Tải bản đầy đủ (.pdf) (201 trang)

Tổng quan du lịch

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.22 MB, 201 trang )

ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI
KHOA DU LỊCH
-----***-----

TỔNG QUAN DU LỊCH

Giảng viên: Ths Lê Quỳnh Chi

(Tài liệu lưu hành nội bộ)
Hà Nội, 2018

1


Lời nói đầu

Tổng quan Du lịch là môn học được giảng dạy bắt buộc cho sinh viên thuộc
chuyên ngành đào tạo du lịch. Là một trong những môn học cung cấp kiến thức cơ sở
ngành nên có phạm vi nghiên cứu rộng, bao quát nhiều vấn đề của hoạt động du lịch. Nội
dung của môn học với mục tiêu nhằm trang bị những kiến thức cơ bản, cần thiết cho sinh
viên chuyên ngành du lịch, đồng thời là cơ sở cho việc nghiên cứu các môn học chuyên
ngành.
Giáo trình ‘Tổng quan Du lịch’ cung cấp những kiến thức cơ bản về du lịch như
khái quát về lịch sử hình thành và phát triển du lịch ; sản phẩm du lịch ; thị trường du
lịch ; hoạt động lữ hành và hướng dẫn du lịch, cơ sở lưu trú du lịch, lao động trong du
lịch ; các tác động của du lịch và chiến lược phát triển của du lịch Việt Nam.
Đối tượng học tập môn ‘Tổng quan Du lịch’ là sinh viên năm thứ nhất chuyên
ngành du lịch. Để học tập tốt môn học này, sinh viên cần chủ động trong học tập, đọc
giáo trình, tìm thông tin, các nội dung có liên quan môn học, làm bài tập và thảo luận
hiệu quả.


Tác giả

2


CHƯƠNG I
KHÁI QUÁT VỀ DU LỊCH

Mục tiêu chương:
Sau khi kết thúc chương này, sinh viên có thể:


Phát biểu được bản chất của hoạt động du lịch, cơ bản hình thành ngành

du lịch và điều kiện phát triển du lịch đối với một quốc gia;


Trình bày được khái niệm du lịch và một số khái niệm có liên quan;



Mô tả được lịch sử hình thành và phát triển du lịch trên thế giới và ở Việt



Phân tích được các chức năng của du lịch;



Liệt kê được một số tổ chức hoạt động trong lĩnh vực du lịch ở Việt Nam,


Nam;

trong khu vực và trên thế giới;


Mô tả được bộ máy quản lý nhà nước về du lịch ở Việt Nam và một số nước trên thế

giới.

I.

BẢN CHẤT CỦA DU LỊCH

1.

Khái niệm du lịch
Từ xa xưa trong lịch sử nhân loại, du lịch đã được ghi nhận như một sở thích, một

hoạt động nghỉ ngơi tích cực của con người. Ngày nay du lịch đã trở thành một hiện
tượng kinh tế xã hội phổ biến không chỉ ở các nước kinh tế phát triểm mà còn cả ở các
nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Du lịch không còn là một hiện tượng riêng
lẻ, đặc quyền của cá nhân hay một nhóm người, mà du lịch đã trở thành một nhu cầu phổ
biến đáp ứng mục tiêu không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho con người.
Tuy nhiên, khái niệm du lịch dưới các góc độ nghiên cứu khác nhau cũng sẽ có những
cách hiểu khác nhau.
Năm 1811 lần đầu tiên tại Anh có định nghĩa về du lịch như sau : ‘Du lịch là sự
phối hợp nhịp nhàng giữa lý thuyết và thực hành của (các) cuộc hành trình với mục đích
giải trí. Ở đây sự giải trí là động cơ chính’.


3


Năm 1930, ông Glusman (Thụy Sĩ) đã định nghĩa : ‘Du lịch là sự chinh phục không gian
của những người đến một địa điểm mà ở đó họ không có chỗ cư trú thường xuyên’.
Theo định nghĩa của hai học giả Thụy Sĩ Hunziker và Kraff đã được Hiệp hội các
chuyên gia du lịch thừa nhận : ‘Du lịch là tổng hợp các mối quan hệ và hiện tượng bắt
nguồn từ các cuộc hành trình và lưu trú tạm thời của các cá nhân tại những nơi không
phải là nơi ở và làm việc thường xuyên của họ’.
Theo các tác giả McIntosh, Goeldner và Ritchie lại cho rằng khi nói đến du lịch
cần cân nhắc tới các thành phần tham gia vào hoạt động du lịch để hiểu bản chất của du
lịch một các đầy đủ. Các thành phần đó bao gồm : Khách du lịch, các doanh nghiệp cung
cấp hàng hóa và dịch vụ du lịch, chính quyền địa phương và dân cư địa phương.
Theo các tiếp cận này, du lịch được hiểu là :‘Tổng số các hiện tượng và mối quan
hệ nảy sinh từ sự tác động qua lại giữa khách du lịch, các nhà kinh doanh, chính quyền
và dân cư địa phương trong quá trình thu hút và tiếp đón du khách’’.
Ở Việt Nam, khái niệm du lịch đã được quy định trong Luật Du lịch 2017 và được
hiểu là : “Du lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi
cư trú thường xuyên trong thời gian không quá 01 năm liên tục nhằm đáp ứng nhu cầu
tham quan, nghỉ dưỡng, giải trí, tìm hiểu, khám phá tài nguyên du lịch hoặc kết hợp với
mục đích hợp pháp khác".
2.

Khái niệm khách du lịch
Khách du lịch là thuật ngữ dùng để chỉ những người đi du lịch. Ở Việt Nam, khái

niệm khách du lịch được quy định tại Luật Du lịch (2017) như sau : ‘khách du lịch là
người đi du lịch hoặc kết hợp đi du lịch, trừ trường hợp đi học, làm việc hoặc hành nghề
để nhận thu nhập ở nơi đến’. Như vậy, khách du lịch là những người ra khỏi nơi lưu trú
thường xuyên của mình trong một khoảng thời gian nhất định cho các mục đích khác nhau

nhưng không làm việc để nhận thu nhập ở nơi đến.
Khách du lịch được chia thành hai loại, khách du lịch quốc tế và khách du lịch nội
địa.
Khách du lịch quốc tế : Năm 1937 Ủy ban Thống kê Liên Hiệp Quốc đã đưa ra
khái niệm du khách quốc tế như sau : ‘Du khách quốc tế là những người thăm viếng một
quốc gia ngoài quốc gia đang cư trú thường xuyên của mình trong thời gian ít nhất là
24h’.

4


Theo Tổ chức Du lịch thế giới (UNWTO): ‘Khách du lịch quốc tế là một người
lưu trú ít nhất một đêm nhưng không quá một năm tại một quốc gia khác với quốc gia cư
trú thường xuyên với nhiều mục đích khác nhau ngoài việc hành nghề để nhận thu nhập ở
nơi đến’.
Khách du lịch nội địa : Theo Tổ chức Du lịch thế giới (UNWTO) :‘Khách du lịch
nội địa là những người đang sống trong một quốc gia, không kể quốc tịch nào, đi thăm
một nơi khác không phải là nơi cư trú thường xuyên tại quốc gia đó trong khoảng thời
gian ít nhất 24h và không quá một năm với một mục đích nào đó ngoài việc hành nghề để
có thu nhập tại nơi đến’.
Ở Việt Nam, khách du lịch bao gồm khách nội địa, khách quốc tế đến Việt Nàm
và khách du lịch ra nước ngoài.
Khách du lịch nội địa là công dân Việt Nam và người nước ngoài cư trú tại Việt
Nam đi du lịch trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam.
Khách du lịch vào Việt Nam (khách inbound) : là người nước ngoài, người Việt
Nam định cư ở nước ngoài vào Việt Nam du lịch.
Khách du lịch ra nước ngoài (khách outbound) : là công dân Việt Nam, người
nước ngoài cư trú tại Việt Nam ra nước ngoài du lịch.
Những người sau đây không được coi là khách du lịch:
-


Những người ra nước ngoài để tìm kiếm việc làm hoặc để làm theo hợp đồng.

-

Những công dân ở vùng giáp giới, sống ở nước bên này nhưng làm việc ở

nước bên kia.
-

Những người dân di cư tạm thời hoặc cố định.

-

Những người tị nạn

-

Nhà ngoại giao, nhân viên các đại sứ quán…

-

Lưu học sinh.

II.

LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN DU LỊCH

1.


