Tải bản đầy đủ (.docx) (124 trang)

MỘT số GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO NĂNG lực CẠNH TRANH của NHÀ HÀNG CAFÉ DULAC tại KHÁCH sạn INTERCONTINENTAL HANOI WEST LAKE

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.1 MB, 124 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP HÀ NỘI
KHOA DU LỊCH


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
CHUYÊN NGÀNH: QUẢN TRỊ KINH DOANH DU LỊCH & KHÁCH SẠN

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO NĂNG
LỰC CẠNH TRANH CỦA NHÀ HÀNG CAFÉ DULAC
TẠI KHÁCH SẠN INTERCONTINENTAL HANOI
WEST LAKE

CBHD

: TH.S NGUYỄN THỊ BÍCH NGỌC

Sinh viên

: ĐÀO THỊ NGA

Mã số sinh viên : 0741290309
Hệ đào tạo

: ĐẠI HỌC

Khóa

:7

Hà Nội, tháng 5, năm 2016



LỜI CẢM ƠN
Thời gian làm khóa luận đã giúp em tổng kết và hệ thống lại các kiến thức
đã được học trong trường. Thời gian làm việc thực tế tại nhà hàng Café Dulac
tuy không lâu những đã giúp em có được những kinh nghiệm vô cùng quí giá
trong việc thu thập thông tin, phân tích, đánh giá từ đó rút ra các nhận xét và
đưa ra giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của nhà hang Café Dulac
. Em hi vọng với giải pháp của mình khách sạn có thể tham khảo và quyết
định cách làm hợp lý nhất để nâng cao chất lượng dịch vụ đồng thời góp phần
thúc đẩy năng lực cạnh tranh của khách sạn Intercontinental Hanoi Westlake
nói chung và nhà hàng Cafe’ Dulac nói riêng.
Qua đây em xin chân thành cảm ơn Giảng viên - Ths. Nguyễn Thị Bích
Ngọc nhờ có sự hướng dẫn tận tình của cô em mới có thể hoàn thành được
khóa luận cuối khóa này.
Em cũng xin chân thành cảm ơn khách sạn Intercontinental Hanoi
Westlake, các anh chị trong khách sạn nói chung và nhà hàng Cafe’ Dulac nói
riêng đã giúp đỡ nhiệt tình để em làm tốt khóa luận này.
Hà Nội, ngày 5 tháng 5 năm2016
Sinh viên
Đào Thị Nga


MỤC LỤC


DANH MỤC BẢNG


DANH MỤC SƠ ĐỒ



LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài.

Hiện nay, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia đang là mục tiêu trọng
tâm của nước ta. Đây là vấn đề đặt ra cho từng doanh nghiệp, từng ngành kinh
tế và cho toàn xã hội. Để góp phần thực hiện mục tiêu này các doanh nghiệp
khách sạn đã và đang củng cố, tăng cường vị thế cạnh tranh của mình và của
ngành du lịch Việt Nam trên thị trường. Do đó sự cạnh tranh trong ngành
khách sạn cũng ngày càng quyết liệt. Nếu doanh nghiệp khách sạn không tự
mình nhìn nhận, đánh giá đầy đủ để cố gắng vươn lên về năng lực quản lý,
chiến lược đầu tư và kinh doanh, cải thiện chất lượng sản phẩm dịch vụ, quan
hệ đối tác và công tác tiếp thị thì không thể đứng vững trên thị trường.
Trong hoạt động kinh doanh khách sạn thì kinh doanh nhà hàng là một
trong những hoạt động đóng vai trò rất quan trọng và không thể thiếu được.
Nó đảm bảo thỏa mãn một trong những nhu cầu thiết yếu và yêu cầu ngày
càng cao của khách hàng. Do vậy việc đảm bảo cho hoạt động kinh doanh nhà
hàng đứng vững và phát triển trên thị trường hiện nay có ý nghĩa rất quan
trọng đối với bộ phận nhà hàng nói riêng và cả khách sạn nói chung.
Nhà hàng Café Dulac là bộ phận trực thuộc khách sạn InterContinental
Hanoi Westlake và là nhà hàng duy nhất phục vụ cả ba bữa chính trong ngày
cho khách hàng. Café Dulac là nhà hàng có sức hút lớn nhất của khách sạn
InterContinental Hanoi Westlake với ẩm thực đến từ Pháp “Đất nước giàu
truyền thống văn hóa lịch sử và là đất nước lãng mạn nhất thế giới”.
Nhà hàng Café Dulac đã đóng góp nguồn doanh thu lớn cho khách sạn và
đang thực hiện những kế hoạch với những bước tiến mới trong hoạt động kinh
doanh, để có thể nâng cao vị thế cạnh tranh và đem lại hiệu quả kinh doanh
cho khách sạn.
Vậy làm thế nào để Café Dulac có thể tiếp tục duy trì và nâng cao vị thế
cạnh tranh trong bối cảnh xuất hiện ngày càng nhiều nhà hàng, khách sạn mới

trên thị trường?
Đây chính là lý do em chọn đề tài “Một số giải pháp nhằm nâng cao
năng lực cạnh tranh của nhà hàng Café Dulac tại khách sạn
InterContinental Hanoi Westlake” làm đề tài khóa luận.
6


2. Mục đích nghiên cứu đề tài.
- Tìm hiểu một số cơ sở lý luận về kinh doanh khách sạn và năng lực
cạnh tranh trong khách sạn.
- Tìm hiểu các dịch vụ trong ngành nhà hàng và khách sạn.
- Nghiên cứu tình hình hoạt động kinh doanh của nhà hàng Café Dulac khách sạn InterContinental Hanoi Westlake.
- Đưa ra nhận xét đánh giá thực trạng kinh doanh của nhà hàng Café
Dulac khách sạn InterContinental Hanoi Westlake.
- Đề xuất một số giải pháp cụ thể nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của
nhà hàng Café Dulac - khách sạn InterContinental Hanoi Westlake.
3. Phạm vi nghiên cứu.
Phạm vi nghiên cứu là nhà hàng Café Dulac tại khách sạn
InterContinental Hanoi Westlake.
4. Đối tượng nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu là năng lực cạnh tranh của nhà hàng Café Dulac
tại khách sạn Intercontinental Hanoi Westlake.
5. Phương pháp nghiên cứu.
Khóa luận sử dụng những phương pháp nghiên cứu sau đây:
- Phương pháp khảo sát thực tế: thực tập tại nhà hàng Café Dulac, khảo
sát thực tế trên khách hàng.
- Phương pháp quan sát, thu thập thông tin, phân tích và xử lý dữ liệu.
- Phương pháp luận: Sử dụng phương pháp diễn giải, qui nạp, so sánh…
6. Nội dung nghiên cứu.
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Phụ lục, nội dung chính của luận văn

được chia thành 3 chương như sau:
Chương 1. Cơ sở lý luận về hoạt động kinh doanh khách sạn và năng
lực cạnh tranh của doanh nghiệp khách sạn.
Chương 2. Thực trạng hoạt động kinh doanh của nhà hàng Café Dulac
tại khách sạn InterContinental Hanoi Westlake.
Chương 3. Một số biện pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của
nhà hàng Café Dulac tại khách sạn InterContinental Hanoi Westlake.
7


CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KINH DOANH NHÀ
HÀNG VÀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH TRONG NHÀ HÀNG
1.1. Khái quát về kinh doanh khách sạn và kinh doanh ăn uống.
1.1.1. Khách sạn và kinh doanh khách sạn.
1.1.1.1. Định nghĩa và khái niệm.

