc sống ấm no, tự do hạnh phúc, có điều
kiện phát triển toàn diện cá nhân. Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và
giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ. Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất
cả các nước trên thế giới” [2, tr. 8 - 9]. Chính những nội dung này là mô hình
CNXH ở nước ta. Chính những thành tựu trong công việc đổi mới về mặt lý
luận nhận thức đối với CNXH đã tạo ra cơ sở để chúng ta ngày càng nhận thức
sâu sắc hơn về CNXH. Mục tiêu của chúng ta là, xây dựng một nước Việt Nam
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên CNXH bỏ qua chế
độ TBCN, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của QHSX và KTTT TBCN,
nhưng tiếp thu và kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ
TBCN, đặc biệt về KH - CN để phát triển nhanh LLSX, xây dựng nền kinh tế
hiện đại: “xây dựng CNXH bỏ qua chế độ TBCN, tạo ra sự biến đổi về chất của
xã hội trên tất cả các lĩnh vực, là sự nghiệp rất khó khăn phức tạp cho nên phải
trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ
chức kinh tế, xã hội với tính chất quá độ. Trong lĩnh vực của đời sống xã hội
diễn ra sự đan xen và đấu tranh giữa cái mới và cái cũ” [4, tr. 84 - 85]
13
Chương 2
VẬN DỤNG HỌC THUYẾT HÌNH THÁI KINH TẾ XÃ HỘI TRONG XÂY DỰNG
NỀN KINH TẾ HÀNG HÓA NHIỀU THÀNH PHẦN ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Cơ sở khoa học để xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
2.1.1. Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận để Việt Nam xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần
định hướng xã hội chủ nghĩa chính là xuất phát từ mối quan hệ biện chứng giữa
lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
Lực lượng sản xuất là mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong quá
trình sản xuất , là biểu hiện trình độ trinh phục tự nhiên của con người trong giai
đoạn lịch sử nhất định. Lịch sử sản xuất là một thể thống nhất hữu cơ giữa tư
liệu sản xuất (đặc biệt là công cụ lao động) với người lao động, với kinh nghiệm
và kỹ năng nghề nghiệp. Lực lượng sản xuất đóng vai trò quyết định phương
thức sản xuất .
Quan hệ sản xuất là mối quan hệ giữa người với người trong quá trình sản
xuất vật chất thể hiện ở quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất , quan hệ tổ chức
quản lý trao đổi hoạt động với nhau và quan hệ phân phối sản phẩm. Trong quan
hệ sản xuất quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất giữ vị trí quyết định các quan hệ
khác. Quan hệ sản xuất do con người tạo ra , song nó được hình thành một cách
khách quan không phụ thuộc vào yếu tố chủ quan của con người. Quan hệ sản
xuất mang tính ổn định tương đối với bản chất xã hội và tính phương pháp đa
dạng trong hình thức biểu hiện .
Giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất có mối quan hệ biện chứng với
nhau biểu hiện ở chỗ:
Xu hướng của sản xuất vật chất là không ngừng biến đổi phát triển. Sự biến
đổi đó bao giờ cũng bắt đầu bằng sự biến đổi và sự phát triển của lực lượng sản
xuất mà trước hết là công cụ. Lực lượng sản xuất phát triển dẫn đến mâu thuẫn
gay gắt với quan hệ sản xuất hiện có và xuất hiênj đòi hỏi khách quan, phải xoá
14
bỏ quan hệ sản xuất cũ, thay thế bằng quan hệ sản xuất mới. Quan hệ sản xuất
vốn là hình thức phát triển của lực lượng sản xuất (phù hợp) nhưng do mâu
thuẫn của lực lượng sản xuất (đông) với quan hệ sản xuất (ổn định tương đối)
quan hệ lại trở thành xiềng xích kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất
(không phù hợp).
Tuy nhiên quan hệ sản xuất cũng có tính độc lập tương đối với lực lượng
sản xuất thể hiện trong nội dung sự tác động trở lại với lực lượng sản xuất, quy
định mục đích xã hội của sản xuất, xu hướng phát triển của quan hệ lợi ích, từ
đó hình thành những yếu tố tồn tại thúc đẩy và kìm hãm sự phát triển của lực
lượng sản xuất. Sự tác động trử lại nói trên của quan hệ sản xuất bao giờ cũng
thong qua các quy luật kinh tế - xã hội đặc biệt là quy luật kinh tế cơ bản.