Cơ sở hình thành ngành du lịch
Du lịch là một hiện tượng tồn tại cùng với sự phát triển của loài người, là một

trong những nhu cầu ngày càng trở nên tất yếu giúp con người điều hoà cuộc sống của
chính mình trong xã hội và tự nhiên. Sự xuất hiện nhu cầu du lịch xuất phát chủ yếu từ
mong muốn lẩn tránh sự đơn điệu nhàm chán trong cuộc sống hàng ngày, mong muốn sự

5


thay đổi ở một nơi khác ngoài nơi cư trú thường xuyên nhằm phục hồi sức khỏe và nâng
cao hiểu biết. Các nhu cầu đó luôn gắn kết với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Lực
lượng sản xuất càng phát triển thì nhu cầu về du lịch của con người càng tăng lên. Điều
đó xuất phát từ thu nhập của con người tăng lên, trình độ nhận thức văn hóa phát triển,
thời gian nhàn rỗi dành cho du lịch càng nhiều đồng thời trong quá trình phát triển lực
lượng sản xuất thì con người phải lao động trong những điều kiện căng thẳng hơn. Những
lý do đó đã thúc đẩy nhu cầu và cầu về du lịch phát triển. Lúc đầu, nhu cầu du lịch chỉ là
những hiện tượng đơn lẻ của tầng lớp quý tộc và bộ phận dân cư, sau đó du lịch trở thành
hiện tượng phổ biến, có tính đại chung và trở thành một nhu cầu tất yếu khách quan trong
cuộc sống con người.
Đồng thời, kết quả của sự phát triển lực lượng sản xuất còn đem lại những điều
kiện thuận lợi cho các chuyến đi của du khách. Chẳng hạn sự phát triển của hệ thống
đường xá, phương tiện giao thông đã có khả năng rút ngắn khoảng cách giữa các vùng và
các quốc gia. Các khoản đầu tư trực tiếp và gián tiếp cho phát triển du lịch cũng không
ngừng tăng lên, như đầu tư cho trùng tu, xây dựng các khu bảo tàng, công viên, trung tâm
thương mại… Các yếu tố đó tạo nên sự hấp dẫn, kích thích nhu cầu du lịch tăng lên.
Ngành du lịch được hình thành dựa trên cơ sở của phát triển lực lượng sản xuất và
phân công lao động xã hội.
Khi lực lượng sản xuất chưa phát triển thì nhu cầu du lịch của dân cư chủ yếu
được thực hiện một cách đơn lẻ do các cá nhân và tập thể tự đứng ra tổ chức để thỏa mãn

nhu cầu của mình. Đến một mức độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất đòi hỏi
phải có một bộ phận lao động xã hội đứng ra đảm nhiệm, tổ chức đáp ứng nhu cầu du lịch
của dân cư hay nói cách khác trong điều kiện đó xã hội đòi hỏi sự ra đời của ngành du
lịch.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất sẽ kéo theo sự phát triển của phân công lao
động xã hội. Với sự phát triển của phân công lao động xã hội, nhiều ngành nghề mới ra
đời, trong đó có ngành du lịch. Như vậy, sự phát triển của lực lượng sản xuất và phân
công lao động xã hội là hai cơ sở cho phép ngành du lịch ra đời.
2. Các điều kiện phát triển ngành du lịch
Như đã trình bày ở trên, ngành du lịch chỉ ra đời khi có đủ những tiền đề làm nảy
sinh các hoạt động du lịch và kinh doanh du lịch. Do đó, ngành du lịch sẽ phát triển

6


nhanh khi các tiền đề ra đời của ngành được củng cố và tăng cường. Song xem xét trên
phạm vi một quốc gia cụ thể cần hội tụ thêm các điều kiện cơ bản sau:
Thứ nhất, để phát triển du lịch, các vùng, các quốc gia phải có tài nguyên du lịch.
Du lịch là một trong những ngành có định hướng tài nguyên rõ rệt. Tài nguyên du lịch
ảnh hưởng trực tiếp đến tổ chức lãnh thổ của ngành du lịch, đến cấu trúc và chuyên môn
hóa của vùng du lịch. Quy mô hoạt động du lịch của một vùng, một quốc gia được xác
định trên cơ sở khối lượng nguồn tài nguyên du lịch. Nguồn tài nguyên du lịch còn quyết
định đến tính chất mùa trong kinh doanh du lịch, nhịp điệu dòng khách du lịch. Do vậy,
tài nguyên du lịch có thể đánh giá là một trong những yếu tố rất quan trọng để tạo vùng
du lịch và quyết định đến khả năng phát triển du lịch của một quốc gia.
Với vai trò như vậy, phát triển du lịch không thể tách rời nguồn tài nguyên du lịch
là một nguyên tắc trong quy hoạch phát triển du lịch của mỗi vùng, mỗi quốc gia. Mặt
khác, cũng cần nhận thức rằng nguồn tài nguyên được sử dụng trong quá trình kinh
doanh phải được phát hiện, khai thác đồng thời với ý thức bảo vệ, tôn tạo, làm giàu hơn
các nguồn tài nguyên đó.

Thứ hai, điều kiện khác cũng ảnh hưởng quan trọng đến phát triển ngành du lịch là
các điều kiện về cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch. Cơ sở hạ tầng nói chung có vai trò đặc
biệt đối với việc đẩy mạnh phát triển du lịch. Cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch bao gồm hệ
thống đường xá và các phương tiện giao thông cùng các công trình cung cấp điện, nước,
thông tin liên lạc trong đó mạng lưới đường xá và phương tiện giao thông đóng vai trò
quan trọng hàng đầu. Điều kiện cơ sở hạ tầng phục thuộc vào sự phát triển của tiến bộ
khoa học kỹ thuật và sự phát triển của nền kinh tế, điều đó lý giả tại sao ở các nước có
nền kinh tế phát triển thì ngành du lịch có sự phát triển mạnh hơn.
Thứ ba, nhu cầu và cầu về du lịch phát triển. Trong phát triển kinh doanh du lịch
sẽ không thể bỏ qua vai trò của yếu tố “nhu cầu”, nhu cầu tăng lên là một động lực chủ
yếu cho các chiến lược đầu tư phát triển du lịch. Nhu cầu và cầu du lịch của một quốc gia
phụ thuộc chủ yếu và các yếu tố như: thu nhập, trình độ nhận thức, thời gian rỗi… Trong
bối cảnh du lịch đang trở thành một xu thế có tính đại chung và cả thế giới đang xích lại
gần như, xóa bỏ dần những ranh giới khác biệt về chính trị thì nhu cầu và cầu về du lịch
sẽ tăng lên không ngừng.
Thứ tư, các điều kiện về an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội cho khách du lịch. Du
lịch chỉ xuất hiện và phát triển trong điều kiện hòa bình, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo.
7


Ngược lại, tại các quốc gia có chiến tranh hoặc có nhiều hạn chế về trật tư, an toàn xã hội sẽ
ảnh hưởng lớn đến khả năng thu hút du khách. Vậy có thể nói, điều kiện về an ninh chính trị,
trật tự an toàn xã hội là điều kiện đặc biệt quan trọng có tác dụng hoặc thúc đẩy hoặc kìm
hãm sự phát triển của du lịch trong nước và quốc tế.
3. Lịch sử hình thành và phát triển du lịch trên thế giới
Cũng như nhiều ngành khoa học, kỹ thuật, nghệ thuật, sản xuất, ngành Du lịch
được hình thành rất sớm trong bối cảnh lịch sử nhất định.
Thời cổ đại, các quốc gia chiếm hữu nô lệ với các nền văn minh rực rỡ ở Ai Cập,
Lưỡng Hà, ấn Độ, Hy Lạp, La Mã được hình thành. Con người đã có quá trình giao lưu
kinh tế và văn hoá. Nhu cầu tìm hiểu, tham quan và cả nghỉ ngơi đã xuất hiện mà trước

hết ở giai cấp quý tộc, chủ nô rồi tới các thương gia... Các nhà sử học cho rằng từ 5000
năm trước đây những chuyến vượt biển đã được bắt đầu từ Ai Cập. Trong những chuyến
đi ấy, người ta kết hợp các mục đích, trong đó có cả mục đích du lịch - dù khái niệm "du
lịch" lúc này còn chưa ra đời. Hàng nghìn năm trước công nguyên cư dân ở Ai Cập,
Lưỡng Hà, ấn Độ, Trung Quốc đã thực hiện các chuyến hành hương đến các đền, chùa,
lăng tẩm... trong những lễ hội tôn giáo. Những chuyến đi dài ngày, thậm chí hàng tháng
và cách xa nơi ở của họ đã dẫn tới việc xuất hiện những nơi ăn ở dành cho người hành
hương. Một số nhà tư tưởng đã thực hiện chuyến đi dài ngày trên lãnh thổ quốc gia rộng
lớn như Khổng Tử đã đến nhiều vùng của Trung Hoa.
Từ thế kỷ IV trước công nguyên, Hy Lạp đã phát triển cường thịnh. Việc đi đến
các vùng đất ở Địa Trung Hải với các mục đích nghỉ dưỡng, chữa bệnh, tham quan
nghiên cứu ngày càng thu hút đông đảo giai cấp chủ nô Hy Lạp.
Năm 776 trước công nguyên ở Hy Lạp người ta đã tổ chức cuộc thi thể thao mà
sau này gọi là thế vận hội Olympic, tổ chức 4 năm một lần. Cuộc thi này đã thu hút nhiều
người đến thi đấu và cả những người đến xem.
Đế quốc La Mã ra đời và phát triển cực thịnh từ thế kỷ I trước công nguyên đến
thế kỷ I sau công nguyên đã đánh dấu sự phát triển của các hoạt động du lịch ở Địa Trung
Hải. Sự phát triển của đường giao thông, việc xây dựng các công trình kiến trúc đồ sộ và
hoành tráng như các đền thờ, dinh thự, quảng trường ở các thành thị cổ đại La Mã đã thôi
thúc con người từ nhiều nơi đến tham quan. Người La Mã đã lập ra một hệ thống trạm
dừng chân cho khách với các dịch vụ nghỉ trọ, ăn uống, bán cỏ khô cho ngựa hay thay ngựa
cho khách. Trong các trạm này có cả những phòng đặc biệt dành cho quý tộc, chủ nô, quan
8