Ngành kinh doanh khách sạn mặc dù ra đời muộn hơn các ngành kinh tế
khác nhưng hiện nay ngành công nghiệp không khói này đang ngày càng
chiếm ưu thế và phát triển mạnh mẽ. Kinh doanh khách sạn không chỉ đơn
thuần là dịch vụ cho thuê buồng ngủ nữa mà là một chuỗi dịch vụ nhằm thỏa
mãn nhu cầu của khách du lịch, bao gồm nhiều chủng loại với nhiều mức dịch
vụ, tương ứng với nhiều thứ hạng khác nhau. Ngành kinh doanh khách sạn
không chỉ là một nghề mà còn là một nghệ thuật. Có các đặc trưng cơ bản, có
hệ thống lý luận riêng, khác với các lĩnh vực kinh doanh khác. Để hoạt động
kinh doanh khách sạn đạt hiệu quả hơn chúng ta phải nhận thức đúng khái
niệm khách sạn và kinh doanh khách sạn.
Khách sạn là từ bắt nguồn từ tiếng Pháp hotel, nghĩa là cơ sở cho thuê
chỗ trọ (lưu trú) trong một thời gian nhất định (thường là ngắn hạn).
Theo thông tư số 01/2002/TT - TCDL ngày 27/4/2001 của Tổng cục Du
lịch Việt Nam về hướng dẫn thực hiện nghị định số 39/2000/NĐ - CP của

Chính phủ về cơ sở lưu trú du lịch “khách sạn (Hotel) là công trình kiến
trúc được xây dựng độc lập, có quy mô từ 10 buồng trở lên, đặc biệt đảm
bảo về cơ sở vật chất kỹ thuật, trang thiết bị, dịch vụ cần thiết phục vụ
khách du lịch”.
Đầu tiên, kinh doanh khách sạn chỉ là hoạt động kinh doanh dịch vụ nhằm
đảm bảo chỗ ngủ qua đêm cho khách có trả tiền. Sau đó cùng với những đòi
hỏi thoả mãn nhiều nhu cầu hơn và mức cao hơn thì hoạt động kinh doanh
cũng mở rộng thêm. Các chủ khách sạn muốn đáp ứng toàn bộ nhu cầu của
khách nhằm mục đích lợi nhuận từ đó thúc đẩy ngành kinh doanh khách sạn
từng bước phát triển.
Vì vậy khái niệm này được hiểu theo 2 nghĩa là nghĩa rộng và nghĩa hẹp.
8


- Theo nghĩa rộng: kinh doanh khách sạn là hoạt động cung cấp các dịch vụ
phục vụ nhu cầu nghỉ ngơi và ăn uống cho khách.
- Theo nghĩa hẹp: kinh doanh khách sạn chỉ đảm bảo nhu cầu ngủ, nghỉ cho
khách.
Ngày nay nhu cầu đi du lịch dần được coi là nhu cầu thiết yếu. Đó chính
là nhu cầu được nghỉ ngơi giải trí, nhu cầu được giao lưu học hỏi, được nâng
cao trình độ… Để đáp ứng được các nhu cầu này của khách du lịch, các dịch
vụ của ngành kinh doanh khách sạn ngày càng phong phú và đa dạng về
chủng loại. Trên phương diện chung nhất, có thể đưa ra định nghĩa về kinh
doanh khách sạn như sau:
“Kinh doanh khách sạn là hoạt động kinh doanh trên cơ sở cung cấp các
dịch vụ lưu trú, ăn uống và các dịch vụ bổ sung cho khách nhằm đáp ứng các
nhu cầu ăn nghỉ và giải trí của họ tại các điểm du lịch nhằm mục đích có
lãi”. (TS. Nguyễn Văn Mạnh & Ths. Hoàng Thị Lan Hương, 2008)
Theo định nghĩa trên thì ngành kinh doanh khách sạn có 3 lĩnh vực kinh
doanh chính là: kinh doanh lưu trú, kinh doanh ăn uống và kinh doanh dịch vụ

bổ sung. Các hoạt động này tạo nên một chuỗi dịch vụ hoàn chỉnh đáp ứng
đầy đủ nhu cầu của khách.
1.1.1.2.

Phân loại khách sạn.

Khách sạn được phân thành 04 loại cơ bản sau:
-

Khách sạn thành phố (City hotel): khách sạn được xây dựng tại các đô
thị, chủ yếu phục vụ khách thương gia, khách công vụ, khách tham quan
du lịch.

-

Khách sạn nghỉ dưỡng (Hotel resort): khách sạn được xây dựng thành
khối hoặc thành quần thể các biệt thự, căn hộ, băng-ga-lâu ở khu vực có
cảnh quan thiên nhiên đẹp, phục vụ nhu cầu nghỉ dưỡng, giải trí, tham
quan của khách du lịch.

-

Khách sạn nổi (Floating hotel): khách sạn neo đậu trên mặt nước và có
thể di chuyển.

9


Khách sạn bên đường (Motel): khách sạn được xây dựng gần đường giao


-

thông, gắn với việc cung cấp nhiên liệu, bảo dưỡng, sửa chữa phương tiện
vận chuyển và cung cấp các dịch vụ cần thiết phục vụ khách.
Căn cứ theo 05 tiêu chí cơ bản về: vị trí, kiến trúc; trang thiết bị tiện
nghi; dịch vụ; người quản lý và nhân viên phục vụ; an ninh, an toàn, bảo vệ
môi trường và vệ sinh an toàn thực phẩm, khách sạn được xếp theo 5 hạng: 1
sao, 2 sao, 3 sao, 4 sao, 5 sao.
1.1.1.3.

Đặc điểm của kinh doanh khách sạn.

