Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

Bài tập chuyên đề quyết định hành chính nhà nước năm 2020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (255.1 KB, 11 trang )

1

TRƯỜNG ĐÀO TẠO CÁN BỘ
NGUYỄN VĂN CỪ
*

BÀI TẬP CHUYÊN ĐỀ:
QUYẾT ĐỊNH HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
Họ và tên học viên: Ngô Thị Châu
Lớp:

Chuyên viên chính

Khóa: K 33

Năm 2020


2
CÂU HỎI:
Câu 1: Đồng chí hãy nêu hạn chế của việc ban hành Quyết định hành chính
tại cơ quan, đơn vị?
Câu 2: Đồng chí hãy soạn một Quyết định hành chính do đồng chí đã tham
mưu cho lãnh đạo tại cơ quan đơn vị trong năm 2019-2020?
TRẢ LỜI:
Câu 1:
Quyết định hành chính nhà nước là mệnh lệnh điều hành, là kết quả hoạt động
của các chủ thể hành chính nhà nước (cơ quan hành chính nhà nước hay các cán
bộ, công chức được trao thẩm quyền) được thể hiện bằng một hình thức nhất định
và theo một thể thức xác định nhằm thực hiện chức năng, nhiệm vụ của chủ thể
quản lý đó.


Xuất phát từ những đặc điểm của chủ thể ban hành và đối tượng tác động của
quyết định hành chính nhà nước mà quyết định hành chính có tính chất dưới luật,
được sử dụng để giải thích, hướng dẫn luật hoặc áp dụng luật. Những quyết định
này có thể chứa đựng các quy tắc xử sự chung, bắt buộc thi hành đối với các cá
nhân, tổ chức (quyết định quy phạm) hoặc được ban hành để xử lý một công việc
cá biệt cụ thể (quyết định cá biệt).
Quyết định hành chính nhà nước được ban hành để thực hiện chức năng chấp
hành và điều hành của nhà nước.
Quyết định hành chính nhà nước có tính thứ bậc, tức là quyết định của cơ
quan cấp trên có giá trị pháp lý cao hơn quyết định của cơ quan cấp dưới. Theo đó,
khi cần thiết phải điều chỉnh hay bãi bỏ một quyết định hành chính nhà nước, cần
sử dụng quyết định của chính cơ quan đã ban hành quyết định đó hoặc của cơ quan
cấp trên.
Theo các tiêu chí khác nhau thì quyết định hành chính được phân thành 6
loại. Cụ thể:
- Theo chủ thể ban hành quyết định: Quyết định của Thủ tướng Chính phủ,
quyết định của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện ...
- Theo hình thức thể hiện của quyết định: Quyết định bằng văn bản, lời nói...
tuy nhiên các quyết định quan trọng thường được thể hiện dưới hình thức văn bản.
- Theo mức độ thường xuyên của vấn đề cần giải quyết: Quyết định theo
chương trình, quyết định không theo chương trình, quyết định không xác định thời
hạn hiệu lực, quyết định có hiệu lực trong một khoảng thời gian nhất định và quyết
định có hiệu lực một lần.
- Theo lĩnh vực điều chỉnh của quyết định: Quyết định trong lĩnh vực kinh tế,
quyết định trong lĩnh vực văn hóa, quyết định trong lĩnh vực xã hội ...


3
- Theo mức độ ảnh hưởng của quyết định có thể phân chia quyết định hành
chính nhà nước thành 3 loại: Quyết định chung, quyết định quy phạm và quyết

