Tải bản đầy đủ (.docx) (35 trang)

Tiểu luận Logic Biện chứng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (171.07 KB, 35 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA TRIẾT HỌC
-------------o0o-------------

VẬN DỤNG CÁC NGUYÊN TẮC CƠ BẢN CỦA
LOGIC BIỆN CHỨNG VÀO VIỆC ĐỔI MỚI
PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC ĐẠI HỌC

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

Thành Phố Hồ Chí Minh – 2019



PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong bối cảnh đất nước ta hiện nay, tiếp tục công cuộc công nghiệp hóa hiện đại hóa trong mọi lĩnh vực cùa đời sống xã hội thì giáo dục đại học giữ vai
trò trực tiếp đào tạo nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế, xã hội
nhằm thực hiện quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng giám tỷ trọng
trong lĩnh vực nông nghiệp (thiên về lao động chân tay), làm tỷ trọng trong lĩnh
vực công nghiệp và dịch vụ (thiên về lao động trì óc). Lao động trí óc vốn đòi hói
nhiều tới tư duy logic, tới các nguyên tắc, phương pháp tư duy hiệu quả tương tự
như vai trò cùa máy móc thay thế đối với các hoạt động chân tay, qua đó làm
tăng năng suất lao động; quá trình hội nhập, toàn cầu hóa ngày càng sâu rộng;
cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 trên thế giới đã mở ra. Điều này đặt ra tính cắp
thiết của việc nhận thức và vận dụng tư duy logic vào trong hoạt động thực tiễn.
Trong những năm qua, giáo dục đại học Việt Nam đã có những khởi sắc
nhất định. Quy mô đào tạo được mở rộng, hình thức đào tạo phong phú, đa dạng
hơn. Chương trình đào tạo cùa các trường vừa đảm bào khung chương trình
chung của Bộ giáo dục và đào tạo, vừa gắn với chuyên môn, nghiệp vụ của từng


ngành nghề. Đặc biệt, trong những năm gần đây, giáo dục đại học Việt Nam có
sự đổi mới cả về nội dung đào tạo và phương pháp giáo dục, nhờ đó, chất lương
đào tạo đai học không ngừng được cải thiện.
Tuy nhiên, với những tác động mạnh mẽ của xu thế hội nhập, nền kinh tế
thị trường và nhiều yếu tố khác, bên cạnh những thành tựu đạt được, hệ thống
giáo dục đai học Việt Nam đang bộc lộ những hạn chế ảnh hưởng đến chất lượng
đào tạo nguồn nhân lực. Việc đồi mới phương pháp giáo dục đại học chưa được
thực hiện đồng bộ giữa các trường. Một số trường chưa hoặc ít quan tâm đền vắn
đề đồi mới phương pháp giáo dục. Điều này ảnh hường không nhỏ tới chắt lượng
đào tạo đại học. Do vậy, để nâng cao chất lượng đào tạo đại học ở Việt Nam hiện
nay phải đồi mới phương pháp day học
Đổi mới phương pháp dạy học đại học đang dược nhiều nhà nghiên cứu

3


giáo dục, quản lý giáo dục và nhiều nhà giáo quan tâm vấn dề này được đặt ra
cùng với công cuộc cải cách giáo dục của Việt Nam. Tuy nhiên, đến nay kết quả
đổi mới còn hạn chế, do nhiều nguyên nhân cả chủ quan lần khách quan, vấn đề
vướng mắc cả về phương pháp luận và thực tiễn khi tiên hành đổi mới phương
pháp dạy học đại học. Đó cũng chính là lý do mà tác giả chọn đề tài: “Vận dụng
nguyên tắc của logic biện chứng vào việc đổi mới phương pháp dạy học đại
học” làm đề tài tiểu luận của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu
Tác giả nghiên cứu một cách có hệ thống lý luận chung về logic biện chứng Từ
đó, tác giả vận dụng các nguyên tắc cơ bản của logic biện chứng vào việc đổi
mới phương pháp dạy học đại học..
Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu như trên, luận văn tập trung giải quyết

những nhiệm vụ chủ yếu như sau:
Một là, trình bày khái quát lý luận chung về Logic biện chứng
Hai là, trình bày thực trạng và giải pháp đổi mới phương pháp dạy học đại
học thông qua việc vận dụng các nguyên tắc của Logic biện chứng.
3. Phương pháp nghiên cứu
Tác giả sử dụng hệ thống các phương pháp để nghiên cứu và trình bày
luận văn của mình như: phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử,
phương pháp logic và lịch sử, phương pháp phân tích và tổng hợp.
4. Kết cấu của tiểu luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung tiểu luận gồm có 2 chương và 4 tiết.

4


Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ LOGIC BIỆN CHỨNG VÀ CÁC NGUYÊN TẮC
CƠ BẢN CỦA LOGIC BIỆN CHỨNG
1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của logic biện chứng
Không phải ngẫu nhiên mà những yếu tố của logic biện chứng đã có từ thời
cổ đại, trong các học thuyết của Heraclitus, Plato, Aristotle... và mầm mống của
phương hướng mới này luôn ẩn chứa trong tác phẩm của các đại biểu logic
truyền thống. Theo TS. Tô Duy Họp, sự phân kỳ lịch sử logic biện chứng như
sau:
1 - Thời kỳ hình thành khoa học lôgich biện chứng: la. Giai đoạn
chuẩn bị hình thành - từ triết học và khoa học thời cổ đại đến Hêghen và
Phơbách; lb - Giai đoạn hình thành trực tiếp, tức là sự ra đời của khoa học
lôgich biện chứng với C. Mác và Ph. Angghen, 2 - Thời kỳ phát triển khoa
học lôgich biện chứng: 2a - Giai đoạn định hình bản chất riêng của khoa
học lôgich biện chứng với V.I.Lênin; 2b - Giai đoạn phát triển bản chất

của khoa học lôgich biện chứng trên cơ sở riêng của nó của giới mácxít
sau Lênin. (1985, số 9, tr.9)
Nhà tư tưởng về tư duy biện chứng đầu tiên cần nhắc tới là Heraclitus (535475TCN). Mặc dù tư tưởng biện chứng ở Heraclitus được trình bày dưới dạng
các câu danh ngôn với nhiều ẩn dụ song theo đánh giá của V.I.Lenin thi
Heraclitus đã có “một sự trình bày rất hay những nguyên lý của chủ nghĩa duy
vật biện chứng” (Lênin, V. I., 2006, t.29, tr.371). Theo Heraclitus, mục đích của
nhận thức là nhận thức tính tất yếu, tính quy luật của thế giói (Logos) mà bản
chất của Logos là biện chứng, phát triển, thống nhất và do vậy nhận thức phải
phát triển tính liên tục của nó. Theo ông, nguyên nhân của sự biến đổi là do thế
giới vạn vật đều trong một thể hòa họp thống nhất của những mặt đối lập có sự
liên hệ, tác động lẫn nhau. Heraclitus viết: “Bệnh tật khiến cho sức khỏe dễ chịu.
Cái xấu khiến cho cái tốt dễ chịu.

