Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

Tiểu luận môn Tiếng Việt thực hành: Hiện tượng từ vay mượn trong Tiếng Việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (369.59 KB, 29 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP.HỒ CHÍ MINH
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ



TIỂU LUẬN KẾT THÚC MÔN HỌC
ĐỀ TÀI: HIỆN TƯỢNG TỪ VAY MƯỢN TRONG
TIẾNG VIỆT
Môn học: Tiếng Việt Thực Hành
Giảng viên hướng dẫn:
Nhóm sinh viên thực hiện:

HỌC KỲ II – NĂM HỌC: 2018 -2019
TP. Hồ Chí Minh, ngày 14 tháng 05 năm 2019


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP.HỒ CHÍ MINH
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ



TIỂU LUẬN KẾT THÚC MÔN HỌC
ĐỀ TÀI: HIỆN TƯỢNG TỪ VAY MƯỢN TRONG
TIẾNG VIỆT
Môn học: Tiếng Việt Thực Hành
Giảng viên hướng dẫn:
Nhóm sinh viên thực hiện:

HỌC KỲ II – NĂM HỌC: 2018 -2019


TP. Hồ Chí Minh, ngày 14 tháng 05 năm 2019



MỤC LỤC
MỤC LỤC.................................................................................................................. 3
LỜI MỞ ĐẦU............................................................................................................5
1.

Lý do chọn đề tài................................................................................................5

2.

Đối tượng nghiên cứu.........................................................................................5

3.

Mục đích nghiên cứu..........................................................................................5

4.

Phương pháp nghiên cứu...................................................................................6

CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT HIỆN TƯỢNG TỪ VAY MƯỢN TRONG TIẾNG
VIỆT.............................................................................................................................. 7
1.1

Khái niệm.........................................................................................................7

1.2


Nhu cầu sử dụng từ vay mượn trong tiếng Việt............................................8

1.3

Sự việt hóa từ mượn......................................................................................10

1.3.1

Việt hóa ngữ âm....................................................................................................................10

1.3.2

Việt hóa chữ viết....................................................................................................................11

1.3.3

Việt hóa ngữ nghĩa.................................................................................................................12

1.4

Hiện tượng chêm xem ngôn ngữ..................................................................12

1.4.1

Khái niệm và thực trạng về việc chêm xem ngôn ngữ ở nước ta hiện nay..........................12

1.4.2

Hậu quả của hiện tượng chêm xem ngôn ngữ.....................................................................13


1.4.3

Những giải pháp thiết thực nhằm đẩy lùi hiện tượng chêm ngôn ngữ...............................14

CHƯƠNG 2: PHÂN LOẠI TỪ VAY MƯỢN THEO NGUỒN GỐC...................15
2.1

Từ mượn tiếng Hán.......................................................................................15

2.1.1

Từ mượn Hán-Việt.................................................................................................................15

2.1.2

Mục đích vay mượn từ Hán-Việt...........................................................................................15

2.2

Từ mượn tiếng Pháp.....................................................................................17

2.3

Từ mượn tiếng Nga.......................................................................................17

2.4

Từ mượn tiếng Anh.......................................................................................18


2.5

Từ mượn các ngôn ngữ khác........................................................................18

2.5.1

Ảnh hưởng của ngôn ngữ Khơme.........................................................................................18

2.5.2

Ảnh hưởng của ngôn ngữ Tày-Thái.......................................................................................19
4


2.5.3

Ảnh hưởng của ngôn ngữ Ấn Độ...........................................................................................19

2.5.4

Ảnh hưởng của tiếng Nhật....................................................................................................20

CHƯƠNG 3: HIỆN TƯỢNG LẠM DỤNG TỪ MƯỢN TRONG TIẾNG VIỆT
...................................................................................................................................... 21
3.1

Thực trạng.....................................................................................................21

3.1.1


Thực trạng sử dụng từ vay mượn thể hiện qua ngôn ngữ mạng.........................................21

3.1.2

Thực trạng sử dụng từ vay mượn thể hiện qua ngôn ngữ giao tiếp (ngôn ngữ nói)..............
22

3.1.3

Thực trạng sử dụng từ vay mượn thể hiện qua ngôn ngữ viết............................................23

3.2

Đánh giá.........................................................................................................23

3.2.1

Ảnh hưởng tích cực...............................................................................................................23

3.2.2

Ảnh hưởng tiêu cực...............................................................................................................24

3.3

Giải pháp........................................................................................................25

KẾT LUẬN..............................................................................................................27

5



LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
"Tiếng nói là thứ của cải vô cùng lâu đời và vô cùng quý báu của dân tộc”. (Chủ
tịch Hồ Chí Minh). Dân tộc Việt Nam là một dân tộc có gốc nguồn xa xưa nhất trên
hoàn cầu. Tiếng nói của người Việt Nam đã được hình thành và phát triển qua hàng
ngàn năm gắn liền với lịch sử dân tộc. Nhờ được sinh sống trên đất Tổ, người Việt
Nam ngày xưa đã có thể hình thành được một ngữ hệ dân tộc vững chắc, hòng sau đó
tuy bị gần ngàn năm Bắc thuộc, vẫn bảo tồn được tiếng nói của mình. Sau ngàn năm
tiến hoá, tiếng Việt đã hoàn thiện mình với những gì nó vốn có và những gì học hỏi
được từ những ngôn ngữ khác. Nhu cầu giao tiếp giữa những người nói các ngôn ngữ
khác nhau đã khiến cho yếu tố của ngôn ngữ này xuất hiện trong ngôn ngữ kia và
ngược lại.
Hiện tượng vay mượn từ trong tiếng Việt không còn là hiện tượng mới nhưng vẫn
luôn là vấn đề nhức nhối thường trực đối với người Việt Nam. Trong quá trình giao
lưu ngôn ngữ, người Việt tiếp thu được rất nhiều lợi ích nhưng điều này cũng đặt ra
những thách thức đối với việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt.
Hiểu được điều đó, nhóm chúng tôi quyết định chọn đề tài hiện tượng vay mượn từ
ngữ trong tiếng Việt để làm rõ sự Việt hoá từ mượn, nhu cầu, nguồn gốc của từ mượn
trong tiếng Việt và lợi ích của nó cũng như thực trạng đáng lo ngại của hiện tượng
chêm xen từ ngữ. Từ đó chúng ta sẽ có ý thức hơn về việc sử dụng từ mượn có chọn
lọc và giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt.

2. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: từ thuần Việt và từ vay mượn trong tiếng Việt.

3. Mục đích nghiên cứu
 Giúp người đọc hiểu được nguồn gốc, vai trò xuất hiện của từ thuần Việt và từ
vay mượn trong tiếng Việt.

 Làm rõ vai trò của từ thuần Việt và từ vay mượn trong ngôn ngữ tiếng Việt.