định cá biệt.
Là một cán bộ hiện đang công tác tại phòng Tài nguyên và Môi trường, tôi
nhận thấy quyết định hành chính có vai trò quan trọng trong việc thực thi nhiệm vụ
nhằm giải quyết các vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính Nhà nước;
góp phần tạo sự nề nếp trong hoạt động quản lý hành chính Nhà nước; duy trì sự
ổn định và thúc đẩy sự phát triển các lĩnh vực trong đời sống xã hội, đặc biệt là
lĩnh vực tài nguyên và môi trường mà tôi đang công tác và quản lý tại địa phương.
Phòng Tài nguyên và Môi trường là đơn vị phòng ban chuyên môn, giúp việc
cho Ủy ban nhân dân huyện trong quản lý ngành tài nguyên và môi trường tại địa
phương, do đó việc ban hành quyết định hành chính của đơn vị có liên quan đến
chế độ tiền lương, tiền công và các khoản khác có tính chất theo lương liên quan
đến quyền lợi thu nhập của cán bộ công chức, viên chức. Đối với các lĩnh vực
ngành tài nguyên và môi trường, 100% các văn bản là văn bản tham mưu quyết
định hành chính cho Ủy ban nhân dân huyện Tiên Yên. Tính đến ngày 31/12/2019,
tại phòng Tài nguyên và Môi trường đã tham mưu cho Ủy ban nhân dân huyện
Tiên Yên ban hành 1.569 quyết định hành chính (theo Báo cáo số 08/BC-TNMT
ngày về kết quả thực hiện thuộc lĩnh vực ngành đơn vị quản lý năm 2019 trên địa
bàn huyện Tiên Yên), chủ yếu liên quan đến việc thu hồi đất, cấp mới, cấp đổi giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất và chuyển mục đích sử dụng đất. Trong năm 2019,
không có quyết định hành chính nào được đơn vị tham mưu có vi phạm hành
chính, có khiếu kiện, khiếu nại của người dân liên quan đến quyết định đó.
Là cán bộ được phân công làm việc tại phòng Tài nguyên và Môi trường, với
vị trí việc làm về quản lý quy hoạch, kế hoạch, dự án có sử dụng đất, thống kê,
kiểm kê đất đai, thu hồi đất, giải phóng mặt bằng, cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất và tài chính nội bộ, về cơ bản, trong thực thi nhiệm vụ tại cơ quan, các
quyết định hành chính do tôi tham gia soạn thảo và tham mưu ban hành được thực
hiện đúng pháp luật, bảo đảm quyền lợi ích hợp pháp của công dân, không có
quyết định hành chính được tham mưu có khiếu kiện, khiếu nại, tố cáo và bị xử lý
vi phạm phạm hành chính.
Theo quan điểm của cá nhân tôi cho rằng, việc ban hành quyết định hành

chính trong các tổ chức, đơn vị hành chính nhà nước nói chung và tại huyện Tiên
Yên nói riêng vẫn có những hạn chế ảnh hưởng đến chất lượng và hiệu quả thực thi
của quyết định hành chính, cụ thể như sau:
1. Trình độ cán bộ, nhất là trình độ lý luận, hiểu biết pháp luật, vận hành thực
tiễn (tiên lượng tính hiệu quả khi áp dụng trong thực tế) của nhiều cán bộ còn hạn
chế. Nhận thức không đầy đủ về tầm quan trọng của việc ban hành văn bản, tính
nguy hại của việc đưa vào cuộc sống những văn bản sai trái ở một bộ phận cán bộ,
cơ quan có thẩm quyền, chưa thấy được hệ lụy do việc ban hành văn bản trái pháp
luật không chỉ làm tốn kém thời gian, tiền bạc mà còn làm giảm sút niềm tin của
nhân dân và cán bộ cấp cơ sở đối với sự chỉ đạo của các cơ quan cấp trên.


4
Ví dụ, ngày 20/7/2012, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ban hành
Thông tư số 33/2012/TT-BNNPTNT về việc quy định điều kiện vệ sinh, đảm bảo
an toàn thực phẩm đối với cơ sở kinh doanh thịt và phụ phẩm ăn được của động vật
ở dạng tươi sống dùng làm thực phẩm, trong đó có quy định về bán thịt trong 8
giờ. Quy định này được ban hành nhằm hạn chế nguy cơ ngộ độc thực phẩm và
mang lại lợi ích cho người tiêu dùng trong việc sử dụng thịt chất lượng trong bữa
ăn hằng ngày. Tuy nhiên quy định bán thịt trong 8 giờ không phù hợp và hiệu quả
với thực tế hoạt động giết mổ và buôn bán, đặc biệt là của các tiểu thương tại các
chợ truyền thống do không xác định được thời gian bán hàng, khâu kiểm dịch và
xác định nguồn gốc thịt còn nhiều hạn chế.
2. Trách nhiệm công vụ của cán bộ các cấp, các ngành đã không được đề cao
đúng mức và không có chế tài xử lý thích hợp, buông lỏng quản lý lâu dài, hời hợt
trong việc khắc phục hậu quả; Các vấn đề thực tế của cơ chế thị trường không bắt
kịp để xử lý, máy móc, phiến diện trong việc xử lý và ra quyết định.
Cụ thể là trường hợp khoảng 22h đêm 4/3/2019, sau khi đi dạo về, chị P. H.V
(20 tuổi, sinh viên một trường ĐH ở Hà Nội) vào thang máy của tòa chung cư
Golden Palm (phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân) để lên phòng. Khi thang