chức và phòng bình thường dành cho khách lữ hành. Cũng từ bán đảo La Mã, nhiều người đã
đi du lịch tới các vùng Địa Trung Hải như thăm Kim Tự Tháp ở Ai Cập, vườn treo Babylon
ở Lưỡng Hà, các đền đài ở Hy Lạp...
Sự suy tàn của các quốc gia cổ đại trong đó có đế quốc La Mã từ thế kỷ IV và từ
khi đế quốc Tây La Mã diệt vong (năm 476) kéo theo sự suy tàn của hoạt động du lịch,

người ta gọi đó là "thời kỳ đen tối" với các cuộc xung đột, thôn tính lẫn nhau giữa các
quốc gia phong kiến châu Âu đang trong quá trình hình thành và phát triển thịnh đạt.
Ngoài ra cuộc hành quân chinh phạt, xâm lăng mà đáng kể là các cuộc Thập tự chinh (có
8 cuộc Thập tự chinh lớn từ phương Tây sang phương Đông). Những chuyến đi du lịch ít
ỏi và cũng khá mạo hiểm. Ngoài sự mất an toàn, người ta còn gặp trở ngại bởi sự xuống
cấp của đường xá và của các dịch vụ du lịch. Sự ra đời của các lãnh địa phong kiến rộng
lớn thời Trung Cổ đã làm suy sụp các hoạt động du lịch thịnh hành thời cổ đại. Tuy vậy
cũng có những nhà du lịch mạo hiểm với khát khao tìm hiểu thế giới rộng lớn. Vào năm
1271, Marco Polo (ý) đã từ Venise đi Trung Quốc và nhiều nơi ở phương Đông. Ông
cũng đã từng dặt chân lên thương cảng Đại Chiêm (nay là Hội An, Việt Nam). Marco
Polo trở về châu Âu năm 1292 và viết cuốn "Marco Polo du ký". Cuốn sách đã gợi lên
lòng ham hiểu biết của nhiều thế hệ người châu Âu sau này.
Cuối thế kỷ XV đầu thế kỷ XVI, những hiểu biết về địa lý, thiên văn, hải dương và
kỹ thuật đi biển đã giúp con người có những phát kiến địa lý lớn. Từ 1492 đến 1504,
Christopher Colombus đã tiến hành 4 cuộc hành trình thám hiểm sang một châu lục mới
mà sau này được gọi là châu Mỹ. Phát kiến lớn tiếp theo là chuyến đi vòng quanh châu
Phi, vượt qua ấn Độ Dương đến ấn Độ (1497-1499) của Vasco de Gama người Bồ Đào
Nha. Chuyến đi vòng quanh thế giới trên biển của đoàn thám hiểm do Fernand Majellan
dẫn đầu (1519 - 1522) cũng là phát kiến rất quan trọng, có ý nghĩa nhiều mặt. Các chuyến
đi này tuy không phải vì mục đích du lịch nhưng trên ý nghĩa nhất định, đã mở hướng
cho hoạt động lữ hành quốc tế trên phương tiện vận tải thuỷ. Mặt khác những chuyến đi
này có thể coi là những chuyến du lịch thám hiểm, nghiên cứu của con người với thế giới
rộng lớn.
Từ thế kỷ XVI trở đi, những chuyến lữ hành của con người đến các châu lục trở
nên phổ biến hơn. Các thương gia, nhà ngoại giao, nhà khoa học, nhà truyền giáo... từ
châu Âu đến châu Á, châu Phi, châu Mỹ đã được coi là những chuyến lữ hành vĩ đại, góp
phần giao lưu giữa các nền văn hoá thế giới.
9



Đến thế kỷ XVIII loại hình du lịch có tên gọi là Grand Tour xuất hiện ở châu Âu. Đây là các
chuyến đi học tập trong một khoảng thời gian nhất định của các sinh viên đại học.
Thomas Cook người Anh đã sớm nhìn ra yêu cầu cần có các tổ chức du lịch.
Tháng 6 năm1841, ông đã vận động và tổ chức cho 570 người đi tầu hoả với khoảng cách
12 dặm để dự hội nghị. Năm 1842 ông đã sáng lập ra hãng lữ hành đầu tiên trên thế giới
với tên gọi là Thomas Cook. Bắt đầu bằng việc tổ chức những chuyến đi trong phạm vi
trong nước phục vụ học sinh, phụ huynh và các cặp vợ chồng. Nắm bắt được nhu cầu
muốn nghỉ hè và tham quan du lịch ở nước ngoài, năm 1854 hãng Thomas Cook và các
con đã bắt đầu tổ chức các tuyến du lịch quốc tế sang Châu Âu. Năm 1871 ông thiết lập
trụ sở tại New York và đến năm 1880 đã có hơn 60 chi nhánh trên khắp thế giới. Năm
1872 Cook thực hiện chuyến đi du lịch vòng quanh thế giới đầu tiên với 11 du khách.
Trong khoảng thời gian này, Thomas Cook có khoảng 200 khách sạn trong chương trình
của mình. Đến 1890 những chuyến lữ hành của Thomas đã chiếm lĩnh toàn thế giới với
gần 1.000 khách sạn trong danh mục. Sự ra đời của hãng lữ hành Thomas Cook là mốc
quan trọng, đánh dấu sự ra đời hình thành của các hãng lữ hành làm cầu nối giữa khách
du lịch và các thành phần phục vụ du lịch để hoạt động du lịch trở nên thuận tiện hơn.
Từ nửa sau thế kỷ XIX, đặc biệt là vào 30 năm cuối, du lịch có điều kiện phát
triển. Thành tựu khoa học kỹ thuật đã tạo điều kiện để du lịch phát triển.
Vào những năm vắt ngang hai thể kỷ XIX và XX, du lịch bằng ôtô xuất hiện cùng
với việc xây dựng đường ôtô và sự phát triển các phương tiện thông tin liên lạc. Người đi
du lịch chủ yếu vẫn là tầng lớp quý tộc, quan chức, thương gia và tư sản giàu có, chủ yếu
tập trung ở các loại hình du lịch nghỉ dưỡng, giải trí...
Sau chiến tranh thế gới thứ nhất, du lịch tiếp tục phát triển với việc sử dụng
phương tiện vận chuyển bằng máy bay. Chiến tranh thế giới lần thứ hai làm cho hoạt
động du lịch gần như ngưng trệ. Sau những năm khôi phục nền kinh tế xã hội bị tàn phá
bởi chiến tranh, từ thập kỷ 60 du lịch đã bắt đầu phát triển với tốc độ nhanh. Sự phát triển
của kinh tế thế giới đã tạo điều kiện cho nhân loại mở rộng và tăng cường các hoạt động
du lịch. Đồng thời các dịch vụ du lịch cũng ngày càng được mở rộng và nâng cao cả về
quy mô và chất lượng.
4.