Do loại hình kinh doanh khách sạn gắn liền với khách du lịch do đó nó có
những đặc trưng riêng biệt liên quan trực tiếp tới khách du lịch. Kinh doanh
khách sạn có 4 đặc trưng chủ yếu:
-

Kinh doanh khách sạn phụ thuộc vào tài nguyên du lịch tại các điểm du lịch.
Tài nguyên du lịch là yếu tố hấp dẫn, cuốn hút khách du lịch – khách hàng
mục tiêu của khách sạn. Vì vậy kinh doanh khách sạn chỉ có thể thành công ở
những nơi có tài nguyên du lịch. Nơi nào không có tài nguyên du lịch thì không
thể có khách du lịch tới và cũng không thể kinh doanh được khách sạn.
Chính vì vậy khi đầu tư vào kinh doanh khách sạn đòi hỏi các nhà đầu tư
phải nghiên cứu kỹ các thông số của tài nguyên du lịch cũng như nhóm khách
hàng mục tiêu và khách hàng tiềm năng mà khách sạn hướng tới.
- Kinh doanh khách sạn đòi hỏi dung lượng vốn đầu tư lớn.

Đặc điểm này xuất phát từ nguyên nhân do yêu cầu về chất lượng cao của sản
phẩm khách sạn và tăng lên cùng với sự tăng lên của thứ hạng khách sạn.
Chất lượng đó trước hết được thể hiện qua cơ sở vật chất kỹ thật và qua sự

sang trọng của thiết bị được lắp đặt bên trong khách sạn sau đó được thể hiện
qua chính dịch vụ của khách sạn. Khách sạn có thứ hạng càng cao thì hệ
thống dịch vụ càng phong phú.
-

Kinh doanh khách sạn đòi hỏi dung lượng lao động trực tiếp tương đối lớn.
Sản phẩm khách sạn chủ yếu mang tính chất phục vụ và quá trình phục
vụ này không thể cơ giới hóa được mà chỉ có thể được thực hiện bởi những
nhân viên trong khách sạn. Mặt khác, lao động trong khách sạn có tính
10


chuyên môn hoá cao, thời gian phục vụ lại phụ thuộc vào thời gian tiêu dùng
của khách do đó phải sử dụng một số lượng lớn lao động phục vụ trực tiếp
trong khách sạn.
- Kinh doanh khách sạn mang tính quy luật.

Cũng như các ngành kinh doanh khác, kinh doanh khách sạn chịu rất
nhiều chi phối của các quy luật như: quy luật tự nhiên, quy luật tự nhiên – xã
hội, quy luật tâm lý con người… Các tác động này gây ra những tác động khác.
nhau cả tích cực và tiêu cực tới tất cả các khách sạn với những mức độ
khác nhau. Để tận dụng những cơ hội và hạn chế những thách thức do tác
động của các quy luật này mang lại nhà kinh doanh khách sạn phải nghiên
cứu kỹ các quy luật và sự tác động của nó đến khách sạn. Từ đó đề ra những
biện pháp để kinh doanh khách sạn có thể đạt hiệu quả cao nhất.
1.1.1.4.

Sản phẩm của kinh doanh khách sạn.

Mỗi doanh nghiệp hoạt động trên thị trường đều có hệ thống sản phẩm

riêng. Tùy theo mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp mà sản phảm sẽ có
những đặc điểm, yếu tố cấu thành và qui trình sản xuất riêng.
Tuy nhiên theo Marketing hiện đại thì cho dù sản phẩm là bất kỳ loại hình
doanh nghiệp nào đi chăng nữa thì sản phẩm cũng được hiểu là:
“Sản phẩm của một doanh nghiệp là tất cả mọi hàng hóa và dịch vụ có thể
đem chào bán, có khả năng thỏa mãn một nhu cầu hay mong muốn của con
người, gây sự chú ý, kích thích sự mua sắm và tiêu dùng của họ.
Đối với một khách sạn thì sản phẩm được hiểu như sau:
“Sản phẩm của khách sạn là tất cả những dịch vụ và hàng hóa mà khách
sạn cung cấp nhằm đáp ứng nhu cầu của khách hàng kể từ khi họ liên hệ với
khách sạn lần đầu để đăng ký buồng cho tới khi tiêu dùng xong và rời khỏi
khách sạn”.
- Sản phẩm hàng hóa là những sản phẩm hữu hình (có hình dáng cụ thể)
mà khách sạn cung cấp như: thức ăn, hàng lưu niệm, các hàng hóa khác được
bán trong doanh nghiệp khách sạn. Đây là loại sản phẩm mà sau khi trao đổi
quyền sở hữu thuộc về người phải trả tiền. Trong số những sản phẩm hàng
11


hóa thì hàng lưu niệm là một loại hàng đặc biệt, nó có ý nghĩa về mặt tinh
thần đặc biệt đối với khách là người từ những địa phương khác, đất nước
khác. Chính vì vậy, các nhà quản lý khách sạn thường rất chú ý tới việc đưa
những sản phẩm này vào hoạt động kinh doanh của khách sạn.
- Sản phẩm dịch vụ (sản phẩm dưới dạng phi vật chất hay vô hình) là
những sản phẩm có giá trị về vật chất hoặc tinh thần (hay cũng có thể là một
sự trải nghiệm, một cảm giác về sự hài lòng hay không hài lòng) mà khách
hàng đồng ý bỏ tiền ra để đổi lấy chúng. (Ts. Nguyễn Văn Mạnh và Ths.
Hoàng Thị Lan Hương, 2008).
Từ khái niệm sản phẩm của khách sạn, ta có thể tóm lược lại những đặc
điểm của sản phẩm khách sạn để có cái nhìn chi tiết hơn về sản phẩm này:

- Sản phẩm dịch vụ của khách sạn mang tính vô hình: khách hàng không
thể cầm nắm được, chỉ có thể cảm nhận và đánh giá được trong, sau quá trình
sử dụng dịch vụ, sản phẩm này cũng không thể vận chuyển trong không gian
như các hàng hóa thông thường khác.
- Sản phẩm của khách sạn là dịch vụ không thể lưu kho cất trữ được: quá
trình sản xuất và tiêu dùng dịch vụ xảy ra đồng thời, nên không thể lưu kho.
Ví dụ như khách sạn có 395 phòng nhưng trong ngày 02/04 chỉ bán được
300 phòng, 95 phòng còn lại là thất thu trong ngày 02/04.
- Sản phẩm của khách sạn có tính cao cấp: khách hàng chủ yếu của khách
sạn là khách du lịch, khách doanh nhân… là những người có khả năng chi trả
cao nên đòi hỏi cao về chất lượng sản phẩm, do đó sản phẩm khách sạn mang
tính cao cấp để đáp ứng nhu cầu này.
- Sản phẩm của khách sạn có tính tổng hợp cao: xuất phát từ nhu cầu của
khách lưu trú, nên khách sạn ngày càng cung cấp nhiều dịch vụ bổ sung như:
spa, nhà hàng, bar… đang ngày càng có xu hướng tăng lên.
- Sản phẩm của khách sạn chỉ được thực hiện với sự tham gia trực tiếp
của khách hàng: quá trình sản xuất và tiêu dùng sản phẩm gần như xảy ra
cùng một lúc, nên khách hàng cũng tham gia vào quá trình sản xuất.
- Sản phẩm khách sạn chỉ được thực hiện trong những điều kiện cơ sở vật
chất kỹ thuật nhất định: các khách sạn phải đủ diều kiện cơ sở vật chất kinh
doanh, điều kiện này phụ thuộc vào quy trình của mỗi quốc gia.
12