máy chỉ còn lại chị và một người đàn ông lạ mặt thì người kia xin số điện thoại để
làm quen và chị từ chối. Sau đó, chị bị người đàn ông này sàm sỡ, xúc phạm thân
thể. Sự việc đã được camera của thang máy ghi lại và được lan truyền rộng rãi trên
mạng xã hội. Ngày 18/3/2019, Công an quận Thanh Xuân đã lập biên bản, quyết
định xử phạt hành chính đối tượng Đỗ Mạnh Hùng (SN 1982, quê Hải Phòng) về
hành vi “Có cử chỉ, lời nói thô bạo, khiêu khích, trêu ghẹo, xúc phạm danh dự,
nhân phẩm của người khác”, được quy định điểm a, khoản 1, điều 5, nghị định
167/2013/NĐ-CP với mức phạt 200.000 nghìn đồng. Sự việc đã gây xôn xao dư
luận và gây nhiều phản ứng tiêu cực đối với quy định tại Nghị định 167/2013/NĐCP khi áp dụng trong thực tế là không còn phù hợp trong thực tiễn hiện nay, hình
phạt dành cho người đàn ông có hành vi sàm sỡ, cưỡng hôn nữ sinh này còn quá
nhẹ, không đủ tính răn đe. Với quan điểm cá nhân đối với trường hợp cụ thể này,
tôi cho rằng cần phải điều chỉnh nâng mức phạt vi phạm hành chính đồng thời
chuyển hồ sơ sang xử lý hình sự đối với trường hợp xâm phạm thân thể, dâm ô,
cưỡng bức phụ nữ của người đàn ông trên.
3. Việc tuyên truyền, giáo dục pháp luật chưa thường xuyên, cập nhật văn bản
hình thức là chính, không thiết thực, mới chỉ tập trung vào các luật và pháp lệnh,
chưa thực sự chú trọng vào các văn bản hướng dẫn thi hành; có hình thức phổ biến,
giáo dục pháp luật vẫn chưa được triển khai nhiều trên thực tế như tổ chức các
phiên toà xét xử lưu động kết hợp với phổ biến, giáo dục pháp luật cho nhân dân;
các hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật hiện đại chưa được sử dụng triệt để, đặc
biệt là việc ứng dụng một cách có hiệu quả công nghệ thông tin vào hoạt động phổ
biến, giáo dục pháp luật. Lực lượng thực hiện công tác phổ biến, giáo dục pháp
luật, đặc biệt là ở cơ sở còn thiếu, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ còn hạn chế và
chưa đồng đều.


5
4. Cơ chế giám sát ban hành văn bản chưa rõ ràng. Rõ nhất là sự lỏng lẻo và
thiếu toàn diện trong cơ chế kiểm tra, giám sát các dự án ban hành văn bản quản lý
pháp luật để bảo đảm không trái luật. Ví dụ, những người chịu tác động của văn