Sự thống nhất biện chứng giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất như
sự thống nhất giữa hai mặt đối lập tạo nên chỉnh thể của sản xuất xã hội. Tác
động qua lại biện chứng giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất được Mác
- Anghen khái quát thành quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất và trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất quyết định sự hình
thành và biến đổi của quan hệ sản xuất. Khi không thích ứng với tính chất và
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất sẽ kìm hãm thậm chí
phá hoại sự phát triển của lực lượng sản xuất, mâu thuẫn của chúng tất yếu sẽ
nảy sinh. Biểu hiện của mâu thuẫn này trong xã hội là mâu giữa các giai cấp đối
kháng.
Lịch sử đã chứng minh rằng do sự phát triểncủa lực lượng sản xuất, loài
người đã bốn lần thay đổi quan hệ sản xuất gắn liền với bốn cuộc cách mạng xã
hội, dẫn đến sự ra đời nối tiếp nhau của các hình thái kinh tế xã hội . Vào giai
đoạn cuối cùng của xã hội phong kiến ở các nước Tây Âu lực lượng sản xuất đã
mang những iếu tố xã hội hoá gắn với quan hệ sản xuất phong kiến. Quan hệ sản
xuất phong kiến chật hẹp không chứ đựng được nội dung mới của lực lượng sản
xuất. Quan hệ sản xuất của Tư bản chủ nghĩa ra đời thay thế quan hệ sản xuất
phong kiến . Trong lòng nền sản xuất tư bản, lực lượng sản xuất phát triển , cùng
với sự phân công lao động và tính chất xã hội hoá công cụ sản xuất đã hình
15
thành lao động chung của người dân có tri thức và trình độ chuyên môn hoá cao.
Sự lớn mạnh này của lực lượng sản xuất dẫn đến mâu thuẫn gay gắt với chế độ
sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩ . Giải quyết mâu thuẫn đó đòi hỏi phải xáo bỏ
quan hệ sản xuất tư nhân tư bản chủ nghĩa, xác lập quan hệ sản xuất mới, quan
hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Theo Mác, do có được những lực lượng sản xuất
mới, loài người thay đổi phát triển sản xuất của mình và do đó thay đổi phát
triển sản xuất làm ăn cuả mình, loài người thay đổi quan hệ sản xuất của mình.
Phù hợp có thể hiểu là cả ba mặt của quan hệ sản xuất phải thích ứng với
tính chất trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất phải tạo
được điều kiện sản xuất và kết hợp với tối ưu giữa tư liệu sản xuất và sức lao
động, bảo đảm trách nhiệm từ sản xuất mở rộng. Mở ra sau những điều kiện
thích hợp cho việc kích thích vật chất, tinh thần với người lao động.
Vậy quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất là quy luật chung của sự phát triển xã hội. Do tác động của
quy luật này, xã hội phát triển kế tiếp nhau từ thấp đến cao của các phương thức
sản xuất, hay chính là của các hình thái kinh tế - xã hội. Quy luật cốt lõi này như
sợi chỉ đỏ xuyên suốt dòng chảy tiến hoá của lịch sử không chỉ những lĩnh vực
kinh tế mà cả các lĩnh vực ngoài kinh tế, phi kinh tế.
2.1.2. Cơ sở thực tiễn
Trình độ của lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay nhìn chung rất đa
dạng, không đồng đều, nhiều trình độ. Điều này thể hiện ở chỗ:
Thứ nhất, công cụ sản xuất, công cụ lao động hiện nay ở nước ta cũng rất
đa dạng, không đồng đều. Theo thống kê, công cụ lao động thủ công chiếm phần
lớn trong nông nghiệp, còn trong công nghiệp chiếm đến 60% lao động giản
đơn. Nhưng bên cạnh đó, ta cũng đã có công cụ lao động ở trình độ cơ khí hóa,
hiện đại hóa, tự động hóa. Những công cụ lao động này thậm chí đan xen nhau
trong một cơ sở sản xuất, trong một nhà máy. Nếu như ở phương Tây, nhìn một
cách đại thể, phát triển tuần tự từ lao động thủ công lên máy móc cơ khí, rồi lên
tự động hóa thì ở Việt Nam hiện nay có lĩnh vực phát triển tuần tự, lại có lĩnh
16
vực phát triển theo kiểu đi tắt, đón đầu. Điều này nói lên tính đa dạng, nhiều
trình độ của công cụ lao động ở Việt Nam hiện nay.