1.1.1.5. Khách hàng của khách sạn.
Việc xác định khách hàng của khách sạn càng chi tiết càng giúp cho khách
sạn bám sát với nhu cầu, thị hiếu của từng loại khách nhất định, giúp khách
sạn tìm được mục tiêu phù hợp. Khách hàng của khách sạn không chỉ là
khách đi du lịch với mục đích khác nhau như: tham quan, nghỉ dưỡng, đi công
tác mà còn là những người có nhu cầu sử dụng sản phẩm của khách sạn, bao

gồm cả người dân địa phương, người thưởng thức ẩm thực tại các nhà hàng,
người sử dụng dịch vụ bổ sung của khách sạn, nhưng có thể coi khách du lịch
là thị trường lớn, thị trường mục tiêu của khách sạn.
1.1.2. Kinh doanh ăn uống.
1.1.2.1.

Định nghĩa và khái

niệm.
Kinh doanh ăn uống là một trong 3 hoạt động kinh doanh trong doanh
nghiệp khách sạn. Hoạt động kinh doanh này không chỉ là đơn thuần là cung cấp
thức ăn cho khách mà còn phục vụ nhu cầu thẩm mỹ, nghỉ ngơi và giải trí của họ
nữa. Vì vậy ta có thể định nghĩa về kinh doanh ăn uống trong khách sạn như sau:
“Kinh doanh ăn uống trong du lịch bao gồm các hoạt động chế biến thức
ăn, bán và phục vụ nhu cầu tiêu dùng các thức ăn, đồ uống và cung cấp các
dịch vụ khác nhằm thỏa mãn nhu cầu về ăn uống và giải trí tại các nhà hàng,
khách sạn cho khách nhằm mục đích có lãi”.
(TS. Nguyễn Văn Mạnh & Ths. Hoàng Thị Lan Hương, 2008 )
Nhà hàng là một bộ phận trong hoạt động kinh doanh ăn uống, từ định
nghĩa kinh doanh ăn uống có thể hiểu khái niệm về nhà hàng như sau:
Nhà hàng chính là một cơ sở kinh doanh về mặt pháp lý nó có thể mang tư
cách là một doanh nghiệp độc lập, cũng có thể là một bộ phận trong khách sạn
hay các cơ sở kinh doanh du lịch nào đó chuyên chế biến và phục vụ các sản
phẩm ăn uống nhằm đáp ứng nhu cầu cần thiết và các nhu cầu khác của khách
hàng với mục đích thu lợi nhuận.
1.1.2.2. Phân loại nhà hàng.

13



Trên thực tế hiện nay ở Việt Nam, người ta thường sử dụng các tiêu chí
sau làm cơ sở để phân loại nhà hàng:
 Căn cứ vào mức độ liên kết gồm:
• Nhà hàng độc lập: là nhà hàng có tư cách pháp nhân riêng, là một

doanh nghiệp độc lập không phụ thuộc vào các khách sạn hay các cơ sở
kinh doanh khác.
• Nhà hàng phụ thuộc: là loại nhà hàng không có tư cách như một doanh
nghiệp độc lập mà chỉ là một đơn vị, một phần trong các cơ sở kinh
doanh nào đó. Ví dụ: nhà hàng trong khách sạn, nhà hàng thuộc một cơ
sở vui chơi giải trí nào đó… Hoạt động của nhà hàng phụ thuộc vào
hoạt động của doanh nghiệp mà nó là thành viên.
 Căn cứ theo quy mô gồm:
• Nhà hàng nhỏ: là nhà hàng có quy mô dưới 50 chỗ.
• Nhà hàng trung: là nhà hàng có quy mô từ trên 50 đến 150 chỗ.
• Nhà hàng lớn: là nhà hàng có quy mô trên 150 chỗ.
 Căn cứ theo chất lượng phục vụ gồm:
• Nhà hàng bình dân: là nhà hàng có chất lượng khiêm tốn, giá cả trung
bình, dịch vụ không nhiều.
• Nhà hàng tiêu chuẩn: là nhà hàng có chất lượng đạt những tiêu chuẩn
nhất định, chủng loại dịch vụ, sản phẩm ăn uống tương đối đa dạng, có
giá cả cao hơn nhà hàng bình dân tập trung vào lượng khách trung lưu
xã hội.
• Nhà hàng sang trọng: là loại nhà hàng có chất lượng cao, chủng loại dịch
vụ đa dạng, phong phú, giá cao đáp ứng khách thượng lưu trong xã hội.
 Căn cứ theo hình thức phục vụ gồm:
• Nhà hàng chọn món (A lacarte): là loại nhà hàng với thực đơn rất đa
dạng, phong phú về chủng loại món ăn, đồ uống thích hợp cho sự lựa
chọn của khách, nhân viên phục vụ thường tay nghề tương đối cao.
• Nhà hàng ăn định suất (Set menu Service): là loại nhà hàng phục vụ

các bữa ăn đặt trước, định trước về giá cả về thực đơn, đối tượng phục
vụ thường là khách theo nhóm, đoàn.
• Nhà hàng tự phục vụ (Buffet): là loại nhà hàng mà ở đó khách có thể tự
chọn các món ăn nóng, nguội, các loại đồ uống và giá cố định cho tất cả
các khách hàng.
14




Nhà hàng Café có phục vụ ăn uống (Coffee shop): là cửa hàng phục vụ

cà phê, bữa ăn nhẹ, phục vụ nhanh, các món ăn thường là đồ ăn sẵn.
• Nhà hàng phục vụ đồ ăn nhanh (Fast food): đây là loại nhà hàng phục
vụ nhu cầu ăn nhanh với thói quen công nghiệp, phổ biến ở các trung
tâm thương mại, các thành phố lớn, tương tự như các của hàng cà phê
có phục vụ ăn uống.
• Nhà hàng phục vụ tiệc (Banquet hall): là loại nhà hàng phục vụ các
loại tiệc chiêu đãi khác nhau như: hội nghị tổng kết, tiệc cưới, tiệc
chiêu đãi…
 Căn cứ theo cách phân loại khác:
- Phân loại theo phương thức phục vụ và đặc tính sản phẩm, người ta có
thể chia ra các loại:
+ Nhà hàng dân tộc: với phong cách phục vụ và món ăn mang đậm bản
sắc dân tộc.
+ Nhà hàng đặc sản: chuyên kinh doanh một loại đặc sản nào đó.
- Phân loại theo phương diện quản lý nhà nước về doanh nghiệp có:
+ Nhà hàng tư nhân.
+ Nhà hàng nhà nước.
+ Nhà hàng cổ phần.

