Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ ISO 9000_2000

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (144.27 KB, 26 trang )

Những vấn đề lý luận chung về ISO 9000:2000
I. Lịch sử phát triển quản lý chất lợng trên thế giới và ở Việt
Nam.
1. Lịch sử phát triển quản lý chất lợng trên thế giới trong thế kỷ 20.
Có thể nói những nguyên tắc về kiểm tra đã xuất hiện ở một số nớc từ thời
cổ đại, tuy nhiên các khái niệm hiện đại về hệ thống chất lợng, về quản lý chất l-
ợng thì mới chỉ xuất hiện trong khoảng 50 năm qua. Nh vậy, sự phát triển của
quản lý chất lợng đã trải qua một quá trình lâu dài trong nhiều thế kỷ, từ những
hình thức đơn giản, sơ khai đến phức tạp, từ thấp tới cao, từ hẹp tới rộng, từ thuần
tuý kinh nghiệm tới cách tiếp cận khoa học, từ những hoạt động có tính chất riêng
lẻ cục bộ tới sự phối hợp toàn diện, tổng thể có tính hệ thống.
Về các giai đoạn phát triển của hệ thống quản lý chất lợng, các chuyên gia
chất lợng ở các nớc còn có sự phân chia khác nhau, nhng xu hớng chung thờng có
sự trùng khớp. Về đại thể có thể phân chia sự phát triển của quản lý chất lợng từ
những hình thức hoạt động sơ khai tới trình độ hiện đại ngày nay theo các giai
đoạn nh:
- Quản lý chất lợng bằng kiểm tra.
- Quản lý chất lợng bằng kiểm soát
- Quản lý chất lợng bằng đảm bảo.
- Quản lý chất lợng cục bộ.
- Quản lý chất lợng toàn diện theo quan điểm hệ thống.
Giai đoạn quản lý chất lợng bằng kiểm tra là giai đoạn xuyên suốt nhiều thiên
niên kỷ và còn tồn tại đến ngày nay. Các giai đoạn còn lại là con đẻ của thế kỷ 20,
những thời kỳ của chúng có thể nối tiếp nhau, có thể xuất hiện đồng thời hoặc
không theo một trình tự nhất định, có khi xuất hiện ở nớc này nhng lại đợc ứng
dụng và phát triển mạnh mẽ ở nớc khác.
a. Quản lý chất lợng bằng kiểm tra.
Đây là chặng đờng sơ khai đầu tiên, tồn tại lâu dài nhất. Khi quản lý sản
xuất còn cha tách ra thành một chức năng riêng biệt của quá trình lao động thì
kiểm tra là một chức năng của quản lý và đợc con ngời dùng đến từ thời xa xa.
Chặng đờng này đợc phân ra thành ba thời kỳ nh sau:


- Thời kỳ kiểm tra sản xuất trực tiếp từ ngời sản xuất.
Những hình thái sản xuất tiền t bản chủ nghĩa là những nền sản xuất nhỏ, dựa
trên sản xuất cá thể hoặc gia đình. Ngời sản xuất ở đây có thể là ngời thợ thủ
công, có thể là ngời chủ gia đình cùng vợ con tạo thành một nhóm sản xuất, ngời
chủ gia đình giữ vai trò ông chủ sản xuất. Ông chủ này thờng tự làm tất cả mọi
công việc, từ khâu tìm kiếm nguyên liệu đến khâu chế tạo ra sản phẩm, tự quản lý
mọi hoạt động của mình cho đến khi mang hàng của mình ra thị trờng để trao đổi
hoặc để bán. Nếu sản phẩm của anh ta không ai muốn trao đổi hoặc muốn mua,
anh ta phải tự suy nghĩ, tự giải thích, tự tìm nguyên nhân để thay đổi, cải tiến sản
phẩm của mình sao cho có thể đợc chấp nhận trên thị trờng. Để làm việc này, anh
ta phải khẳng định qui cách chất lợng sản phẩm của mình, chế tạo đúng nh yêu
cầu đã đợc đề ra và tự kiểm tra xem sản phẩm làm ra có đạt đợc yêu cầu không.