Lịch sử phát triển du lịch ở Việt Nam
Tài nguyên du lịch của Việt Nam khá phong phú và đa dạng. Ba phần tư diện tích

lãnh thổ nước ta là núi đồi với nhiều cảnh quan ngoạn mục, những cánh rừng nhiệt đới
10


với nhiều loài cây cỏ, hệ thống sông hồ tạo nên bức tranh đẹp. Đất nước với 54 dân tộc
nhiều phong tục, tập quán khác lạ có sức hấp dẫn mạnh mẽ. Có thể nói hoạt động du lịch
ở nước ta đã có từ lâu đời. Việc mở mang bờ cõi có liên quan đến các chuyến đi của các
vua quan hoặc các học giả. Trương Hán Siêu, Hồ Xuân Hương, bà huyện Thanh Quan có
thể được coi là những người chu du của thời trung đại. Các dấu tích trên đá của chúa
Trịnh Sâm ở Hương Tích và của nhiều vua quan, nhà nho khác là những bằng chứng về
chuyến du ngoạn của họ.
Tuy nhiên việc khai thác tài nguyên phục vụ mục đích du lịch và nghỉ dưỡng trở
nên rõ nét hơn trong thời kỳ đô hộ của Pháp. Hàng loạt biệt thự, nhà nghỉ được xây dựng
ven các bãi biển, vùng hồ, hay vùng núi, những nơi có khí hậu ôn hoà như Đồ Sơn, Vũng
Tàu, Ba Vì, Tam Đảo, Đà Lạt...
Sau ngày hoà bình lập lại năm 1954, đất nước tạm chia cắt thành 2 miền, việc khai
thác du lịch đi theo 2 hướng khác nhau:
- Miền Bắc mặc dù điều kiện kinh tế còn khó khăn, song thanh thiếu niên, học
sinh, sinh viên thường tổ chức các chuyến đi tham quan cắm trại và tham gia các hoạt
động vui chơi ngoài trời.
-

Miền Nam, một số khách sạn lớn được xây dựng để đáp ứng nhu cầu của một

số ít người thuộc tầng lớp giàu có và binh lính, sỹ quan quân đội nước ngoài.
4.1. Giai đoạn 1960 đến 1979

-

Nghị định 26/CP ngày 9/7/1960 của Hội Đồng Bộ trưởng thành lập Công ty

Du lịch Việt Nam đầu tiên trực thuộc Bộ Ngoại thương với nhiệm vụ cơ bản là phục vụ
các đoàn khách của Đảng và Chính phủ.
-

Ngày 16/3/1963 Bộ trưởng Bộ Ngoại thương đã ra quyết định giao cho Công ty Du

lịch Việt Nam nhiệm vụ kinh doanh nhằm thu ngoại tệ cho đất nước.
-

Ngày 18/8/1969 ngành Du lịch chịu sự quản lý trực tiếp của Phủ Thủ tướng.

Để đảm bảo an ninh quốc gia và an toàn cho du khách, ngày 12/9/1969 Thủ tướng Chính
phủ đã ra quyết định số 94TTg giao cho Bộ Công an nhiệm vụ quản lý ngành Du lịch.
Tuy trong giai đoạn này, hoạt động của ngành du lịch Việt Nam vẫn mang tính chất phục vụ là
chủ yếu, song để đáp ứng nhiệm vụ phát triển của ngành, ngành du lịch Việt Nam đã đầu tư xây
dựng một số tuyến điểm du lịch quan trọng, thành lập xí nghiệp xe, công ty vật tư du lịch và một
số bộ phận chuyên môn chuyên phục vụ chuyên gia và khách du lịch nước ngoài.

11


4.2. Giai đoạn 1979 đến 1990
-

Ngày 31/1/1979 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Nghị định 32/CP quyết


định chính thức thành lập Tổng cục Du lịch Việt Nam.
Với quyền hạn được mở rộng trong giai đoạn này Tổng cục Du lịch Việt Nam
thực hiện chức năng quản lý nhà nước một cách thống nhất đối với trên 30 công ty du
lịch trong cả nước cùng với cơ sở vật chất du lịch ngày càng phát triển và hàng vạn cán
bộ công nhân viên có trình độ kinh nghiệm để phục cụ khách du lịch trong và ngoài
nước.
-

Ngày 18/6/1987 Hội đồng Bộ trưởng ra Nghị định 120/HĐBT quy định chức

năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Tổng cục Du lịch Việt Nam nhằm thống nhất chỉ đạo hệ
thống kinh doanh trong phạm vi cả nước.
4.3. Giai đoạn 1990 đến nay
-

Trong quá trình tinh giảm biên chế, rút gọn bộ máy tổ chức, ngày 31/3/1990,

căn cứ Quyết định số 224 của Hội đồng Nhà nước, Tổng cục Du lịch cùng với một số cơ
quan khác thành Bộ Văn hoá - Thông tin - Thể thao và Du lịch. Cùng thời gian này, nền
kinh tế Việt Nam đã bắt đầu có sự chuyển đổi về cơ bản, đạt những thành quả đáng khích
lệ. Thêm vào đó, năm 1990 được chọn là “Năm du lịch Việt Nam” đã góp phần thúc đẩy
tích hoạt động du lịch của đất nước.
-

Tháng 4/1990, Hội đồng Bộ trưởng đã ra Nghị định 119/HĐ-BT về việc thành

lập Tổng Công ty Du lịch Việt Nam trên cơ sở các bộ phận kinh doanh du lịch trước đây
với tiền thân ban đầu là công ty du lịch.Tổng công ty có các chi nhánh tại thành phố Hồ
Chí Minh, Đà Nẵng, Hải Phòng. Do trực thuộc bộ chủ quan không mang tính chất kinh
tế, không có sự chỉ đạo phù hợp về chuyên môn, nhiều chông ty du lịch lâm vào tình

trạng thua lỗ, gây thiệt hại cho nền kinh tế của đất nước.
-

Trên cơ sở coi du lịch là một ngành kinh tế dịch vụ, ngày 21/8/1991 ngành Du

lịch được tách khỏi Bộ Văn hóa - Thông tin - Thể thao và Du lịch để sáp nhập với Bộ
Thương mại trở thành Bộ Thương mại - Du lịch.
Tuy nhiên, do bản chất của ngành du lịch không chỉ là một ngành kinh tế dịch vụ
đơn thuần mà là một ngành kinh tế mang tính chất tổng hợp cao cho nên trong công tác
tổ chức, quản lý của Bộ chủ quản vẫn còn gặp nhiều vướng mắc nhất định. Hiệu quả
hoạt động du lịch còn chưa cao, sản phẩm du lịch còn đơn điệu, chất lượng phục vụ

12


thấp. Trên cơ sở đó, ngày 26/10/1992, Chính phủ đã ra Nghị định 05/CP về việc thành
lập lại Tổng cục Du lịch như một cơ quan độc lập ngang Bộ, trực thuộc Chính phủ.
-

Ngày 27/12/1992, Chính phủ ra Nghị định 20/CP quy định chức năng, nhiệm

vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Tổng cục Du lịch.
-

Ngày 7/8/1995 Chính phủ ban hành Nghị định số 53/CP về cơ cấu tổ chức của

Tổng cục Du lịch.
-

Ngày 25/12/2002 Bộ Nội vụ ban hành Quyết định số 18/2002/QĐ-BNV về


việc cho phép thành lập Hiệp hội Du lịch Việt Nam.
-

Ngày 08/8/2007 Chính phủ ra Nghị định số 09/NĐ-CP về việc sáp nhập Tổng

cục Du lịch cùng một số cơ quan quản lý nhà nước khác trở thành Bộ Văn hoá, Thể thao
và Du lịch.
CÁC CHỨC NĂNG CỦA DU LỊCH

III.
1.

Chức năng chính trị
Chức năng chính trị của du lịch thể hiện ở vai trò của nó như một nhân tố củng cố

hoà bình, thúc đẩy giao lưu quốc tế, mở rộng sự hiểu biết giữa các dân tộc. Du lịch quốc
tế làm cho con người sống ở những khu vực khác nhau trên thế giới hiểu biết và xích lại
gần nhau, tạo tình hữu nghị giữa các dân tộc. Mỗi năm, hoạt động du lịch có những chủ
đề khác nhau, như “Du lịch là giấy thông hành của hoà bình” (1967), “Du lịch không chỉ
là quyền lợi, mà còn là trách nhiệm của mỗi người” (1983)… kêu gọi hàng triệu người
quí trọng lịch sử, văn hoá và truyền thống của các quốc gia, giáo dục lòng mến khách và
trách nhiệm của chủ nhà đối với khách du lịch, tạo nên sự hiểu biết và tình hữu nghị giữa
các dân tộc.
2.

Chức năng sinh thái
Chức năng sinh thái của du lịch được thể hiện trong việc tạo nên môi trường sống

ổn định về mặt sinh thái. Nghỉ ngơi du lịch là nhân tố có tác dụng kích thích việc bảo vệ,

khôi phục môi trường thiên nhiên xung quanh.
Việc tham quan các danh lam thắng cảnh và môi trường thiên nhiên có ý nghĩa lớn
đối với du khách. Nó tạo cho du khách có điều kiện hiểu biết sâu sắc về tự nhiên, thấy
được giá trị của tự nhiên đối với đời sống con người, từ đó góp phần tích cực vào việc
giáo dục môi trường.