+ Nhà hàng liên doanh.
+ Nhà hàng hợp tác xã (tập thể)
+ Nhà hàng 100% vốn đầu tư nước ngoài.
1.1.2.3. Nội dung kinh doanh nhà hàng.
Hoạt động kinh doanh nhà hàng bao gồm các hoạt động chế biến thức ăn,
bán và phục vụ nhu cầu tiêu dùng các thức ăn, đồ uống và cung cấp các dịch
vụ khách nhằm thỏa mãn các nhu cầu về ăn uống và giải trí của khách tại nhà
hàng nhằm mục đích thu lợi nhuận.
Nội dung của hoạt động kinh doanh nhà hàng gồm 3 nhóm hoạt động sau:
- Hoạt động kinh doanh: nhà hàng là một cơ sở kinh doanh các sản phẩm

(hàng hóa và dịch vụ) ăn uống, và các loại sản phẩm khác có liên quan
như dịch vụ hội nghị, hội thảo, dịch vụ vui chơi giải trí...
- Hoạt động chế biến các loại sản phẩm ăn uống: chế biến thức ăn cho
khách, bán sản phẩm chế biến của mình và hàng chuyển bán.
- Hoạt động tổ chức phục vụ: tạo điều kiện để khách hàng tiêu thụ thức
ăn tại chỗ và cung cấp điều kiện để nghỉ ngơi, thư giãn cho khách.
1.1.2.4. Sản phẩm của nhà hàng.
15


Sản phẩm của nhà hàng là toàn bộ các món ăn đồ uống khách được phục
vụ trong quá trình tiêu dùng ở nhà hàng. Sản phẩm của nhà hàng vừa mang
tính chất của ngành du lịch vừa mang tính chất của ngành sản xuất hàng hóa.
Hai yếu tố này đều không thể thiếu để tạo ra một sản phẩm hoàn hảo cho sản
phẩm của nhà hàng.
Sản phẩm nhà hàng có đặc điểm:
-

Sản phẩm của nhà hàng không đồng nhất: cùng một món ăn nhưng lúc này

không giống lúc khác, không đồng nhất vì khác nhau về nguyên vật liệu, khác
nhau về cách chế biến, khác nhau do tâm trạng của khách hàng, khác nhau về

-

nhân viên phục vụ, khác nhau về thời gian thưởng thức món ăn.
Sản phẩm của nhà hàng mang tính tổng hợp: tính tổng hợp thể hiện ở chỗ, nó
không chỉ là những món ăn thông thường đáp ứng nhu cầu cần thiết (nhu cầu ăn
uống) của khách mà nó còn bao hàm cả sự phục vụ, bầu không khí tại nhà hàng,

-

nói cách khác là các yếu tố thỏa mãn nhu cầu của khách hàng.
Sản phẩm của nhà hàng là sự kết hợp giữa hàng hóa và dịch vụ: trong đó dịch
vụ chiếm tỉ trọng lớn hơn. Nhà hàng càng cao cấp tỉ trọng dịch vụ trong sản

-

phẩm nhà hàng càng cao.
Sản phẩm của nhà hàng cũng mang những tính chất của một dịch vụ: đó là tính
phi vật chất, tính đồng thời giữa quá trình sản xuất và tiêu dùng, tính không thể
tồn kho, sự tham gia của khách hàng vào quá trình tạo ra dịch vụ, tính không
đồng nhất của dịch vụ bởi vì cùng một cơ sở vật chất kỹ thuật, cùng một
nguyên liệu như nhau nhưng nếu được chế biến phục vụ những nhân viên khác
nhau với trình độ chuyên môn nghiệp vụ và thái độ khác nhau với khách du
lịch thì chất lượng sản phẩm của ngành kinh doanh dịch vụ ăn uống cũng bị
ảnh hưởng. Bên cạnh đó nếu không có khách hàng thì hoạt động sản xuất của
cơ sở kinh doanh ăn uống cũng sẽ không được tiến hành, vì nếu nấu món ăn ra
mà không có khách thì sản phẩm đó sẽ bị bỏ đi chứ không thể lưu kho được…
Qua đó, ta thấy rằng sản phẩm của kinh doanh dịch vụ ăn uống vừa mang

tính chất của một loại hàng hóa lại vừa mang tính chất của một dịch vụ. Vì
vậy, cần có biện pháp quản lý phù hợp để sản phẩm đạt chất lượng cao khi
phục vụ khách hàng, cả về yếu tố hàng hóa lẫn dịch vụ.
16


1.1.2.5. Khách hàng của nhà hàng.

Khách hàng của nhà hàng cũng cần phải xác định một cách chi tiết để nắm
vững tập khách hàng và thị hiếu của khách hàng.
Khách hàng của nhà hàng là khách du lịch, người dân địa phương, người có
nhu cầu thưởng thức món ăn … sống tại khách sạn hoặc bên ngoài khách sạn.
1.1.3. Ý nghĩa của hoạt động kinh doanh nhà hàng, khách sạn.
1.1.3.1. Ý nghĩa kinh tế.

Kinh doanh khách sạn là một trong những hoạt động chính của ngành du
lịch và thực hiện những nhiệm vụ quan trọng của ngành. Kinh doanh khách
sạn cũng tác động đến sự phát triển của ngành du lịch và đến đời sống kinh tế
- xã hội nói chung của một quốc gia.
Phân phối lại quỹ tiêu dùng cá nhân giữa các vùng trong nước thông qua
kinh doanh lưu trú và ăn uống của khách sạn vì thế góp phần làm tăng GDP
cho các vùng và các quốc gia.
Kinh doanh khách sạn góp phần tăng cường thu hút vốn đầu tư nước
ngoài và trong nước, huy động được vốn nhàn rỗi trong nhân dân.
Tạo cơ hội cho sự phát triển của các nghành khác vì hàng ngày khách sạn
tiêu thụ một khối lượng lớn sản phẩm của các nghành như: công nghiệp nặng,
công nghiệp nhẹ, công nghiệp thực phẩm, nông nghiệp, bưu chính viễn thông,
ngân hàng và đặc biệt là thủ công mỹ nghệ.
Giải quyết khối lượng lớn công ăn việc làm cho lao động.
Tất cả những điều trên làm cho kinh doanh khách sạn có ý nghĩa kinh tế to

lớn đối với Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
1.1.3.2. Ý nghĩa xã hội.
Kinh doanh khách sạn góp phần gìn giữ và phục hồi khả năng lao động và
sức sản xuất của người lao động thông qua việc đáp ứng nhu cầu nghỉ ngơi
tích cực trong thời gian đi du lịch của con người ngoài nơi cư trú thường
xuyên. Đồng thời việc thoả mãn nhu cầu tham quan, nghỉ ngơi cuối tuần một
cách tích cực cho số đông người dân đã góp phần nâng cao mức sống về vật
chất và tinh thần cho nhân dân.
17