Có thể nói đây là thời kỳ manh nha, thô sơ nhất của kiểm tra chất lợng, bớc đi đầu
tiên trên con đờng tiến tới quản lý chất lợng.
- Thời kỳ kiểm tra sản xuất bởi các đốc công.
Bớc sang giai đoạn công trờng thủ công và thời kỳ đầu của cách mạng công
nghiệp, quá trình chuyên môn hoá, hợp tác hoá đợc phát triển, máy móc đợc sử
dụng ngày càng nhiều, năng suất lao động tăng gấp nhiều lần so với lao động thủ
công, qui mô sản xuất đợc mở rộng, các ông chủ phải phân quyền cho các đốc
công và các trởng xởng. Những ngời lãnh đạo trung gian này vừa quản lý sản xuất
trong những lĩnh vực thuộc phạm vi anh ta phụ trách, vừa phải trực tiếp kiểm tra
các sản phẩm do công nhân làm ra xem có phù hợp với yêu cầu đề ra hay không?
- Thời kỳ kiểm tra tự phía phòng kiểm tra.
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ và rộng lớn của cuộc cách mạng công nghiệp
ở thế kỷ 18, các vấn đề kỹ thuật và các hình thức tổ chức ngày càng phức tạp, làm
cho ý nghĩa của vấn đề chất lợng ngày càng đợc nâng cao. Chức năng quản lý sản
xuất trở thành chức năng riêng biệt, bộ máy quản lý chia ra thành nhiều bộ phận
chuyên môn và hoàn thiện sản xuất, quản lý sức lao động và tổ chức lao động,
quản lý công việc hàng ngày, kiểm tra sản xuất Trong các xí nghiệp bắt đầu hình
thành những phòng kiểm tra kỹ thuật với chức năng phát hiện các khuyết tật của

sản phẩm và chỉ đa ra thị trờng những sản phẩm đạt yêu cầu. Hình thức này đợc
phát triển rộng rãi sang cả thế kỷ 20. Việc chuyên môn hoá chức năng kiểm tra đã
mang lại những kết quả tốt hơn so với các hình thức kiểm tra trớc đó. Tuy nhiên,
nó chỉ phát hiện đợc các sai lỗi mà không ngăn chặn đợc tận gốc rễ các vấn đề,
đồng thời nó lại tạo nên tâm lý sai lầm là trách nhiệm về chất lợng thuộc về phòng
kiểm tra.
b. Quản lý chất lợng bằng kiểm soát và đảm bảo.
Điều khiển chất lợng (Kiểm soát chất lợng) và đảm bảo chất lợng là những
phơng pháp của quản lý chất lợng đợc xuất hiện trong nửa đầu của thế kỷ 20 và
trở thành những thành phần quan trọng của quản lý chất lợng hiện đại. Khác với
kiểm tra với chức năng chính là phát hiện những phơng pháp mới này mang tính
chất phòng ngừa theo nguyên tắc phòng bệnh hơn chữa bệnh.
Từ giữa những năm 20 cho tới giữa thế kỷ 20, các hoạt động tiêu chuẩn
hoá, điều khiển chất lợng (Quality Control - QC), và đảm bảo chất lợng (Quality
assurance - QA) đợc phát triển mạnh ở Mỹ với những chuyên gia dẫn đầu về quản
lý chất lợng nh Walter A. Shewhart, Joseph M. Juran, W. Edwards Deming Có
thể nói Mỹ là nớc đi đầu trong việc hình thành cơ sở lý thuyết và thực hành về
quản lý chất lợng và giữ vai trò chủ chốt trong nửa đầu thế kỷ 20 về quản lý chất
lợng trên toàn thế giới.