Thứ hai, thích ứng với sự đa dạng của công cụ lao động sản xuất như vậy,
kinh nghiệm và kỹ năng lao động của con người Việt Nam hiện nay cũng rất
khác nhau. Từ đó, trình độ tổ chức và phân công lao động, trình độ ứng dụng
khoa học kỹ thuật vào sản xuất ở Việt Nam hiện nay ở những cơ sở sản xuất
khác nhau cũng rất khác nhau.
Thứ ba, khoa học kỹ thuật ở nước ta hiện nay, nhìn chung ở trình độ thấp,
chậm phát triển, nhưng cũng có những yếu tố hiện đại, đi trước, đón đầu. Từ đó
ta thấy, trình độ khoa học kỹ thuật ở Việt Nam hiện nay cũng rất đa dạng.
Tóm lại, trình độ của lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay khá đa dạng,
không đồng đều, nhiều trình độ. Theo quy luật, mốn sản xuất phát triển thì quan
hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất. Lực lượng sản
xuất ở Việt Nam hiện nay đa dạng, không đồng đều, nhiều trình độ như vậy, do
đó, lôgíc tất yếu đối với quan hệ sản xuất, hay trong quan hệ sản xuất chúng ta
cũng phải đa dạng. Tính đa dạng của quan hệ sản xuất thể hiện ở chỗ:
Một là, đa dạng trong thành phần kinh tế, tức là chúng ta phải xây dựng nền
kinh tế nhiều thành phần, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Như
vậy, chủ trương xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần không phải là một chủ
trương xuất phát từ ý muốn chủ quan, mà nó dựa trên quy luật quan hệ sản xuất
phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Cụ thể hiện nay, chúng ta
có các thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân,
kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Trong đó, theo tinh
thần Nghị quyết Trung ương 5 khóa XII, kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể cùng
với kinh tế tư nhân hợp thành nền tảng của nền kinh tế độc lập tự chủ, kinh tế tư
nhân cũng là một trong những động lực quan trọng của sự phát triển kinh tế đất
nước. Điều này khiến chúng ta càng nhìn nhận một cách rõ nét tính chất chủ
quan duy ý chí của thời kỳ trước đổi mới ở Việt Nam với hai thành phần kinh tế
là kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể.
17
Hai là, đa dạng trong hình thức sở hữu, nhiều hình thức tổ chức quản lý,
nhiều hình thức phân phối. Khác với trước kia (hai hình thức sở hữu là toàn dân
và tập thể), ngày nay chúng ta có ba hình thức sở hữu: toàn dân, tập thể và tư
nhân.
Ba là, đa dạng trong phân phối. Nếu như trước kia, chúng ta phân phối theo
chủ nghĩa bình quân, cào bằng thì ngày nay phân phối theo nhiều cách khác
nhau như theo lao động (tức theo khả năng, năng lực, trí tuệ), theo hiệu quả kinh
tế, theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác, theo phúc lợi xã hội, an
sinh xã hội.
2.2. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII đã chỉ ra, chúng ta phải
phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất với trình độ khoa học công nghệ ngày
càng cao, hoàn thiện quan hệ sản xuất trong nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa; phải xây dựng lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất
tiến bộ, phù hợp.
Phát triển lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay là phải phát triển khoa
học kỹ thuật, khoa học công nghệ, cải tiến công cụ lao động, mở rộng đối tượng
lao động, phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao
thông qua sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, chấn hưng nền
giáo dục nước nhà. Muốn phát triển sản xuất ở Việt Nam hiện nay, chúng ta
không chỉ phát triển lực lượng sản xuất; mà còn phải từng bước xây dựng, hoàn
thiện quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất,
điều đó có nghĩa là, chúng ta phải hoàn thiện thể chế kinh tế thì trường định
hướng xã hội chủ nghĩa.
2.3. Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
2.3.1. Thống nhất nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta
- Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà nước ta xây dựng
là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường,
18
đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát
triển của đất nước; là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự
quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt
Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh".