Kinh doanh khách sạn còn tạo điều kiện thuận lợi cho sự gặp gỡ, giao lưu
của mọi người từ khắp nơi, từ các quốc gia châu lục trên thế giới tới Việt Nam.
Như vậy kinh doanh khách sạn có một ý nghĩa to lớn đối với kinh tế cũng
như xã hội của một quốc gia, ngày nay đã trở thành thế mạnh của một số quốc
gia. Vì thế cần phải có những chiến lược biện pháp phát triển nghành công
nghiệp không khói này đem lại lợi ích cho đất nước.
1.2. Nội dung cơ bản về cạnh tranh.
1.2.1. Một số khái niệm cơ bản về cạnh tranh.
Hiện nay có rất nhiều khái niệm về cạnh tranh của các nhà kinh tế khác
nhau nhưng theo Michael Porter thì: “Cạnh tranh là giành lấy thị phần. Bản
chất của cạnh tranh là tìm kiếm lợi nhuận, là khoản lợi nhuận cao hơn mức lợi
nhuận trung bình mà doanh nghiệp đang có. Kết quả quá trình cạnh tranh là
sự bình quân hóa lợi nhuận trong ngành theo chiều hướng cải thiện sâu dẫn
đến hệ quả giá cả có thể giảm đi”.
Qua tìm hiểu và nhận thức về cạnh tranh thì: cạnh tranh là sự ganh đua
giữa các doanh nghiệp để chiếm lĩnh thị trường nhằm nâng cao doanh số bán
hàng bằng những công cụ nhất định.
Theo từ điển kinh doanh xuất bản năm 1992 ở Anh: cạnh tranh trong cơ chế
thị trường được sinh ra nghĩa là “Sự ganh đua, sự kình địch gữa các nhà kinh

doanh nhằm giành tài nguyên sản xuất cùng một loại hàng hóa về phía mình”.
1.2.2. Vai trò của cạnh tranh.
Cạnh tranh có vai trò rất quan trọng và là một trong những động lực mạnh
mẽ thúc đẩy sản xuất phát triển. Nó buộc người sản xuất phải năng động, tích
cực nâng cao tay nghề, cải tiến kỹ thuật, áp dụng khoa học công nghệ, hoàn
thiện tổ chức quản lý để nâng cao năng suất lao động, hiệu quả kinh tế. Ở đâu
thiếu cạnh tranh thì thường trì trệ và kém phát triển.
Vai trò của cạnh tranh đối với doanh nghiệp: cạnh tranh giúp doanh
nghiệp không ngừng phát triển cải tiến sản phảm để giành lợi thế cạnh tranh
về phía mình, đòi hỏi doanh nghiệp phải phát triển các công tác nghiên cứu

18


thị trường, đưa ra sản phẩm có chất lượng cao, tiện lợi, phù hợp với người
tiêu dùng hơn.
Cũng như đối với doanh nghiệp, cạnh tranh cũng là động lực giúp nhà
hàng, khách sạn có những biện pháp thích hợp để không ngừng cải tiến sản
phẩm, nâng cấp cơ sở vật chất, đặc biệt là không ngừng nâng cao tay nghề của
cán bộ, công nhân viên để nâng cao năng lực cạnh tranh của mình.
Cạnh tranh cũng giúp những nhà hàng không ngừng nghiên cứu thị
trường, cải tiến thực đơn, luôn tạo sự mới lạ để thu hút khách hàng.
Bên cạnh mặt tích cực, cạnh tranh cũng có những tác động tiêu cực thể
hiện ở cạnh tranh không lành mạnh như những hành động vi phạm đạo đức
hay vi phạm pháp luật như tung tin đồn làm hại đối thủ, hoặc những hành vi
cạnh tranh làm phân hóa giàu nghèo, tổn hại môi trường sinh thái.
Sự khác biệt giữa cạnh tranh lành mạnh và cạnh tranh không lành mạnh
trong kinh doanh là một bên dùng thủ đoạn để tiêu diệt đối thủ, một bên là
dùng các công cụ cạnh tranh về chất lượng sản phẩm, sử dụng các chiến lược
hậu mãi… để thu hút khách hàng và nâng cao năng lực cạnh tranh của mình.

1.2.3. Một số công cụ cạnh tranh chủ yếu của doanh nghiệp.
- Cạnh tranh sản phẩm.
Ngày nay, chất lượng sản phẩm đã trở thành một công cụ cạnh tranh quan
trọng của các doanh nghiệp trên thị trường. Chất lượng sản phẩm càng cao tức
là mức độ thỏa mãn nhu cầu càng cao, dẫn tới đẩy mạnh tốc độ tiêu thụ, làm
tăng khả năng thắng thế trong cạnh tranh của doanh nghiệp. Trong điều kiện
hiện nay, mức sống của người dân ngày càng được nâng cao, tức là khách
hàng có khả năng thanh toán tăng, do đó khách hàng ít nhạy cảm về giá hơn
nên sự cạnh tranh bằng giá cả đã và sẽ có xu hướng nhường vị trí cho sự cạnh
tranh bằng chất lượng.
Vấn đề đặt ra là doanh nghiệp phải luôn luôn giữ vững và không ngừng
nâng cao chất lượng sản phẩm, vì chất lượng sản phẩm là yếu tố quan trong
quyết định sự sống của doanh nghiệp.
- Cạnh tranh bằng giá bán sản phẩm.
19


Giá cả sản phẩm là biểu hiện bằng tiền của giá trị sản phẩm mà người bán
hay doanh nghiệp bán dự định có thể nhận được từ người mua thông qua việc
trao đổi hàng hóa có trên thị trường.
Nhà hàng, khách sạn cần tìm ra những chính sách giá phù hợp nhằm thu
hút khách hàng. Ngày nay mức sống của nguời dân được nâng cao nên giá cả
không còn là công cụ cạnh tranh chủ yếu của doanh nghiệp, nhưng nếu kết
hợp cạnh tranh bằng giá với những công cụ cạnh tranh thích hợp khác sẽ thu
hút được khách hàng hơn.
- Cạnh tranh bằng nghệ thuật tiêu thụ sản phẩm.

