Tải bản đầy đủ (.pdf) (102 trang)

Tổ chức hoạt động nghề thừa phát lại trong hoạt động kinh doanh thương mại theo pháp luật việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.16 MB, 102 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI
----------------------

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGHÀNH: LUẬT KINH TẾ

TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG NGHỀ THỪA PHÁT LẠI
TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH THƯƠNG MẠI
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM

VŨ TUẤN ANH

Hà Nội, 2019


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI
----------------------

LUẬN VĂN THẠC SĨ
TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG NGHỀ THỪA PHÁT LẠI
TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH THƯƠNG MẠI
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM

VŨ TUẤN ANH
CHUYÊN NGHÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 8380107

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC


Hà Nội, 2019


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi. Các số liệu, kết quả
nêu trong luận văn là trung thực và chưa được công bố trong các công trình khác.
Nếu không đúng như đã nêu trên, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về đề tài của
mình.

Người cam đoan

Vũ Tuấn Anh


LỜI CẢM ƠN
Để có thể hoàn thành đề tài luận văn thạc sĩ một cách hoàn chỉnh, bên cạnh
sự nỗ lực cố gắng của bản thân còn có sự hướng dẫn nhiệt tình của quý thầy cô,
cũng như sự động viên ủng hộ của gia đình và bạn bè trong suốt thời gian học tập
nghiên cứu và thực hiện luận văn thạc sĩ.
Xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn đến Tiến sĩ Vũ Phương Đông giảng viên
trường Đại học Luật Hà Nội người đã hết lòng giúp đỡ và tạo mọi điều kiện tốt nhất
cho tôi hoàn thành luận văn này. Xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn đến toàn thể
quý thầy cô trong khoa đào tạo sau đại học trường Đại học Mở Hà Nội – Trường
Đại học Luật Hà Nội đã tận tình truyền đạt những kiến thức quý báu cũng như tạo
mọi điều kiện thuận lợi nhất cho tôi trong suốt quá trình học tập nghiên cứu và cho
đến khi thực hiện đề tài luận văn.
Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn đến gia đình, các anh chị và các bạn
đồng nghiệp đã hỗ trợ cho tôi rất nhiều trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và
thực hiện đề tài luận văn thạc sĩ một cách hoàn chỉnh.

Hà Nội, tháng 11 năm 2019

Vũ Tuấn Anh


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chương 1 .................................................................................................................... 7
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA THỪA
PHÁT LẠI TRONG LĨNH VỰC KINH DOANH THƯƠNG MẠI..................... 7
1.1. Khái niệm và đặc điểm của hoạt động Thừa phát lại ..................................... 7
1.2. Lịch sử hình thành và phát triển của tổ chức Thừa phát lại ....................... 11
1.2.1 Giai đoạn trước Cách mạng tháng 8 – 1945 .................................................. 11
1.2.2. Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng 8 – 1945 đến năm 1975 ....................... 12
1.2.3. Giai đoạn từ năm 1975 đến nay..................................................................... 13
1.3. Vai trò của hoạt động thừa phát lại trong lĩnh vực kinh doanh thương mại15
1.3.1. Vai trò trợ giúp các cơ quan tư pháp trong hoạt động tố tụng .................... 15
1.3.2. Hoạt động thừa phát lại góp phần trợ giúp công dân trong việc lập vi bằng
để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình ....................................................... 21
1.4. Mô hình tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại tại một số nước trên thế
giới ............................................................................................................................ 22
1.4.1. Tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại tại Pháp ....................................... 22
1.4.2. Tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại tại Liên bang Úc ......................... 29
1.4.3. Mô hình Thừa phát lại tại Liên bang Đức.................................................... 30
1.4.4. Kinh nghiệm về hoạt động của thừa phát lại các nước đối với Việt Nam... 31
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ........................................................................................ 33
Chương 2 .................................................................................................................. 34
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA
THỪA PHÁT LẠI VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI VIỆT NAM.................... 34
2.1. Quy định của pháp luật về Thừa phát lại và văn phòng Thừa phát lại ............ 34

2.1.1. Về tiêu chuẩn và điều kiện của Thừa phát lại .............................................. 34
2.1.2. Về nhiệm vụ, quyền hạn của Thừa phát lại .................................................. 36
2.1.3. Về văn phòng Thừa phát lại .......................................................................... 37


2.2. Quy định của pháp luật về hoạt động của Thừa phát lại và văn phòng
Thừa phát lại............................................................................................................ 39
2.2.1. Hoạt động tống đạt văn bản theo yêu cầu của Tòa án hoặc cơ quan thi
hành án dân sự ......................................................................................................... 39
2.2.2. Hoạt động lập vi bằng .................................................................................... 44
2.2.3. Hoạt động của Thừa phát lại trong xác minh điều kiện thi hành án dân sự48
2.2.4. Về hoạt động tổ chức thi hành các bản án, quyết định theo yêu cầu của
đương sự ................................................................................................................... 52
2.3. Thực tiễn hoạt động của các văn phòng Thừa phát lại trong giai đoạn hiện
nay ............................................................................................................................. 56
2.3.1. Những kết quả đạt được ................................................................................ 56
2.3.2. Những tác động của Thừa phát lại trong giai đoạn vừa qua ...................... 62
2.3.3. Những hạn chế trong tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại trong giai
đoạn vừa qua ............................................................................................................ 65
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ........................................................................................ 77
Chương 3 .................................................................................................................. 78
NHỮNG KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU
QUẢ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA THỪA PHÁT LẠI TRONG LĨNH
VỰC KINH DOANH THƯƠNG MẠI HIỆN NAY ............................................. 78
3.1. Những kiến nghị hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của thừa
phát lại trong lĩnh vực kinh doanh thương mại ................................................... 78
3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả tổ chức và hoạt động Thừa phát lại trong
lĩnh vực kinh doanh thương mại............................................................................ 85
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 ........................................................................................ 90
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 91