bản, các cơ quan cấp dưới liên quan trong nhiều trường hợp đã không được tham
gia vào quá trình thẩm định các văn bản, chính sách mà nếu áp dụng vào thực tế sẽ
liên quan đến họ hoặc đến quyền lợi chính đáng, hợp pháp của người dân nói
chung đã dẫn đến việc xuất hiện nhiều văn bản thiếu tính thực tế và tính khả thi.
Các văn bản pháp luật còn thiếu cụ thể, rõ ràng, còn có sự trùng lặp, chồng
chéo thậm chí mâu thuẫn nhau; nhiều văn bản thiếu tính khả thi; tính ổn định của
hệ thống pháp luật chưa cao. Mặt khác, tình trạng văn bản của nhà nước cấp trên
đã ban hành nhưng vẫn phải chờ văn bản hướng dẫn của cơ quan nhà nước cấp
dưới vẫn còn, làm cho pháp luật không đi ngay vào cuộc sống. Tình trạng Luật,
Pháp lệnh phải chờ Thông tư là một thực tế làm cho pháp luật chậm đi vào cuộc
sống, công tác phổ biến, giáo dục pháp luật chậm trễ, khó triển khai. Công tác hệ
thống hóa văn bản quản lý pháp luật chưa được tốt. Hệ quả là các cơ quan ban
hành văn bản đã không kịp thời phát hiện được những văn bản chồng chéo và cả
những văn bản trái với pháp luật hiện hành.
Từ những hạn chế được phân tích trên, tôi đề xuất một số giải pháp để khắc
phục và hạn chế các quyết định hành chính được ban hành không hợp lý, hợp pháp
hoặc chưa gắn liền với thực tiễn như sau:
1. Nâng cao trách nhiệm của người đứng đầu.
Thủ trưởng, lãnh đạo của các đơn vị là người trực tiếp ký tham mưu, ban hành
các quyết định hành chính. Do đó, “Đòi hỏi cao đối với cán bộ lãnh đạo, nhất là
các đồng chí giữ cương vị trọng trách trong bộ máy của Đảng, Nhà nước ở Trung
ương và địa phương, các đồng chí ủy viên Trung ương, bí thư tỉnh, thành ủy, bộ
trưởng, người đứng đầu các ngành, địa phương, đơn vị và các cán bộ lãnh đạo khác
phải tự giác rèn luyện, nêu gương cho cấp dưới... Các đồng chí đó phải chịu trách
nhiệm trước khuyết điểm tham nhũng, lãng phí, quan liêu trong ngành, địa phương,
đơn vị mình. Những cơ quan, đơn vị có sai phạm gây hậu quả nghiêm trọng, thì
người đứng đầu cơ quan, đơn vị đó dù không trực tiếp vi phạm cũng phải chịu
trách nhiệm và hình thức kỷ luật thích hợp” (Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9 BCH
Trung ương khóa IX của Đảng).
2. Tiếp tục tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật theo hướng làm thay

đổi cách nghĩ, cách nhìn của nhân dân đối với pháp luật để nâng cao chất lượng
thực hiện chức năng chấp hành và điều hành của nhà nước của các quyết định hành
chính.
Để làm tốt công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cần có sự tìm
hiểu về thái độ của người dân đối với pháp luật, họ hiểu pháp luật như thế nào?
Pháp luật có vai trò gì trong cuộc sống của họ?... Có thể nói, phần lớn người dân
thường cho rằng “pháp luật” là những mệnh lệnh mà người ta cần phải tuân thủ, là
hình phạt, là trừng trị… người khác thì cho rằng, pháp luật chỉ là để giải quyết các
tranh chấp. Người dân thường chỉ quan tâm tới pháp luật khi bản thân họ phải rơi


6
vào tình thế sự việc miễn cưỡng, lợi ích bị xâm hại… dính líu tới pháp luật (kiện
cáo, tranh chấp, bị phạt, bị cưỡng chế…). Bởi vậy, khi tuyên truyền, phổ biến giáo
dục pháp luật cần giải thích, phân tích cho người dân hiểu được rằng pháp luật
không chỉ bao gồm các quy định cưỡng chế, thực thi pháp luật, biện pháp giải
quyết tranh chấp. Pháp luật còn bao gồm các quy định bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân, khuyến khích sự giao dịch lành mạnh giữa các thành viên trong
xã hội vì sự phát triển và bảo đảm trật tự ổn định. Pháp luật là một môi trường
thuận lợi tạo điều kiện cho con người giao dịch với nhau trong các lĩnh vực của đời
sống xã hội, đảm bảo cho các thành viên trong xã hội phụ thuộc và gắn bó với
nhau một cách hợp lý. Pháp luật hôn nhân đảm bảo cho quan hệ vợ - chồng về tài
sản, con cái, … rõ ràng và ổn định; pháp luật về sở hữu là sự thừa nhận của xã hội
đối với những quyền cơ bản của mỗi con người về quyền sở hữu;… pháp luật về
kinh doanh là một môi trường pháp lý phát huy sự sáng tạo và bản lĩnh làm giàu
chính đáng của các nhà doanh nghiệp, thúc đẩy sự phát triển của cá nhân làm giàu
cho mình và cho đất nước.
3. Tăng cường hơn nữa quyền tham gia đóng góp ý kiến của nhân dân vào các
dự án luật, đặc biệt là các quyết định hành chính có tính thực thi hoặc hướng dẫn
thực thi luật .