5


Đói khiến cho no dễ chịu. Mệt mỏi khiến cho nghỉ ngoi dễ chịu; “Cái gì đối
chọi thì hòa hợp, và sự hòa họp đẹp nhất phát sinh từ những cái khác biệt”;
“Người ta không biết làm thế nào những điều khác biệt lại hòa họp với nhau. Nó
là sự hòa điệu của những mối căng thẳng đối lập, giống như cái vĩ và cây đàn”;
“Những vật xung khắc lẫn nhau lại họp thành một. Những âm điệu khác nhau
họp lại thành hòa âm đẹp đẽ nhất. Tất cả mọi vật đều ra đời trong đấu tranh”; “Sẽ
là điều khôn ngoan nếu chúng ta chấp nhận mọi sự vật là một”, (như trích dẫn ở
Hà Thúc Minh, 2013). Ngoài ra, theo Heraclitus, sự xung đột giữa các mặt và
nguồn gốc của sự phát triển không phụ thuộc vào thần thánh. Ông viết: “Đấu
tranh là nguồn gốc của sự hiện hữu và khởi nguyên của sự sống và tồn tại”; “Tất
cả đều sinh ra trong đấu tranh và tất yếu phải sinh ra” (như trích dẫn ở Hà Thúc
Minh, 2013). Đánh giá về tư tưởng biện chứng của Heraclitus, Engel viết:
Cái thế giới quan ban đầu, ngây thơ, nhưng xét về thực chất thì đúng
đỏ là thế giới quan của các nhà triết học Hy Lạp cổ đại và lần đầu tiên đã

được Hêraclít trình bày một cách rõ ràng: mọi vật đều tồn tại và đồng thời
lại không tồn tại, vì mọi vật đang trôi đi, mọi vật đều không ngừng thay
đổi, mọi vật đều không ngừng phát sinh và tiêu vong. (C. Mác, và
Ph.Ăngghen, 1994, t.20, tr.35)
Còn theo đánh giá của Lênin: “Nói về Hêraclít với mức độ vừa đủ, coi đó là
một trong những người sáng lập ra phép biện chứng” và phép biện chứng của
Heraclitus là “phép biện chứng hoàn toàn khách quan, coi như là nguyên lý của
tất cả cái gì tồn tại” (Lênin, V. I., 2006, t.29, tr.368).
Đến Plato (427-347TCN), ông phản đối các quan điểm cho rằng cảm giác là
nguồn gốc của tri thức chân thật. Thay vì vậy, nguồn gốc của tri thức chân thật là
hồi tưởng của linh hồn đang trú ngụ ở thể xác con người về thế giới ý niệm mà
trước đây linh hồn đã trải qua. Với Plato, phép biện chứng là phương pháp kích
thích sự hồi tưởng lại thế giới ý niệm thông qua đàm thoại logic. Nói cách khác,
phép biện chứng là nghệ thuật so sánh và phân tích những khái niệm trong khi
tranh luận, khơi dậy những ý kiến xác thực trở thành tri thức mà cội nguồn của
nó là thế giới ý niệm tồn tại khách quan với ý thức con người. Ở đây ta thấy triết

6


học của Plato tiến lại gần phép biện chứng khái niệm. Theo các tác giả viết trong
cuốn Vấn đề triết học trong tác phẩm của C.Mác - Ph.Ăngghen, V.I.Lênin:
Plato đã họp nhất phép biện chứng khách quan của Heraclit với phép
biện chứng của phái Êleat - ông đã phỏng đoán một cách thiên tài bản chất
của phép biện chứng là ở trong các mặt đối lập, vì thế Plato đòi hỏi phải
diễn đạt sự vận động trong lôgic các khái niệm. [...] Ở triết học Plato chủ
nghĩa duy tâm khách quan được kết họp với những hình thức thô sơ của
phép biện chứng. Ông viết về phép biện chứng khách quan của các ý
niệm, về các khái niệm đối lập nhau: vận động và đứng yên, tồn tại và hư
vô, xuất hiện và tiêu diệt, về những mâu thuẫn trong tư tưởng... Song, nếu

lột bỏ “chủ nghĩa duy tâm và thần bí” ở cả Hegel và Plato ta sẽ thấy Plato
là nhà biện chứng và phép biện chứng của ông khác với phép biện chứng
chủ quan ngụy biện. (Doãn Chính & Đinh Ngọc Thạch đồng CB, 2016,
tr.559)
Tới Aristotle (384-322TCN) đã đặt ra và có ý giải quyết một loạt những vấn
đề cơ bản của logic biện chứng. Ông “đã nghiên cứu những hình thức căn bản
nhất của tư duy biện chứng” (C. Mác, và Ảngghen, Ph., 1994, t.20, tr.34). Chẳng
hạn như việc ông là người đầu tiên đã trinh bày phép biện chứng về cái riêng và
cái chung. Theo TS. Bùi Văn Mưa và PGS.TS. Nguyễn Quang Điển (2005):
Chính Aristotle đã nghiên cứu sự thống nhất của vật chất và hình
thức, cho dù sau đó ông đã tuyệt đối hóa hình thức; ngoài ra ông còn
nghiên cứu sự thống nhất giữa cái phổ biến và cái đơn nhất trong khái
niệm, trong phán đoán và cả trong tam đoạn luận; ông thừa nhận sự thống
nhất giữa các mặt đối lập trong cái khả năng,v.v... Tuy nhiên, nếu nói theo
ngôn ngữ của V.I.Lenin thi đó chỉ là “những nét phác thảo đáng thương”
của phép biện chứng, (tr. 11)
Nhưng vào thời Trung cổ, người ta từ bỏ cách hiểu họp lý mà ra sức phát
triển quan điểm siêu hình của Aristotle. Về điều này Lênin viết:
Ở Arixtot, đâu đâu logic khách quan cũng lẫn lộn với logic chủ quan,
và lẫn lộn một cách khiến cho đâu đâu logic khách quan cũng lộ ra. Không

7


còn nghi ngờ gì về tính khách quan của nhận thức nữa. Lòng tin chất phác
vào sức mạnh của lý tính, vào sức mạnh, vào năng lực, vào tính chân lý
khách quan của nhận thức. Và sự lẫn lộn chất phác, sự lẫn lộn bất lực và
đáng thương trong phép biện chứng của cái chung và cái riêng - của khái
niệm và tính thực tại do giác quan tri giác được của đối tượng cá biệt, của
sự vật, của hiện tượng. [...] Chủ nghĩa kinh viện và chủ nghĩa thầy tu đã

lấy ở Arixtot cái chết, chứ không phải cái sống: nhu cầu, cố gắng tìm tòi,
mê lộ, con người đã lạc lối. (Lênin, V. I., 2006, t.29, tr.390)
Đen thế kỷ XVII, lịch sử triết học Tây Âu rũ bỏ nền triết học kinh viện để
bước sang giai đoạn “đại phục hồi các khoa học”. Francis Bacon thừa nhận sự
tồn tại khách quan, vô hạn trong tính đa dạng của thế giới vật chất. Và để nhận
thức thế giới đó, theo ông, thực nghiệm, quan sát, phân tích và quy nạp là
phương pháp quan trọng. Muốn như thế, phải so sánh đối chiếu các mặt của một
sự vật, cũng như giữa các sự vật để rút ra những kết luận mang tính khái quát và
chân thực. Như vậy, theo Bacon nhiệm vụ nhận thức của con người là nắm được
sâu sắc các mối liên hệ phức tạp của tự nhiên, thông qua việc vận dụng phép biện
chứng và logic trong tư duy.
Với Thomas Hobbes (1588-1679), theo ông: “bản thân các vật thể được gọi
là các vật thể nằm trong quan hệ với nhau, trong quan hệ qua lại”. Ông đặc biệt
chú ý đến biện chứng giữa phương pháp phân tích và tổng hợp.
Ông viết trong Leviathan:
Bất kỳ phưong pháp nào mà nhờ đó chúng ta nghiên cứu nguyên
nhân của các sự vật, đều là phương pháp liên kết hoặc chia tách, hoặc một
phần liên kết, một phần chia tách. Thông thường phương pháp chia tách
được gọi là phương pháp phân tích, còn phương pháp liên kết - phương
pháp tổng họp. (như trích dẫn ở Đinh Ngọc Thạch, tr.l 13) Đoạn khác
ông viết:
Chúng ta sử dụng phương pháp phân tích nhằm thiết lập những tiền
đề riêng rẽ, còn phương pháp tổng họp nhằm xác định kết quả tổng thể tất
cả những gì được sinh ra bởi mỗi một tiền đề tách biệt. Tất cả những điều