Tuy Anh là nớc mở đầu cuộc cách mạng công nghiệp từ thế kỷ 18 và là nớc
đi đầu trong lĩnh vực phân tích thống kê đợc nhiều nớc biết đến, những từ những
năm 20 30 của thế kỷ 20 Mỹ đã đẩy mạnh việc ứng dụng các phơng pháp
Tiêu chuẩn
áp dụng Kiểm chứng
Phù hợp
Tác động sửa chữa
thống kê, coi đó là công cụ khoa học chủ yếu để triển khai các hoạt động điều
khiển chất lợng và đã đạt đợc nhiều thành tựu trong lĩnh vực đảm bảo nâng cao
chất lợng sản phẩm. Quá trình điểu khiển chất lợng có thể đợc coi là quá trình
hoạt động tác nghiệp nhằm thực hiện và duy trì tiêu chuẩn, làm chủ đợc những

yếu tố ảnh hởng trực tiếp đến quá trình tạo ra chất lợng, ngăn ngừa việc gây
khuyết tật cho sản phẩm. Dạng đơn giản nhất của quá trình điều khiển chất lợng
đợc thể hiện trong sơ đồ sau:
Bảng 1: Sơ đồ kiểm soát chất lợng
Muốn điều khiển chất lợng tốt, phải nắm đợc các yếu tố: con ngời, phơng
pháp và quá trình, đầu vào, trang thiết bị dùng trong sản xuất và thử nghiệm,
thông tin, môi trờng. Quá trình điều khiển cần phải đợc tiến hành song song với
quá trình kiểm tra chất lợng để làm sao cho sản phẩm làm ra phải đạt đợc tiêu
chuẩn chất lợng.
Điều khiển chất lợng, nhất là điều khiển thống kê chất lợng (Statistical quality
control) đợc sử dụng rộng rãi trong công nghiệp của Mỹ, Anh và các nớc Tâu âu
trong những năm 20. việc áp dụng SQC đã giúp tạo nên nhiều nhà quản lý có t
duy thống kê, nắm đợc các phơng pháp và công cụ thống kê để tiến hành công tác
điều khiển chất lợng và đảm bảo chất lợng.
Đạt
Không đạt
Đảm bảo chất lợng (QA) không làm thay đổi chất lợng nh điều khiển chất l-
ợng. Nó là kết quả của sự trắc nghiệm, trong khi điều khiển chất lợng thì tạo ra
kết quả. Đảm bảo chất lợng thiết lập nên một phạm vi trong đó chất lợng đã, đang
hoặc sẽ đợc đợc điều khiển. Mọi hoạt động đảm bảo chất lợng đều phục vụ cho
việc tạo dựng lòng tin vào các kết quả, các lời tuyên bố, cách khẳng định Việc
đảm bảo chất lợng không chỉ đơn thuần là lời hứa, lợi nói xuông mà phải đợc thể
hiện bằng các hành động trong quá trình và phải đợc chứng minh bằng các hồ sơ,
biên bản, chơng trình, kế hoạch, báo cáo Những hành động và tài liệu đó vừa
phục vụ cho điều khiển chất lợng, vừa phục vụ cho đảm bảo chất lợng. Việc đảm
bảo chất lợng đợc áp dụng cho khâu thiết kế, khâu mua sắm, khâu chế tạo và các
khâu khác trong chu kỳ sống của sản phẩm.
Vào năm 1925, khi A. Quarlis, Walter A. Shewart, Harold F. Dodge và Geoge
D. Edwards cùng hoạt động trong phòng thí nghiệm thì họ sáng tạo ra các phơng
pháp điều khiển chất lợng và đảm bảo chất lợng. Họ là những ngời luôn coi hoạt

động kiểm tra vừa là khoa học vừa là nghệ thuật, họ đã tạo ra thuật ngữ đảm bảo
chất lợng khi đó, đảm bảo chất lợng đợc coi nh một hoạt động bổ sung trong
công việc của ngời thiết kế ở mức độ quan trọng nhất.