13


Nhu cầu nghỉ ngơi của nhân dân đòi hỏi phải hình thành các kiểu cảnh quan được bảo vệ
như các công viên quốc gia. Do đó các công viên thiên nhiên được thành lập vừa để bảo vệ các
cảnh quan tự nhiên, vừa để tổ chức các hoạt động giải trí du lịch.
Du lịch và môi trường có quan hệ mật thiết với nhau, du lịch góp phần bảo vệ môi
trường sinh thái tạo điều kiện để phát triển du lịch.
3. Chức năng kinh tế
Con người là lực lượng sản xuất chủ yếu của xã hội. Với chế độ nghỉ ngơi hợp lý,
du lịch góp phần vào việc hồi phục sức khoẻ, tái sản xuất sức lao động từ đó có thể tăng
năng suất lao động. Ngành du lịch mang lại nguồn thu ngoại tệ cho đất nước, tạo ra thu
nhập xã hội từ hoạt động du lịch…
4. Chức năng xã hội
Chức năng xã hội thể hiện ở vai trò của du lịch trong việc giữ gìn, phục hồi sức
khỏe cho nhân dân. Trong chừng mực nào đó, du lịch có tác dụng hạn chế bệnh tật, kéo
dài tuổi thọ và khả năng lao động của con người. Các công trình nghiên cứu về sinh học
khẳng định, nhờ chế độ nghỉ ngơi và du lịch hợp lý, bệnh tật của dân cư trung bình giảm
30%, bệnh đường hô hấp giảm 40%, bệnh thần kinh giảm 30%.
CÁC TỔ CHỨC DU LỊCH

IV.
1.


Một số tổ chức du lịch trên thế giới

1.1.

Tổ chức Du lịch thế giới (World Tourism Organization - UNWTO)


Thành lập: Tổ chức Du lịch thế giới là tổ chức chuyên môn của Liên Hợp

Quốc, thành lập năm 1947 tại Paris (Pháp) với tên gọi Liên hiệp Quốc tế của các tổ chức
du lịch chính thức (International Union of Official Travel Organization, viết tắt là
IUOTO). Trên cơ sở Nghị quyết của Hội nghị trù bị về thành lập Tổ chức Du lịch thế giới
(UNWTO), họp ngày 27/9/1970, Tổ chức Du lịch thế giới đã được chính thức thành lập
ngày 02/01/1975. Hàng năm, ngày 27/9 được coi là ngày Du lịch thế giới.
Đại hội đồng Liên hợp quốc khoá 58 đã thông qua Nghị quyết số 58/232 công
nhận Tổ chức Du lịch thế giới là tổ chức chuyên môn trong hệ thống Liên hợp quốc.


Tôn chỉ mục đích: Tổ chức này có nhiệm vụ hoạt động nhằm đẩy mạnh và

phát triển du lịch quốc tế, góp phần vào sự phát triển kinh tế các nước, tăng cường sự
hiểu biết lẫn nhau giữa các quốc gia, các dân tộc, vì hòa bình, thịnh vượng, tôn trọng lẫn

14


nhau, tôn trọng nhân quyền và quyền tự do cơ bản, không phân biệt chủng tộc, giới tính,
ngôn ngữ và tôn giáo, đặc biệt quan tâm đến quyền lợi các nước đang phát triển trong
lĩnh vực du lịch.



Trụ sở. Trụ sở của Tổ chức Du lịch thế giới đặt tại Madrit (Tây Ban Nha).



Ngân sách: Ngân sách của Tổ chức Du lịch thế giới do các nước thành viên

chính thức đóng góp, được chia thành 15 bậc và đóng theo sự tăng trưởng của khách lữ hành
quốc tế vào nước đó.


Thành viên: chia thành 3 loại: thành viên chính thức, thành viên liên kết và

thành viên chi nhánh.
Thành viên chính thức: là các quốc gia có chủ quyền tham gia, hiện có 140 quốc gia
thành viên. Ngày 17/9/1981, tại Hội nghị Đại hội đồng của Tổ chức Du lịch thế giới lần thứ 4
họp tại Italia, Du lịch Việt Nam đã được kết nạp là thành viên chính thức của tổ chức.
-

Thành viên liên kết là những vùng lãnh thổ, hiện có 6 thành viên thuộc loại

này là Aruba, Macao, Madeire, Hồng kông, Frémish và quần đảo Antilles.
-

Thành viên chi nhánh là các công ty du lịch, hãng du lịch,... hiện nay có 350

thành viên.


Cơ cấu tổ chức: gồm Đại hội đồng, Hội đồng chấp hành, Ban Thư ký, các ủy


ban khu vực.
-

Đại hội đồng: Họp thường kỳ hai năm họp một lần, có nhiệm vụ thông qua

chủ trương, chính sách du lịch, định hướng phát triển du lịch phục vụ sự phát triển kinh tế
thế giới; bầu các chức vụ quan trọng của UNWTO như Tổng thư ký, các nước trong Hội
đồng chấp hành UNWTO, kết nạp thành viên mới và đình chỉ nước thành viên khi nợ
ngân sách quá 2 năm liền.
Ngoài Đại hội đồng thường kỳ, UNWTO cũng có thể triệu tập cuộc họp bất
thường theo yêu cầu của Hội đồng chấp hành hoặc do 2/3 số thành viên chính thức yêu
cầu.
-

Hội đồng chấp hành: Hội đồng chấp hành gồm 27 nước thành viên được bầu

theo khu vực địa lý. Nhiệm kỳ của Hội đồng chấp hành là 2 năm và được tái cử. Hội
đồng chấp hành do 1 chủ tịch và 3 phó chủ tịch lãnh đạo. Hội đồng chấp hành là cơ quan
điều hành giúp UNWTO triển khai các chủ trương chính sách đã được Đại hội đồng
thông qua Hội đồng chấp hành họp 2 kỳ 1 năm và có các cuộc họp bất thường theo đề
nghị của Tổng Thư ký hay của 2/3 số thành viên Hội đồng chấp hành.
15


-

Ban Thư ký: giúp việc cho Đại hội đồng.

-


Uỷ ban khu vực: gồm 6 ủy ban: ủy ban khu vực Châu Phi - CAF; ủy ban khu

vực các nước Châu Mỹ - CA; ủy ban khu vực Đông Nam Á - Thái Bình Dương – CAP
(Việt Nam là thành viên thứ 11 của Uỷ ban này); Uỷ ban khu vực Nam Á - CSA Uỷ ban
khu vực Châu Âu - CEU; và Uỷ ban khu vực Trung Đông - CME).
1.2.

Hội đồng lữ hành và du lịch thế giới (World Travel & Tourism Council - WTTC)
Hội đồng lữ hành và du lịch thế giới là một tổ chức liên kết quốc tế bao gồm các

nhà lãnh đạo của mọi ngành nghề trong công nghệ du lịch như vận chuyển, lưu trú, nhà
hàng, vui chơi giải trí và các dịch vụ lữ hành. WTTC có trụ sở chính tại Bỉ và văn phòng
hoạt động tại Canada, Anh và Mỹ. Mục đích của WTTC là:
Thuyết phục các chính phủ công nhận sự đóng góp to lớn của lữ hành và du lịch
vào sự phát triển kinh tế quốc gia và quốc tế và bảo đảm rằng chính sách phản ánh tương
xứng kết quả.
Khuyến khích sự mở rộng thị trường lữ hành và du lịch trong khuôn khổ hài hoà
với môi trường.
Loại trừ các rào cản gây trở ngại cho sự phát triển của công nghệ du lịch.
Năm 1992 WTTC thiết lập Trung tâm nghiên cứu môi trường lữ hành và du lịch
quốc tế tại Anh. Trung tâm này biên soạn cơ sở dữ liệu về các hoạt động của công nghệ,
chính sách chính phủ và các phương thức tiếp cận thực tế hữu hiệu nhất để giải quyết vấn
đề môi trường.
WTTC đưa ra những biện pháp làm giảm những thủ tục về hành chính cũng như
xuất nhập cảnh gây phiền hà đối với khách du lịch. Tuy nhiên WTTC không đồng tình
với chính sách miễn thị thực xuất nhập cảnh (visa) đối với khách du lịch vì nhu cầu an
ninh của du khách cũng như của các quốc gia.
1.3.


Hiệp hội vận chuyển hàng không quốc tế (International Air Transport Association -IATA)
IATA là một tổ chức quốc tế bao gồm hầu như tất cả các hãng hàng không trên thế

giới. Với quy mô lớn như vậy, hoạt động của IATA nhằm đạt được những mục đích
chính như: tạo điều kiện thuận lợi cho sự chuyên chở hành khách và hàng hoá từ bất kỳ
điểm nào trên mạng hàng không thế giới đến bất kỳ điểm nào khác cho dù phải kết hợp
các lộ trình khác nhau. Điều này thể hiện ở phương thức mua một vé hàng không duy
nhất, với một giá duy nhất, trả bằng một loại tiền tệ duy nhất và có hiệu lực suốt lộ trình

16


với cùng một chất lượng dịch vụ. IATA đưa ra tiêu chuẩn chung không những cho vé
hàng không mà còn cho vận đơn, phiếu kiểm tra hàng lý…
Chính vì vậy, IATA đã tạo được sự liên kết nhiều tuyến hàng không quốc tế riêng
biệt trở thành một hệ thống thống nhất phục vụ hành khách nói chung, cũng như tạo điều
kiện thuận lợi cho sự phát triển của du lịch trên thế giới.
IATA hiện có hơn 270 thành viên là các hãng hàng không ở khắp các châu lục,
đảm nhận 94% khối lượng vận chuyển hàng không quốc tế thường lệ. Hãng hàng không
quốc gia Việt Nam là thành viên của IATA từ năm 2006.
1.4.