Việc tham gia đóng góp ý kiến của nhân dân có tác dụng tuyên truyền, phổ
biến, giáo dục pháp luật rất lớn và có hiệu quả. Thông qua lấy ý kiến vào quá trình
xây dựng, ban hành và thực thi pháp luật có tác dụng tuyên truyền, phổ biến giáo
dục pháp luật cho người dân nâng cao ý thức chấp hành pháp luật, bồi dưỡng tình
cảm, ý thức về trách nhiệm pháp lý và khả năng tiến hành các hành vi pháp lý đúng
đắn, chính xác. Đồng thời, qua hoạt động này, sẽ giúp cho nhân dân nâng cao ý
thức pháp luật. Như vậy, mọi người sẽ hiểu được về giá trị xã hội và pháp luật. Có
thể nói, thái độ chấp hành hay không chấp hành của người dân đối với pháp luật là
kết quả của sự am hiểu pháp luật. Mặt khác cũng thấy rằng con người chấp hành
pháp luật một cách tự giác, nghiêm chỉnh một khi họ có thái độ đúng đắn đối với
pháp luật. Cung cấp đầy đủ, có hệ thống thông tin pháp luật trong từng lĩnh vực để
phục vụ cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật.
4. Xây dựng và đưa vào sử dụng rộng rãi các cơ sở dữ liệu pháp luật điện tử.
Tiếp tục củng cố và phát triển các hệ thống thông tin pháp luật phù hợp tại các
cơ quan nhà nước, các tổ chức, đoàn thể. Bên cạnh đó cần quan tâm khai thác có
hiệu quả các văn bản pháp luật cập nhật, lưu trữ trên mạng tin học diện rộng của
Chính phủ, mạng Internet.
5. Nâng cao khả năng hợp tác giữa các cơ quan, tổ chức làm công tác thông
tin pháp luật tạo thành mạng lưới thông tin pháp luật thống nhất từ Trung ương đến
địa phương thực hiện việc tổ chức, quản lý và cung cấp thông tin pháp luật. Hình
thành các cơ quan đầu mối làm nhiệm vụ cung cấp thông tin pháp luật phục vụ nhu
cầu trong nước, trong khu vực và thế giới phù hợp với những cam kết quốc tế của
Việt Nam về minh bạch hoá pháp luật, trao đổi thông tin pháp luật…


7
6. Kết hợp phổ biến, giáo dục pháp luật và hướng dẫn áp dụng pháp luật tại
các quyết định hành chính, nhất là tại cấp tỉnh, cấp huyện. Trong các hoạt động,
các quyết định thuộc phạm vi chức năng, nhiệm vụ và thẩm quyền của mình, các
cơ quan nhà nước mà trực tiếp là các cán bộ, công chức nhà nước là người tổ chức

thực hiện các quy định pháp luật, xử lý vi phạm pháp luật đồng thời, thông qua
thực thi công vụ kết hợp phổ biến, giáo dục pháp luật nhằm giúp cho đối tượng
được áp dụng pháp luật hiểu rõ nội dung, ý nghĩa của các quy định pháp luật được
áp dụng hoặc các quy định có liên quan, hiểu và ý thức được về quyền và nghĩa vụ
pháp lý của mình, từ đó tự nguyện chấp hành nghiêm túc các quyết định áp dụng
pháp luật nói riêng và chấp hành pháp luật nói chung, hình thành niềm tin pháp
luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật.
7. Kết hợp phổ biến, giáo dục pháp luật với trợ giúp pháp lý, tư vấn pháp luật
và hoà giải ở cơ sở, đặc biệt là trong việc thi hành các quyết định hành chính có
tính răn đe đối với các hành vi vi phạm pháp luật, các quyết định hành chính về
giải quyết tranh chấp, khiếu nại trong nhân dân... Phổ biến, giáo dục pháp luật, trợ
giúp pháp lý, tư vấn pháp luật và hoà giải ở cơ sở có mối quan hệ mật thiết trong
việc xây dựng ý thức pháp luật, tăng cường sự hiểu biết pháp luật, khuyến khích
thói quen ứng xử xã hội bằng pháp luật trong nhân dân.
Câu 2:
Soạn thảo một Quyết định hành chính hiện nay được thực hiện theo thể thức
quy định tại Nghị định 30/2020/NĐ-CP ngày 5/3/2020 của Chính phủ về công tác
văn thư.
Cụ thể:
1. Bắt buộc dùng phông chữ Times New Roman
Nếu như trước đây phông chữ sử dụng để trình bày văn bản trên máy vi tính
là phông chữ tiếng Việt của bộ mã ký tự Unicode theo Tiêu chuẩn Việt Nam TCVN
6909:2001 thì hiện nay đã quy định cụ thể phông chữ phải là phông chữ tiếng Việt
Times New Roman, bộ mã ký tự Unicode theo Tiêu chuẩn Việt Nam TCVN
6909:2001.
Cỡ chữ và kiểu chữ không có quy định chung mà phụ thuộc vào từng yếu tố
thể thức.
2. Chỉ sử dụng khổ giấy A4 cho tất cả các loại văn bản
Thay vì được phép trình bày văn bản hành chính trên khổ giấy A4 hoặc A5
(đối với giấy giới thiệu, giấy biên nhận hồ sơ, phiếu gửi, phiếu chuyển) thì hiện