- Tính hiện đại và hội nhập quốc tế của nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở nước ta thể hiện ở chỗ kế thừa có chọn lọc những thành tựu
phát triển kinh tế thị trường của nhân loại, kinh nghiệm tổng kết từ thực tiễn hơn
30 năm đổi mới; có hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách và các yếu tố thị
trường, các loại thị trường đầy đủ, đồng bộ, vận hành thông suốt, gắn kết chặt
chẽ với các nền kinh tế trên thế giới; vai trò, chức năng của Nhà nước và thị
trường được xác định và thực hiện phù hợp với thông lệ, nguyên tắc, chuẩn mực
quốc tế phổ biến. Định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế được nhất quán
xác lập và tăng cường thông qua sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà
nước, lấy con người làm trung tâm, vì mọi người và do con người; phát huy đầy
đủ vai trò làm chủ của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay
trong từng bước và từng chính sách phát triển.
- Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có quan hệ
sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nhiều
hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò
chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế. Doanh
nghiệp nhà nước giữ vị trí then chốt và là một lực lượng vật chất quan trọng của
kinh tế nhà nước. Kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể cùng với kinh tế tư nhân là
nòng cốt để phát triển một nền kinh tế độc lập, tự chủ. Các chủ thể thuộc các
thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác, cạnh tranh cùng phát triển theo pháp luật.
Khuyến khích làm giàu hợp pháp. Thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao
động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực
khác và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội.
- Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước đóng
vai trò định hướng, xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế; tạo môi trường cạnh
19
tranh bình đẳng, minh bạch và lành mạnh; sử dụng các công cụ, chính sách và
các nguồn lực của Nhà nước để định hướng và điều tiết nền kinh tế, thúc đẩy sản
xuất, kinh doanh và bảo vệ tài nguyên, môi trường; phát triển các lĩnh vực văn
hoá, xã hội. Thị trường đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ có hiệu
quả các nguồn lực, là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất; các nguồn
lực nhà nước được phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phù hợp với cơ
chế thị trường.
2.3.2. Tiếp tục hoàn thiện thể chế về sở hữu, phát triển các thành phần kinh tế,
các loại hình doanh nghiệp
Hoàn thiện thể chế về sở hữu
- Thể chế hoá đầy đủ quyền sở hữu tài sản của Nhà nước, tổ chức và cá
nhân đã được quy định trong Hiến pháp năm 2013. Bảo đảm công khai, minh
bạch về nghĩa vụ và trách nhiệm trong thủ tục hành chính nhà nước và dịch vụ
công để quyền tài sản được giao dịch thông suốt; bảo đảm hiệu lực thực thi và
bảo vệ có hiệu quả quyền sở hữu tài sản.
- Hoàn thiện pháp luật về đất đai, tài nguyên để huy động, phân bổ và sử
dụng hiệu quả đất đai, tài nguyên, khắc phục tình trạng tranh chấp, khiếu kiện,
tham nhũng, lãng phí trong lĩnh vực này. Công khai, minh bạch việc quản lý, sử
dụng đất công; tăng cường giám sát, quản lý chặt chẽ, nâng cao hiệu quả sử
dụng đất giao cho các cộng đồng và doanh nghiệp nhà nước.
Tạo thuận lợi cho việc chuyển nhượng hoặc cho thuê quyền sử dụng đất,
góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất; hỗ trợ tích tụ, tập trung ruộng đất để
phát triển công nghiệp, dịch vụ ở nông thôn và nông nghiệp hàng hoá quy mô
lớn, công nghệ cao, gắn với bảo đảm việc làm và thu nhập bền vững của nông
dân, giữ vững ổn định chính trị - xã hội ở nông thôn.
- Hoàn thiện pháp luật về quản lý, khai thác và sử dụng tiết kiệm, hiệu quả
tài nguyên thiên nhiên. Nhà nước giao quyền khai thác tài nguyên cho các doanh
nghiệp theo cơ chế thị trường.
- Hoàn thiện pháp luật về đầu tư vốn nhà nước, quản lý và sử dụng có hiệu
quả tài sản công; phân biệt rõ tài sản đưa vào kinh doanh và tài sản để thực hiện
20
chính sách xã hội. Đầu tư vốn của Nhà nước vào doanh nghiệp theo cơ chế thị
trường.
- Hoàn thiện thể chế về sở hữu trí tuệ theo hướng khuyến khích sáng tạo,
bảo đảm tính minh bạch và độ tin cậy cao; quyền sở hữu trí tuệ được bảo vệ và
thực thi hiệu quả.