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của luận văn
Trong những năm gần đây vấn đề xã hội hóa một số hoạt động tư pháp nói
chung, xã hội hóa một số công việc thi hành án dân sự nói riêng nhằm góp phần
tăng cường hiệu quả, hiệu lực hoạt động của các cơ quan tư pháp được Đảng và Nhà
nước ta hết sức quan tâm. Tuy nhiên, đối với thế hệ cán bộ công chức của chúng ta
hiện nay, chế định Thừa phát lại nghe như còn có vẻ xa lạ, nhưng đối với các nước
trên thế giới thì Thừa phát lại đã tồn tại từ rất lâu (ví dụ: ở Pháp trên 100 năm) và
Thừa phát lại hiện diện ở phần lớn các quốc gia trên thế giới. Tại nước ta, chế định
Thừa phát lại cũng đã có từ thời Pháp thuộc và ở miền Nam Việt Nam trước năm
1975. Trước đây, ở miền Bắc cũng như cả nước Việt Nam nói chung sau ngày giải
phóng đất nước, đã tồn tại nền kinh tế tập trung, việc phân chia sản phẩm lao động
xã hội chủ yếu theo cơ chế bao cấp, nên các tranh chấp về dân sự, kinh tế không
đáng kể, ít phức tạp. Cơ quan nhà nước thường can thiệp vào các giao dịch dân sự,
kinh tế, thậm chí khi có tranh chấp thì nhà nước cũng giúp luôn việc cử người bào
chữa. Hiện nay, khi nhà nước thực hiện cơ chế thị trường, các quan hệ kinh tế thị
trường phát triển rất mạnh mẽ, kéo theo các tranh chấp cũng xảy ra khá đa dạng và
phức tạp, làm nảy sinh nhiều nhu cầu pháp lý khác nhau.
Trên tinh thần của Nghị quyết số 48/2005/NQ-TƯ ngày 24/5/2005 của Bộ
Chính trị về "Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến
năm 2010, định hướng đến năm 2020" (sau đây gọi tắt là Nghị quyết 48); Nghị
quyết số 49/2005/NQ-TƯ ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về "Chiến lược cải cách
tư pháp đến năm 2020" (sau đây gọi tắt là Nghị quyết 49), ngày 19/2/2009 Thủ
tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã ký Quyết định số 224/QĐ-TTg "Phê duyệt
đề án thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại tại Thành phố Hồ Chí Minh". Cùng
với đó là Nghị định số 61/2009/NĐ-CP ngày 24/7/2009 của Chính phủ "Về tổ chức và
hoạt động của Thừa phát lại thực hiện thí điểm tại Thành phố Hồ Chí Minh" (sau đây

gọi tắt là Nghị định 61/2009/NĐ-CP).

1


Từ các nhu cầu đó, nhà nước đã hình thành nhiều tổ chức có nhiệm vụ hỗ trợ
cho các cơ quan pháp luật cũng như cung cấp dịch vụ pháp lý cho xã hội, cụ thể như
tổ chức luật sư, tổ chức công chứng, tổ chức trọng tài thương mại, tổ chức giám
định tư pháp,… Bên cạnh đó, cũng có thể nói trong lĩnh vực dân sự, tố tụng dân sự
của nước ta hiện nay hầu như gánh nặng điều tra, thu thập chứng cứ, xác minh hiện
trạng, lấy lời khai,… đến việc cung cấp, tống đạt các văn bản tố tụng dân sự điều do
các cơ quan nhà nước thực hiện. Chính gánh nặng này và với bộ máy chưa đầy đủ
về nhân sự, phương tiện làm việc còn thiếu thốn, năng lực chuyên môn chưa đáp
ứng yêu cầu, nên tình trạng tồn đọng, quá hạn, sự bất cập của các cơ quan nhà nước
so với yêu cầu xã hội là điều khó tránh khỏi.
Có thể nói đây là những cơ sở quan trọng cho việc ra đời và hoạt động của
một tổ chức hành nghề hoàn toàn mới (Tổ chức Thừa phát lại) trong các hoạt động
tư pháp hiện nay ở nước ta nói chung, thực hiện các công việc về thi hành án dân
sự, tống đạt các văn bản của cơ quan Tòa án và cơ quan Thi hành án dân sự, lập vi
bằng theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức,.... Chính vì vậy, sự ra đời của Tổ
chức Thừa phát lại có vai trò vô cùng quan trọng, sẽ góp phần giảm tải phần nào những
gánh nặng mà các cơ quan nhà nước ta hiện nay đang làm và việc nghiên cứu về chế
định Thừa phát lại là một việc làm cần thiết ngay từ bây giờ.
Hiện nay hoạt động Thừa phát lại cũng mới chỉ được triển khai trên một số
địa bàn các tỉnh, thành phố, trải qua 10 năm thực hiện hoạt động Thừa phát lại ở
Việt Nam công tác này vẫn còn nhiều điểm bất cập, hạn chế nhất định, người dân
chưa nắm hết được vị trí, vai trò của Thừa phát lại trong cuộc sống, các quy định
của pháp luật về Thừa phát lại chưa đầy đủ, chưa có hệ thống quy định riêng để tạo
hành lang pháp lý cho tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại.
Trên cơ sở thực tiễn đó, học viên quyết định chọn đề tài "Tổ chức hoạt động

nghề Thừa phát lại trong kinh doanh thương mại theo pháp luật Việt Nam" làm đề
tài cho luận văn thạc sĩ của mình.

2


2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trên tinh thần của Nghị quyết 49 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư
pháp đến năm 2020, chế định Thừa phát lại đã được tổ chức thí điểm tại Thành phố
Hồ Chí Minh vào năm 2009. Trước và sau khi tổ chức thực hiện thí điểm, chế định
Thừa phát lại đã được triển khai nghiên cứu, tiêu biểu là một số đề tài như:
- Nguyễn Đức Chính (1998), Đề tài nghiên cứu cấp bộ: Cơ sở lý luận và thực
tiễn về định chế Thừa phát lại;
- Nguyễn Đức Chính (2006), Tổ chức Thừa phát lại, Nxb Tư pháp;
- Nguyễn Văn Nghĩa, (2006), Chế định Thừa phát lại: Lịch sử ra đời và đổi mới
theo tinh thần cải cách tư pháp, Tạp chí Dân chủ và pháp luật - Bộ Tư pháp;
- Lê Xuân Hồng, (2011), Từ nhu cầu xã hội đến chủ trương và kết quả bước
đầu của việc thực hiện thí điểm Thừa phát lại, Tạp chí Dân chủ và pháp luật - Bộ Tư
pháp;
- TS. Nguyễn Công Bình, (2012), Xu hướng xã hội hóa thi hành án dân sự từ
việc thí điểm hoạt động Thừa phát lại tại Thành phố Hồ Chí Minh, Tạp chí Dân chủ
và pháp luật - Bộ Tư pháp;
- ThS. Vũ Hoài Nam, (2013), Tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại ở Việt
Nam hiện nay, Nxb Tư pháp.
Các công trình nghiên cứu về Thừa phát lại như: Luận văn thạc sỹ “Thừa
phát lại trong thi hành án dân sự” của tác giả Phạm Phước Thịnh, khoa Luật – Đại
học Quốc gia Hà Nội năm 2014 nghiên cứu một cách chuyên sâu, có hệ thống về
Thừa phát lại trong thi hành án dân sự ở Việt Nam cả về lý luận, pháp luật và thực
tiễn thực hiện; “Tìm hiểu về Thừa phát lại theo quy định của pháp luật Việt Nam”
của tác giả Nguyễn Thị Hải Yến – Trường ĐT, BDNV kiểm sát Thành phố Hồ Chí