8


vừa đề cập ấy cho đến nay đều thích họp đối với phương pháp nghiên cứu.
(như trích dẫn ở Đinh Ngọc Thạch, tr.l 13)

Với Descartes (1596-1650), ông viết:
... cần nghiên cứu logic học, nhưng không phải thứ logic mà người ta
đã học trong trường: logic ấy chỉ là một dạng phép biện chứng (lúc này
Descartes, cũng như nhiều nhà triết học thế kỷ XVII, tỏ thái độ ác cảm và
xem phép biện chứng, xem nó là thứ phương tiện ngụy tạo chân lý, giống
như phép chứng minh thông thường hoặc thuật tranh biện - Đinh Ngọc
Thạch), chỉ dạy cách thức truyền đạt cho người khác cái mà chúng ta đã
biết và thậm chí dạy nói mà không nghĩ đến việc cái gì chứng ta còn chưa
biết...Không, logic mà tôi nói đến là thứ logic dạy cách hướng dẫn lý trí
một cách thoả đáng để giúp nhận thức những chân lý mà chúng ta chưa
biết, (như trích dẫn ở Đinh Ngọc Thạch, tr.128)
Để khắc phục sự hạn chế của logic truyền thống, Descartes yêu cầu phải
tuân thủ 4 nguyên tắc cơ bản đảm bảo sự mạch lạc rõ ràng trong tư duy, lý luận
để đạt tói chân lý. Ông viết:
Không bao giờ thừa nhận cái mà ta cho là không phân minh rõ ràng
là cái chân lý, nghĩa là phải tránh sự vội vàng và hấp tấp, chỉ xem là đối
tương nghiên cứu những gì rõ ràng và phân minh đối với trí tuệ của tôi,
làm sao để không còn bất kỳ hoài nghi nào. (như trích dẫn ở Đinh Ngọc
Thạch, tr.130)
Như vậy có thể thấy Descartes đã gián tiếp khẳng định phép biện chứng và
logic học là công cụ của nhận thức, chỉ có điều ông xuất phát từ việc đề cao
phương pháp diễn dịch hơn phương pháp quy nạp.
Gottfried Wilhelm Leibniz (1646-1716), ông là một trong những người mở
đầu những quan điểm biện chứng duy tâm trong triết học Đức. Xuất phát từ chủ
nghĩa duy lý duy tâm nhằm chống lại chủ nghĩa cảm giác và kinh nghiệm của
John Locke. Để cố gắng vượt qua logic truyền thống, Leibniz đã tiếp cận cách
giải quyết biện chứng quan hệ giữa chân lý tương đối với chân lý tuyệt đối bằng

9



việc nêu lên học thuyết về hai loại chân lý, đó là chân lý lý thuyết và chân lý sự
kiện. Chân lý lý thuyết được xây dựng trên cơ sở logic truyền thống cụ thể là
tuân theo quy luật phi mâu thuẫn tức là không để mâu thuẫn xuất hiện trong suy
luận. Theo ông, muốn tìm kiếm chân lý loại này thì chỉ cần tuân theo chân lý
truyền thống Aristotle, tức tuân theo quy luật đồng nhất, quy luật phi mâu thuẫn,
quy luật bài chung là đủ. Chân lý sự kiện được xây dựng bằng con đường kinh
nghiệm và dựa vào phép quy nạp, đối với chân lý loại này thi quy luật logic
Aristotle trình bày là không đủ mà cần phải có quy luật khác nữa đó là quy luật lý
do đầy đủ, quy luật này giúp tổng họp logic trong quá trình quy nạp. Trong tác
phẩm “Thuyết Đon Tử” (Monadology) của dịch giả Mary Morris (1934), chuyển
từ nguyên bản Pháp ngữ “La Monadalogic “ (1714) có viết rằng, theo Leibniz,
chân lý sự kiện được biện minh bởi “Nguyên tắc này cho rằng một sự kiện riêng
biệt xảy ra, thay vì là một sự kiện nào khác, tất phải có lý do chính đáng nào đó.
Phải có lý do chính đáng để ma sát tạo ra được nhiệt, để lửa bốc cháy, để con
người thu khí oxygen. Phải có lý do thích họp và xác đáng để toàn bộ thế giới
này và muôn vật bên trong nó hiện hữu. Vũ trụ này sẽ hỗn độn biết bao nếu mọi
vật tồn tại một cách phi lý” (như trích dẫn ở Sahakan, S & Sahakan, M, 2001).
Leibniz đã đặt ra một yêu cầu họp lý rằng logic phải vạch rõ điều kiện để đảm
bảo tính xác thực của tri thức. Từ đây ông đã nêu ra 11 nguyên lý có thể được sử
dụng để nhận thức chân lý.
Những người đặt nền móng lý luận cho phân ngành logic biện chứng là các
nhà triết học cổ điển Đức. Trước tiên phải kể tới Immanuel Kant (1724-1804).
Trong quá trình tổng kết và khái quát lại lịch sử phát triển của logic học tò
Aristotle, Kant không phủ nhận những thành tựu của logic học trước đó. Ngược
lại, ông còn cho rằng logic học đã đạt được những thành tựu đáng kể bởi “đã xác
định được các ranh giới của mình” - đó là “khoa học trình bày chi tiết và chứng
minh chặt chẽ những quy tắc hình thức của mọi tư duy...” (như trích dẫn ở
Nguyễn Thúy Yân & Nguyễn Anh Tuấn, 2007, tr.26). Đồng thời, ông cũng phát
hiện ra thiếu sót cơ bản của logic hình thức là với các khả năng hạn chế khiến nó

khó có thể trở thành phương tiện của nhận thức hiện thực và kiểm tra kết quả.
Theo Kant, đó chỉ là thứ logic kinh nghiệm và lần đầu tiên trong lịch sử ông gọi

10


là “logic hình thức”, so với thứ logic ở thời Trung cổ được xem là logic kinh
viện. Theo I.Kant, bên cạnh với “logic hình thức” thì cần phải có một thứ logic
học đặc biệt mà ông gọi là logic siêu nghiệm. Nhiệm vụ chủ yếu của logic học
siêu nghiệm là nghiên cứu các hình thức thực sự cơ bản của tư duy, như phạm trù
(những khái niệm chung nhất). Ông viết: “Chúng ta không thể suy nghĩ về bất kỳ
đối tượng nào theo cách nào đó khác, ngoài nhờ các phạm trù...” (như trích dẫn
ở Nguyễn Thúy Vân & Nguyễn Anh Tuấn, 2007, tr.26). Kant cũng là người đầu
tiên phát hiện ra biện chứng sâu sắc của tư duy con người, về tính chất mâu thuẫn
khách quan giữa cái hữu hạn và vô hạn, giữa cái phân chia được và cái không
phân chia được, giữa cái ngẫu nhiên và cái tất nhiên, giữa cái tự do và cái tất yếu.
Logic siêu nghiệm của Kant dựa trên cơ sở của nguyên lý mâu thuẫn, mà theo
cách diễn đạt của ông, đó là những nghịch lý (antinomi), hay vấn đề tương quan,
tương tác giữa chính đề và phản đề, như hai mặt mâu thuẫn nan giải. Chính vì
vậy có thể nói, logic siêu nghiệm của Kant là tiền đề lý luận của logic biện
chứng. Đóng góp của Kant đối với sự hình thành logic biện chứng thậm chí còn
tiến xa hơn thế, đó là khi tìm hiểu 11 nguyên lý của phương pháp luận Leibniz,
Kant đã viết tác phẩm Lý giải mới những nguyên lý đầu tiên của nhận thức siêu
hình (A New Elucidation of the First
Principles of Metaphysical Cognition), trong đó bắt đầu định hĩnh phương pháp
biện chứng dựa trên nguyên lý nguồn gốc chung và sự tác động lẫn nhau của các
hiện tượng trong thế giới - tiền thân của nguyên lý phát triển và nguyên lý về mối
liên hệ phổ biến. Tuy nhiên, theo Kant, sự biện chứng này không tồn tại ở “vật tự
nó” (Ding an sich).”Vật tự nó” hay “vật tự thể”, “vật tự thân” (Ding an sich) vốn
là một cách lập khái niệm của LKant nhằm chỉ đến một hiện hữu (ein Seiendes)