5


 Làm rõ cách sử dụng của từ thuần Việt và từ vay mượn trong ngôn ngữ tiếng
Việt.

4. Phương pháp nghiên cứu





Phương pháp phân tích tổng hợp.
Phương pháp logic, thống kê.
Sưu tầm tài liệu và sắp xếp theo mục tiêu đề tài.
Truy cập internet.

6


CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT HIỆN TƯỢNG TỪ VAY
MƯỢN TRONG TIẾNG VIỆT
1.1 Khái niệm
Căn cứ vào nguồn gốc của các từ, các nhà nghiên cứu chia từ vựng tiếng Việt
thành hai lớp: từ thuần Việt và từ mượn hay còn gọi là từ ngoại lai.
Từ mượn (hay còn được gọi là từ vay mượn, ngoại lai) là những từ vay mượn của
nước ngoài (đặc biệt là tiếng Hán) được nhập vào ngôn ngữ của ta để biểu thị sự vật,
hiện tượng, đặc điểm… mà tiếng Việt chưa có từ thích hợp để biểu thị nhằm tạo sự

phong phú cho ngôn ngữ.
Từ mượn là từ vay mượn từ tiếng nước ngoài (ngôn ngữ cho) để làm phong phú
thêm cho vốn từ vựng của ngôn ngữ nhận. Gần như tất cả các ngôn ngữ trên thế giới
đều có từ mượn, vì một ngôn ngữ vốn dĩ không có đủ vốn từ vựng để định nghĩa cho
tất cả

các khái niệm và việc chuyển ngữ từ vựng từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ

khác để là xu thế tất yếu trong quá trình hội nhập của một nền văn hóa. Tuy nhiên,
việc tạo mới và sử dụng các từ mượn cũng cần hết sức quan tâm để tránh làm mất đi
bản sắc ngôn ngữ nhận, đánh mất sự đa dạng của ngôn ngữ; để tránh điều đó chỉ nên
sử dụng từ mượn trong một ngôn ngữ khi ngôn ngữ đó không có từ thay thế hoặc từ
thay thế quá dài và phức tạp (Theo WikipediA- Bách khoa toàn thư mở).
Từ mượn xuất hiện trong một ngôn ngữ khi từ đó được nhiều người nói ngôn ngữ
đó sử dụng và mang một ý nghĩa nhất định.
Trong tiếng Việt có rất nhiều từ mượn có nguồn gốc từ tiếng Hán (từ Hán-Việt gốc
Trung Quốc và từ Hán-Việt gốc Nhật), tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Nga...
Ví dụ:




Từ thuần Việt: cưới nhau, đàn bà, người già
Từ Hán-Việt: hôn nhân, phụ nữ, phụ lão
Từ mượn tiếng Pháp: ba tê (tiếng Pháp: pâté), bánh ga tô (gâteau), bia (bière),
bít tết (bifsteck), bơ (beurre), búp bê (poupée), ghi-ta (guitare)…
7





Từ mượn tiếng Anh: in-tơ-nét (tiếng Anh: internet), láp-tóp (laptop), xe gíp



(jeep), oẳn tù tì (one two three), săn-quích (sandwich)…
Từ mượn tiếng Nga: Bôn-sê-vích (Đảng Bolshevik của Nga), Mác-xít
( Marksist), Xô-viết (Soviet)…

1.2 Nhu cầu sử dụng từ vay mượn trong tiếng Việt
Như chúng ta đã biết tiếng Việt trong giai đoạn hiện nay chứa đựng nhiều từ ngữ
giống nhau hoặc tương tự với từ ngữ trong nhiều thứ tiếng khác nhau như: tiếng
Mường, tiếng Thái, tiếng Tày-Nùng, tiếng Bana, tiếng Gia-lai, tiếng Ê-đê, tiếng Hán,
tiếng Pháp, tiếng Nga… Từ mượn giúp làm phong phú thêm cho vốn từ vựng của
ngôn ngữ nhận. Trong một số trường hợp, một ngôn ngữ buộc phải dùng từ mượn do
không có từ tương đương thay thế hoặc do sự tiện lợi, phổ biến của từ mượn. Từ
mượn góp phần làm cho kho tàng từ ngữ tiếng Việt trở nên đa dạng, phong phú hơn,
dễ hiểu, sinh động và trực quan hơn. Theo thống kê của H. Maspéro, vào năm 1972 thì
có hơn 60% từ Việt có gốc Hán. Tiếng Việt thời kì đầu còn thiếu rất nhiều từ, nhất là
trong các lĩnh vực văn hóa, văn học – nghệ thuật, luật pháp, chính trị, kinh tế, quốc
phòng, giáo dục. Để bổ sung những từ còn thiếu, người Việt một mặt đã tạo ra một số
từ mới trên cơ sở các nguyên tắc cấu tạo từ tiếng Việt, song mặt khác cũng đã vay
mượn một số lượng lớn từ ngữ tiếng Hán. Việc vay mượn các từ ngữ tiếng Hán đã
diễn ra trong một thời gian rất dài, ngay từ khi tiếng Việt còn chưa trở thành ngôn ngữ
độc lập. Do được sử dụng nhiều nên từ ngữ tiếng Việt thường có đặc điểm của từ ngữ
giao tiếp hàng ngày. Điều đó làm cho chúng không thể dùng để biểu thị các sắc thái
nghĩa trang trọng hay khái quát. Để khắc phục tình trạng này, tiếng Việt vay mượn
một số từ ngữ tiếng Hán có nghĩa cơ bản giống với từ tiếng Việt nhưng được bổ sung
thêm một sắc thái nghĩa khác. Điều này làm xuất hiện những cặp từ đồng nghĩa, trong
đó từ thuần Việt và từ Hán-Việt chỉ có sắc thái nghĩa khác nhau. Ví dụ:



Từ thuần Việt gây cảm giác thô tục, ghê sợ hoặc đau đớn còn từ Hán-Việt tạo




cảm giác lịch sự, trung hòa. Ví dụ:
Từ thuần Việt: chảy máu, chết, nôn
Từ Hán-Việt: xuất huyết, từ trần, thổ