Minh đăng tải trên trang Thông tin khoa học kiểm sát – Trường Đại học kiểm sát
Hà Nội; Báo Cáo Tổng kết thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại theo Nghị
quyết số 24/2008/QH12 ngày 14/11/2008 của Quốc hội đăng tải trên trang thông tin
điện tử dự thảo Online của Quốc hội;

3


Ngoài ra, còn một số công trình nghiên cứu khác được công bố trên sách,
báo, tạp chí như: Tạp chí Nhà nước và pháp luật, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, Tạp
chí Luật học, Bản tin Thi hành án dân sự,... Những công trình nghiên cứu nói trên
đã nghiên cứu những khía cạnh, phạm vi cụ thể khác nhau hoặc đã đề cập đến vấn
đề mang tính tổng thể về Thừa phát lại. Nhưng cho đến nay, chưa có một công trình
chuyên khảo nào đề cập và nghiên cứu một cách chuyên sâu, có hệ thống về Thừa
phát lại trong lĩnh vực kinh doanh thương mại ở Việt Nam cả về lý luận, pháp luật
và thực tiễn thực hiện.
Vì vậy, luận văn là chuyên khảo đầu tiên nghiên cứu tương đối có hệ thống,
toàn diện về Thừa phát lại trong thi hành án dân sự ở Việt Nam. Những công trình
nghiên cứu nêu trên là tài liệu tham khảo có giá trị để học viên nghiên cứu và hoàn
thành luận văn của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận và thực tiễn tổ
chức và hoạt động của thừa phát lại trong lĩnh vực kinh doanh thương mại, từ đó
đưa ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả tổ chức, hoạt động
của thừa phát lại trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Trên cơ sở mục đích nghiên cứu nếu trên, đề tài có những nhiệm vụ nghiên
cứu sau:
Thứ nhất, nghiên cứu, phân tích các vấn đề lý luận về Thừa phát lại và tổ

chức và hoạt động của nghề thừa phát lại trong lĩnh vực kinh doanh thương mại như
khái niệm, đặc điểm, vị trí, vai trò….
Thứ hai, nghiên cứu, phân tích hệ thống những quy định của pháp luật về
Thừa phát lại và tổ chức, hoạt động của nghề thừa phát lại theo các quy định pháp
luật hiện hành.

4


Thứ ba, nghiên cứu thực tiễn hành nghề Thừa phát lại trong lĩnh vực kinh
doanh thương mại trong những năm vừa qua, đồng thời đánh giá những ưu điểm
cũng như những hạn chế và nguyên nhân của công tác này.
Thứ tư, đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu
quả tổ chức, hoạt động của thừa phát lại trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài có đối tượng nghiên cứu là những vấn đề lý luận và thực tiễn về Thừa
phát lại và tổ chức, hoạt động của Thừa phát lại trong lĩnh vực kinh doanh thương
mại theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu những quy định của pháp luật hiện hành về Thừa phát lại
và hoạt động Thừa phát lại hiện hành,.
Luận văn tập trung làm rõ tổ chức và hoạt động của Văn phòng Thừa phát
lại, Thừa phát lại trong lĩnh vực kinh doanh thương mại. Khảo sát, đánh giá về thực
tiễn thi hành tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại trong kinh doanh thương mại
kể từ khi chấm dứt việc thí điểm và thực hiện chế định Thừa phát lại trong phạm vi
cả nước từ ngày 01 tháng 01 năm 2016 cho đến nay.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn vận dụng phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử
của chủ nghĩa Mác - Lênin; sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể như:

phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu, hệ thống, diễn giải, quy nạp,
điều tra xã hội v.v… để thực hiện những nội dung đã đặt ra.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn là công trình nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện nhất về tổ
chức và hoạt động của Thừa phát lại trong kinh doanh thương mại.
Trên cơ sở làm rõ quy định của pháp luật và thực tiễn công tác tổ chức và
hoạt động của Thừa phát lại, luận văn nêu ra những vướng mắc, bất cập; từ đó đưa

5


ra một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tổ chức và hoạt động của Văn phòng
Thừa phát lại, Thừa phát lại trong kinh doanh thương mại.
Luận văn có giá trị cả về mặt lý luận và thực tiễn, góp phần phát hiện những
tồn tại, thiếu sót và đưa ra những giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật về
tổ chức và hoạt động của Văn phòng Thừa phát lại và Thừa phát lại trong kinh
doanh thương mại; có thể trở thành tài liệu tham khảo trong việc nghiên cứu, học
tập, giảng dạy và thực tiễn thực hiện công tác.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo đề tài được kết
cấu thành 03 chương cụ thể như sau:
Chương 1. Những vấn đề lý luận về tổ chức và hoạt động của thừa phát lại
trong lĩnh vực kinh doanh thương mại
Chương 2. Quy định của pháp luật về tổ chức và hoạt động của thừa phát lại
và thực tiễn áp dụng tại Việt Nam
Chương 3. Những kiến nghị hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả tổ
chức và hoạt động của thừa phát lại trong lĩnh vực kinh doanh thương mại hiện nay.

6



Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT
ĐỘNG CỦA THỪA PHÁT LẠI TRONG LĨNH VỰC
KINH DOANH THƯƠNG MẠI
1.1. Khái niệm và đặc điểm của hoạt động Thừa phát lại
Trên thế giới, Thừa phát lại hình thành, phát triển từ rất sớm và Pháp là nơi
bắt nguồn của Thừa phát lại trên toàn thế giới. Tại Pháp, từ thời La Mã cổ đại, Thừa
phát lại đã có quy chế là nghề tự do; trong thời kỳ quân chủ hay thậm chí đến thời
kỳ cách mạng năm 1792 và cả thời đế chế thứ nhất, nghề Thừa phát lại luôn được
hưởng một quy chế nhất định vì các văn bản do các Thừa phát lại lập ra bị đánh
thuế rất cao và là nguồn thu ngân sách đáng kể cho Nhà nước1.
Ban đầu, thời La Mã cổ đại, Thừa phát lại là những người được gọi là
"officiales" được các Quan tòa ở Pháp sử dụng để thực hiện hai chức năng là gìn
giữ trật tự tại phiên tòa và kê biên tài sản của những con nợ chây ỳ hoặc đưa những
người đó vào tù2. Đến thời Trung Cổ, những người thực hiện các chức năng ở trên
được chia thành "Sergent" - là những người chủ yếu làm nhiệm vụ tống đạt văn bản,
thi hành án và "Huissier" - dịch sang tiếng Việt là Thừa phát lại, là những người có
nhiệm vụ bảo vệ trật tự tại phiên tòa. Đến năm 1705, hai chức năng "Sergent" và
"Huissier" được tập trung lại và giao cho một người duy nhất thực hiện là Thừa phát
lại. Chế định Thừa phát lại được ra đời từ thời điểm đó, được duy trì, phát triển và
nhân rộng sau này3.
Các Thừa phát lại Pháp thông qua Liên minh Quốc tế các Thừa phát lại,
Nhân viên tư pháp, Hội đồng Thừa phát lại Quốc gia và Trường Tố tụng quốc gia
cùng các đồng nghiệp châu Âu đã góp phần quảng bá, phổ biến pháp luật Pháp,