- Hoàn thiện pháp luật về hợp đồng và giải quyết tranh chấp dân sự theo
hướng thống nhất, đồng bộ. Đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả các thiết chế
giải quyết tranh chấp dân sự với các quy trình, thủ tục đơn giản, công khai, minh
bạch. Hoàn thiện các quy định về đăng ký và giao dịch tài sản; phát triển hệ
thống đăng ký minh bạch, liên thông, dễ tiếp cận, nhất là bất động sản.
Hoàn thiện thể chế phát triển các thành phần kinh tế, các loại hình doanh
nghiệp
- Thực hiện nhất quán một chế độ pháp lý kinh doanh cho các doanh
nghiệp, không phân biệt hình thức sở hữu, thành phần kinh tế. Mọi doanh
nghiệp thuộc các thành phần kinh tế đều hoạt động theo cơ chế thị trường, bình
đẳng và cạnh tranh lành mạnh theo pháp luật. Tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy
phát triển doanh nghiệp và đội ngũ doanh nhân Việt Nam thật sự trở thành lực
lượng nòng cốt, đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội
nhập kinh tế quốc tế, bảo đảm tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế.
- Hoàn thiện pháp luật về đầu tư, kinh doanh, nhất là về đầu tư công, đấu
thầu. Bảo đảm quyền tự do kinh doanh, cạnh tranh lành mạnh của các chủ thể
kinh tế đã được Hiến pháp quy định; xoá bỏ các rào cản đối với hoạt động đầu
tư, kinh doanh. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính. Hoàn thiện các quy định
liên quan để khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi nhất cho hoạt động khởi
nghiệp.
- Hoàn thiện thể chế về cạnh tranh; tăng cường tính minh bạch về độc
quyền nhà nước. Xoá bỏ các cơ chế can thiệp hành chính trực tiếp, bao cấp của
Nhà nước đối với doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế.
- Tiếp tục hoàn thiện thể chế cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả
doanh nghiệp nhà nước, đáp ứng các chuẩn mực quốc tế về quản trị doanh
21
nghiệp; thực sự hoạt động theo cơ chế thị trường. Đẩy mạnh sắp xếp, đổi mới
các doanh nghiệp nhà nước trong nông nghiệp, lâm nghiệp nhằm phát huy hiệu
quả sử dụng đất, rừng và các tài sản nhà nước đã đầu tư; bảo đảm lợi ích của
Nhà nước và các bên đang nhận khoán đất đai, vườn cây lâu năm. Tăng cường
quản lý, giám sát, kiểm tra đối với hoạt động của doanh nghiệp nhà nước, không
để thất thoát, lãng phí vốn, tài sản nhà nước.
- Hoàn thiện thể chế, đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của các đơn
vị sự nghiệp công lập. Trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm đầy đủ cho các
đơn vị sự nghiệp công lập về phạm vi hoạt động, tổ chức bộ máy, biên chế, nhân
sự và tài chính gắn với cơ chế đánh giá độc lập. Thực hiện xã hội hoá tối đa các
dịch vụ công, bảo đảm quyền bình đẳng giữa các đơn vị sự nghiệp công lập và
các đơn vị ngoài công lập tham gia cung cấp dịch vụ công theo cơ chế thị
trường.
- Nhà nước có cơ chế, chính sách hỗ trợ cho các hợp tác xã tiếp cận nguồn
vốn, đào tạo nguồn nhân lực, chuyển giao công nghệ, hỗ trợ phát triển thị
trường. Đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của kinh tế tập thể. Tăng
cường các hình thức hợp tác, liên kết, hỗ trợ cho nông dân trong sản xuất, bảo
quản, chế biến, tiêu thụ nông sản; nhân rộng các mô hình tổ chức sản xuất mới,
hiệu quả; phát triển các hình thức hợp tác, liên kết sản xuất, chế biến, tiêu thụ
nông sản theo chuỗi giá trị, kết nối với hệ thống tiêu thụ ở cả trong và ngoài
nước; chuyển mạnh từ sản xuất theo hộ gia đình riêng lẻ sang mô hình sản xuất
hợp tác, liên kết, tập trung, quy mô lớn.
- Tiếp tục hoàn thiện thể chế, tạo thuận lợi phát triển khu vực kinh tế tư
nhân thực sự trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế. Thúc đẩy hình
thành và phát triển các tập đoàn kinh tế tư nhân mạnh, có công nghệ hiện đại,
năng lực quản trị tiên tiến. Hoàn thiện chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp
nhỏ và vừa.