Trong cơ chế thị trường hiện nay, sản xuất tốt chưa đủ để doanh nghiệp
tồn tại, mà phải biết cách đưa sản phẩm của mình đến với người tiêu dùng
thông qua những kênh phân phối khác nhau. Thông thường kênh tiêu thụ sản

phẩm của doanh nghiệp được chia thành các loại sau:
Sơ đồ 1.1. Cấu trúc kênh phân phối

Doanh
nghiệp

Bán lẻ
Đại lý

Người
tiêu dùng

Bán lẻ

Bên cạnh đó, để thúc đẩy quá trình bán hàng, doanh nghiệp có thể tiến
hành một loạt các hoạt động hỗ trợ như: tiếp thị, quảng cáo, tổ chức hội nghị
khách hàng, hội thảo…
Ngày nay, nghệ thuật tiêu thụ sản phẩm đóng vai trò vô cùng quan trọng,
thậm chí quyết định đến sự sống của doanh nghiệp trên thị trường bởi vì nó
tác động đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên các khía cạnh sau:


Tăng khả năng tiêu thụ hàng hóa thông qua việc thu hút sự quan tâm
của khách hàng tới sản phẩm của doanh nghiệp.

20





Cải thiện vị trí hình ảnh của doanh nghiệp trên thị trường (thương hiệu,

chữ tín của doanh nghiệp).
• Mở rộng quan hệ làm ăn với các đối tác trên thị trường, phối hợp với
các chủ thể trong việc chi phối thị trường, chống hàng giả.
- Cạnh tranh về thương hiệu.
Tạo lập thương hiệu là phương thức cạnh tranh hiệu quả nhất đối với bất
cứ một doanh nghiệp nào. Một khách sạn có thương hiệu tức là khách sạn đã
tạo ra sự nhận biết và mong muốn cho khách hàng của mình về sản phẩm dịch
vụ khách sạn. Có thể nói thương hiệu là tài sản quý giá nhất của khách sạn.
Đây là một tài sản vô hình nhưng có giá trị vô cùng to lớn nhất là đối với
doanh nghiệp khách sạn.
Khách của khách sạn là những người từ nơi khác đến, họ chưa tiêu dùng
sản phẩm dịch vụ của khách sạn do đó thương hiệu khách sạn là tiêu chí đầu
tiên để họ lựa chọn. Tuy nhiên không phải bất cứ khách sạn nào cũng có
thương hiệu. Tất cả các khách sạn đều có nhãn hiệu nhưng để nhãn hiệu trở
thành thương hiệu nó phải trải qua một quá trình dài, được khách hàng công
nhận và khẳng định được vị trí của mình trên thị trường. Một khách sạn có
thương hiệu mạnh sẽ là một khách sạn có năng lực cạnh tranh lớn, có lợi thế
cạnh tranh tuyệt đối so với đối thủ cạnh tranh.
Cạnh tranh về thương hiệu còn tạo ra sự trung thành từ phía khách hàng.
Khách hàng sẽ dễ dàng chọn mua một sản phẩm nổi tiếng. Do đó thương hiệu
không chỉ là công cụ để khách sạn giữ chân khách hàng truyền thống mà còn
thu hút khách hàng mới cho khách sạn. Trong môi trường cạnh tranh, để giữ
gìn thương hiệu và nâng cao khả năng thu hút khách thì vấn đề quan trọng
nhất là nâng cao chất lượng dịch vụ. Thương hiệu là một công cụ hữu hiệu do
đó khách sạn cần phải duy trì thương hiệu và sử dụng nó như một công cụ
cạnh tranh hữu hiệu.
- Cạnh tranh bằng các công cụ khác.


Ngoài các công cụ trên, doanh nghiệp còn có thể nâng cao năng lực cạnh
tranh của mình bằng những dịch vụ sau bán hàng, thể hiện trách nhiệm của
21


doanh nghiệp đối với khách hàng của mình ngay cả khi việc giao dịch mua
bán đã kết thúc. Dịch vụ sau bán hàng gồm:


Đảm bảo thu lại sản phẩm không đúng với thỏa thuận ban đầu và hoàn

trả cho khách hàng hoặc đổi lại sản phẩm cho khách.
• Cam kết bảo hành trong thời gian nhất định.
• Cung cấp các dịch vụ bảo trì cho những sản phẩm có tuổi thọ dài.
Phương thức thanh toán cũng là một công cụ cạnh tranh được nhiều doanh
nghiệp sử dụng. Phương thức thanh toán rườm rà, nhiều công đoạn hay chậm
trễ, ảnh hưởng đến công tác tiêu thụ và do đó ảnh hưởng đến khả năng cạnh
tranh của doanh nghiệp trên thị trường.
Cạnh tranh về thời cơ thị trường: doanh nghiệp nào dự báo trước thời cơ
thị trường và nắm những thời cơ đó sẽ có thêm điều kiện để chiến thắng trong
cạnh tranh. Thời cơ thị trường thường xuất hiện do các yếu tố sau:




Sự thay đổi của môi trường công nghệ.
Sự thay đổi về yếu tố dân cư, điều kiện tự nhiên.
Các quan hệ tạo lập được của từng doanh nghiệp.

Thương lượng trong cạnh tranh: đó là việc thỏa thuận giữa các chủ doanh

nghiệp để chia sẻ thị trường một cách ôn hòa.
Các phương pháp né tránh: đó là cách rút lui khỏi cuộc cạnh tranh bằng
việc tìm một thị trường khác (một thị trường chiếm thị phần nhỏ mà các đối
thủ khác bỏ quên hay không quan tâm).
1.2.4.

Đối thủ cạnh tranh.
George Day, giáo sư trường Wharton, nhận định rằng: “Một trong những

vấn đề chính mà các nhà quản lý phải đối mặt khi lập chiến lược cạnh tranh là
xác định “đấu trường”: Bạn đang cạnh tranh ở đâu? Ai là đối thủ cạnh tranh
của bạn? Đấu trường cạnh tranh đó hấp dẫn như thế nào?”.
Đối thủ cạnh tranh là những tổ chức hay cá nhân có khả năng thoả mãn
nhu cầu của khách hàng mục tiêu của doanh nghiệp bằng cùng một loại sản
phẩm (dịch vụ) có cùng nhãn hiệu hay cùng loại sản phẩm nhưng khác nhãn
hiệu hoặc những sản phẩm có khả năng thay thế sản phẩm của doanh nghiệp.
22


Căn cứ vào mức độ thay thế sản phẩm. Dựa vào đó công ty có thể xác
định được ai là đối thủ của mình. Từ đó có các hình thức cạnh tranh sau:
+ Cạnh tranh nhãn hiệu: công ty có thể xem xét những công ty khác có
bán hàng hoá và dịch vụ tương tự cho cùng một số khách hàng với giá tương
tự là các đối thủ cạnh tranh của mình.
+ Cạnh tranh ngành: công ty có thể xem một cách rộng hơn, tất cả các
công ty sản xuất cùng một loại hay một lớp sản phẩm đều là đối thủ cạnh
tranh của mình.
+ Cạnh tranh công dụng: công ty có thể xem một cách rộng hơn nữa là tất
cả các công ty sản xuất ra những sản phẩm thực hiện cùng một dịch vụ là đối
thủ cạnh tranh của mình.