tồn tại không tuỳ thuộc vào sự kiện là nó được một chủ thể (Subjekt) cảm
nhận.Vật tự nó là một trạng thái bất biến của sự vật, một trạng thái cô lập tuyệt
đối của sự vật, thậm chí không có mối quan hệ với hiện tượng mà chủ thể cảm
nhận được. Như vậy lịch sử hình thành của logic biện chứng đúng như nhận định
của TS Tô Duy Họp (1985): ... từ thời Arixtốt... cho đến Kant, lôgich học vẫn
tiến bước với những biến đổi, tuy là không đáng kể so vói sự bất di bất dịch của
lôgich học Arixtốt. Nhưng chính những biến đổi “không đáng kể” ấy lại tỏ ra hết

11


sức quan trọng xét về góc độ chuẩn bị cho sự hình thành những khuynh hướng và
bộ môn lôgich mới, nhất là sự hình thành khoa học lôgich biện chứng.
Tìm ở đâu ra logic biện chứng trước Kant? vấn đề là ở chỗ, trước
Kant, và thậm chí trong một thòi gian dài về sau, lôgich học biện chứng
thường tồn tại dưới hình thức bất phân với phép biện chứng, với triết học
và với khoa học nói chung. Nghĩa là nó chưa có lịch sử riêng. Mặc dù vậy,
những mầm móng và yếu tố của khoa học lôgich biện chứng đã nảy sinh
rất sớm, kể từ thời cổ đại, ở ngay trong các thành tựu triết học và khoa học
các thời đại ấy. (số 9, tr.10)
Friedrich Hegel (1770-1831) đã kế thừa trên tinh thần phê phán toàn bộ
logic trước đó, nhất là logic siêu nghiệm của I.Kant. Bên cạnh việc phê phán
logic hình thức, Hegel nghiên cứu lại bản chất của tư duy, các hình thức và quy
luật của nó. Theo Hegel: “Sự khảo sát của tư duy” phải bao quát không những
“hĩnh thức bên ngoài” mà cả “nội dung”“ (Lênin, V. I., 2006, t.29, tr.102) và
“Phép biện chứng cấu thành nên bản chất của chính tư duy, các quy luật và hình
thức của nó, rằng với tư cách là lý tính nó cần phải phủ định chính mình, phải rơi
vào mâu thuẫn (như trích dẫn ở Nguyễn Thúy Vân & Nguyễn Anh Tuấn, 2007,
tr.27). Hegel thấy nhiệm vụ của mình là phải tìm ra phương thức giải quyết các
mâu thuẫn này. Với lược đồ tam đoạn thức biện chứng cùng với hệ thống nguyên

lý và quy luật cơ bản do Hegel phát hiện đã làm cơ sở cho bộ môn logic biện
chứng. Trên cơ sở những nguyên lý và quy luật cơ bản của logic biện chứng,
Hegel đã xây dựng các học thuyết về biện chứng của khái niệm, phán đoán và lập
luận. Như vậy, công lao của Hegel là đã vạch thảo, nghiên cứu một cách toàn
diện và xây dựng khá hoàn chỉnh logic biện chứng, tuy nhiên đó là logic biện
chứng duy tâm. Trong toàn bộ công trình của mình Hegel không một lần dùng từ
logic biện chứng, thuật ngữ này do các nhà kinh điển Marxist đưa ra, tuy vậy
toàn bộ kho tàng triết học của Hegel mà trước hết là khoa học logic luôn toát lên
các vấn đề logic biện chứng. Theo đánh giá của V.I.Lenin :
... thừa nhận tính cụ thể và sự phát triển của chân lý là thành tựu
đáng giá nhất của logic học của Hegel. Vi đối với Hegel, lôgic học tuyệt

12


nhiên không phải là khoa học về năng lực tâm lý chủ quan, là “sự thông
thái” hay “ảo thuật” mà có gốc rễ trong bản thân hiện thực khách quan.
Logic học của Hegel với tư cách là lý luận nhận thức về chân lý là tư
tưởng đặc sắc trong lịch sử triết học. (Doãn Chính & Đinh Ngọc Thạch
(CB), 2016, tr.566 - 567)
Theo đánh giá của TS. Tô Duy Họp (1985):
“Khoa học lôgich” của Hêghen mới thực sự là bước chuẩn bị trực
tiếp cho sự ra đời của khoa học lôgich biện chứng. Xét về thực chất thì các
nguyên lý, quy luật, nguyên tắc cơ bản và quan trọng của khoa học lôgich
biện chứng đã được Hêghen vạch ra, song đồng thời cũng đã thần bí hóa
chúng theo lập trường duy tâm, phản khoa học cùa mình, (số 9, tr.ll)
Đánh giá về mối quan tâm cùa các nhà logic học hiện nay đối với logic học
của Hegel, trong “Lời giới thiệu” của dịch giả Bùi Vãn Nam Sơn cho cuốn
G.W.F Hegel - Bách khoa thư các khóa học triết học I: Khoa học logic (2008) có
viết:

Không khí “chống Hegel” từ nửa sau thế kỷ XIX ờ Âu Mỹ. Nhưng
hiện nay, tình hình đã đổi khác. Logic học trở thành trung tâm cùa việc
nghiên cứu về Hegel, và chính trong bối cảnh các cuộc thảo luận của triết
học đương đại về ngôn ngữ đã khiến cách đặt vấn đề của Hegel trở nên lý
thú: những phạm trù trong tư duy và lời nói của ta là bất tất hoặc tuân theo
một “tính logic” nội tại, vượt lên khỏi những dị biệt về văn hóa và lịch sử?
Một văn bản tưởng đã trở thành quá khứ nay tỏ ra vẫn còn tính thời sự...
(tr.XCV)
Bằng sự kế thừa những yếu tố hợp lý cùa các học thuyết đã cỏ, khái quát
các thành tựu khoa học, Karl Marx (1818-1883) và Friedrich Engels (1820-1895)
đã xây dựng nên học thuyết biện chứng duy vật, trong đó bao gồm sự biện chứng
về nhận thức. Các ông đã phát triển logic biện chứng trở thành khoa học hiện đại
về logic, thực hiện chức năng phương pháp hữu hiệu của tư duy trong hoạt động
nhận thức và thực tiễn. Theo TS. Tô Duy Hợp (1979):