Hiệp hội khách sạn và nhà hàng quốc tế (International Hotel & Restaurant
Association -IH & RA)
Là một tổ chức quốc tế được thành lập năm 1946 đại diện cho ngành kinh doanh

khách sạn và nhà hàng trên toàn thế giới. Được sự thừa nhận của Liên hợp quốc, Hiệp hội
đại diện cho ngành thực hiện việc giám sát và vận động ủng hộ cho tấc cả các cơ sở kinh
doanh trên thế giới gồm khoảng 300.000 khách sạn, 8 triệu nhà hàng với 60 triệu lao động và
hàng năm đóng góp 950 tỷ USD cho nền kinh tế toàn cầu.

Hội viên là các hiệp hội khách sạn và nhà hàng của trên 100 quốc gia, tập đoàn
khách sạn và nhà hàng quốc gia và quốc tế của 50 thương hiệu nổi tiếng trên thế giới; các
thành viên phối hợp khác như: các khách sạn riêng lẻ, các công ty cung ứng dịch vụ, các
cơ sở giáo dục đào tạo, các công ty tư vấn và các hiệp hội du lịch, lữ hành và dịch vụ
khác. Trụ sở IH&RA đặt tại Paris (Pháp).
2.

Một số tổ chức du lịch trong khu vực

2.1.

Hiệp hội du lịch Châu Á - Thái Bình Dương (Pacific Asia Travel Association -PATA)
PATA là một tổ chức phi lợi nhuận, phi chính phủ, được thành lập năm 1951 tại

Hawai do sáng kiến của Mỹ. Chức năng chính của PATA là phát triển sản phẩm và hỗ trợ
xúc tiến du lịch thông qua việc đưa ra các sáng kiến mang tầm chiến lược đối với mục
tiêu phát triển lâu dài của ngành du lịch.
PATA hỗ trợ các thành viên của mình dưới các hình thức: Phát triển nguồn nhân
lực; Cung cấp thông tin cập nhật về các xu hướng phát triển và các vấn đề của ngành du
lịch; Tư vấn chuyên môn và lực lượng hoạch định kế hoạch; Tổ chức các chương trình bảo
tồn văn hoá và môi trường; Hỗ trợ về chính sách đầu tư và phát triển du lịch. PATA cũng hỗ
trợ công tác nghiên cứu thị trường các tuyến điểm du lịch và kinh doanh lữ hành, công tác xúc

17


tiến quảng bá và bán sản phẩm; Tổ chức các diễn đàn cho những người đứng đầu ngành du
lịch và lữ hành khu vực Châu á - Thái Bình Dương.
Hiện nay PATA có trên 2.1000 thành viên thuộc 82 chi hội ở 49 quốc gia trên thế
giới gồm: các chính phủ, các hãng lữ hành, khách sạn, các nhà điều hành tour, các hãng

hàng không và vận tải biển, các tập đoàn, công ty có liên quan đến du lịch, các cơ sở đào tạo du
lịch ... Trong suốt một thời gian dài PATA có trụ sở chính đặt tại Safrancisco (Mỹ). Đầu năm
1998, PATA chuyển trụ sở về Bangkok (Thái Lan).
PATA cho ra nhiều ấn phẩm về du lịch như tạp chí du lịch hàng tháng “PATA
NEWS”, sách tra cứu hàng năm “PATA GUIDE BOOK”, thông tin thống kê hàng năm
“PATA STATISTICS”.


Chi hội PATA Việt Nam: Năm 1994, được sự đồng ý của Chính phủ và của

Tổng cục Du lịch, được PATA TW chấp thuận, Chi hội PATA Việt Nam chính thức
được công nhận và là một bộ phận của Hiệp hội du lịch Châu Á - Thái Bình Dương.
Chi hội PATA Việt Nam là một tổ chức nghề nghiệp trong đó thành viên là các đơn vị
thuộc mọi thành phần kinh tế, kinh doanh liên quan đến lĩnh vực du lịch, hoạt động trên lãnh
thổ Việt Nam, liên kết tự nguyện nhằm tăng cường trao đổi thông tin, hợp tác và giúp nhau
cùng phát triển theo pháp luật nhà nước Việt Nam và phù hợp với điều lệ Hiệp hội PATA.
Hiện nay Chi hội PATA Viẹt Nam có gần 200 hội viên, hầu hết là các doanh nghiệp
hoạt động trong lĩnh vực lữ hành, khách sạn, vận tải… trên cả nước.
Chi hội PATA Việt Nam có chức năng:
-

Là diễn đàn trao đổi thông tin về hoạt động du lịch, kiến nghị với các cơ quan nhà

nước về chính sách liên quan đến du lịch nhằm thúc đẩy sự nghiệp phát triển du lịch.
-

Hỗ trợ lẫn nhau trong phát triển hoạt động du lịch, góp phần nâng cao trình độ

quản lý, điều hành và nghiệp vụ cho các tổ chức thành viên.
-


Tổ chức Hội thảo, tham gia hội chợ, triển lãm, hội nghị thương mại du lịch

trong va ngoài nước theo quy chế của nhà nước, quy định của Tổng cục Du lịch.
-

Thông qua hoạt động của mình trong hệ thống Hiệp hội PATA, làm cầu nối

giữa các tổ chức thành viên với Hiệp hội, với các Chi hội PATA các nước.
-

Bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các tổ chức thành viên.

Chi hội PATA Việt Nam có những nhiệm vụ:
-

Đóng góp cho sự phát triển du lịch, nâng cao chất lượng hiệu quả du lịch của

Việt Nam và trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương.
18


-

Hướng dẫn, tư vấn, cung cấp thông tin kinh tế du lịch cho các thành viên.

-

Tổ chức hoạt động hỗ trợ, thiết lập và phát triển các mối quan hệ hợp tác kinh


tế giữa các tổ chức thành viên với các đối tác trong và ngoài nước.
-

Tập hợp, nghiên cứu và tham khảo ý kiến các thành viên để phản ánh, đề đạt

với các cơ quan nhà nước về những vấn đề liên quan đến hoạt động du lịch.
-

Thực thi và giúp đỡ việc thực hiện các dự án Hiệp hội PATA và của các thành

viên Chi hội PATA Việt Nam.
-

Tổ chức các hoạt động giải trí lành mạnh, các chuyến tham quan du lịch, tìm

hiểu thị trường trong và ngoài nước, các hoạt động nhằm giới thiệu sản phẩm của các
thành viên.
Hiệp hội du lịch Đông Nam Á (ASEAN Tourism Association -ASEANTA)

2.2.
-

Hiệp hội Du lịch Đông Nam Á (ASEANTA) thành lập ngày 27/3/1971.

ASEANTA là hiệp hội du lịch phi lợi nhuận bao gồm các tổ chức du lịch khu vực công
và tư của các nước Đông Nam Á (ASEAN).
-

Trụ sở của ASEANTA hiện nay đặt tại Kuala Lumpur (Malaysia) và có 11


nước thuộc khối ASEAN tham gia: Brunei, Campuchia, Indonesia, Lào, Malaysia,
Philippines, Singapore, Thái Lan, Việt Nam, Myanmar và Đông Timor..
Tôn chỉ, mục đích:
-

Liên kết các hội viên vì mục đích chung, làm việc chặt chẽ trên tinh thần hợp

tác, bình đẳng, hỗ trợ để tăng cường và bảo vệ lợi ích của các hội viên;
-

Nỗ lực đạt được chất lượng sản phẩm dịch vụ cao nhất cho khách du lịch;

-

Nâng cao tính trung thực và đạo đức trong kinh doanh du lịch và phấn đấu đạt

được tính chuyên nghiệp;
-

Thúc đẩy và duy trì mối quan hệ tốt đẹp giữa nhân dân và các quốc gia ASEAN;

-

Khuyến khích, hỗ trợ và giúp đỡ phát triển du lịch trong khu vực ASEAN;

-

Là tiếng nói của các hội viên và đề xuất với các cơ quan chính phủ hoặc các tổ chức

khác những vấn đề liên quan đến các hội viên và ngành du lịch trong các nước ASEAN;

-

Đề xuất và đáp ứng các hỗ trợ cho các chính phủ và cơ quan quốc tế về những

vấn đề liên quan đến du lịch.
Hội viên: Các hội viên của ASEANTA bao gồm các Cơ quan du lịch quốc gia, các Hiệp
hội khách sạn quốc gia, các Hiệp hội lữ hành quốc gia, các Hãng hàng không quốc gia và các pháp
nhân quan tâm kinh doanh khác trong khối ASEAN.
19