Nước Việt Nam từng là thuộc địa của Pháp nên tiếng Pháp có điều kiện du nhập
vào Việt Nam. Trong quá trình giao lưu văn hóa và ngôn ngữ đó người Việt đã vay
8


mượn nhiều từ gốc Pháp để chỉ những khái niệm mà thường thì trong tiếng Việt không
có. Phần lớn các từ đó đã bị thay đổi cả về cách đọc lẫn chữ viết để phù hợp với đặc
trưng của tiếng Việt, vốn là ngôn ngữ không biến hình và đặc biệt trong thời gian gần
đây là tiếng Anh. Tiếng Việt mượn khá nhiều từ tiếng Anh trong ẩm thực, thể thao và
giải trí. Bởi vì tiếng Anh được coi là ngôn ngữ giao tiếp quốc tế. Ngoài ra ở Việt Nam
tiếng Anh còn là ngôn ngữ bắt buộc trong chương trình giáo dục phổ thông và cũng là
ngoại ngữ được sử dụng rộng rãi. Vì thế dù nhiều từ đã có từ thuần Việt nhưng mọi
người vẫn quen sử dụng từ mượn tiếng Anh. Trong xu thế chung như giai đoạn hiện
nay thì sự tiếp xúc ngôn ngữ đang ngày càng phát triển sâu rộng trên nhiều mặt của
đời sống kinh tế - chính trị - xã hội nên các từ mượn không chỉ dừng lại ở các thuật
ngữ chuyên ngành mà còn rất đa dạng và phong phú bởi các từ liên quan đến đời sống
bình thường phục vụ cho nhu cầu giao tiếp hàng ngày (ẩm thực, trang phục, giải trí,
tình cảm…). Vì vậy, “có thể coi các từ vay mượn là các kí hiệu ngôn ngữ - xã hội” vì
các từ lúc này “Phản ánh những biến động trong xã hội của ngôn ngữ đi vay” (Nguyễn

Văn Khang, Từ ngoại lai trong tiếng Việt, 2007). Điều đó giúp thể hiện rõ ràng hơn về
tình hình phát triển của xã hội Việt Nam hiện nay. Điển hình như nước việc sử dụng
tiếng Anh phổ biến hơn trong xã hội ngày nay cho thấy nước Việt Nam ta cũng đang
trên đà hội nhập quốc tế để phấn đấu trở thành một nước CNH-HĐH. Tuy nhiên, mỗi
một người Việt Nam cần phải học cách sử dụng từ vay mượn nước ngoài sao cho thật
hay, thật hợp lí, mang lại hiệu quả cao nhất trong diễn đạt ngôn ngữ mà không làm
mất đi sự trong sáng thuần túy của tiếng Việt.

9


1.3 Sự việt hóa từ mượn
Cũng giống như những ngôn ngữ khác, hiện tượng tiếp nhận từ ngữ của một ngôn
ngữ vào tiếng Việt không diễn ra một cách đơn giản mà các từ mượn phải chịu sự biến
đổi theo quy luật của tiếng Việt. Quá trình đồng hoá các từ ngoại lai diễn ra trên cả
bốn mặt là ngữ âm, chữ viết và ngữ nghĩa.

1.3.1 Việt hóa ngữ âm
Về mặt ngữ âm, hệ thống ngữ âm của tiếng Việt được hình thành dần dần trên cơ sở
phương ngữ Bắc Bộ với sự bổ sung thêm một số yếu tố của các phương ngữ khác. Vì
thế, đứng trước những biến thể địa phương, cần lựa chọn biến thể nào phù hợp với hệ
thống ngữ âm chuẩn của tiếng Việt. Chẳng hạn, giữa các biến thể dô và vô, nhâng
dâng và nhân dân, dĩa và đĩa, gáo và gạo,... thì vô, nhân dân, đĩa, gạo,... là chuẩn. Khi
các địa phương dùng các từ khác nhau để chỉ cùng một sự vật, hiện tượng thì từ của
phương

ngữ

Bắc


Bộ

được

coi



chuẩn.

Chẳng

hạn,

giữa

các

từ mô và đâu, nỏ và không, chộ và thấy,... thì các từ đâu, không, thấy là chuẩn. Thực
tế, chuẩn ngữ âm hình thành dần dần, không thể đòi hỏi các địa phương trong cả nước
phát âm các từ thống nhất ngay được. Tuy nhiên, không thể coi nhẹ vấn đề chính âm.
Vai trò của nhà trường và các phương tiện thông tin đại chúng là vô cùng quan trọng
trong vấn đề này. Cách phát âm của các từ mượn cần phải phù hợp với hệ thống ngữ
âm tiếng Việt, những âm mà tiếng Việt không có hoặc có nhưng xuất hiện ở những vị
trí bất thường, trái với ngữ âm tiếng Việt sẽ bị biến đổi thành các âm tiếng Việt có
cách phát âm gần giống hoặc bị bỏ qua, không chuyển đổi thành âm tiếng Việt nào.
Ví dụ: poupée: búp bê; équipe: ê kíp.
Tiếng Việt gọi sự chuyển đổi ngữ âm này là "phiên âm". Tiếng Việt không có các tổ
hợp phụ âm nên khi được phiên âm sang tiếng Việt các tổ hợp phụ âm sẽ bị loại bỏ
theo các cách sau:

10




Âm tiết hóa các phụ âm cấu thành nên các tổ hợp phụ âm đó. Nguyên
âm thêm vào để tạo thành âm tiết thường là "ơ". Ví dụ: địa danh tiếng
Pháp "Genève" /ʒə.nɛv/ được phiên âm là "Giơ-ne-vơ", phụ âm /v/ được



âm tiết hóa thành "vơ".
Bỏ qua một bộ phận của tổ hợp phụ âm. Ví dụ: từ tiếng Pháp
"gramme" /gram/ được phiên âm là "gam", phụ âm /r/ trong phụ âm



kép /gr/ bị bỏ qua.
Áp dụng đồng thời cả hai cách trên.

1.3.2 Việt hóa chữ viết
Về mặt chữ viết, chữ quốc ngữ là cơ sở tốt để thống nhất chính tả giữa các vùng.
Ngôn ngữ trước hết là để nói, nhưng trong thực thế giao lưu văn hoá và xã hội ngày
nay, chữ viết có một tác dụng quyết định đối với cuộc sống. Vì thế, chuẩn chính tả là
cơ sở để bảo đảm và củng cố tính thống nhất của ngôn ngữ. Người miền Nam có thể
nói coong cháo, nhâng dâng, gất... nhưng khi viết thì phải viết con cháu, nhân dân,
rất…Người miền Bắc có thể phát âm lẫn lộn châu với trâu, nồi với lồi, xung với
sung…nhưng khi viết thì phải viết con trâu, châu báu, xung đột, bổ sung, lồi lõm, cái
nồi…Trong việc chuẩn hoá từ vựng tiếng Việt, cần lưu ý ba mảng khác nhau: các từ
thông thường, các tên riêng, và các thuật ngữ khoa học, kĩ thuật. Khi viết bằng chữ

quốc ngữ theo đúng cách phát âm trong thực tế của từ mượn. Trong tiếng Việt chúng
được nói như thế nào thì ghi lại bằng chữ quốc ngữ đúng như thế. Các âm tiết có thể
được viết liền nhau hoặc viết tách rời, có khoảng trắng giữa các âm tiết hoặc nối với
nhau bằng các dấu gạch ngang đặt giữa các âm tiết, ví dụ : vali, va li, va-li. Các từ
mượn được viết tách rời các âm tiết thường là từ có hai âm tiết. Trong một số trường
hợp khi các âm tiết được viết liền nhau, không có khoảng trắng hoặc dấu gạch ngang
xen vào giữa các âm tiết, nếu không được chỉ rõ cách đọc từ trước người đọc có thể
đọc sai hoặc phân vân không biết nên đọc thế nào mới đúng vì không biết một chữ cái
nào đó là chữ cái cuối cùng của một âm tiết hay là chữ cái đầu tiên của một âm tiết
khác sau âm tiết đó.