13


Tư duy biện chứng đã có được sự phát triển khá cao trong nền triết
học và vãn hỏa cồ đại Hy Lạp, Ấn Độ, Trung Quốc... Ngay trong nền triết
học duy vật cồ đại - cái phôi của triết học khoa học ngày nay - tư duy con
người đã nắm bắt được cái phổ biến nhất, bản chất nhất của sự vật, của tồn
tại rồi: mọi cái đều trôi qua, mọi cái đều biến đổi (Hêraclit). Nhưng phải
nhờ đến Hêghen mà thực sự là đến C. Mác và Ph. Ăngghen thì cái cốt lõi
của biện chứng sự vật mới được tư duy con người nắm bắt và do đó cấu
trúc của tư duy biện chứng mới được định hình rõ ràng, (tr.109)
Mặc dù những công trình chuyên về logic biện chứng đều chưa được
K.Marx và F.Engels viết ra song các ông đã hóa thân nó vào những tác phẩm
như: Tư bàn của K.Marx - tác phẩm đã ứng dụng logic biện chứng vào việc phân
tích xã hội đương đại với ông; hay như trong tác phẩm Chống Đuyrinh; Biện

chứng của tự nhiên của F.Engels... Theo TS. Tô Duy Họrp: “Tư Bản của C. Mác
thực chất là sách giáo khoa kinh điển về khoa học lôgich biện chứng” (1985, số
9, tr.12).
Việc làm sáng tỏ đối tượng, nội dung, chức năng và nhiệm vụ cụ thể của
logic biện chứng là trách nhiệm của những người kế tục K.Marx và F.Engels bởi
vì họ có đủ điều kiện cần thiết để thực hiện công việc dung nạp khoa học. Thuật
ngữ logic biện chứng được F.Engels dùng trong tác phẩm Biẹn chỉmg của tự
nhiên và Lênin thấy cần thiết phải xây dựng khoa học logic này để phép biện
chứng duy vật thật sự tiếp xúc khoa học và thực tiễn xã hội ở khía cạnh logic.
Lenin viết: “Mác không để lại cho chúng ta logic học (với chữ L) nhưng đã để lại
cho chúng ta logic của tư bản và phải tận dụng đầy đủ logic đó để giải quyết vấn
đề mà ta đang nghiên cứu” (Lênin, V. I., 2005, t.42, tr.359). Theo Lenin, logic
biện chứng được xây dựng trên cơ sở: “Biện chứng của sự vật sản sinh ra biện
chứng của ý niệm, chứ không phải ngược lại” (Lênin, V. I., 2006, t.29, tr.209).
Lenin đã chú ý tới sự thống nhất hữu cơ giữa hai nguyên lý của phép biện chứng
và khẳng định mâu thuẫn là hạt nhân của phép biện chứng. Ngoài ra, Lenin phát
triển thêm nhiều nguyên tắc của lôgich biện chứng hay gọi là những quy luật
không cơ bản, như nguyên tắc khách quan, toàn diện, lịch sử - cụ thể, thực tiễn...

14


Đồng thời, ông cũng đặt Yấn đề hệ thống hóa các lược đồ, từ phân tích mâu
thuẫn đối tượng cho tới việc thể hiện toàn diện biện chứng về đối tượng.
Sự hình thành logic biện chứng như là khoa học vẫn tiếp tục ở các nước
khác nhau vào cuối thế kỷ XIX và trong toàn bộ thế kỷ XX. Theo P.N.Fedoseev
thì logic biện chứng chưa được chú trọng lắm trước những năm 1950, tuy nhiên
từ những năm 1960 trở đi thì hàng loạt chuyên khảo, sách giáo khoa về logic toán
và logic biện chứng ra đời, trở thành đề tài bàn cãi sôi nổi trong giới khoa học
nói chung, giới triết học Marxist nói riêng (Tô Duy Họp, 1979, tr.89). Logic biện

chứng Marxist đặc biệt được nhiều nhà khoa học Xô Viết quan tâm phát triển
như B.M.Kedrov (1903-1985), P.V.Kopnin (1922-1971), M.Rozental (19061975)... Đã có một số những công trình nghiên cứu nhằm trình bày logic biện
chứng một cách hệ thống và được tiến hành theo hai hướng chính: 1) Tư duy biện
chứng - lần theo những khám phá về tính quy luật của sự phản ánh hiện thực vào
tư duy con người. 2) Biện chứng của tư duy - khám phá tính quy luật, sự phát
triển của chính bản thân tư duy. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay đang có những
nhân tố mới kích thích logic biện chứng phát triển.
1.2. Một số nguyên tắc cơ bản của logic biện chứng
Vận dụng các nguyên lý, quy luật của phép biện chứng duy vật vào quá
trình tư duy, logic biện chứng nêu lên các nguyên tắc cơ bản mà tư duy phải tuân
theo trong việc nhận thức chân lý. Khi nghiên cứu logic biện chứng, người học sẽ
nắm được các nguyên tắc cơ bản, như nguyên tắc khách quan, nguyên tắc toàn
diện, nguyên tắc phát triển, nguyên tắc lịch sử - cụ thể, nguyên tắc thực tiễn.
Nguyên tắc khách quan đòi hỏi việc nhận thức phải dựa vào những cơ sở
thực tế khách quan, xuất phát từ chính bản thân đối tượng, từ những thuộc tính và
mối liên hệ vốn có của nó, từ những quy luật vận động và phát triển của bản thân
nó; không thể dựa vào ý muốn chủ quan hoặc lấy ý chí chủ quan áp đặt cho thực
tế, đồng thời không được cắt xén, không được gán ghép cho sự vật, hiện tượng
những gì mà chúng vốn không có. Trong Bút ký triết học, V.I.Lênin chỉ ra rằng,

15


“tính khách quan của sự xem xét (không phải thí dụ, không phải dài dòng, mà
bản thân sự vật tự nó)”( V.I.Lênin, t. 29, tr.239).
Nắm vững và vận dụng đúng đắn nguyên tắc khách quan sẽ góp phần thiết
thực trong việc xây dựng năng lực tư duy biện chứng cho người học. Việc quán
triệt nguyên tắc này giúp họ thấy được rằng, phải quan sát các sự vật và hiện
tượng trong thực tế hoặc phải tiến hành các thí nghiệm khoa học để có được
những tư liệu cần thiết nhằm rút ra tri thức khoa học đúng đắn. Những kết quả

nghiên cứu phải được kiểm tra, đối chiếu, so sánh và đánh giá có phù hợp với
hiện thực khách quan hay không. Nắm vững nguyên tắc khách quan giúp người
học hiểu được sự cần thiết phải quan sát thực tế một cách tỉ mỉ, chính xác; phải
xuất phát từ bản thân đối tượng, phải xem xét đối tượng đúng như nó vốn có
trong thực tế.
Bản thân các sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan không tồn tại cô
lập, tách rời, mà tồn tại trong những mối liên hệ hữu cơ với nhau. Hơn nữa,
những mối liên hệ ấy lại vô cùng phong phú, đa dạng và hết sức phức tạp, bao
gồm cả những mối liên hệ bản chất và không bản chất, tất nhiên và ngẫu nhiên,
chủ yếu và thứ yếu. Vì thế, khi nhận thức thế giới khách quan, tư duy biện chứng
đòi hỏi phải tuân thủ nguyên tắc toàn diện. V.I.Lênin viết: “Muốn thực sự hiểu
được sự vật, cần phải nhìn bao quát và nghiên cứu tất cả các mặt, tất cả các mối
liên hệ và “quan hệ gián tiếp” của sự vật đó. Chúng ta không thể làm được điều
đó một cách hoàn toàn đầy đủ, nhưng sự cần thiết phải xét tất cả mọi mặt sẽ đề
phòng cho chúng ta khỏi phạm phải sai lầm và sự cứng nhắc” ( V.I.Lênin, t. 42,
tr.364).
Nắm vững nguyên tắc toàn diện, người học sẽ nhìn nhận, đánh giá đối
tượng một cách chính xác, đầy đủ, toàn vẹn; xem xét đối tượng như một chỉnh
thể, hệ thống; tránh được lối tư duy phiến diện, chiết trung, ngụy biện. Thực tế
cho thấy, các hiện tượng trong tự nhiên thường xảy ra rất phức tạp, do nhiều
nguyên nhân gây ra và biến đổi qua nhiều giai đoạn, nhưng nhiều khi ta chỉ quan
sát được kết quả cuối cùng. Vì thế, nếu nghiên cứu đối tượng một cách phiến