Vũ Hoài Nam (2013), Tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại ở Việt Nam hiện nay, Nxb Tư
pháp, Hà Nội.tr.134
2
Nguyễn Đức Chính (2006), Tổ chức Thừa phát lại, Nxb Tư pháp, Hà Nội. tr.22

1

3

Nguyễn Đức Chính (2006), Tổ chức Thừa phát lại, Nxb Tư pháp, Hà Nội. tr.35

7


pháp luật châu Âu và đặc biệt là các vấn đề có liên quan đến Thừa phát lại đến các
quốc gia khác trên thế giới. Ở Pháp, Điều 1 Pháp lệnh số 452592 ngày 02/11/1945
quy định thẩm quyền theo nội dung của Thừa phát lại và tổ chức nghề Thừa phát lại
quy định:
Thừa phát lại là người sở hữu một tước vị, có độc quyền trong việc tống đạt
văn bản và văn bản tố tụng, tiến hành các thủ tục thông báo được pháp luật quy định
trong trường hợp không quy định rõ phương thức thông báo, và thi hành các bản án,
quyết định của tòa án và các văn bản có hiệu lực thi hành khác4. Cùng với sự phát
triển của Thừa phát lại ở Pháp, các nước châu Âu như Anh, xứ Galles, Bỉ, Hà Lan,
Ê-cốt, Hy Lạp, Luých-Xăm-Bua, các Thừa phát lại luôn có quy chế nghề độc lập.
Sau khi liên bang Xô-Viết tan rã, nhiều nước Trung Âu chuyển mình phát triển theo
mô hình tự do, các quốc gia như Hungary, Cộng hòa Séc, Ba Lan, Slovakia,
Slovennia, Lét-tô-ni, Lít-tua-ni, Etsx-tô-ni đã Thừa nhận Thừa phát lại là nghề tự
do, độc lập với quyền lực Nhà nước. Thừa phát lại có thể sử dụng phương pháp
tống đạt cùng với phương pháp thông báo bằng đường bưu điện nhưng về nguyên
tắc phải thực hiện phương thức tống đạt trong đại đa số các trường hợp để thông
báo cho đương sự và thi hành bản án, quyết định của Tòa. Các nước như Ba Lan,
Hungary, Lít-tua-ni, Etsx-tô-ni quy định thẩm quyền lập vi bằng của Thừa phát lại
và cho phép sử dụng văn bản vi bằng của Thừa phát lại như một loại chứng cứ. Còn
ở một số quốc gia khác như Áo, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Đan Mạch,... chấp
hành viên là công chức nhưng dường như cũng hoạt động theo phương thức nghề tự

do, cụ thể như sau: (i) Chấp hành viên độc lập với Tòa án; (ii) Chấp hành viên chịu
trách nhiệm về tài chính, nghề nghiệp và kỷ luật; (iii) Nhà nước không trả lương
dưới bất cứ hình thức nào cho những người hành nghề độc lập này.
Còn ở một số nước châu Phi, Thừa phát lại cũng có quy chế nghề tự do và
độc lập, có cơ cấu tổ chức giống như ở Pháp và các nước châu Âu khác. Ở Việt

4

Nhà Pháp luật Việt - Pháp (2009), Từ điển thuật ngữ pháp lý Pháp - Việt, Nxb Chính trị quốc gia,

Hà Nội. tr.10

8


Nam, Thừa phát lại là khái niệm xuất hiện từ thời Pháp thuộc, Thừa phát lại không
phải là viên chức, không hưởng lương từ Ngân khố Quốc gia, hoạt động không theo
chế độ công vụ. Do được quy định ở các văn bản pháp luật khác nhau nên trước đây
Thừa phát lại ở nước ta được gọi theo những tên gọi khác nhau theo từng miền như
Chưởng tòa (Miền Bắc), Mõ tòa (Miền Trung) và Thừa phát lại (Miền Nam)5.
Thừa phát lại là một từ Hán - Việt: Thừa có nghĩa là Thừa ủy quyền, Thừa
lệnh (nguyên nghĩa là chuyển tải); phát nghĩa là phát ra, đưa đến; lại là một viên
chức thực hiện lệnh của quan. Còn theo quy định của pháp luật hiện hành mà cụ thể là
Nghị định 61/2009/NĐ-CP, "Thừa phát lại là người được Nhà nước bổ nhiệm để làm
các công việc về thi hành án dân sự, tống đạt giấy tờ, lập vi bằng và các công việc khác
theo quy định của Nghị định và pháp luật có liên quan". Thừa phát lại được tham gia
những công việc mang tính chất hỗ trợ Tòa án, cơ quan thi hành án dân sự tống đạt các
văn bản giấy tờ và các hoạt động thi hành án.
Qua trên có thể thấy, so với Thừa phát lại ở các nước trên thế giới, Thừa phát
lại ở Việt Nam có phạm vi hoạt động bó hẹp hơn. Công việc của Thừa phát lại ở các

nước trên thế giới là công việc độc quyền, chỉ Thừa phát lại mới được làm. Ngoài
ra, Thừa phát lại ở các nước còn được tiến hành các hoạt động tư pháp khác như
đấu giá tài sản, đại diện khách hàng, hòa giải...
Nhìn chung, do quy định về Thừa phát lại ở mỗi quốc gia khác nhau mà
phạm vi hoạt động của Thừa phát lại cũng khác nhau nhưng tựu chung Thừa phát
lại có những đặc điểm cơ bản sau:
- Thừa phát lại là người đạt đủ các tiêu chuẩn theo quy định của pháp luật,
được Nhà nước bổ nhiệm và trao quyền để thực hiện một số công việc theo quy
định của pháp luật;
- Thừa phát lại là người hành nghề tự do, không phải là công chức, không
hưởng lương từ ngân sách nhà nước, hoạt động không theo chế độ công vụ nhưng