1.3.3 Việt hóa ngữ nghĩa
11


Về mặt ngữ nghĩa, một đơn vị từ vựng hợp chuẩn là đơn vị có khả năng diễn đạt
chính xác nhất nội dung cần diễn đạt, tự thân nó lại ngắn gọn, không gây hiểu lầm.
Trước đây, có người đã dùng từ "mẹo" để diễn đạt khái niệm "ngữ pháp". Mặc dù từ
"mẹo" ngắn gọn, lại rất Việt Nam nhưng không chính xác, dễ gây hiểu lầm nên không
thể coi là từ hợp chuẩn. Khi dùng từ này, người ta dễ liên tưởng đến nghĩa gốc của nó
là "cách khôn ngoan, thông minh được nghĩ ra trong một hoàn cảnh nhất định để giải
quyết việc khó", trong khi ngữ pháp lại là quy luật khách quan, không phải con người
tự nghĩ ra. Mặt khác, khi cần diễn đạt khái niệm "ý nghĩa ngữ pháp" thì nếu nói "ý
nghĩa mẹo" thì thật khó mà hiểu được. Ví dụ: để diễn đạt khái niệm "performative"
nếu dùng thuật ngữ "ngữ vi" cũng dễ nhầm là phạm vi ngôn ngữ. Theo chúng tôi,
thuật ngữ "ngôn hành" là thích hợp hơn. Khi tiếp nhận, tiếng Việt có thể thể không
tiếp nhận tất cả các ý nghĩa của từ trong ngôn ngữ khác hoặc mang một ý nghĩa hoàn
toàn mới. Ví dụ: từ "balle" trong tiếng Pháp có các nghĩa là "quả bóng" và "đầu đạn",
nhưng tiếng Việt chỉ tiếp nhận từ này với ý nghĩa "quả bóng".
Trong việc chuẩn hoá từ vựng tiếng Việt, cần lưu ý ba mảng khác nhau: các từ

thông thường, các tên riêng, và các thuật ngữ khoa học, kĩ thuật.

1.4 Hiện tượng chêm xem ngôn ngữ
1.4.1 Khái niệm và thực trạng về việc chêm xem ngôn ngữ ở nước
ta hiện nay
Trong quá trình hội nhập và phát triển tất yếu sẽ kéo theo sự tiếp xúc, ảnh hưởng
lẫn nhau giữa các nền văn hóa, trong đó có ngôn ngữ. Đây cũng là hiện tượng mang
tính phổ biến mà Việt Nam chúng ta cũng không phải và không thể là trường hợp
ngoại lệ. Mặt tích cực là đã góp phần làm phong phú thêm cho kho từ vựng của ngôn
ngữ dân tộc, đặc biệt là những thuật ngữ mới trong các lĩnh vực khoa học và kỹ thuật;
làm đa dạng hơn các hình thức giao tiếp, và về phương diện nào đó, nó giúp chúng ta
có điều kiện tiếp cận nhanh với những nền văn hóa và văn minh phát triển hơn. Bên
cạnh đó, về văn hóa nói chung, nó cũng có thể gây nên những tác động tiêu cực, đó là
sự xô bồ, lai căng, thậm chí chủ nhân văn hóa còn quay lưng lại với văn hóa truyền
thống nếu chủ thể tiếp nhận chưa có được sự chuẩn bị đầy đủ khả năng lựa chọn; về
12


ngôn ngữ nói riêng, những biểu hiện trong cách nói, cách viết “khác lạ” đã làm mất đi
bản sắc vốn có của tiếng Việt. Câu hỏi đặt ra là làm thế nào để những giá trị của văn
hóa truyền thống, mà cụ thể là văn hóa ngôn ngữ không bị phủ định bởi sự phát triển
của văn minh và ngược lại, nó không trở thành lực cản cho sự phát triển ấy; chúng
phải trở thành điểm tựa và thúc đẩy lẫn nhau trên con đường phát triển của xã hội.
Trong lời ăn tiếng nói, trong văn bản tiếng Việt hiện nay rất phổ biến hiện tượng
chêm xen từ ngữ ngoại (chủ yếu là tiếng Anh).
Ví dụ “Mày fair play quá”, “Download xong chưa?”, “Nhiều fan hâm mộ ghê”,
“Open tour này dành cho nhóm khách teen”, “Lập trình viên là một hot-job nhất bây
giờ” thậm chí có thể gồm cả cách nói có từ viết tắt như: “Khu công nghiệp này xây
bằng vốn ODA”, “Mức độ tăng trưởng GDP là 8,5%”…
Đáng chú ý là có những từ gốc ngoại đã được Việt hoá từ lâu, nay trong không khí

cởi mở thời mở cửa, hội nhập, lại “vô tư” phục hồi nguyên dạng: xe bus (so sánh: xe
buýt), vải line (lanh), tole Hoa Sen (tôn lợp mái), bếp gas (ga), may complete (com
lê), gatau sinh nhật (bánh ga tô).

1.4.2 Hậu quả của hiện tượng chêm xem ngôn ngữ
Việc sử dụng ngôn ngữ này trong một thời gian dài, liên tục, không có sự tự giác và
kiểm soát sẽ hình thành một thói quen vào trong tiềm thức của mọi người khiến cho
họ sử dụng nó trong vô thức. Làm cho đa số các bạn trẻ hiện nay đều gặp không ít rắc
rối với việc viết sao cho đúng chính tả, đặt câu sao cho đúng ngữ pháp hay sử dụng từ
ngữ như thế nào cho đúng với ngữ nghĩa, phù hợp với hoàn cảnh.