Từ năm 1925 đến năm 1941, các phơng pháp điều khiển chất lợng và đảm bảo
chất lợng cùng với việc áp dụng các phơng pháp thống kê đã đợc phát triển ở mức
độ đáng kể ở Mỹ và ở các nớc Phơng Tây. Đại chiến thế giới lần thứ 2 đã tạo ra
những nhu cầu cấp bách về sản xuất hàng loạt các nhu yếu phẩm và vũ khí ở Mỹ.
Nhiều ngành công nghiệp phát triển rất nhanh, thu hút nhiều nhân công lao động.
Nhiều chơng trình đào tạo đợc phát triển phục vụ cho việc đảm bảo chất lợng
công việc và sản phẩm. Điều khiển thống kê chất lợng (SQC) đợc phát triển rộng
rãi trong công nghiệp. Trong thời kỳ này, tiến sĩ W. Edwards Deming (sau này trở
thành chuyên gia hàng đầu về chất lợng trên thế giới) đã có nhiều đóng góp tích
cực trong việc giảng dạy về SQC tại các trờng, các cơ sở của Bộ nông nghiệp và
Bộ Quốc phòng Mỹ. Cũng trong thời kỳ này, các câu lạc bộ chất lợng, tạp chí về
chất lợng, hội điều khiển chất lợng cũng lần lợt ra đời ở Mỹ tạo tiền đề cho tiến
trình phát triển quản lý chất lợng ở trình độ cao hơn, nhanh hơn, rộng khắp hơn
trong nửa cuối thế kỷ 20.
c. Quản lý chất lợng cục bộ và tổng hợp.
Những quan niệm mới về triển khai chức năng đảm bảo chất lợng đợc phát
triển và hoàn thiện dần cho tới ngày nay. Nhiều quan niệm đã nảy sinh nh một
phản ứng trớc những quan niệm tơng tự về chất lợng ở Nhật. Các quan niệm này
đều gặp nhau ở chỗ nhấn mạnh nhu cầu đảm bảo chất lợng cho mọi nhân viên
trong một tổ chức. A. V. Feigenbaun là ngời đầu tiên đa ra thuật ngữ điều khiển
chất lợng tổng hợp (Total quality control) khi ông còn làm việc ở công ty General
Electric. Quan điểm của ông cho rằng trách nhiệm quản lý chất lợng thuộc về mọi
phòng ban chứ không chỉ là trách nhiệm riêng của phòng chất lợng. Tuy nhiên,
trong nhiều năm, t tởng này đã bị sao nhãng ở Mỹ và chỉ đến khi chất lợng hàng
hoá của Nhật vơn lên dẫn đầu thế giới vào cuối những năm 70, các kỹ s Mỹ mới
tái phát hiện lại những ý tởng của Feigenbaun để phổ cập trong các công ty Mỹ.
Nếu nh trong nửa đầu thế kỷ 20, quản lý chất lợng đợc phát triển mạnh ở Mỹ

và các nớc phơng Tây thông qua các hoạt động kiểm tra chất lợng, điều khiển chất
lợng, đảm bảo chất lợng thì trong nửa cuối thế kỷ 20, hoạt động quản lý chất lợng
đã dần mang tính hệ thống, tính đồng bộ, đi từ cục bộ tới tổng hợp, dẫn đến việc
hình thành các hệ thống chất lợng, tạo nên một bớc phát triển mới về chất lợng
trong hoạt động quản lý chất lợng ở nhiều nớc trên thế giới.