nay, tất cả các loại văn bản hành chính đều chỉ sử dụng chung khổ giấy A4
(210mm x 297mm).
Văn bản được trình bày theo chiều dài của khổ A4, trường hợp văn bản có các
bảng, biểu nhưng không được làm thành phụ lục riêng thì có thể được trình bày
theo chiều rộng.
3. Thay đổi cách đánh số trang văn bản


8
Trước đây số trang văn bản được trình bày tại góc phải ở cuối trang giấy
(phần footer) thì nay số trang văn bản được đặt canh giữa theo chiều ngang trong
phần lề trên của văn bản, được đánh từ số 1, bằng chữ số Ả-rập, cỡ chữ 13 đến 14,
kiểu chữ đứng và cũng không hiển thị số trang thứ nhất.
5. Phải ghi cả tên cơ quan chủ quản
Thông tư 01/2011/TT-BNV loại trừ một số trường hợp không ghi cơ quan chủ
quản thì nay quy định mới đã bãi bỏ các trường hợp loại trừ này.
Tên cơ quan, tổ chức ban hành văn bản là tên chính thức, đầy đủ của cơ quan,
tổ chức hoặc chức danh nhà nước của người có thẩm quyền ban hành văn bản.
Tên cơ quan, tổ chức ban hành văn bản bao gồm: tên cơ quan, tổ chức ban hành
văn bản và tên cơ quan, tổ chức chủ quản trực tiếp.
Đối với tên cơ quan chủ quản trực tiếp ở địa phương phải có thêm tên tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương hoặc quận, huyện, thị xã, thành phố hoặc xã,
phường, thị trấn nơi cơ quan đóng trụ sở.
Được phép viết tắt những cụm từ thông dụng.
Tên cơ quan ban hành văn bản được trình bày chữ in hoa, cỡ chữ 12 tới 13,
đứng, đậm, đặt canh giữa dưới tên cơ quan chủ quản trực tiếp. Trong đó, tên cơ
quan chủ quản trực tiếp viết chữ in hoa, đứng, cỡ chữ 12 tới 13
5. Tên loại và trích yếu nội dung văn bản
Tên loại văn bản là tên của từng loại văn bản do cơ quan, tổ chức ban hành.
Trích yếu nội dung của văn bản là một câu ngắn gọn hoặc một cụm từ phản ánh