13


1.4.3 Những giải pháp thiết thực nhằm đẩy lùi hiện tượng chêm
ngôn ngữ
Nhà nước cần có các văn bản quy định cụ thể về cách sử dụng tiếng nước ngoài
trong các loại hình văn bản, trên các hình thức truyền thông, quảng cáo. Các cơ quan
báo chí, truyền thông, bên cạnh việc tuyên truyền, khuyến cáo, họ phải trở thành
những người mẫu mực trong việc sử dụng ngôn từ.
Ở nhà trường, bên cạnh việc giáo dục cho học sinh thấy rõ được cái đẹp, cái tinh tế,
bản sắc và tiềm năng của tiếng Việt chúng ta, với phương châm: có hiểu mới yêu, có
yêu mới trân trọng, mới làm tốt việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, các thầy cô
giáo phải là tấm gương trong việc thực hiện nhiệm vụ đó. Ngôn ngữ của các thầy cô
giáo phải trong sáng, chuẩn mực, phù hợp với quy tắc và phong cách tiếng Việt. Giao
lưu, tiếp xúc ngôn ngữ là hiện tượng xã hội. Để hạn chế những tiêu cực trong tiếp
nhận, sử dụng cần có sự tham gia của toàn xã hội, trong đó gia đình và các tổ chức
đoàn thể xã hội đóng vai trò quan trọng. Gia đình cần thường xuyên nhắc nhở và giáo
dục con em mình trong việc sử dụng ngôn ngữ đúng chuẩn mực; cần thận trọng trong
việc sử dụng ngôn ngữ khi giao tiếp với nhau giữa các thành viên gia đình, tập thể;

không để những hiện tượng xấu trong giao tiếp ngôn ngữ ảnh hưởng tiêu cực đến con
em mình. Các tổ chức đoàn thể mà hạt nhân là đoàn thanh niên, tổ chức các diễn đàn,
bên cạnh tìm hiểu kiến thức về tiếng Việt còn hướng tới việc tạo môi trường thực hành
ngôn ngữ, đồng thời cần kịp thời điều chỉnh những sai lạc trong tiếp nhận, sử dụng các
ngôn ngữ ngoại lai.

14


CHƯƠNG 2: PHÂN LOẠI TỪ VAY MƯỢN THEO
NGUỒN GỐC
2.1 Từ mượn tiếng Hán
2.1.1 Từ mượn Hán-Việt
Sau 1000 năm Bắc thuộc, văn hóa Hán xâm nhập và chi phối sinh hoạt xã hội người
Việt khá sâu đậm. Ðặc biệt là chữ Hán đã được dùng làm chữ viết chính thức của ta
trong hàng thế kỷ, chính vì thế, tiếng Việt vay mượn từ tiếng Hán là điều không thể
tránh khỏi. Về mặt ngôn ngữ, tuy người Việt vẫn nói tiếng Việt nhưng tiếng Hán, nhất
là trong những phạm vi triết học, chính trị và kỹ thuật được người Việt vay mượn rất
nhiều. Hiện nay, số lượng từ Hán Việt chiếm hơn 60% trong vốn từ vựng tiếng Việt.
Ða số từ Hán Việt là từ đa âm tiết.Tuy nhiên, các từ tiếng Hán khi đi vào tiếng Việt đã
được Việt hóa về cách đọc cho phù hợp với hệ thống ngữ âm của tiếng Việt. Đó gọi
là cách đọc Hán-Việt. Cách đọc này đã được hoàn thiện từ khoảng thế kỉ X- XI và
được sử dụng ổn định cho đến nay. Điều đó có nghĩa là các từ vay mượn của tiếng
Hán được người Việt đọc theo âm cổ – âm tiếng Hán đời Đường – có sự Việt hóa ít
nhiều cho phù hợp với hệ thống ngữ âm tiếng Việt. Không những thế, tiếng Việt còn
dùng các yếu tố gốc Hán để tạo ra từ mới chỉ dùng trong tiếng Việt, ví dụ: tiểu đoàn,
đại đội, hoặc kết hợp một yếu tố gốc Hán với một yếu tố thuần Việt để tạo ra từ mới,
ví dụ: binh lính, tàu hỏa, đói khổ. Ngày nay, khi muốn sử dụng một thuật ngữ mới,
người ta đều có xu hướng dùng từ Hán-Việt như: "lập trình", "vi mạch", "cộng hòa",
…Ngoài ra, còn có các từ gốc Hán được tiếp nhận bằng con đường khẩu ngữ với phát

âm của một phương ngữ nào đó của tiếng Hán hiện đại: ca la thầu, mì chính, quẩy, hủ
tiếu,... Những từ này là từ mượn và thường không được xem là từ Hán–Việt.

2.1.2 Mục đích vay mượn từ Hán-Việt
Nhìn chung, tiếng Việt vay mượn các từ tiếng Hán nhằm hai mục đích như sau:

 Thứ nhất: bổ sung những từ còn thiếu:
15


Trong thời kì đầu, tiếng Việt còn thiếu rất nhiều từ cần bổ sung, người Việt một mặt
đã tạo ra một số từ mới trên cơ sở các nguyên tắc cấu tạo từ tiếng Việt, song mặt khác
cũng đã vay mượn một số lượng lớn từ ngữ tiếng Hán. Những từ ngữ vay mượn từ xa
xưa của tiếng Hán đã bị thay đổi nhiều trong tiếng Việt và chúng hoạt động giống như
từ thuần Việt nên nhiều người vẫn nghĩ rằng đó là từ thuần Việt, ví dụ: buồn, mây,
chè… Vì vậy, khi nói đến từ ngữ gốc Hán trong tiếng Việt, người ta thường nghĩ đến
những từ được vay mượn trong thời kì tiếng Việt đã trở thành ngôn ngữ độc lập và
được đọc theo một nguyên tắc chung giống nhau: đọc theo âm Hán-Việt. Ví dụ:
Các từ trong lĩnh vực văn hóa: lễ nghi, lễ hội, văn minh.
Các từ trong lĩnh vực văn học-nghệ thuật: tiểu thuyết, hội họa, điêu
khắc.
Các từ trong lĩnh vực luật pháp: hiến pháp, luật sư, tòa án, quy định.
Các từ trong lĩnh vực chính trị: chính phủ, độc lập, phụ thuộc, dân chủ.
Các từ trong lĩnh vực kinh tế: công nghiệp, tư bản, tỷ giá, chứng khoán.
Có thể thấy rằng, đây chủ yếu là những thuật ngữ khoa học-chuyên môn.
 Thứ hai: Tạo ra một lớp từ có sắc thái nghĩa khác với từ đã có trong tiếng Việt:
Trong giao tiếp hàng ngày, tiếng Việt được sử dụng nhiều nên mất đi sắc thái trang
trọng hay khái quát. Do đó, ta đã vay mượn một số từ ngữ tiếng Hán có nghĩa cơ bản
giống với từ tiếng Việt nhưng được bổ sung thêm một sắc thái nghĩa khác. Điều này
làm xuất hiện những cặp từ đồng nghĩa, trong đó từ thuần Việt và từ Hán-Việt chỉ có

sắc thái nghĩa khác nhau. Ví dụ:
Về sắc thái ý nghĩa: có sắc thái ý nghĩa trừu tượng, khái quát nên mang tính chất
tĩnh tại, không gợi hình.
Ví dụ: Thảo mộc = cây cỏ, viêm = loét, thổ huyết = hộc máu…