Các chuyên gia hàng đầu thế giới về chất lợng nh Deming, Juran, Feigenbaun,
Ishikawa, Taguchi đã có nhiều đóng góp tích cực trong việc hoàn thiện các ph-
ơng pháp quản lý chất lợng theo hớng hệ thống hoá, đồng bộ hoá, tạo điều kiện để
thiết lập nên các hệ thống chất lợng thoạt đầu áp dụng trong phạm vi từng xí
nghiệp, sau khái quát thành những mô hình chung trong phạm vi quốc gia, dần
mở rộng ra phạm vi quốc tế trong những thập niên cuối của thế kỷ 20, từ đó đã
xuất hiện thuật ngữ quản lý chất lợng tổng hợp (TQM) bao trim các khái niệm
điều khiển, đảm bảo và cải tiến chất lợng nh chúng ta hiểu ngày nay.
Nh vậy, quản lý chất lợng với tên gọi ban đầu của nó là điều khiển chất l-
ợng - QC là phát minh của ngời Mỹ, thuật ngữ điều khiển chất lợng tổng hợp
- TQC cũng do ngời Mỹ đặt ra, nhng từ sau đại chiến thế giới lần 2, ngời Nhật đã
nhanh chóng học tập và rút ra đợc những điều bổ ích nhất đối với mình, họ đã
thực hiện một cách sáng tạo vào điều kiện thực tiễn của đất nớc mình, qua đó đã
tạo nên phơng thức quản lý chất lợng kiểu Nhật, đa ngành công nghiệp Nhật
Bản đi lên bằng con đờng chất lợng, từ một vị trí thấp kém về chất lợng đã vơn lên
dẫn đầu thế giới về chất lợng sản phẩm. Đây là bài học bổ ích cho chúng ta trong
việc tiếp thu những thành tựu tiên tiến của nớc ngoài để đuổi kịp và vợt những ng-
ời đi trớc, nỗ lực học tập và ứng dụng nhng không dập khuôn một cách máy móc
mà phải luôn phân tích, sáng tạo theo điều kiện, hoàn cảnh của mình để tìm ra đợc
con đờng đi thích hợp sao cho có thể đuổi kịp và hội nhập vào cộng đồng thế giới
trong một thời gian tơng đối ngắn.
2. Lịch sử phát triển quản lý chất lợng ở Việt Nam.
Lịch sử phát triển quản lý chất lợng ở Việt Nam gắn liền với tiêu chuẩn
hoá, đo lờng và chất lợng, đợc hình thành bởi các giai đoạn
a. Giai đoạn trớc năm 1973.

Đây là giai đoạn mà các hoạt động quản lý chất lợng sản phẩm thờng đợc
tiến hành phân tán trong các Bộ, các ngành, các xí nghiệp. Nhà nơc cha theo dõi
hoạt động quản lý chất lợng nh một lĩnh vực hoạt động đặc thù.
b. Giai đoạn từ năm 1973 cho đến những năm 80.
ở giai đoạn này các hoạt động quản lý chất lợng sản phẩm ở nớc ta đợc tiến
hành theo tinh thần của quyết định 159 TTg về công tác quản lý chất lợng sản
phẩm và hàng hoá do thủ tớng chính phủ ban hành ngày 7/7/1973. Quyết định này
là văn bản pháp qui đầu tiên ở nớc ta đề cập đến vấn đề quản lý chất lợng một
cách đồng bộ, có hệ thống do đó đã tạo điều kiện cho việc chỉ đạo và thực hiện
công tác quản lý chất lợng sản phẩm ở nớc ta phù hợp với cơ chế kế hoạch hoá tập
trung.
Thực hiện quyết định 159 TTg đã mang lại những kết quả sau:
- Các hoạt động tiêu chuẩn hoá, đo lờng, kiểm tra chất lợng đợc tăng cờng, phối
hợp với nhau tạo nên một mạng lới từ TW đến địa phơng và các cơ sở. Việc sát
nhập Cục tiêu chuẩn, Cục đo lờng, Cục kiểm tra chất lợng sản phẩm hàng hoá và
Viện định chuẩn thành một cơ quan thống nhất cùng với việc hình thành 3 trung
tâm kỹ thuật khu vực và các chi cục TC - ĐL CL tại các tỉnh, thành phố đã tạo
điều kiện thuận lợi cho việc triển khai đồng bộ các hoạt động tiêu chuẩn, đo lờng,
chất lợng trong cả nớc. Đội ngũ cán bộ và cơ sở vật chất kỹ thuật đợc củng cố,
phát huy đợc vai trò tích cực trong việc thúc đẩy các hoạt động quản lý chất lợng
trong cả nớc.