khái quát nội dung chủ yếu của văn bản.
Tên loại và trích yếu được đặt canh giữa theo chiều ngang văn bản. Tên loại
trình bày bằng chữ in hoa, cỡ chữ 13 đến 14, đứng, đậm.
Trích yếu nội dung văn bản được đặt ngay dưới tên loại văn bản, chữ thường,
cỡ 13 đến 14, đứng, đậm. Bên dưới có đường kẻ ngang, nét liền, có độ dài bằng từ
1/3 đến 1/2 độ dài dòng chữ và đặt cân đối so với dòng chữ.
6. Bổ sung yêu cầu trình bày căn cứ ban hành văn bản
Căn cứ ban hành văn bản ghi đầy đủ tên, loại văn bản, số, ký hiệu, cơ quan
ban hành, ngày tháng năm ban hành và trích yếu nội dung văn bản (Luật và Pháp
lệnh không ghi số, ký hiệu và cơ quan ban hành).
Căn cứ ban hành văn bản trình bày bằng chữ in thường, kiểu chữ nghiêng, cỡ
chữ từ 13 đến 14, trình bày dưới phần tên loại và trích yếu nội dung văn bản; sau
đó mỗi căn cứ phải xuống dòng có dấu chấm phẩy, dòng cuối cùng kết thúc bằng
dấu chấm.
7. Chữ ký của người có thẩm quyền
Nghị định mới đã bổ sung chữ ký số của người có thẩm quyền.
Theo đó, hình ảnh, vị trí chữ ký số của người có thẩm quyền là hình ảnh chữ
ký của người có thẩm quyền trên văn bản giấy, màu xanh, định dạng Portable


9
Netwwork Graphics (.png) nền trong suốt; đặt canh giữa chức vụ của người ký và
họ tên người ký.
8. Dấu, chữ ký số của cơ quan, tổ chức
Dấu và chữ ký số là điểm mới đáng chú ý tại Nghị định 30. Hình ảnh, vị trí
chữ ký số của cơ quan, tổ chức là hình ảnh dấu của cơ quan, tổ chức ban hành văn
bản trên văn bản, màu đỏ, kích thước bằng kich thước thực tế của dấu, định dạng
(.png) nền trong suốt, trùm lên khoảng 1/3 hình ảnh chữ ký số của người có thẩm
quyền về bên trái.
Chữ ký số của cơ quan, tổ chức trên văn bản kèm theo văn bản chính thực hiện như

sau:
- Văn bản kèm theo cùng tệp tin với nội dung văn bản điện tử, chỉ thực hiện
ký số văn bản và không ký số lên văn bản kèm theo;
- Văn bản không cùng tệp tin với nội dung văn bản điện tử phải thực hiện ký
số của cơ quan, tổ chức trên văn bản kèm theo. Vị trí: góc trên, bên phải, trang đầu
của văn bản kèm theo.
9. Bổ sung quy định về Phụ lục
Trường hợp văn bản có Phụ lục kèm theo thì trong văn bản phải có chỉ dẫn về
Phụ lục đó. Văn bản có từ hai Phụ lục trở lên thì các Phụ lục phải được đánh số thứ
tự bằng chữ số La Mã. Số trang của Phụ lục được đánh số riêng theo từng Phụ lục.
Thông tin chỉ dẫn kèm theo văn bản trên mỗi Phụ lục được ban hành bao gồm: số,
ký hiệu văn bản, thời gian ban hành văn bản và tên cơ quan, tổ chức ban hành văn
bản. Thông tin chỉ dẫn kèm theo văn bản được canh giữa phía dưới tên của Phụ
lục, chữ in thường, cỡ chữ từ 13 đến 14, kiểu chữ nghiêng, cùng phông chữ với nội
dung văn bản, màu đen.
Thông tin chỉ dẫn kèm theo văn bản trên mỗi phụ lục (Kèm theo văn bản
số .../...-... ngày .... tháng ....năm ....) được ghi đầy đủ đối với văn bản giấy; đối với
văn bản điện tử, không phải điền thông tin tại các vị trí này.
Đối với Phụ lục cùng tệp tin với nội dung văn bản điện tử, Văn thư cơ quan chỉ
thực hiện ký số văn bản và không thực hiện ký số lên Phụ lục.
Đối với Phụ lục không cùng tệp tin với nội dung văn bản điện tử, Văn thư cơ quan
thực hiện ký số của cơ quan, tổ chức trên từng tệp tin kèm theo.
Chi tiết 01 quyết định hành chính do tôi chủ trì và soạn thảo, tham mưu
trình Ủy ban nhân dân huyện ban hành thể hiện ở dưới đây (Có quyết định kèm
theo).