5

Nguyễn Đức Chính (2006), Tổ chức Thừa phát lại, Nxb Tư pháp, Hà Nội. tr.37

9


khi thực hiện một số công việc nhất định lại có quyền như những cán bộ, công
chức;
- Thừa phát lại thực hiện các công việc chủ yếu như: Lập vi bằng, tống đạt
văn bản, giấy tờ, xác minh điều kiện thi hành án và tổ chức thi hành án;
- Thừa phát lại hoạt động tuân theo những nguyên tắc về quy chế hoạt động,
đạo đức nghề nghiệp mà pháp luật quy định, chịu sự kiểm tra, giám sát của các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền.
Như vậy, từ những kết quả nghiên cứu trên có thể rút ra khái niệm về Thừa
phát lại như sau: Thừa phát lại là người đáp ứng đủ các tiêu chuẩn theo quy định
của pháp luật, được Nhà nước bổ nhiệm và trao quyền để thực hiện công việc tống
đạt các văn bản, giấy tờ của Tòa án, Cơ quan thi hành án; lập vi bằng; trực tiếp thi

hành các bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án và các công việc
khác theo quy định của pháp luật. Thừa phát hành nghề tự do và chịu sự giám sát
của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Văn phòng Thừa phát lại là tổ chức hành nghề của Thừa phát lại.
Văn phòng Thừa phát lại là tổ chức hành nghề của Thừa phát lại được tổ
chức và hoạt động theo loại hình doanh nghiệp, thực hiện các dịch vụ công, không
vì mục đích lợi nhuận. Văn phòng Thừa phát lại do một Thừa phát lại thành lập
được tổ chức và hoạt động theo loại hình doanh nghiệp tư nhân. Văn phòng Thừa
phát lại có từ hai Thừa phát lại trở lên thành lập được tổ chức và hoạt động theo loại
hình công ty hợp danh. Trưởng văn phòng phải là Thừa phát lại là người đại diện
theo pháp luật của Văn phòng Thừa phát lại. Văn phòng Thừa phát lại có trụ sở, con
dấu và tài khoản riêng, hoạt động theo nguyên tắc tự chủ về tài chính. Cơ cấu tổ
chức, quản lý, điều hành, chế độ tài chính của văn phòng Thừa phát lại thực hiện
theo quy định của Nghị định về thực hiện chế định Thừa phát lại, trong trường hợp
Nghị định không quy định thì áp dụng quy định của luật Doanh nghiệp.
Văn phòng Thừa phát lại phải ký thỏa thuận với cơ quan thi hành án dân sự
hoặc tòa án dưới hình thức hợp đồng. Một Cơ quan thi hành án dân sự hoặc một
Tòa án chỉ được ký hợp đồng với một văn phòng Thừa phát lại. Một văn phòng

10


Thừa phát lại có quyền ký hợp đồng tống đạt với nhiều Cơ quan thi hành án dân sự
hoặc nhiều Tòa án khác nhau.
Theo quy định của Nghị định số 61/2009/NĐ-CP, Văn phòng Thừa phát lại
có thẩm quyền thi hành án tương tự như Chi cục thi hành án. Tức là, Văn phòng
được quyền trực tiếp tổ chức thi hành án theo đơn yêu cầu của đương sự đối với các
bản án, quyết định sau (trừ các bản án, quyết định thuộc diện Thủ trưởng Cơ quan
thi hành án dân sự chủ động ra quyết định thi hành án): Bản án, quyết định sơ thẩm
đã có hiệu lực của Tòa án nơi Thừa phát lại đặt văn phòng; bản án, quyết định phúc

thẩm của Tòa án nhân dân đối với bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án nơi Thừa
phát lại đặt văn phòng; quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của Tòa án nhân dân đối
với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nơi Thừa phát lại đặt văn
phòng.
Trưởng văn phòng Thừa phát lại ra quyết định thi hành án trong thời hạn 05
ngày làm việc, kể từ ngày ký hợp đồng thỏa thuận thi hành án với người yêu cầu,
trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác. Quyết định thi hành án phải được gửi
cho Chi cục Thi hành án dân sự nơi đặt Văn phòng; cung cấp thông tin và phối hợp
với Cơ quan thi hành án dân sự có liên quan trong việc xử lý tài sản kê biên, thanh
toán tiền thi hành án.
Từ khái niệm về thừa phát lại nêu trên, chúng ta có thể rút ra khái niệm hoạt
động thừa phát lại như sau. Hoạt động thừa phát lại là hoạt động của chủ thể có
thẩm quyền trong việc tống đạt các văn bản, giấy tờ của Tòa án, Cơ quan thi
hành án; lập vi bằng; trực tiếp thi hành các bản án, quyết định có hiệu lực pháp
luật của Tòa án và các công việc khác theo quy định của pháp luật.
1.2. Lịch sử hình thành và phát triển của tổ chức Thừa phát lại
1.2.1 Giai đoạn trước Cách mạng tháng 8 – 1945
Tổ chức Thừa phát lại ở Việt Nam có lịch sử ra đời từ trước Cách mạng
tháng Tám năm 1945, song hành cùng với việc Vua Tự Đức ký Hòa ước ngày
05/6/1862 nhượng cho Pháp 6 tỉnh Nam kỳ. Từ đó người Pháp đã trực tiếp áp đặt
chế độ cai trị thực dân và áp dụng quy chế về thuộc địa lãnh thổ. Coi 6 tỉnh Nam kỳ

11


như một hạt, còn mỗi tỉnh coi như mỗi quận của nước Pháp. Sau đó, bằng bản Hiệp
ước ngày 06/6/1884, nước Việt Nam trở thành một nước bảo hộ của nước Pháp.
Người Pháp đặt Thống sứ ở Bắc kỳ và Khâm sứ ở Trung kỳ đại diện cho chính
quyền Pháp.
Tuy nhiên, lúc này ở Trung kỳ và Bắc kỳ, Hoàng đế Việt Nam vẫn giữ quyền

nội trị. Quyền tư pháp vẫn thuộc về Hoàng đế nhưng quyền đó đã bị hạn chế bởi sự
kiểm soát của đại diện chính quyền Pháp. Tuy nhiên, ở giai đoạn này Bắc kỳ và
Trung kỳ chưa có chế định Thừa phát lại. Những công việc của Thừa phát lại như
trát đòi hầu tòa, truyền phiếu,…vẫn do các môn lại, môn vệ - tức là các sứ giả của
Vua thực hiện. Theo các tài liệu nghiên cứu, thuật ngữ “ Thừa phát lại”, văn bản
chính thức đã được ghi nhận trong các văn bản: “ Bộ dân sự tố tụng Việt Nam” ban
hành kèm theo Nghị định ngày 16/3/1910 ( áp dụng tại Nam Kỳ); “ Bộ dân luật
Trung năm 1936-1939” ban hành kèm Bộ hộ sự, thương sự tố tụng Trung Việt năm
1942 (áp dụng tại Trung kỳ); “Bộ dân luật Bắc năm 1931”, kèm theo Bộ dân sự tố
tụng Bắc năm 1917 (áp dụng tại Bắc kỳ)6.
Thuật ngữ “Thừa phát lại” có nguồn gốc từ tiếng Pháp “Huissier”, mô hình
Thừa phát lại được quy định ở các bộ luật nêu trên hầu hết đều theo khuôn mẫu mô
hình Thừa phát lại của Pháp, thể hiện trong Bộ dân luật Pháp năm 1804 và Bộ tố
tụng dân sự Pháp năm 1807.
1.2.2. Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng 8 – 1945 đến năm 1975
Sau Cách mạng tháng 8 – 1945, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời,
bằng việc ban hành sắc lệnh ngày 10/10/1945 về việc tạm thời giữ các luật lệ hiện
hành của chế độ cũ với điều kiện những điều khoản trong các luật này “ không trái
với nền độc lập của nước Việt Nam và chính thể dân chủ cộng hòa”, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã ký sắc lệnh số 130 ngày 19/7/1946, tại điều 3 quy định: “ trong các xã,
thị xã hoặc khu phố, Chủ tịch, Phó Chủ tịch và Thư ký điều chịu trách nhiệm thi