- Công tác thanh tra nhà nớc, công tác kiểm tra chất lợng sản phẩm đợc hình thành
và phát triển từ trung ơng đến cơ sở. Hầu hết các xí nghiệp quốc doanh đều thành
lập phòng kiểm tra chất lợng (KCS).
- Công tác đăng ký chất lợng đợc hình thành là hoạt động có tính đặc thù của nớc
ta.
- Công tác chứng nhận chất lợng đợc triển khai từ năm 1980 đã có tác động tích cực
tới việc khuyến khích các nhà sản xuất nâng cao chất lợng sản phẩm. Tính đến
giữa năm 1991 đã có 810 giấy chứng nhận chất lợng nhà nớc cấp cho gần một
ngàn loạt sản phẩm, cụ thể là của gần 300 cơ sở sản xuất bao gồm các xí nghiệp,

nhà máy, hợp tác xã, tổ sản xuất, công ty thuộc 13 bộ, tổng cục và 22 tỉnh thành.
- Công tác nghiên cứu khoa học, nghiệp vụ, tổng kết kinh nghiệm trong nớc, học
tập kinh nghiệm nớc ngoài, công tác thông tin, t liệu, đào tạo, xây dựng và thực
hiện các chơng trình đảm bảo và nâng cao chất lợng đợc chú trọng.
Tuy nhiên, ngoài những kết quả đạt đợc đó, nớc ta còn rất nhiều hạn chế, cha
tạo đợc sự chuyển biến đáng kể về chất lợng, do đó tình hình chất lợng sản phẩm
nói chung vẫn ở trạng thái yếu kém, bấp bênh không ổn định kéo dài nhiều năm.
c. Giai đoạn từ năm 1987 đến nay.
Khi đất nớc ta chuyển sang giai đoạn xây dựng nền kinh tế thị trờng có sự
quản lý của nhà nớc theo định hớng XHCN thì nội dung và phơng thức quản lý
chất lợng đã có nhiều thay đổi về cơ bản theo tinh thần của chỉ thị 222 CTngày
6/8/1988 của chủ tịch hội đồng bộ trởng và theo tinh thần của pháp lệnh đo lờng
ngày 6/7/1990 và pháp lệnh chất lợng hàng hoá ngày 2/1/1991.
Hơn 10 năm đổi mới và hội nhập đã mang lại nhiều chuyển biến đáng phấn
khởi. Thị trờng hàng nội địa ngày càng đa dạng, phong phú, kiểu dáng bao bì đợc
cải tiến, chất lợng đợc nâng cao hơn trớc.
Tình hình chất lợng sản phẩm ngày càng ổn định và từng bớc đợc nâng cao
trong thập niên 90 chủ yếu là nhở ở chủ trơng xây dựng và phát triển nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần và mở cửa nền kinh tế nớc ta cùng với sự hăng hái,
chủ động thực hiện quá trình đổi mới kinh tế xã hội trong mọi ngành, mọi cấp từ
sau Đại hội Đảng lần thứ 6 tới nay.
Trong thời kỳ này có những nhân tố mới xuất hiện nh:
- Nhân tố tích cực của ngời lao động đợc phát huy mạnh mẽ so với thời kỳ
thực hiện kế hoạch hoá tập trung.