10

ỦY BAN NHÂN DÂN

HUYỆN TIÊN YÊN
Số:

/QĐ-UBND

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Tiên Yên, ngày

tháng

năm 2020

QUYẾT ĐỊNH
Về việc phê duyệt chủ trương thực hiện nhiệm vụ: Cắm mốc hành lang
bảo vệ nguồn nước trên địa bàn huyện Tiên Yên

ỦY BAN NHÂN DÂN HUYỆN TIÊN YÊN
Căn cứ Luật Tổ chức chính quyền địa phương ngày 19/6/2015;
Căn cứ Luật Đất đai ngày 29/11/2013;
Căn cứ Luật Tài nguyên nước ngày 21/6/2012;
Căn cứ Nghị định số 201/2013/NĐ-CP ngày 27/11/2013 của Chính phủ quy
định chi tiết thi hành một số điều của Luật Tài nguyên nước;
Căn cứ Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy
định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai;
Căn cứ Nghị định số 43/2015/NĐ-CP ngày 06/5/2015 của Chính phủ quy
định lập, quản lý hành lang bảo vệ nguồn nước;
Căn cứ Nghị định số 01/2017/NĐ-CP ngày 06/01/2017 của Chính phủ về việc
sửa đổi, bổ sung một số nghị định quy định chi tiết thi hành Luật Đất đai;
Căn cứ Nghị định số 167/2018/NĐ-CP ngày 26/12/2018 của Chính phủ quy

định việc hạn chế khai thác nước dưới đất;
Căn cứ Quyết định số 5575/QĐ-UBND ngày 28/12/2018 của Ủy ban nhân
dân tỉnh Quảng Ninh về việc phê duyệt danh mục các nguồn nước nội tỉnh; danh
mục nguồn nước phải lập hành lang bảo vệ; danh mục vùng cấm, vùng hạn chế,
vùng phải đăng ký khai thác nước dưới đất trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh;
Xét đề nghị của phòng Tài nguyên và Môi trường tại Tờ trình số 106/TTrTNMT ngày 14/4/2020 về việc phê duyệt chủ trương thực hiện nhiệm vụ: Cắm mốc
hành lang bảo vệ nguồn nước trên địa bàn huyện Tiên Yên.
QUYẾT ĐỊNH:


11
Điều 1. Phê duyệt chủ trương thực hiện nhiệm vụ: Cắm mốc hành lang bảo vệ
nguồn nước trên địa bàn huyện Tiên Yên, với nội dung sau:
1. Tên nhiệm vụ: Cắm mốc hành lang bảo vệ nguồn nước trên địa bàn huyện
Tiên Yên.
2. Địa điểm thực hiện: Huyện Tiên Yên.
3. Chủ đầu tư: Ủy ban nhân dân huyện Tiên Yên.
4. Mục tiêu đầu tư: Triển khai cắm mốc hành lang bảo vệ nguồn nước trên địa
bàn huyện Tiên Yên.
5. Tổng kinh phí: Khái toán 500.000.000 đồng (Bằng chữ: Năm trăm triệu
đồng chẵn).
6. Nguồn vốn đầu tư: Ngân sách huyện Tiên Yên.
7. Hình thức quản lý dự án: Chủ đầu tư quản lý dự án theo quy định hiện
hành.
8. Thời gian thực hiện: Năm 2020.
Điều 2. Giao phòng Tài nguyên và Môi trường tổ chức thực hiện, quản lý;
Phối hợp chặt chẽ với Ủy ban nhân dân các xã, thị trấn và các cơ quan có liên quan
để triển khai thực hiện dự án đảm bảo chất lượng, tiến độ và thực hiện các bước
tiếp theo theo đúng quy định hiện hành.
Điều 3. Quyết định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày ký.

Chánh Văn phòng Huyện ủy, Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân huyện;
Trưởng các phòng: Tài chính - Kế hoạch, Tài nguyên và Môi trường; Chủ tịch Ủy
ban nhân dân các xã, thị trấn; Giám đốc Kho bạc nhà nước Tiên Yên và thủ trưởng
các cơ quan, đơn vị có liên quan căn cứ Quyết định thi hành./

Nơi nhận:
- Như Điều 3 (Thực hiện);
- Thường trực Huyện ủy (Báo cáo);
- Thường trực Hội đồng nhân dân (Báo cáo);
- Chủ tịch, các PCT UBND huyện (Báo cáo);
- Lưu: VT, TNMT.

TM. UỶ BAN NHÂN DÂN
KT. CHỦ TỊCH
PHÓ CHỦ TỊCH
(Đã ký)
Lương Ái Phật



×