16


Về sắc thái biểu cảm, cảm xúc: nhiều từ hán Việt mang sắc thái trang trọng, thanh
nhã( trong khi đó nhiều từ thuần Việt mang sắc thái thân mật, trung hòa, khiếm
nhã…)
Ví dụ: Phu nhân = vợ, hi sinh = chết…
Về sắc thái phong cách: từ Hán Việt có phong cách gọt giũa và thường được dùng
trong phong cách khoa học, chính luận, hành chính( còn tiếng Việt nhìn chung có
màu sắc đa phong cách: giọt giũa, cổ kính, sinh hoạt, thông dụng…
Ví dụ: huynh đệ = anh em, bằng hữu = bạn bè, thiên thu = mãi mãi, khẩu phật tâm
xà = miệng nam mô bụng bồ dao găm…

2.2 Từ mượn tiếng Pháp
Việt Nam từng là thuộc địa của Pháp nên tiếng Pháp có điều kiện du nhập vào Việt
Nam. Trong quá trình giao lưu văn hóa và ngôn ngữ đó người Việt đã vay mượn nhiều
từ gốc Pháp để chỉ những khái niệm mà thường thì trong tiếng Việt không có. Phần
lớn các từ đó đã bị thay đổi cả về cách đọc lẫn chữ viết để phù hợp với đặc trưng của
tiếng Việt. Ví dụ: ban công (balcon), buýt (bus), áp phích (affiche), cà rốt (carotte),…

2.3 Từ mượn tiếng Nga
Ngay từ thời xa xưa, Nga đã là một nước có mối quan hệ về văn hóa, thương mại,
quân sự, chính trị với nhiều nước trên thế giới nên không thể tránh khỏi quá trình du
nhập từ vay mượn vào ngôn ngữ của mình. Lịch sử cho thấy mối quan hệ của Việt
Nam với Liên Xô trước đây, và với Liên Bang Nga ngày nay luôn nồng ấm, tin cậy,

vượt qua mọi thử thách của thời gian và những biến động của lịch sử. trong những
năm tháng cam go của cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, Việt Nam luôn nhận
được sự ủng chí tình của nhân dân Liên Xô không chỉ về tiền bạc, hiện vật mà các
chuyên gia Liên Xô còn sang tận nơi giúp Việt Nam phát triển về kinh tế, văn hóa, xã
hội…Đặc biệt là khi truyền bá chủ nghĩa Mác – Lenin, Hồ Chí Minh đã dịch và viết
lại bằng tiếng Việt cho phù hợp với cách tiếp cận của người Việt lúc bấy giờ. Ngôn
ngữ Nga cũng theo đó du nhập vào Việt Nam, và từ mượn tiếng Nga cũng theo đó ra
đời. Ví dụ: Bôn-sê-vích (Большевик), Mác-xít (mарксист), xô viết (cовет)…
17


2.4 Từ mượn tiếng Anh
Ở Việt Nam tiếng Anh là ngôn ngữ bắt buộc trong chương trình giáo dục phổ thông
và cũng là ngoại ngữ được sử dụng rộng rãi. Không những thế hệ thuật ngữ quốc tế
cũng chủ yếu dựa trên tiếng Anh nên việc vay mượn từ tiếng Anh trong thuật ngữ là
điều không thể tránh khỏi. Ví dụ như trong lính vực lập trình khoa học máy tính,
người ta thống nhất sử dụng những thuật ngữ đo lường bộ nhớ máy tính như bit
(byte), kilobyte (KB), megabyte (MG)… Ngay cả đối với các hệ thống đo lường cũng
vậy. Ví dụ: gam (gram), lit (litre), met (metre)… Và có rất nhiều từ mượn tiếng Anh
chúng ta sử dụng tong đời sống hằng ngày rất quen thuộc. Ví dụ: cờ-líp (clip), in-tơnét (internet), pi-a (PR), tivi (TV), sô (show)…

2.5 Từ mượn các ngôn ngữ khác
Ngoài những ảnh hưởng của tiếng Hán, tiếng Việt còn chịu ảnh hưởng của một số
ngôn ngữ châu Á khác, đặc biệt là các ngôn ngữ Khơme (Khmer), ngôn ngữ Tày-Thái,
ngôn ngữ Ấn Độ (tiếng Phạn, tiếng Pali).

2.5.1

Ảnh hưởng của ngôn ngữ Khơme


Có ảnh hưởng lớn nhất trong số các ngôn ngữ kể trên là tiếng Khơme. Do sự tiếp
xúc khá thường xuyên với tiếng Khơme, một số lượng khá lớn từ tiếng Khơme đã đi
vào tiếng Việt và giữ vai trò quan trọng trong lớp từ cơ bản của tiếng Việt. Trong thời
gian gần đây (từ khoảng thế kỉ XIX), giữa tiếng Khơme và tiếng Việt đã có những mối
quan hệ trực tiếp mà chủ yếu là qua phương ngữ Nam Bộ. Các mối quan hệ này đã để
lại một số từ chỉ các loại cây cỏ đặc trưng cho vùng Nam Bộ như: xoài, thốt nốt, sầu
riêng, hay từ biểu thị hoạt động, cách thức hoạt động của người và động vật
như: nhậu (= ăn và uống), tùm lum (= lung tung), xài(ăn, dùng), cà lăm, cà nhắc, ba
lăng nhăng.
Nói chung, các từ ngữ gốc Khơme được Việt hóa cao độ trong tiếng Việt nên nhiều
người Việt vẫn coi đây là những từ thuần Việt.

2.5.2 Ảnh hưởng của ngôn ngữ Tày-Thái
18


Ngoài tiếng Khơme, các tiếng Tày-Thái cũng đã có ảnh hưởng nhất định đến tiếng
Việt. Nhưng những ảnh hưởng của tiếng Tày-Thái đối với tiếng Việt thường liên quan
đến giai đoạn phát triển sớm hơn của tiếng Việt, tức là giai đoạn Việt-Mường. Trong
giai đoạn sớm đó, giữa các ngôn ngữ trong vùng đã có sự tiếp xúc thường xuyên và
chúng đã ảnh hưởng lẫn nhau theo nhiều chiều, khá phức tạp. Trong tiếng Việt hiện
đại có nhiều từ mà hình thức ngữ âm và ý nghĩa giống hoặc gần giống với các từ
tương đương trong các tiếng Tày-Thái. Ví dụ, so sánh:
Tiếng Việt: bún, hái, chóc (chim), dứa, ớt, quế.
Tiếng Tày-Thái: pún, hải, chộc, dửa, ớt, quẻ.
Hơn nữa, trong tiếng Việt ngày nay có một số từ ghép được tạo ra bằng cách kết
hợp một từ thuần Việt và một từ gốc Tày-Thái. Ví dụ: chó má (má = chó, gốc TàyThái), mặt nạ (nạ=mặt, gốc Tày-Thái), súng ống (ống=súng, gốc Tày-Thái), chim
chóc (chóc=chim, gốc Tày Thái).
Chính vì vậy, biết được nguồn gốc Tày-Thái (và cả nguồn gốc Môn-Khơme) của
một số từ tiếng Việt, ta có thể hiểu rõ hơn ý nghĩa của các từ ghép trong tiếng Việt.