- Ngời sản xuất, ngời lu thông và ngời cung cấp dịch vụ đợc tháo gỡ khỏi
những trói buộc của cơ chế hành chính quan liêu, bao cấp, phát huy đợc
quyền tự chủ, sáng tạo trong các hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
- Vai trò của ngời tiêu dùng ngày càng đợc đề cao và có tiếng nói quyết định
trên thị trờng.
- Cùng với quá trình cải tổ khu vực kinh tế nhà nớc, sự tham gia của các

thành phần kinh tế ngoài quốc doanh vào các hoạt động kinh doanh đã làm
cho thị trờng hàng hoá nớc ta trở nên sôi động, nhộn nhịp và ngày càng
phát triển theo xu thế lành mạnh.
Các nhân tố này đã tạo nên những tiền đề quan trọng để cải thiện tình hình
chất lợng sản phẩm ở nớc ta. Tuy nhiên, những nhân tố này sẽ không phát huy đợc
tốt nếu thiết một nhân tố hết sức cơ bản là sự đổi mới chung và đổi mới về quản lý
chất lợng ở cấp nhà nớc cũng nh cấp doanh nghiệp nói riêng.
Trong thập niên 70 và 80 của thế kỷ này, nhiều phơng pháp quản lý chất lợng,
hệ chất lợng đã đợc giới thiệu ở Việt Nam. Trớc khi thống nhất đất nớc, ở Miền
Nam đã có những công ty áp dụng các phơng pháp quản lý chất lợng tổng hợp,
trong số gần 300 cơ sở sản xuất của trung ơng và địa phơng đợc mang dấu chất l-
ợng cấp I, và cấp cao từ năm 1980 đến năm 1991 đã có không ít cơ sở đợc nghe
giới thiệu về hệ thống chế tạo không sai lỗi, hệ thống quản lý quản lý chất lợng
tổng hợp Những cơ sở này ít nhiều có vận dụng những yếu tố thích hợp của hệ
này hoặc hệ khác vào điều kiện của cơ sở mình.
Từ năm 1994 tới nay, hệ chất lợng theo ISO 9000 và nhiều hệ chất lợng khác
cũng đã đợc giới thiệu tơng đối rộng rãi ở Việt Nam. Các doanh nghiệp lớn thờng
có khá đầy đủ các thông tin về hệ thống chất lợng nhng nhiều doanh nghiệp vừa
và nhỏ thờng còn thiếu thông tin về vấn đề này.
Năm 1996 là năm đầu tiên ở Việt Nam có doanh nghiệp đợc cấp giấy chứng
nhận đạt tiêu chuẩn quốc tế ISO 9000. Cho đến năm 1999 nớc ta có trên 40 doanh
nghiệp đợc cấp giấy chứng nhận đạt ISO 9000, trong đó đa số là các doanh nghiệp
có vốn 100% của nớc ngoài, các liên doanh và phần lớn các doanh nghiệp đạt ISO
9002. Sang năm 2000 những tháng đầu năm 2001, các doanh nghiệp áp dụng và
đợc cấp chứng chỉ đạt ISO 9000 của nớc ta tăng lên rất nhiều và phần lớn các
doanh nghiệp cũng vẫn áp dụng ISO 9002 vì đây là mô hình đảm bảo chất lợng
phù hợp và không khó áp dụng đối với các doanh nghiệp lần đầu tiên áp dụng ở n-
ớc ta.
Mặc dù nớc ta đã có những doanh nghiệp duy trì đợc ý thức phấn đấu thờng
xuyên về chất lợng sản phẩm luôn chú ý đến việc học tập kinh nghiệm trong nớc

và nớc ngoài, biết cách lựa chọn mô hình thích hợp để vận dụng vào điều kiện của
mình. Đồng thời Tổng cục TCDLCL cùng các Bộ đã triển khai các hoạt động
thông tin, t liệu, đào tạo, hỗ trợ các xí nghiệp xây dựng và thực hiện các chơng
trình đảm bảo và nâng cao chất lợng sản phẩm, nhng trong bối cảnh chung còn có

×