Bộ Tư pháp (2012), Tài liệu Tọa đàm đánh giá khả năng thực hiện thí điểm chế định Thừa phát
lại tại một số địa phương trong cả nước, Tổ chức tại Thành phố Hồ Chí Minh ngày 21/12/2012,
Thành phố Hồ Chí Minh, tr.32
6

12



hành những lệnh, mệnh lệnh hoặc án của các Tòa án. Bản án ấy sẽ tùy từng việc, chỉ
định một nhân viên để giao cho việc thi hành lệnh, mệnh lệnh hoặc án, ở những nơi
nào đã có Thừa phát lại riêng, thì đương sự có quyền nhờ Thừa phát lại riêng thi
hành mệnh lệnh”. Nhiệm vụ quản lý tổ chức Thừa phát lại thời kỳ này được giao
cho ban công lại. Như vậy, những năm đầu của chính quyền cách mạng, tổ chức thi
hành án dân sự ở Việt Nam tiếp tục được giao cho tổ chức Thừa phát lại đảm
nhiệm.
Từ năm 1950 đến năm 1975, là giai đoạn mà trong lĩnh vực thi hành án dân
sự đều phải có những sự kiện pháp lý đặc biệt quan trọng diễn ra cả ở vùng tự do và
vùng bị Pháp tạm chiếm, và từ sau Hiệp định Giơnevơ năm 1954, tại miền Bắc xã
hội chủ nghĩa và miền Nam trong những vùng bị Mỹ - Ngụy đô hộ. Bằng Sắc lệnh
số 85/SL của Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ngày 22/5/1950 về cải cách bộ máy tư pháp
và luật tố tụng đã bãi bỏ nhiệm vụ Thừa phát lại và Ban Tư pháp xã làm nhiệm vụ
thi hành án mà thay thế vào đó là Thẩm phán huyện làm nhiệm vụ thi hành án dưới
sự chỉ đạo trực tiếp của Chánh án. Theo đó, tại điều 19 Sắc lệnh số 85/SL quy định:
“Thẩm phán huyện dưới sự kiểm soát của biện lý có nhiệm vụ đem chấp hành các
bản án hình về khoản bồi thường hay bồi hoàn và các án hộ mà chính tòa án huyện
hay tòa án trên đã tuyên việc phát mãi bất động sản và phân phối tiền bán được
cũng do tòa án huyện phụ trách,…”7. Còn ở miền địch tạm chiếm với hai văn bản
pháp lý đặc biệt quan trọng trong lĩnh vực thi hành án là Nghị định số 111 ngày
04/02/1950 về ấn định pháp quy Thừa phát lại do chính quyền Bảo Đại ban hành và Bộ
luật dân sự, thương sự tố tụng ngày 20/12/1972 do chính quyền Nguyễn Văn Thiệu ban
hành đã ban hành một cách khá chi tiết về tổ chức và nhiệm vụ, quyền hạn của Thừa
phát lại. Có thể nói đây là giai đoạn mà các quy định của pháp luật về Thừa phát lại
đã phát triển một cách khá hoàn thiện và đầy đủ cả về tổ chức bộ máy và quy trình,
thủ tục thi hành án.
1.2.3. Giai đoạn từ năm 1975 đến nay
Nguyễn Đức Chính (Chủ nhiệm) (1998), Cơ sở lý luận và thực tiễn về định chế Thừa phát lại, Đề
tài khoa học cấp bộ, Bộ Tư pháp, Hà Nội. tr.88
7


13


Từ sau chiến thắng lịch sử mùa xuân năm 1975, nước Việt Nam được hoàn
toàn thống nhất. Trong quá trình tồn tại của mình, Thừa phát lại đã đóng góp những
giá trị tích cực đối với hoạt động tư pháp, là một cơ chế trợ giúp cho các cơ quan tư
pháp trong hoạt động tố tụng như hỗ trợ đắc lực cho hoạt động xét xử của Tòa án và
hoạt động thi hành án của cơ quan Thi hành án dân sự; hỗ trợ cho luật sư biện hộ
trước Tòa án, là cánh tay đắc lực giúp luật sư làm tốt chức năng bào chữa trong hoạt
động tố tụng; giúp công dân tạo lập các chứng cứ để chủ động bảo vệ quyền lợi của
mình khi cần thiết. Tuy nhiên đến năm 1975, khi miền Nam được hoàn toàn giải
phóng, đất nước thống nhất, hệ thống pháp luật được áp dụng trên phạm vi cả nước,
thì các quy định của pháp luật về chế định Thừa phát lại ở miền Nam đã không còn
hiệu lực, công tác thi hành án dân sự được áp dụng chung theo quy định của Luật tổ
chức Tòa án nhân dân năm 1960. Như vậy, từ năm 1975 đến trước khi có Nghị
quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư
pháp đến năm 2020 (sau hơn 30 năm), chế định “Thừa phát lại” đã hầu như không
còn được đề cập trong các văn kiện của Đảng, các văn bản pháp luật của Nhà nước
và cũng không còn tồn tại trong thực tiễn thi hành án tại Việt Nam8.
Từ khi Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020 ra đời, đã đặt dấu mốc thời gian quan trọng
khẳng định việc áp dụng thí điểm chế định Thừa phát lại làm công tác thi hành án
dân sự, đó là: “Tiếp tục hoàn thiện thủ tục tố tụng dân sự. Nghiên cứu thực hiện và
phát triển các loại hình dịch vụ từ phía Nhà nước để tạo điều kiện cho các đương sự
chủ động thu thập chứng cứ chứng minh, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình v.v., từng bước thực hiện việc xã hội hóa và quy định những hình thức, thủ
tục để giao cho tổ chức không phải là cơ quan nhà nước thực hiện một số công việc
thi hành án; Nghiên cứu chế định Thừa phát lại (Thừa hành viên); trước mắt có thể
tổ chức thí điểm tại một số địa phương, sau vài năm, trên cơ sở tổng kết, đánh giá

thực tiễn sẽ có bước đi tiếp theo”.
Lê Xuân Hồng, (2001), Xã hội hóa thi hành án dân sự, Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại
học luật Hà Nội, Hà Nội. tr,101
8