16


diện sẽ dẫn tới những tri thức, kết luận sai lầm. Chẳng hạn, khi xem xét vật rơi
trong không khí, ta thấy một thực tế là hòn đá rơi nhanh hơn chiếc lá. Để giải
thích điều này, chúng ta phải có quan điểm toàn diện, phải thấy rằng các vật đó
vừa chịu sự tác động của lực hút trái đất, vừa chịu sự tác động của lực cản không

khí. Chỉ có thể coi vật rơi tự do khi mà lực cản của không khí không đáng kể so
với trọng lực của vật.
Tự nhiên, xã hội và tư duy luôn nằm trong quá trình vận động và phát triển
không ngừng theo những quy luật tất yếu, vốn có của chúng. Vì vậy, để nhận
thức được bản chất của sự vật, ngoài các nguyên tắc trên, tư duy còn phải tuân
thủ nguyên tắc phát triển. Nguyên tắc này quy định tính tất yếu phải nghiên cứu
sự vật trong sự vận động và phát triển theo những quy luật phổ biến, khách quan
vốn có, chỉ ra chiều hướng biến đổi của nó. Mặt khác, nguyên tắc này còn giúp
cho tư duy của người học trở nên năng động, linh hoạt, mềm dẻo; khắc phục
bệnh bảo thủ, trì trệ và máy móc.
Logic biện chứng chỉ cho chúng ta thấy được sự phát triển biện chứng của
nhận thức khoa học. Các khái niệm, định luật, lý thuyết tất yếu được bổ sung,
điều chỉnh, phát triển trong quá trình nhận thức, trong lịch sử phát triển của khoa
học. Những khái niệm, định luật, lý thuyết mới này không phủ nhận hoàn toàn
các khái niệm, định luật, lý thuyết cũ mà có sự kế thừa những giá trị hợp lý, coi
chúng như những trường hợp đặc biệt. Vì thế, không nên có thái độ xem những
tri thức đã có của con người như những chân lý tuyệt đích, cuối cùng. Như chúng
ta đã biết, cơ học Niutơn là thành tựu khoa học vĩ đại của loài người, được áp
dụng rộng rãi vào nhiều lĩnh vực khác nhau trong nhiều thế kỷ. Nhưng, lịch sử
vật lý học không dừng lại ở cơ học Niutơn. Do không có được tư duy biện chứng,
không nắm được nguyên tắc phát triển nên một số nhà khoa học lúc đó cho rằng,
vật lý học đương thời đạt tới tột đỉnh của nó, đã tìm ra được mọi quy luật cơ bản
của tự nhiên. Khi thuyết tương đối và thuyết lượng tử đưa ra quan điểm mới về
không gian, thời gian, khối lượng, nhiều nhà khoa học đã có tư tưởng hoài nghi
những lý thuyết mới này. Tuy nhiên, sự phát triển của khoa học sau đó đã chứng
minh cơ sở khoa học và tính đúng đắn của thuyết tương đối, thuyết lượng tử.

17



Mỗi sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan đều có quá trình hình
thành và phát triển, đều có lịch sử của mình và bao giờ cũng tồn tại trong những
điều kiện, hoàn cảnh cụ thể nhất định. V.I.Lênin khẳng định: “logic biện chứng
dạy rằng, “không có chân lý trừu tượng”, rằng “chân lý luôn luôn là cụ
thể”(V.I.Lênin, t. 42, tr.364).
Nguyên tắc lịch sử - cụ thể chỉ cho người học thấy rằng, khi xem xét các sự
vật, hiện tượng, cần phải tìm hiểu quá trình phát sinh, phát triển của chúng, chỉ ra
mối liên hệ nội tại của chúng, cũng như mối liên hệ giữa chúng với những điều
kiện, hoàn cảnh cụ thể. Nắm vững nguyên tắc lịch sử - cụ thể giúp cho người học
có thể xem xét, nghiên cứu đối tượng nhận thức gắn với những điều kiện, hoàn
cảnh cụ thể nhất định, biết vận dụng những học thuyết, những nguyên lý, công
thức một cách sáng tạo, tránh rơi vào các căn bệnh giáo điều, kinh nghiệm, máy
móc.
Nguyên tắc lịch sử - cụ thể chỉ ra rằng, ngay cả những kiến thức hiện đại
cũng chỉ là một bậc thang của quá trình nhận thức vô hạn. Khi nghiên cứu một
đối tượng, đánh giá một tư tưởng hay vận dụng một lý thuyết, công thức, cần
phải gắn chúng với các mối liên hệ, với những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể. Mỗi
khái niệm, định luật, quy luật vật lý, hoá học hay sinh học đều ra đời trong hoàn
cảnh cụ thể, phụ thuộc vào trình độ hiểu biết và công cụ, thiết bị nghiên cứu của
từng thời kỳ. Bởi vậy, cùng với sự phát triển của nhận thức và thực tiễn, các khái
niệm, định luật, quy luật sẽ được bổ sung, hoàn thiện.
Thực tiễn là cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức, là tiêu chuẩn khách
quan của chân lý vì vậy, cùng với yêu cầu tuân thủ các nguyên tắc trên, tư duy
biện chứng mácxít không tách rời nguyên tắc thực tiễn. V.I.Lênin khẳng định:
“Quan điểm về đời sống, về thực tiễn phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý
luận về nhận thức” “ ( V.I.Lênin, t. 18, tr.167). Nguyên tắc thực tiễn chỉ cho
người học thấy được rằng, nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn, dựa trên cơ sở
thực tiễn, đi sâu vào thực tiễn, coi trọng công tác tổng kết thực tiễn, đồng thời
phải căn cứ vào thực tiễn để kiểm tra tính đúng đắn của tri thức, học đi đôi với