2.5.3

Ảnh hưởng của ngôn ngữ Ấn Độ

Ấn Độ ảnh hưởng nhiều tới Việt Nam về mặt văn hóa, tôn giáo. Việc tiếp thu các
tôn giáo và các phép tu luyện Ấn Độ (như Yoga) đã khiến cho một số lượng lớn từ
ngữ Ấn Độ được du nhập vào tiếng Việt. Tuy nhiên, do các sách kinh được truyền vào
Việt Nam qua tiếng Hán nên nhiều từ ngữ Ấn Độ đã được phiên âm qua tiếng Hán và
vì thế không còn giữ được cấu trúc âm thanh tiếng Phạn hay Pali. Ví
dụ: Phật/Bụt (buddha), Tiểu

thừa (hīnayāna),

/Đại

thừa (mahāyāna), Niết

bàn (nirvāṇa), luân hồi (saṃsāra), Bồ Tát (bodhisattva). Riêng ở miền Trung Việt
Nam, người Chăm đã tiếp thu đạo Bà la môn của Ấn Độ không qua tiếng Hán nên các
từ ngữ vay mượn của Ấn Độ (tiếng Phạn, tiếng Pali hoặc tiếng Hinđu) vẫn giữ được
âm gốc. Ví dụ: Shiva, Linga.

2.5.4

Ảnh hưởng của tiếng Nhật

19



Tiếng Nhật, nói chung, không có ảnh hưởng nhiều đến tiếng Việt ở giai đoạn phát
triển sớm. Mãi đến thế kỉ XIX, tiếng Nhật mới có một ít ảnh hưởng đối với tiếng Việt,
nhưng đó không phải là ảnh hưởng trực tiếp mà là ảnh hưởng gián tiếp thông qua
tiếng Hán. Vào thời gian này, người Nhật đã tiếp xúc với châu Âu và làm quen với
những khái niệm mới như: dân chủ, cộng hòa, kinh tế chính trị, xã hội…Họ đã dùng
chữ Hán để dịch các khái niệm này. Về sau người Hán đọc các từ này theo âm Hán rồi
người Việt lại mượn vào tiếng Việt và đọc theo âm Hán-Việt. Đây là lí do vì sao có
những từ mượn của tiếng Hán nhưng người Việt không hiểu được cách cấu tạo, ví
dụ: trường hợp, xã hội, kinh tế. Gần đây, một số từ ngữ tiếng Nhật đã được mượn
thẳng vào tiếng Việt, ví dụ: kimônô, giuđô, karate, karaôkê.

20


CHƯƠNG 3: HIỆN TƯỢNG LẠM DỤNG TỪ MƯỢN
TRONG TIẾNG VIỆT
3.1 Thực trạng
Quá trình hội nhập và phát triển tất yếu sẽ kéo theo sự tiếp xúc, ảnh hưởng lẫn nhau
giữa các nền văn hóa, trong đó có ngôn ngữ. Đây cũng là hiện tượng mang tính phổ
biến mà Việt Nam chúng ta cũng không phải và không thể là trường hợp ngoại lệ. Có
thể thấy rằng, một ngôn ngữ khó có thể nào đáp ứng đủ nhu cầu thể hiện mọi bản chất
của sự vật, hiện tượng và sự vay mượn từ ngữ từ ngôn ngữ khác là điều tất yếu. Sự
vay mượn từ ngữ và sử dụng những từ ngữ vay mượn đó đã trở thành một hiện tượng
phổ biến, quen thuộc đối với tất cả mọi người. Điều đó được thể hiện qua cả văn nói
và văn viết, chẳng hạn như trong các văn bản, bài báo hay cách giao tiếp bằng lời nói
của chúng ta. Thực trạng sử dụng từ vay mượn trong xã hội hiện nay được thể hiện rõ
nhất qua ngôn ngữ mạng, ngôn ngữ giao tiếp (ngôn ngữ nói) và ngôn ngữ viết.

3.1.1 Thực trạng sử dụng từ vay mượn thể hiện qua ngôn ngữ
mạng

Trong thời đại phát triển công nghệ như hiện nay, không quá khó để một trào lưu
nào đó được lan truyền rộng rãi trong xã hội, đặc biệt là trong giới trẻ, trong đó, trào
lưu “cải biến” tiếng Việt là một trào lưu đã và đang gây ra nhiều ý kiến trái chiều nhất
trong xã hội. Bằng nhiều hình thức biến đổi từ ngữ mà với tiêu chí chung là ngắn gọn,
dễ hiểu và sành điệu, một bộ phận giới trẻ đã tự cho mình cái quyền “cải biến” tiếng
Việt và từ đó gọi ngôn ngữ đó là ngôn ngữ mạng.
Ngôn ngữ mạng có tính đặc thù, là thứ ngôn ngữ phi chính thức và thể hiện sự tự do
cá nhân. Hiện nay, ngôn ngữ mạng được dùng rất phổ biến và đối với một bộ phận xã
hội nhất định thì sử dụng ngôn ngữ mạng mang lại nhiều điều thú vị. Ngôn ngữ mạng
không chỉ được đơn giản hóa, từ cấu trúc ngữ pháp đến từ ngữ, để bảo đảm tính nhanh
gọn mà còn sử dụng các ký hiệu, biểu tượng để biểu đạt thông tin, làm cho ngôn ngữ
trở nên sinh động. Có thể tóm tắt cách “tạo từ mới” của một bộ phận giới trẻ hiện nay
21


như sau: thay chữ cái chuẩn thành 1 chữ cái khác có âm giống như: chữ b = p, chữ i =
j, chữ c = k, tr = ch,..và ngược lại, chẳng hạn như: nhiều = nhiu; yêu = iu; biết = bit,
thôi = thui.... Các nguyên âm còn được hoán đổi vị trí cho nhau như a, i, o, u, y... Ta
có thể thấy ví dụ như rồi = roai. Cùng với đó, là việc thay các bán nguyên âm, như oa,
oe, uy, các phụ âm ghép như gh, nh, ph, ngh... bằng các nguyên âm, phụ âm đơn có
âm tiết "gần gận" như: nghe = nge, nhanh = nhah... Sự lạm dụng từ vay mượn trong
ngôn ngữ mạng này đã gây ra khá nhiều những ý kiến, tranh cãi trong xã hội.