14


Để thể chế hóa chủ trương của Đảng về cải cách tư pháp trong lĩnh vực thi
hành án dân sự, ngày 14/11/2008, tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XII đã nhất trí
thông qua Luật thi hành án dân sự, đồng thời Quốc hội cũng đã thông qua Nghị
quyết số 24/2008/QH12 về việc thi hành Luật thi hành án dân sự. Nghị quyết này
quy định: “Để triển khai thực hiện chủ trương xã hội hóa một số công việc có liên
quan đến thi hành án dân sự, giao Chính phủ quy định và tổ chức thực hiện thí điểm
chế định Thừa phát lại (Thừa hành viên) tại một số địa phương. Việc thí điểm được
thực hiện từ ngày Luật này có hiệu lực thi hành đến ngày 01 tháng 7 năm 2012.
Chính phủ tổng kết, đánh giá kết quả thực hiện thí điểm và báo cáo quốc hội xem
xét, quyết định”. Trên cơ sở quy định tại Nghị quyết số 24/2008/QH12 của Quốc
hội về thi hành Luật thi hành án dân sự năm 2008, ngày 19/02/2009, Thủ tướng
Chính phủ đã ký Quyết định số 224/TTg về việc phê duyệt đề án “Thực hiện thí
điểm chế định Thừa phát lại tại Thành phố Hồ Chí Minh”. Đây là những căn cứ
pháp lý quan trọng cho việc chính thức triển khai Đề án thực hiện thí điểm chế định
Thừa phát lại tại Thành phố Hồ Chí Minh. Triển khai thực hiện Nghị quyết số
24/2008/QH12, ngày 24/7/2009 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 61/2009/NĐCP quy định về tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại thực hiện thí điểm tại Thành
phố Hồ Chí Minh. Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 09 tháng 9 năm
2009.
1.3. Vai trò của hoạt động thừa phát lại trong lĩnh vực kinh doanh
thương mại
1.3.1. Vai trò trợ giúp các cơ quan tư pháp trong hoạt động tố tụng
1.3.1.1 Thu thập chứng cứ và tống đạt các văn bản tố tụng

Trong hoạt động tố tụng hiện nay của cơ quan Tòa án thì việc tống đạt văn
bản được xem một trong những công việc quan trọng mà cơ quan Tòa án phải làm
trong quá trình xét xử vụ án do Tòa án thụ lý. Do đó, nếu việc tống đạt văn bản
được thực hiện nhanh chóng, kịp thời và đúng người nhận không những giúp cho
việc xét xử của cơ quan Tòa án đúng thời gian theo quy định của pháp luật về tố

15


tụng mà còn giúp cho đương sự có thời gian chuẩn bị cho quá trình xét xử của Tòa
án, chẳng hạn như thu thập chứng cứ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Những văn bản mà hiện nay cơ quan Tòa án tống đạt trong các hoạt động tố
tụng thường là quyết định đưa vụ án ra xét xử, giấy triệu tập ra tòa, giấy mời người
làm chứng,... cho các đương sự và những người có liên quan đến vụ án mà Tòa án
đang thụ lý. Bên cạnh đó, việc tống đạt văn bản của Tòa án có thể được thực hiện
bằng nhiều cách như có thể gửi trực tiếp cho đương sự và những người có liên quan,
hoặc gửi qua đường bưu điện, về tư pháp xã, phường hay có khi đương sự được Tòa
án mời lên Tòa để trực tiếp nhận các văn bản đó. Từ những việc trên có thể cho ta
thấy công việc tống đạt văn bản hiện nay của cơ quan Tòa án còn nhiều điểm rất tùy
tiện và sơ hở, việc tống đạt như vậy không những gây phiền hà cho dân mà còn làm
mất nhiều thời gian của các cơ quan nhà nước khác. Bên cạnh đó, đối với những
văn bản hay những quyết định quan trọng mà việc tống đạt văn bản của cơ quan
Tòa án không kịp thời, đúng thời gian đã quy định sẽ gây ảnh hưởng không nhỏ đến
quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự mà đáng lẽ ra họ được hưởng. Ví dụ như
nếu việc tống đạt văn bản của Tòa án được kịp thời, đúng thời gian đã quy định sẽ
giúp cho các đương sự chuẩn bị được chứng cứ, nhờ luật sư biện hộ,... để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của họ, mặc khác còn tránh được việc kéo dài thời gian
xét xử mà hiện nay các cơ quan Tòa án thường gặp phải.
Từ thực trạng trên cho thấy, để việc tống đạt văn bản hiện nay của cơ quan
Tòa án được kịp thời, đúng thời gian đã được quy định và nhằm giúp cho quá trình

xét xử của Tòa án được thực hiện nhanh chóng thì không ai khác, Thừa phát lại là
người sẽ đáp ứng được những yêu cầu đó. Theo như quy định của pháp luật tố tụng
hiện nay về hình thức thủ tục tống đạt văn bản thì “Người được cấp, tống đạt hoặc
thông báo là cá nhân thì văn bản tố tụng phải được giao trực tiếp cho họ; Trong trường
hợp người được cấp, tống đạt hoặc thông báo vắng mặt thì văn bản tố tụng có thể được
giao cho người thân thích có đủ năng lực hành vi dân sự cùng cư trú với họ ký nhận và
yêu cầu người này cam kết giao lại tận tay ngay cho người được cấp, tống đạt hoặc

16


thông báo. Ngày ký nhận của người thân thích cùng cư trú được coi là ngày được
cấp, tống đạt hoặc thông báo;...”.
Bên cạnh đó, đối với việc tống đạt văn bản cho các cơ quan, tổ chức thì pháp
luật tố tụng nước ta cũng có quy định như sau: “Trường hợp người được cấp, tống
đạt hay thông báo là cơ quan, tổ chức thì văn bản tố tụng phải được giao trực tiếp
cho người đại diện theo pháp luật hoặc người chịu trách nhiệm nhận văn bản của cơ
quan, tổ chức đó và phải được người này ký nhận. Trong trường hợp cơ quan, tổ
chức được cấp, tống đạt hoặc thông báo có người đại diện tham gia tố tụng hoặc cử
người đại diện nhận văn bản tố tụng thì những người này ký nhận văn bản tố tụng
đó. Ngày ký nhận là ngày được cấp, tống đạt hoặc thông báo”. Tổ chức Thừa phát
lại ra đời và hoạt động sẽ đáp ứng được những yêu cầu chặt chẽ về hình thức của
thủ tục tố tụng đó, bên cạnh đó còn góp phần ổn định, xác lập được nề nếp trong
loại công việc này nhằm bảo vệ các quyền tố tụng của công dân và hỗ trợ cho cơ
quan Tòa án trong việc nâng cao được chất lượng, hiệu quả xét xử của mình.
Bên cạnh việc tống đạt văn bản, thì hiện nay tổ chức Thừa phát lại còn đóng
một vai trò quan trọng trong việc giúp cơ quan Tòa án thu thập, bổ sung chứng cứ
để phục vụ cho quá trình xét xử.
Trong quá trình xét xử của Tòa án hiện nay, việc cung cấp chứng cứ của các
đương sự cho cơ quan Tòa án là một công việc vô cùng quan trọng, một mặt nó vừa