Ban lãnh đạo ASEANTA gồm Ban chấp hành, Ban chấp hành bầu ra Chủ tịch, Phó chủ
tịch, Tổng thư ký và một người phụ trách tài chính. Nhiêm kỳ của Ban chấp hành là 2 năm. Mỗi
quốc gia thành viên có một đại diện tham gia Ban chấp hành. Mỗi năm Ban chấp hành họp trung
bình 4 kỳ theo hình thức luân phiên tại các nước thành viên nhằm tạo ra sự thân thiện, gắn kết và
hợp tác giữa các cộng đồng doanh nghiệp du lịch với nhau.
ASEANTA tổ chức 3 nhóm chuyên môn gọi là Liên đoàn: Liên đoàn Lữ hành, Liên đoàn
Khách sạn – Nhà hàng và Liên đoàn Hàng không quốc gia. Hiệp hội Du lịch Việt Nam (VITA)
gia nhập ASEANTA từ tháng 4 năm 2004.
Hàng năm ASEAN tổ chức Diễn đàn Du lịch ASEAN (ASEAN Travel Forum –
ATF), nhằm quảng bá du lịch cho tất cả các nước thành viên, coi ASEAN như một điểm
du lịch thống nhất, đồng thời tìm biện pháp hợp tác đa phương để triển khai thực hiện thu
hút, đón tiếp và phục vụ khách ASEAN, đưa ra những sáng kiến du lịch. ATF là sự kiện
thường niên của ASEANTA. Sự kiện này là công vụ tiếp thị, xúc tiến du lịch ASEAN,
trong đó ASEANTA đóng vai trò là Hiệp hội của các tổ chức thuộc khu vực tư nhân, và
có đại diện từ các ngành lữ hành, khách sạn, hàng không của các nước ASEAN. Diễn đàn
Du lịch ASEAN tổ chức mỗi năm một lần gồm 4 nội dung:
-

Hội nghị của các tổ chức du lịch quốc gia và cuộc họp không chính thức bộ


trưởng du lịch các nước thành viên ASEAN;

2.3.

-

Họp thường niên của Hiệp hội lữ hành ASEAN;

-

Hội nghị du lịch;

-

Hội chợ du lịch ASEAN.

Trung tâm thông tin du lịch ASEAN (ASEAN Tourism Information Centre -ATIC)
Trung tâm được thành lập năm 1988 để công khai hóa các điểm hấp dẫn du lịch và

xem xét tiền năng đầu tư vào các nước ASEAN ; cung cấp cơ sở dữ liệu chung ; hành
động như một cánh tay quản lý của Tiểu ban về Du lịch ASEAN cấp chính phủ. Thành
viên của trung tâm bao gồm chính phủ của các nước thành viên và trung tâm đặt tại
Jakarta (Indonesia).
2.4.

Hiệp hội nhà hàng và khách sạn ASEAN (ASEAN Hotel & Restaurant Association -AH&RA)
Là một tổ chức khu vực về nhóm các nhà hàng và khách sạn ở Indonesia,

Philippines, Singapore và Thailand. Trụ sở của hiệp hội đặt Jakarta (Indonesia).

3.

Các tổ chức du lịch ở Việt Nam
20


3.1.

Hiệp hội Du lịch Việt Nam (Vietnam Tourism Association -VITA)
Ở Việt Nam, hiệp hội nghề nghiệp của những người làm du lịch là Hiệp hội Du

lịch Việt Nam, tên giao dịch tiếng Anh là Vietnam Tourism Association (VITA) được
thành lập theo Quyết định số: 18/2002/QĐ-BNV ngày 25/12/2002 của Bộ trưởng Bộ Nội
vụ và có trụ sở tại 54 Phố Nguyễn Du, Quận Hai Bà Trưng, Hà Nội.
Hiệp hội đã tiến hành Đại hội lần thứ I (ngày 09/01/2003) và Đại hội lần thứ II
(ngày 21/12/2005). Tháng 3/2006 bản Điều lệ (sửa đổi) của Hiệp hội đã được Bộ Nội vụ
phê duyệt. Hiệp hội Du lịch Việt Nam ra đời đánh dấu một bước phát triển quan trọng
của Ngành du lịch Việt Nam.
Hiệp hội Du lịch Việt Nam là một tổ chức tự nguyện phi chính phủ của các doanh
nghiệp, tổ chức kinh tế và công dân Việt Nam hoạt động hợp pháp trong lĩnh vực du lịch.
Mục đích của Hiệp hội là liên kết, hợp tác, hỗ trợ nhau về kinh tế - kỹ thuật về
kinh doanh dịch vụ, tạo bình ổn thị trường, nâng cao giá trị chất lượng, sản phẩm du lịch,
khả năng cạnh tranh trong và ngoài nước của hội viên; đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của Hội viên.
Hiệp hội Du lịch Việt Nam hoạt động trong phạm vi cả nước và ở nước ngoài theo quy định
của pháp luật của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Điều lệ của Hiệp hội.
Nhiệm vụ của Hiệp hội
 Tuyên truyền giáo dục để hội viên hiểu rõ đường lối, chủ trương, chính sách của

Đảng, Nhà nước và của Tổng cục Du lịch về xây dựng, phát triển ngành Du lịch Việt Nam.

 Tham gia tổ chức các hoạt động tuyên truyền, quảng bá hình ảnh đất nước,

danh lam thắng cảnh, con người, truyền thống văn hoá và lịch sử của dân tộc Việt nam
với bạn bè quốc tế, xúc tiến du lịch. Tham gia xây dựng chiến lược phát triển ngành Du
lịch Việt Nam khi được yêu cầu.
 Đại diện cho hội viên kiến nghị với Nhà nước về những chủ trương, chính sách,

biện pháp khuyến khích, tạo điều kiện phát triển ngành Du lịch và bảo vệ quyền và lợi ích
chính đáng của hội viên, giải quyết các trường hợp, vụ việc gây thiệt hại đến quyền lợi của
Ngành và của hội viên theo thẩm quyền của Hiệp hội; thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước
theo quy định của pháp luật.
 Động viên sự nhiệt tình và khả năng sáng tạo của hội viên; hợp tác, hỗ trợ,

giúp đỡ nhau về kinh tế - kỹ thuật trong hoạt động, kinh doanh du lịch trên cơ sở trao đổi

21


kinh nghiệm, phổ biến và ứng dụng các thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến; đoàn
kết giúp đỡ nhau trong khó khăn.
 Hỗ trợ tư vấn cho các tổ chức và hội viên của Hiệp hội trong quá trình sắp xếp

lại tổ chức; cung cấp thông tin về kinh tế, thị trường liên quan đến du lịch để hội viên tổ
chức kinh doanh đạt hiệu quả và phát triển bền vững.
 Phối hợp với các tổ chức liên quan trong nước nhằm thực hiện tôn chỉ, mục

đích của Hiệp hội.
Quyền hạn của Hiệp hội
 Tổ chức các Hội nghị, Hội thảo để trao đổi kinh nghiệm nghề nghiệp, khuyến


khích hợp tác, liên kết giữa các hội viên để nâng cao chất lượng hoạt động du lịch.
 Tổ chức các hoạt động đào tạo, dịch vụ, tư vấn và các hoạt động khác theo quy

định của pháp luật và Điều lệ này.
 Nghiên cứu, tham gia góp ý, đề xuất kiến nghị với Chính phủ và các cơ quan nhà

nước những chính sách, luật pháp đưa ngành du lịch phát triển.
 Phát triển hội viên, xây dựng cơ sở vật chất, xây dựng và phát triển các mối quan

hệ của Hiệp hội với các tổ chức, cá nhân trong nước và ở nước ngoài theo quy định của
pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động, uy tín và vị thế của Hiệp hội.
 Xuất bản tập san, các ấn phẩm và các tài liệu tuyên truyền, quảng bá du lịch, phổ

biến đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, nhà nước và của ngành Du lịch về xây
dựng, phát triển du lịch,phổ biến kỹ thuật và kinh nghiệm quản lý, kinh doanh theo quy
định của pháp luật.
 Thực hiện các quyền hạn khác của tổ chức Hiệp hội theo quy định của pháp luật.

Đến nay Hiệp hội Du lịch Việt Nam đã có trên 260 hội viên trực tiếp và 15 Hiệp
hội ở các tỉnh, thành phố như Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Quảng Ninh, Hà
Tây, Thái Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Thừa Thiên – Huế, Đà Nẵng, Khánh Hòa, Bình
Thuận, Lâm Đồng, Bà Rịa – Vũng Tầu, Cần Thơ với hàng trăm các chi hội, câu lạc bộ
ngành nghề khác nhau đưa tổng số hội viên của Hiệp hội lên gần 1.000 doanh nghiệp trong tất cả
các lĩnh vực của ngành du lịch như lữ hành, khách sạn, vận chuyển, hội chợ - quảng cáo, công
nghệ thông tin du lịch, hàng lưu niệm (kể cả sản phẩm làng nghề và thủ công mỹ nghệ), vui chơi
giải trí, các trường du lịch, v.v…
Hiệp hội Du lịch Việt Nam là thành viên của Phòng Thương mại và Công nghiệp
Việt Nam (VCCI) từ tháng 8/2004.
22



Tháng 4/2004, Hiệp hội Du lịch Việt Nam gia nhập Hiệp hội Du lịch Đông Nam Á
(ASEANTA) có trụ sở tại Kuala Lumpur (Malaysia).
3.2.