- Nâng cao hiệu quả thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài; chủ động lựa
chọn các dự án đầu tư nước ngoài có chuyển giao công nghệ tiên tiến và quản trị
hiện đại, có cơ sở nghiên cứu và phát triển công nghệ tại Việt Nam, có cam kết
22
liên kết, hỗ trợ doanh nghiệp trong nước tham gia chuỗi giá trị toàn cầu, phù hợp
với định hướng cơ cấu lại nền kinh tế và các chiến lược, quy hoạch phát triển
kinh tế.
2.3.3. Hoàn thiện thể chế phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị
trường
Hoàn thiện thể chế phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường
- Thực hiện nhất quán cơ chế giá thị trường; bảo đảm tính đúng, tính đủ và
công khai, minh bạch các yếu tố hình thành giá hàng hoá, dịch vụ công thiết
yếu. Không lồng ghép các chính sách xã hội trong giá hàng hoá, dịch vụ.
Chuyển từ cơ chế cấp phát sang cơ chế đặt hàng; từ hỗ trợ cho các đơn vị cung
cấp dịch vụ sang hỗ trợ trực tiếp cho các đối tượng thụ hưởng. Hoàn thiện pháp
luật về phí, lệ phí theo hướng chuyển sang áp dụng giá dịch vụ phù hợp với cơ
chế thị trường. Đẩy mạnh hoàn thiện thể chế bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng,
phát huy đúng đắn, đầy đủ vai trò của người tiêu dùng, các hội bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng.
- Cải cách mạnh mẽ chính sách tài chính về đất đai theo hướng đơn giản,
ổn định, công khai, minh bạch và công bằng. Nghiên cứu, hoàn thiện pháp luật
về thuế tài sản, nhất là về đất đai, bất động sản. Bảo đảm minh bạch thông tin về
thị trường quyền sử dụng đất. Xác định giá trị quyền sử dụng đất theo cơ chế thị
trường thông qua đấu giá, đấu thầu các dự án có sử dụng đất, thoả thuận mua
bán trên thị trường; áp dụng phổ biến việc xác định giá trị quyền sử dụng đất
thông qua các tổ chức thẩm định giá độc lập, chuyên nghiệp. Rà soát, điều chỉnh
khung giá quyền sử dụng đất phù hợp với thị trường ở từng địa phương. Tăng
cường áp dụng phương thức cho thuê đất.
- Thực hiện bình đẳng trong tiếp cận các yếu tố đầu vào của các doanh
nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Hoàn thiện và thực thi có hiệu quả các quy
định của pháp luật về công khai, minh bạch trong tiếp cận các nguồn lực công,
mua sắm và đầu tư công. Tăng cường tính minh bạch đối với độc quyền nhà
nước; kiểm soát, ngăn chặn, xoá bỏ độc quyền doanh nghiệp. Hoàn thiện thể chế
phân bổ nguồn lực theo cơ chế thị trường vào những ngành, lĩnh vực và địa bàn
23
đạt hiệu quả cao, có tác động lan toả. Hoàn thiện pháp luật về phá sản doanh
nghiệp theo cơ chế thị trường, thể chế bảo vệ nhà đầu tư, quyền sở hữu và quyền
tài sản; không hình sự hoá các mối quan hệ kinh tế và dân sự.
Hoàn thiện thể chế để phát triển đồng bộ, vận hành thông suốt các
thị trường
- Đẩy mạnh phát triển thị trường hàng hoá, dịch vụ, gồm cả thị trường xuất,
nhập khẩu, thị trường trong nước và biên mậu; phát triển hạ tầng thương mại.
Thực hiện hiệu quả các cam kết quốc tế. Phát triển mạnh các phương thức giao
dịch thị trường hiện đại. Xây dựng và thực hiện các tiêu chuẩn chất lượng hàng
hoá, vệ sinh an toàn thực phẩm và môi trường phù hợp với yêu cầu trong nước
và cam kết quốc tế, bảo vệ hợp lý thị trường trong nước, không để bị nước ngoài
thâu tóm, thao túng. Hoàn thiện pháp luật về phát triển những thị trường mới,
nhất là thị trường các dịch vụ có hàm lượng tri thức, công nghệ cao; thị trường
công nghiệp môi trường, công nghiệp văn hoá...