18


hành, nhà trường gắn liền với xã hội. Nguyên tắc này cũng giúp người học hiểu
được tính biện chứng của tiêu chuẩn thực tiễn. Thực tiễn là tiêu chuẩn khách
quan để kiểm nghiệm chân lý, nhưng tiêu chuẩn thực tiễn không cho phép biến
những tri thức của con người thành những chân lý tuyệt đích cuối cùng.
Logic biện chứng chỉ cho người học thấy rằng, những bài học kinh nghiệm
quý báu được đúc rút, được bổ sung từ thực tiễn đấu tranh cách mạng và xây
dựng đất nước, những kiến thức khoa học được rút ra từ thực nghiệm và được
kiểm tra bằng thực nghiệm. Việc nắm vững và tuân thủ nguyên tắc thực tiễn có
tầm quan trọng đặc biệt, giúp người học tránh rơi vào sai lầm của bệnh chủ quan,
giáo điều, máy móc.
Ngoài những nguyên tắc trình bày trên đây, logic biện chứng còn nghiên
cứu các phạm trù lịch sử và logic, cụ thể và trừu tượng,... nhằm vận dụng chúng
như những phương pháp nhận thức khoa học.
Thống nhất giữa logic và lịch sử là một nguyên tắc phương pháp luận quan
trọng của nhận thức khoa học và xây dựng các lý thuyết khoa học. Khác với quan
điểm duy tâm và siêu hình, chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng, lịch sử là tính
thứ nhất, còn logic của tư duy là tính thứ hai, logic là cái phản ánh của lịch sử.
Hay nói cách khác, mối quan hệ giữa lịch sử và logic là mối quan hệ giữa hiện
thực khách quan và sự phản ánh logic của hiện thực đó, là biểu hiện của mối
quan hệ giữa tồn tại và tư duy. Tuy nhiên, logic phản ánh lịch sử một cách tóm
tắt, khái quát; nó chỉ phản ánh những mốc chính, những giai đoạn phát triển chủ
yếu, những mặt bản chất, những xu hướng tất yếu của lịch sử. Ph.Ăngghen cho
rằng, cái logic là cái lịch sử nhưng đã được trừu tượng hoá, nghĩa là được “lọc
bỏ, tước bỏ”, được “làm sạch” khỏi những cái ngẫu nhiên, những bước quanh co
của lịch sử.
Nguyên tắc thống nhất giữa lịch sử và logic của chủ nghĩa duy vật biện
chứng là cơ sở của các phương pháp khoa học: phương pháp logic và phương

pháp lịch sử. Hai phương pháp này là hai phương pháp nghiên cứu khác nhau,

19


nhưng lại thống nhất biện chứng với nhau, gắn bó chặt chẽ với nhau, không có
phương pháp logic hoặc phương pháp lịch sử “thuần túy” tách rời nhau.
Nắm vững và vận dụng hợp lý, sáng tạo các phạm trù lịch sử và logic như
những phương pháp sẽ phát huy hiệu quả trong việc giải quyết các vấn đề của
nhận thức và thực tiễn. Chẳng hạn, khi trình bày các khái niệm, phạm trù, quy
luật, nếu dẫn dắt người học đi qua các giai đoạn của sự phát triển nhận thức thì
họ sẽ dễ hiểu và nắm vững ý nghĩa của các tri thức đó. Có nhiều giờ dạy, người
thầy có thể đi theo cách thức trình bày lịch sử vấn đề để đi đến khái niệm, định
luật.
Nhận thức là sự thống nhất của hai quá trình đối lập nhau: từ cụ thể đến
trừu tượng và từ trừu tượng đến cụ thể. Theo quá trình thứ nhất, nhận thức xuất
phát từ những tài liệu cảm tính, phân tích chúng và rút ra những khái niệm đơn
giản, những định nghĩa trừu tượng phản ánh từng mặt, từng thuộc tính của sự vật.
Quá trình nhận thức từ cụ thể đến trừu tượng tạo tiền đề cho quá trình thứ hai quá trình nhận thức đi từ trừu tượng đến cụ thể. Trong quá trình thứ hai này, nhận
thức đi từ những khái niệm, định nghĩa trừu tượng thông qua tổng hợp biện
chứng để đạt đến cái cụ thể trong tư duy. Đi từ trừu tượng đến cụ thể là phương
pháp nhận thức khoa học quan trọng. Theo C.Mác, “phương pháp đi từ trừu
tượng đến cụ thể chỉ là cái phương pháp nhờ nó mà tư duy quán triệt được cái cụ
thể và tái tạo ra nó với tư cách là một cái cụ thể trong tư duy” (C.Mác và
Ph.Ăngghen, t.12, tr.877 – 878). Phương pháp này đã được ông xây dựng trên cơ
sở duy vật biện chứng và vận dụng tài tình trong tác phẩm Tư bản.
Trong nhận thức khoa học cũng như xây dựng đề tài, lý thuyết khoa học,
việc vận dụng thành thạo phương pháp đi từ trừu tượng đến cụ thể cho phép chủ
thể nhận thức thâm nhập sâu vào bản chất và quy luật của đối tượng, hiểu được
tất cả các mặt và quan hệ tất yếu của đối tượng trong mối liên hệ và phụ thuộc

lẫn nhau giữa chúng.
Như vậy, có thể khẳng định rằng, các nguyên tắc, phạm trù của logic biện
chứng có ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng, rèn luyện năng lực tư duy biện

20


chứng cho người học. Tuy nhiên, sự hiểu biết về những nguyên tắc, phạm trù của
logic biện chứng không đồng nhất với năng lực tư duy biện chứng. Năng lực tư
duy biện chứng là khả năng vận dụng những nguyên tắc, phạm trù của logic biện
chứng một cách hợp lý, nhuần nhuyễn, sáng tạo. Nói cách khác, tri thức về
những nguyên tắc, phạm trù của logic biện chứng phải được người học vận dụng
thành thạo, nhuần nhuyễn thì mới biến thành sức mạnh của tư duy trong nhận
thức và hoạt động thực tiễn.
Ở nước ta hiện nay, các nguyên tắc, các phạm trù của logic biện chứng
được đề cập chủ yếu trong quá trình nghiên cứu, giảng dạy phép biện chứng và
nhận thức luận của triết học Mác - Lênin. Thông qua quá trình đó, người học lĩnh
hội được những nguyên tắc và phạm trù của logic biện chứng. Các nguyên tắc,
phạm trù của logic biện chứng cũng được đề cập đến trong chương trình Logic
học (phần logic biện chứng).
Nhằm phát huy vai trò của triết học Mác - Lênin nói chung và logic biện
chứng nói riêng trong việc xây dựng, rèn luyện năng lực tư duy biện chứng cho
người học, chúng ta cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp chủ yếu, như đổi mới
nội dung chương trình và phương pháp giảng dạy; phát huy vai trò của đội ngũ
giảng viên trong giảng dạy; phát huy tính tích cực, chủ động của người học; xác
định đúng vai trò, vị trí của logic biện chứng với tư cách một môn khoa học độc
lập và nghiên cứu nó một cách toàn diện, sâu sắc.

21



Chương 2
VẬN DỤNG NGUYÊN TẮC CỦA LOGIC BIỆN CHỨNG VÀO
VIỆC ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC ĐẠI HỌC
22


2.1. Sự cấp thiết trong đổi mới phương pháp dạy học đại học
Nếu nhiệm vụ trọng tâm của giáo dục phổ thông là tạo ra những công dân
tốt cho xã hội, cho đất nước, thì nhiệm vụ chính của giáo dục đại học là cung cấp
nguồn nhân lực có chất lượng cho nền sản xuất để tạo ra của cải vật chất và tinh
thần của xã hội. Trong thời đại cách mạng khoa học công nghệ hiện nay, trong xu
hướng toàn cầu hóa và phát triển nền kinh tế tri thức, giáo dục đại học có vai trò
chủ đạo trong toàn bộ hệ thống giáo dục của một quốc gia. Phải thừa nhận rằng
giáo dục đại học Việt Nam trong suốt thời gian qua đã có những đóng góp rất lớn
cho cuộc đấu tranh giải phóng và xây dựng tổ quốc, nhất là trong quá trình phục
hồi và chấn hưng nền kinh tế đất nước.
Tuy nhiên, đã một thời gian dài chúng ta để cho giáo dục tụt hậu khá xa so
với các nước trong khu vực và trên thế giới. Sự phát triển của giáo dục chưa
tương xứng với sự phát triển của nền kinh tế. Theo dõi trên các phương tiện
thông tin đại chúng, trong các hội nghị, hội thảo về giáo dục, đào tạo, trên diễn
đàn quốc hội…vấn đề đổi mới hệ thống giáo dục, đặc biệt là đổi mới giáo dục đại
học luôn được đề cập đến. Vấn đề này cũng đã thu hút được sự quan tâm không
chỉ của các giảng viên, những chuyên gia, những nhà quản lý giáo dục trong
ngành, mà còn thu hút được sự quan tâm của các nhà lãnh đạo, các học giả trong
và ngoài nước cùng đông đảo các tầng lớp dân cư, các tổ chức, các nhóm xã hội
khác nhau. Điều đó không chỉ cho thấy tính cấp bách của vấn đề, mà còn chứng
tỏ truyền thống hiếu học, coi trọng phát triển nhân tài của dân tộc Việt Nam nói
chung. Sự cần thiết phải đổi mới giáo dục đại học. Các số liệu thống kê, những
phân tích, những kết luận cho thấy giáo dục đại học hiện nay đang có nhiều yếu