giúp cho đương sự trong việc chứng minh để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình, mặc khác nó giúp cho việc xét xử của Tòa án được thực hiện chính xác và
khách quan hơn. Do đó, trong việc thu thập chứng cứ để cung cấp cho cơ quan Tòa
án, bên cạnh việc cá nhân có nghĩa vụ phải tự mình thu thập chứng cứ để bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của mình trước cơ quan Tòa án thì công việc này còn có thể
do các cơ quan khác thực hiện như: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hay thậm chí
Tòa án phải tự mình thực hiện.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, trong lĩnh vực hình sự thì việc thu
thập, bổ sung chứng cứ để buộc tội đương sự thuộc về trách nhiệm của các Cơ quan
điều tra, Viện kiểm sát hay cơ quan Tòa án. Theo đó, pháp luật hiện nay ở nước ta

17


cũng có quy định trong việc thu thập chứng cứ như sau: “Để thu thập chứng cứ, Cơ
quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án có quyền triệu tập những người biết về vụ án
để hỏi và nghe họ trình bày về những vấn đề có liên quan đến vụ, trưng cầu giám
định, tiến hành khám xét, khám nghiệm và các hoạt động điều tra khác theo quy
định của Bộ luật này, yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật,
trình bày những tình tiết làm sáng tỏ vụ án. Những người tham gia tố tụng, cơ quan,
tổ chức hoặc bất cứ cá nhân nào điều có thể đưa ra tài liệu, đồ vật và trình bày
những vấn đề có liên quan đến vụ án”.
Tuy nhiên, nếu chứng cứ trong các vụ án phải do các cơ quan tư pháp trực
tiếp thu thập thì việc này không những làm mất đi rất nhiều thời gian, công sức của
các cơ quan chức năng mà còn làm ảnh hưởng nhiều đến công việc mà họ đang thực
hiện. Hiện nay, việc pháp luật tố tụng còn cho phép Thẩm phán tiến hành điều tra,
xác minh, tiếp xúc các bên đương sự để thu thập chứng cứ, điều này không những
vừa gây khó khăn, mất thời gian mà có khi còn tạo điều kiện cho những tiêu cực
phát sinh. Bởi vì, trong một số trường hợp Thẩm phán có thể tiếp xúc riêng với các
bên đương sự để tiến hành việc thu thập chứng cứ và chứng cứ đó không được bên

thứ ba làm chứng là điều dễ dẫn đến những tiêu cực phát sinh, chẳng hạn như lời
khai của đương sự không đúng sự thật khách quan của vụ án hay việc đương sự hối
lộ Thẩm phán để ghi nhận những bằng chứng có lợi cho bản thân là điều rất dễ xảy
ra trong hoàn cảnh hiện nay.
Do đó để thuận tiện trong việc thu thập chứng cứ trong hoạt động tố tụng
hiện nay, đặc biệt trong việc thu thập, bổ sung chứng cứ của cơ quan Tòa án thì cần
phải có một cơ chế hỗ trợ thích hợp nhất, và đó không ai khác ngoài tổ chức Thừa
phát lại. Bởi chức năng của Thừa phát lại hiện nay là “lập vi bằng” dùng làm chứng
cứ để phục vụ cho quá trình xét xử của Tòa án. Vi bằng do Thừa phát lại lập sẽ là
nguồn chứng cứ quan trọng, có giá trị pháp lý cao và đáng tin cậy để cung cấp cho
quá trình xét xử của Tòa án. Tổ chức Thừa phát lại ra đời không những phục vụ đắc
lực cho các cơ quan công quyền ngay từ giai đoạn điều tra mà còn phục vụ cho
công tác xét xử của cơ quan Tòa án, đặc biệt là trong việc giúp đỡ Tòa án thu thập

18


và bổ sung chứng cứ. Bởi vậy, khi cần thu thập chứng cứ để phục vụ cho quá trình
xét xử thì Tòa án có thể triệu dụng Thừa phát lại để làm việc này, và những chứng
cứ do Thừa phát lại cung cấp sẽ đảm bảo được tính hợp pháp cần thiết và có giá trị
để phục vụ tốt cho công tác xét xử của Tòa án hiện nay.
Trong việc tống đạt các loại giấy tờ có liên quan đến thi hành án dân sự hiện
nay, cũng giống như việc tống đạt văn bản của cơ quan Tòa án thì trong quá trình tổ
chức thi hành các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án, cơ quan
Thi hành án dân sự có thể ra một số quyết định để giao cho các bên có liên quan đến
việc thi hành án. Tuy nhiên, từ trước đến nay việc tống đạt các loại giấy tờ trên chủ
yếu do cán bộ thi hành án của cơ quan Thi hành án dân sự thực hiện theo nhiều cách
khác nhau và không theo một thể thức tống đạt cũng như một hình thức pháp lý
nhất định. Với việc tống đạt như vậy có thể không đến được tay người nhận đúng
với thời gian đã được quy định và làm ảnh hưởng đến quyền lợi của người được thi

hành án. Bên cạnh đó, những công việc này có thể làm mất nhiều thời gian và công
sức của cán bộ thi hành án, làm giảm đi hiệu quả trong công tác thi hành án của cơ
quan Thi hành dân sự.
Do vậy, hiện nay với sự ra đời và hoạt động của tổ chức Thừa phát lại với
một trong những chức năng chính là việc tống đạt văn bản của các cơ quan Tòa án
và Thi hành án, với công việc đó Thừa phát lại sẽ giúp cơ quan Thi hành án dân sự
thực hiện tốt việc tống đạt các loại văn bản có liên quan đến thi hành án. Việc tống đạt
văn bản của tổ chức Thừa phát lại không những giúp san sẽ một phần nào gánh nặng
trong công việc mà hiện nay cơ quan Thi hành án dân sự đang gánh phải mà còn giúp
cho việc tổ chức thi hành án được kịp thời, chặt chẽ và chính xác, bên cạnh đó còn
giúp cho cán bộ thi hành án tránh mất nhiều thời gian và công sức để có thể tập
trung vào công việc chuyên môn của mình được tốt hơn.
1.3.1.2. Áp dụng các biện pháp khẩn cấp, tạm thời
Bên cạnh việc tống đạt văn bản thì hiện nay trong công tác thi hành án của
cơ quan Thi hành án dân sự thì Thừa phát lại cũng đóng vai trò quan trọng, đặc biệt
là trong việc trợ giúp cho cơ quan Thi hành án dân sự thực hiện các biện pháp khẩn

19


×