- Phát triển cân bằng, đồng bộ thị trường tài chính. Thực hiện có hiệu quả
chủ trương cơ cấu lại ngân sách nhà nước, quản lý nợ công. Đẩy mạnh hợp tác
công - tư. Nâng cao hiệu quả hoạt động của thị trường chứng khoán, thị trường
trái phiếu; hình thành và đưa vào hoạt động có hiệu quả thị trường mua bán nợ.
Phát triển thị trường bảo hiểm, thị trường dịch vụ kế toán, kiểm toán, tư vấn
thuế, thẩm định giá...
- Rà soát, bổ sung, sửa đổi luật pháp bảo đảm thực hiện chính sách tiền tệ
theo mục tiêu kiểm soát lạm phát, phối hợp có hiệu quả giữa chính sách tiền tệ,
chính sách tài khoá và các chính sách khác. Điều hành lãi suất phù hợp với diễn
biến kinh tế vĩ mô, lạm phát và thị trường tiền tệ. Điều hành tỉ giá linh hoạt theo
tín hiệu thị trường. Tăng tính độc lập của Ngân hàng Nhà nước trong điều hành
chính sách tiền tệ. Hoàn thiện pháp luật về cơ cấu lại các tổ chức tín dụng gắn
với xử lý nợ xấu. Nâng cao năng lực tài chính, quản trị, điều hành phù hợp với
chuẩn mực quốc tế; xử lý dứt điểm các tổ chức tín dụng yếu kém và tình trạng
đầu tư chéo, sở hữu chéo trong lĩnh vực ngân hàng; phát triển nhanh và an toàn
dịch vụ tài chính, ngân hàng.
24
- Đổi mới, phát triển mạnh mẽ và đồng bộ thị trường khoa học - công nghệ.
Tăng cường bảo hộ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ. Có chính sách hỗ trợ,
khuyến khích các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp đầu tư nghiên cứu, phát triển,
chuyển giao công nghệ, ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ vào sản xuất
kinh doanh; xác định doanh nghiệp là lực lượng quan trọng trong phát triển và
ứng dụng khoa học - công nghệ; tập trung nâng cao năng lực hấp thụ công nghệ
của doanh nghiệp. Hoàn thiện chính sách nhập khẩu công nghệ; đẩy mạnh đầu
tư nghiên cứu ứng dụng, nâng cao trình độ thiết kế, chế tạo trong nước.
Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ cơ chế quản lý tài chính, tổ chức và
hoạt động khoa học - công nghệ. Nghiên cứu, đổi mới phương thức sử dụng
ngân sách nhà nước đầu tư cho khoa học - công nghệ. Hoàn thiện quy định về
đầu tư mạo hiểm, nâng cao chất lượng hoạt động của các vườn ươm công nghệ
và doanh nghiệp công nghệ cao. Thực hiện cơ chế hợp tác công - tư trong việc
triển khai các dự án đổi mới công nghệ, sáng tạo, nghiên cứu và phát triển. Tiếp
tục phát triển mạnh các khu công nghiệp, khu công nghệ cao. Hình thành cơ sở
dữ liệu quốc gia về công nghệ, chuyên gia công nghệ. Phát triển các dịch vụ tư
vấn, thẩm định, môi giới, định giá sản phẩm khoa học và công nghệ.
- Hoàn thiện pháp luật, cơ chế, chính sách để phát triển và vận hành thông
suốt thị trường bất động sản. Xây dựng thể chế và các mô hình phù hợp để gắn
kết quá trình công nghiệp hoá với đô thị hoá và xây dựng nông thôn mới. Xây
dựng chính sách xã hội về nhà ở.
Tập trung xây dựng, hoàn thiện pháp luật về phát triển thị trường sơ cấp,
thứ cấp quyền sử dụng đất, kể cả đất nông nghiệp; bảo đảm thị trường quyền sử
dụng đất hoạt động công khai, minh bạch và có trật tự. Phát triển và nâng cao
hiệu quả hoạt động của thị trường cho thuê đất nông nghiệp. Nghiên cứu hoàn
thiện pháp luật về thuế sử dụng tài sản, nhất là về sử dụng đất đai.
- Hoàn thiện cơ chế, chính sách để phát triển đồng bộ, liên thông thị trường
lao động cả về quy mô, chất lượng lao động và cơ cấu ngành nghề. Có cơ chế,
chính sách để định hướng dịch chuyển lao động, phân bố hợp lý lao động theo
vùng; lao động di cư và gia đình được tiếp cận bình đẳng các dịch vụ xã hội.
25