kém, bất cập. Những bất cập đó có thể tìm ở khía cạnh số lượng, khi mà tỷ lệ
thanh niên trong độ tuổi 20 - 24 đang được đào tạo trong các trường đại học ở
Việt Nam chỉ chiếm 10%, trong khi đó tỷ lệ này ở Thái Lan là 41%, Hàn Quốc là
89% và ở Trung Quốc là 15% (Nguồn: Dantri.com.vn, ngày 7/8/2007). Số sinh
viên trên vạn dân hiện nay ở nước ta là khoảng 120, trong khi đó con số này ở
Thái Lan là 400 sinh viên. Theo chủ trương của Chính phủ Việt Nam nhanh
chóng phát triển và nâng cấp các trường đại học thì đến năm 2015 chúng ta sẽ
phấn đấu đạt 300 sinh viên/ 1 vạn dân và đến năm 2020 sẽ đạt đến con số của
23


Thái Lan hiện nay (Trần Ngọc Châu, Ra biển lớn với 600 đại học, trong Giáo dục
đại học Việt Nam thời hội nhâp). Vài năm gần đây, đăng ký tham gia kỳ thi tuyển
sinh vào các trường đại học thường ở vào khoảng 1,6 – 1,8 triệu lượt thí sinh,
nhưng hệ thống các trường đại học chỉ có khả năng đáp ứng được khoảng 1/5 đến
1/6 số lượng trên. Về mặt quản lý nhà nước đối với giáo dục đại học cũng không
đồng nhất, mạnh ai lấy làm, không đồng bộ. Bộ GD&ĐT cũng chỉ quản lý gần
30% các trường đại học cao đẳng trong toàn quốc. Đội ngũ giảng viên ở các
trường đại học dường như ít thay đổi trong suốt 17 năm qua, nhưng cũng trong
khoảng thời gian đó số lượng sinh viên đã tăng lên gấp đôi, tức là từ 150 ngàn
tăng lên 300 ngàn. Mặt khác số giảng viên có trình độ tiến sỹ cũng rất thấp, chỉ
chiếm khoảng 10%, trong khi đó tỷ lệ tiến sỹ trong đội ngũ giảng viên trong các
trường đại học mức trung bình ở phương Tây là khoảng 70%; số giảng viên là
giáo sư, phó giáo sư cũng rất thấp (giáo sư chiếm 0,1%, phó giáo sư chiếm
khoảng hơn 5% trong số giản viên) (Nguyễn Văn Tuấn, Chất lượng giáo dục đại
học: bắt đầu từ thày và kết thúc ở trò, Dien dan Forum, BP 50, 92340 Bourg-LaReine, France) Ở khía cạnh chất lượng, tuy đã có những bước tiến triển nhất
định, nhưng so với mức đột phá về chất lượng giáo dục ở các trường đại học các
nước trong thời gian qua, thì chất lượng giáo dục đại học Việt Nam được nhiều
người coi là sự tụt hậu lớn. Hệ thống giáo dục đại học hiện đại ở Việt Nam có
lịch sử tồn tại từ nhiều năm nay, nhưng vấn đề kiểm định và đảm bảo chất lượng

đào tạo cũng mới chỉ được nhắc đến trong vài năm gần đây. Hiện nay, cả nước đã
có hơn ba trăm trường đại học, song dường như chưa có trường đại học nào bước
được vào trong bảng xếp hạng các trường đại học của các tổ chức có tên tuổi trên
thế giới. Hơn nữa, khi xem xét chất lượng đào tạo theo 4 tiêu chí chất lượng của
sinh viên tốt nghiệp: kiến thức tổng quát (bao gồm kiến thức về xã hội, thông
thạo kỹ thuật vi tính, tiếng Anh…), kiến thức chuyên môn, kĩ năng phát hiện, đặt
và giải quyết vấn đề và tiêu chí nhân cách chúng ta thấy chất lượng đào tạo của
các đại học nước ta còn quá hạn chế.
Một nghiên cứu mới đây do Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh thực
hiện cho thấy có đến 50% sinh viên tốt nghiệp không đáp ứng các yêu cầu
chuyên môn và phải đào tạo lại (Nguyễn Văn Tuấn, tài liệu đã dẫn). Ngoài những

24


bất cập về số lượng và chất lượng như đã trình bày, chúng ta còn thấy nhiều bất
cập khác của giáo dục đại học Việt Nam.
Những bất cập, yếu kém này cũng đã được trình bày rất rõ trong Chiến lược
phát triển giáo dục 2001-2010, trong đó có giáo dục đại học, cụ thể:
a) Chất lượng giáo dục nói chung còn thấp, một mặt chưa tiếp cận được với
trình độ tiên tiến trong khu vực và trên thế giới, mặt khác chưa đáp ứng với các
ngành nghề trong xã hội
b) Hiệu quả hoạt động giáo dục chưa cao. Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo còn
thấp: còn nhiều học sinh, sinh viên sau khi tốt nghiệp chưa có việc làm.
c) Cơ cấu trình độ, cơ cấu ngành nghề, cơ cấu vùng miền đã được khắc
phục một bước song vẫn còn mất cân đối.
d) Đội ngũ nhà giáo thiếu về số lượng và nhìn chung thấp về chất lượng.
e) Cơ sở vật chất của nhà trường còn thiếu thốn. Chưa thanh toán hết các
lớp học 3 ca.
f) Chương trình, giáo trình, phương pháp giáo dục chậm đổi mới, chậm

hiện đại hóa.
g) Công tác quản lý giáo dục còn kém hiệu quả. (Chiến lược phát triển giáo
dục 2001-2010, trong Giáo dục đại học Việt Nam thời hội nhập, tr. 45).
Như vậy, tuy giáo dục đại học Việt Nam đã có những biến chuyển, song với
tốc độ còn quá chậm so với tiến trình đổi mới của đất nước, không theo kịp tốc
độ phát triển của kinh tế xã hội, chưa đáp ứng được nhu cầu học tập của nhân
dân. Cả ở khía cạnh số lượng, chất lượng, đội ngũ giáo viên, cơ sở vật chất, giáo
trình, chương trình và công tác quản lý đều còn quá nhiều bất cập. Vì thế, yêu
cầu đổi mới toàn diện về giáo dục đại học Việt Nam là hết sức cần thiết.
2.2. Giải pháp đổi mới phương pháp dạy học thông qua việc vận dụng
các nguyên tắc cơ bản của logic biện chứng.
Thứ nhất, đổi mới phương pháp dạy học đại học cần phải quán triệt nguyên
tắc khách quan.

25


×