Hiệp hội Khách sạn Việt Nam
Ngày 10/1/2010, tại Hà Nội, Hiệp hội Du lịch Việt Nam đã thành lập Hiệp hội Khách

sạn Việt Nam (Quyết định số 22/QĐHHDLVN) và tổ chức Đại hội lần thứ Nhất.
Hiệp hội Khách sạn có 110 hội viên đầu tiên, trong đó 90 hội viên đại diện cho các
khách sạn, cơ sở lưu trú du lịch trên cả nước. Hiệp hội được thành lập với mục đích liên
kết, hợp tác, hỗ trợ về kinh tế, kỹ thuật, kinh doanh dịch vụ, tạo bình ổn thị trường, nâng
cao giá trị chất lượng, sản phẩm du lịch, khả năng cạnh tranh trong và ngoài nước của hội
viên, đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của hội viên. Hiệp hội sau khi được
thành lập sẽ bao gồm các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế và công dân Việt Nam hoạt động
hợp pháp trong lĩnh vực kinh doanh cơ sở lưu trú du lịch và các dịch vụ liên quan khác.
Hiệp hội Khách sạn Việt Nam cung cấp cho hội viên những thông tin cập nhật về
ngành Du lịch, lĩnh vực kinh doanh Khách sạn, nhà hàng trong nước và quốc tế qua trang
website hoặc bản tin, tạp chí... Tư vấn cho hội viên về công tác xúc tiến quảng bá hình
ảnh, thương hiệu, sản phẩm, hỗ trợ tìm kiếm đối tác, thị trường thông qua việc tham gia
Hội chợ, triển lãm trong nước và quốc tế.
Hướng dẫn hội viên thực hiện các văn bản pháp luật của nhà nước và của ngành
liên quan đến hoạt động kinh doanh khách sạn. Kịp thời phản ánh và phối hợp với các cơ
quan chức năng giải quyết những khó khăn vướng mắc trong việc kinh doanh như: Giá
điện, nước, chính sách thuế đất... Hỗ trợ giải quyết các khiếu nại, tranh chấp trong quá
trình hoạt động kinh doanh.
Hiệp hội Khách sạn Việt Nam là tổ chức bảo vệ quyền lợi hợp pháp và chính đáng của
các hội viên, phản ánh với các cơ quan quản lý nhà nước về cơ chế, chính sách chưa phù hợp,
ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của các cơ sở lưu trú du lịch.
Đại diện hội viên tuyên truyền hình ảnh đất nước, con người, văn hoá truyền

thống, lịch sử dân tộc với bè bạn quốc tế, ký kết các hiệp định hợp tác, chuyển giao công
nghệ với các đối tác nước ngoài cũng như đại diện và bảo vệ cho hội viên trong các
trường hợp tranh chấp, kiện tụng trong nước và quốc tế..
Thiết lập quan hệ với các tổ chức liên quan đến lĩnh vực khách sạn, quan hệ song
phương và đa phương với các Hiệp hội Khách sạn trong khu vực và thế giới.

23


Ký kết các Hiệp ước hợp tác về đào tạo, chuyển giao công nghệ, kỹ thuật, lao động trong
lĩnh vực Khách sạn với các tổ chức quốc tế.
Nghiên cứu và đóng góp ý kiến về hệ thống Văn bản pháp luật liên quan đến hoạt
động kinh doanh khách sạn, thực hiện các đề tài khoa học về lĩnh vực khách sạn do Bộ
Văn hoá - Thể thao và Du lịch, Tổng cục giao.
V.

CƠ QUAN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ DU LỊCH Ở MỘT SỐ QUỐC GIA

1.

Quản lý nhà nước về du lịch tại Việt Nam

1.1.

Tổng cục Du lịch
Được thành lập ngày 2706/1978 trực thuộc Hội đồng Bộ trưởng theo Nghị định số

262/NQ-OHK6 của ủy ban Thường vụ Quốc hội. Đầu năm 1990, Tổng cục sáp nhập vào
Bộ Văn hóa, Thông tin, Thể thao và Du lịch sau đó chuyển qua Bộ Thương mại và Du
lịch tháng 6/1991. Đến cuối năm 1992 Tổng cục Du lịch được thành lập trở lại và là cơ

quan trực thuộc Chính phủ. Tổng cục Du lịch tồn tại độc lập đến năm 2007 được cơ cấu
lại để hình thành Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch.
Tổng cục Du lịch có chức năng quản lý nhà nước đối với hoạt động du lịch trong
phạm vi cả nước, bao gồm hoạt động du lịch của các thành phần kinh tế, cơ quan, đoàn
thể tổ chức xã hội, công dân và người nước ngoài tại Việt Nam. Nhiệm vụ và quyền hạn
của Tổng cục nhu sau:


Xây dựng quy hoạch, kế hoạch về phát triển du lịch;



Xây dựng các dự án luật, pháp lệnh về hoạt động du lịch và các văn bản dưới luật;



Hướng dẫn về chuyên môn nghiệp vụ du lịch, khách san, thông tin, tuyên

truyền quảng cáo du lịch;


Hợp tác quốc tế;



Xây dựng hệ tống tổ chức, chức danh, đào tạo bồi dưỡng tiền lương, khen

thưởng và kỷ luật;

1.2.




Thanh tra, kiểm tra



Quản lý các doanh nghiệp, các tổ chức sự nghiệp trực thuộc theo quy định.

Cơ quan quản lý Nhà nước về Du lịch tại địa phương
Là cơ quan có chức năng quản lý nhà nước về du lịch tại địa phương. Cụ thể là

giúp UBND thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với các hoạt động du lịch trên địa
bàn tỉnh hoặc thành phố. Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch chịu sự chỉ đạo, hướng dẫn,

24


kiểm tra của Tổng cục Du lịch về chuyên môn nghiệp vụ du lịch. Nhiệm vụ và quyền hạn
của Sở do UBND địa phương quyết định.
2.

Quản lý nhà nước về du lịch ở một số quốc gia

2.1.

Châu Á

2.1.1. Nhật Bản
Cơ quan quản lý nhà nước về du lịch tại Nhật Bản là Ban Du lịch trực thuộc Bộ Giao

thông Vận tải, với các chức năng ban hành và chỉ đạo thực hiện các chính sách du lịch quốc gia.
Ban Du lịch của Nhật Bản gồm: Phòng kế hoạch hoá chính sách du lịch, phòng kế hoạch hoá
chính sách kinh doanh lữ hành, phòng kế hoạch hoá chính sách xúc tiến.
Bên cạnh cơ quan quản lý nhà nước về du lịch, Nhật bản còn có Tổ chức Du lịch
Quốc gia Nhật Bản (JNTO), là cơ quan chịu trách nhiệm về nghiên cứu thị trường, hoạt
động xúc tiến và các dịch vụ thông tin du lịch trong và ngoài nước. Quản lý nhà nước du
lịch cấp địa phương chịu trách nhiệm xây dựng quy hoạch phát triển du lịch, kế hoạch
xúc tiến, nâng cao chất lượng các dịch vụ du lịch, bảo tồn di sản văn hoá và cấp phép xây
dựng các khách sạn, cơ sở du lịch ở địa phương theo sự chỉ đạo ngành dọc của Tổ chức
Du lịch Quốc gia.
2.1.2. Thái Lan
Cơ quan quản lý nhà nước về du lịch có tên là Cơ quan Du lịch Quốc gia Thái lan trực
thuộc Chính phủ. Đứng đầu là thống đốc, giúp việc cho thống đốc có văn phòng thống đốc, hội
đồng tư vấn, viện đào tạo Khách sạn và Du lịch, văn phòng kinh doanh du lịch Bangkok, Ban
quản lý hoạt động khu du lịch và Thanh tra Tài chính nội bộ.
2.1.3. Trung Quốc
Cơ quan quản lý nhà nước về du lịch tại Trung Quốc là Cục Du lịch Quốc gia
Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa dưới sự chỉ đạo của Quốc Vụ viện (Chính phủ). Đứng
đầu Cục Du lịch Quốc gia là Cục trưởng. Nhiệm vụ của Cục là xây dựng, ban hành các
chính sách du lịch và giám sát việc tuân thủ, thực hiện các chính sách đó; xây dựng chiến
lược phát triển khu du lịch; phối hợp với các ban ngành liên quan trong hoạt động đầu tư,
phát triển du lịch; nghiên cứu thu thập thông tin du lịch; cấp giấy phép hoạt động lữ hành;
xúc tiến quảng cáo du lịch ra nước ngoài.
Cục Quốc gia được chia thành 2 bộ phận chính là Bộ phận Hành chính và bộ phận Marketing,
mỗi bộ phận do một cục phó phụ trách. Từng bộ phận lại chia thành các Vụ chức năng.
25


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×