+ Cạnh tranh chung: công ty có thể xem theo nghĩa rộng hơn nữa là tất cả
những công ty đang kiếm tiền của cùng một người tiêu dùng đều là đối thủ
cạnh tranh của mình.
Đối thủ cạnh tranh của doanh nghiệp bao gồm đối thủ trong nước và
đối thủ ngoài nước. Khi xây dựng chiến lược cạnh tranh, trước hết doanh
nghiệp phải tập trung hướng cạnh tranh vào các đối thủ trong nước. Bởi vì các
đối thủ đó cạnh tranh không chỉ dành phần trên thị trường mà còn dành cả con
người, dành sự so sánh về uy tín, về sức mạnh của mình đối với các đối thủ
khác. Chính vì thế, cạnh tranh mạnh mẽ giữa các đối thủ trong nước đã tạo ra
áp lực cho nhau làm tăng không ngừng các nguồn lợi thế cạnh tranh. Nó làm
cho các doanh nghiệp trong nước nhanh chóng trưởng thành và do đó cũng là
sức ép thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước tìm kiếm thị trường bên ngoài.
Tuy nhiên, doanh nghiệp không thể xem thường các đối thủ ngoài nước vì
nếu là đối thủ này thâm nhập thị trường của doanh nghiệp thì họ sẽ có rất
nhiều ưu thế, đặc biệt là những đối thủ có uy tín trên thị trường quốc tế.
1.3. Năng lực cạnh tranh trong ngành nhà hàng, khách sạn.

23


1.3.1. Khái niệm năng lực cạnh tranh.
Hiện nay, một doanh nghiệp muốn có một vị trí vững chắc trên thị
trường thì phải có một tiềm lực đủ mạnh để có thể cạnh tranh trên thị trường.
Đó chính là năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp.
Thuật ngữ năng lực cạnh tranh đã được sử dụng rộng rãi, nhưng cho đến
nay vẫn chưa có sự nhất trí về khái niệm năng lực cạnh tranh giữa các học giả,
các nhà chuyên môn cũng như các doanh nghiệp. Dưới đây là một số cách
tiếp cận đáng chú ý:
Một là, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng duy trì và mở
rộng thị phần, thu lợi nhuận của doanh nghiệp. Đây là cách quan niệm khá

phổ biến hiện nay, theo đó năng lực cạnh tranh là khả năng tiêu thụ hàng hóa,
dịch vụ so với đối thủ và khả năng “thu lợi” của các doanh nghiệp. Cách quan
niệm này có thể gặp trong các công trình nghiên cứu của Mehra (1998),
Ramasamy (1995), Buckley (1991), Schealbach (1989) hay ở trong nước như
của CIEM (Ủy ban Quốc gia về Hợp tác Kinh tế Quốc tế). Cách quan niệm
như vậy tương đồng với cách tiếp cận thương mại truyền thống đã nêu trên.
Hạn chế trong cách quan niệm này là chưa bao hàm các phương thức, chưa
phản ánh một cách bao quát năng lực kinh doanh của doanh nghiệp.
Hai là, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng chống chịu
trước sự tấn công của doanh nghiệp khác. Chẳng hạn, Hội đồng Chính sách
năng lực của Mỹ đưa ra định nghĩa: “năng lực cạnh tranh là năng lực kinh tế
về hàng hóa và dịch vụ trên thị trường thế giới”. Ủy ban Quốc gia về Hợp tác
Kinh tế Quốc tế (CIEM) cho rằng: “năng lực cạnh tranh là năng lực của một
doanh nghiệp “không bị doanh nghiệp khác đánh bại về năng lực kinh tế”.
Quan niệm về năng lực cạnh tranh như vậy mang tính chất định tính, khó có
thể định lượng.
Ba là, năng lực cạnh tranh đồng nghĩa với năng suất lao động. Theo Tổ
chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD): “năng lực cạnh tranh của doanh
24


nghiệp là sức sản xuất ra thu nhập tương đối cao trên cơ sở sử dụng các yếu tố
sản xuất có hiệu quả làm cho các doanh nghiệp phát triển bền vững trong điều
kiện cạnh tranh quốc tế”. Theo M. Porter (1990): “năng suất lao động là thước
đo duy nhất về năng lực cạnh tranh”. Tuy nhiên, các quan niệm này chưa gắn
với việc thực hiện các mục tiêu và nhiệm vụ của doanh nghiệp.
Bốn là, năng lực cạnh tranh đồng nghĩa với duy trì và nâng cao lợi thế
cạnh tranh. Chẳng hạn, tác giả Vũ Trọng Lâm cho rằng: “năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp là khả năng tạo dựng, duy trì, sử dụng và sáng tạo mới các
lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp”, tác giả Trần Sửu cũng có ý kiến tương

tự: “năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng tạo ra lợi thế cạnh
tranh, có khả năng tạo ra năng suất và chất lượng cao hơn đối thủ cạnh tranh,
chiếm lĩnh thị phần lớn, tạo ra thu nhập cao và phát triển bền vững”.
1.3.2. Những nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh.
1.3.2.1. Các nhân tố chủ quan.
• Trình độ tổ chức và quản lý của doanh nghiệp.
Trình độ quản lý và tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
là yếu tố quan trọng hàng đầu, bao gồm các yếu tố sau:
- Phương pháp quản lý: là cách thức doanh nghiệp tiến hành các hoạt
động sản xuất kinh doanh của mình. Đó có thể là phương pháp quản lý tình
huống linh hoạt theo những thay đổi thị trường, phương pháp quản lý tiếp cận
quá trình và tiếp cận hệ thống, quản lý theo các mục tiêu đề ra có cập nhật
những thay đổi mới của môi trường để điều chỉnh thích hợp...
- Trình độ quản lý: thể hiện ở xây dựng và điều chỉnh chiến lược, có các
quyết sách kinh doanh hợp lý, tổ chức phân công và xác định quan hệ giữa
các đơn vị chức năng thuộc doanh nghiệp, tạo động lực và sự tích cực, sáng
tạo cho người lao động.
- Cơ cấu tổ chức: là việc sắp xếp phân công lao động và xác định mối
liên hệ giữa các bộ phận trong doanh nghiệp, giữa quyền hạn và nghĩa vụ của
các bộ phận chức năng... để thực hiện những mục tiêu nhất định. Hiện nay, đa
25


×