3.1.2 Thực trạng sử dụng từ vay mượn thể hiện qua ngôn ngữ giao
tiếp (ngôn ngữ nói)
Qua các cuộc giao tiếp, không khó để bắt gặp hiện tượng lạm dụng từ vay mượn
trong ngôn ngữ nói. Giao tiếp là hành động mà chúng ta thực hiện hằng ngày,vì thế
ngôn ngữ giao tiếp rất dễ bị ảnh hưởng và sự ảnh hưởng đó có thể dễ dàng nhận ra
được. Sự giao thoa văn hóa, xã hội đòi hỏi ngôn ngữ có những thay đổi để đáp ứng
các nhu cầu giao tiếp mới. Những từ ngữ mới, cách diễn đạt mới được hình thành để

thêm vào những khái niệm, thậm chí cả cấu trúc và phong cách mà trong vốn tiếng
Việt trước đấy còn thiếu vắng, chẳng hạn trong lĩnh vực tin học, kỹ thuật số, sản xuất
kinh doanh của nền kinh tế thị trường… Bên cạnh đó còn xuất hiện những cách nói,
cách viết khác lạ.
Trải qua các giai đoạn phát triển của xã hội, sự lạm dụng từ vay mượn trong giao
tiếp có sự khác nhau và thay đổi. Trong cách chào hỏi hay tạm biệt, một bộ phận giới
trẻ và cả người lớn thường xuyên sử dụng các từ ngữ bằng tiếng nước ngoài, chẳng
hạn như tiếng Anh. Chúng ta còn có thể thấy được sự chêm xen các từ ngoại lai thay
thế cho từ ngữ tiếng Việt vốn có trong vô số các cuộc trò chuyện hằng ngày. Chúng ta
có thể xét qua một vài ví dụ như thay vì nói xin chào, rất nhiều người sẽ sử dụng chữ
“hello” trong tiếng Anh hoặc thay vì gọi là thần tượng, nhiều người sẽ dùng chữ
“idol”. Sự phổ biến ngày càng rộng rãi của hiện tượng lạm dụng từ vay mượn trong
ngôn ngữ giao tiếp đã dẫn đến những biến đổi không nhỏ đối với sự giao tiếp của con
người trong xã hội hiện nay.

22


3.1.3 Thực trạng sử dụng từ vay mượn thể hiện qua ngôn ngữ viết
So với ngôn ngữ nói và ngôn ngữ mạng, ngôn ngữ viết được xem như ít bị ảnh
hưởng bởi sự lạm dụng từ ngoại lai hơn vì những yêu cầu đặc trưng của nó. Khác
với ngôn ngữ nói, ngôn ngữ viết được lựa chọn rất kĩ càng và chính xác. Trong khi
đó, người đọc cũng có điều kiện đọc đi đọc lại, phân tích và nghiền ngẫm nội
dung văn bản. Tuy nhiên, để giao tiếp được bằng ngôn ngữ viết thì cả người viết
và người đọc đều phải biết các kí hiệu chữ viết, các quy tắc chính tả, quy tắc tổ
chức văn bản.
Sự lạm dụng từ vay mượn trong ngôn ngữ viết có thể được tìm thấy qua các
trang sách báo hay tạp chí, chẳng hạn như tình trạng tiếng Việt bị tiếng Anh lấn át
nghiêm trọng, thay thế các từ thuần Việt mà chúng ta vẫn sử dụng nhiều năm về
trước. Chúng ta dễ dàng thấy được trong rất nhiều các tờ báo cho giới trẻ thường

xuyên sử dụng các từ ngữ như “hotboy”, “hotgirl” hoặc “tuổi teen”,.. Giới trẻ dần
quen với cách dùng từ như vậy của báo chí và sử dụng nó nhưng một thói quen.
Hiện tượng đó còn được bắt gặp qua bất kì các văn bản giấy khác như tờ quảng
cáo, phiếu khảo sát, thư mời,.. Có thể thấy, sự phổ biến của hiện tượng sử dụng từ
ngoại lai trong ngôn ngữ viết là rất lớn.

3.2 Đánh giá
Trong tình hình toàn cầu hóa đang diễn ra trong mọi mặt của đời sống xã hội,
hiện tượng vay mượn từ nước ngoài đã trở thành một hiện tượng tự nhiên của mọi
ngôn ngữ trên thế giới, không chỉ ở Việt Nam và điều này đem lại nhiều ảnh
hưởng: tích cực và tiêu cực.

3.2.1 Ảnh hưởng tích cực
Mặt tích cực của hiện tượng này là sự góp phần làm phong phú thêm cho kho
từ vựng của ngôn ngữ dân tộc, đặc biệt là những thuật ngữ mới trong các lĩnh vực
khoa học và kỹ thuật. Không những thế, việc sử dụng từ vay mượn từ tiếng nước
23


ngoài cũng làm đa dạng hơn các hình thức giao tiếp, và về phương diện nào đó,
nó giúp chúng ta có điều kiện tiếp cận nhanh với những nền văn hóa và văn minh
phát triển hơn. Ngôn ngữ chính là những công cụ mạnh mẽ nhất để bảo tồn và
phát triển di sản vật thể và phi vật thể của chúng ta. Ngôn ngữ đóng một vai trò
quan trọng trong quá trình phát triển bởi nó bảo đảm sự đa dạng về văn hóa và
giúp các nền văn hóa có thể giao thoa, trao đổi với nhau. Để tiếp cận với những
nền văn hóa khác, chúng ta cần có sự hội nhập, giao thoa, tiếp thu những cái tốt,
cái đẹp từ chính ngôn ngữ.

3.2.2 Ảnh hưởng tiêu cực
Bên cạnh những ảnh hưởng tích cực là những tác động tiêu cực. Trước hết là sự

xô bồ, lai căng trong tiếng Việt, thậm chí chủ nhân văn hóa còn quay lưng lại với
văn hóa truyền thống nếu chủ thể tiếp nhận chưa có được sự chuẩn bị đầy đủ khả
năng lựa chọn. Không như nhiều năm trước, hiện nay chúng ta có nhiều sự lựa
chọn từ ngữ khác thay vì chọn sử dụng từ thuần Việt để diễn tả điều mình muốn.
Đôi khi, điều đó gây nên sự bất đồng ngôn ngữ giữa người với người và lớn hơn,
là giữa thế hệ này với thế hệ kia.
Về ngôn ngữ nói riêng, những biểu hiện trong cách nói, cách viết “khác lạ” đã làm
mất đi bản sắc vốn có của tiếng Việt. Tiếng Việt của chúng ta rất đẹp và giàu ý nghĩa.
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Tiếng nói là thứ của cải vô cùng lâu đời và vô cùng
quý báu của dân tộc. Chúng ta phải giữ gìn nó, quý trọng nó, làm cho nó phổ biến
ngày càng rộng khắp. Của mình có mà không dùng, lại đi mượn cái của nước ngoài,
đó chẳng phải là đầu óc quen ỷ lại hay sao?”. Sự lạm dụng quá mức những từ ngữ
ngoại lai có thể khiến cho những nét đẹp truyền thống được hun đúc, tích tụ hàng
ngàn năm của tiếng Việt có thể bị phá vỡ, thay vào đó là một sự pha tạp và chắp vá.
Với những ảnh hưởng tiêu cực từ hiện tượng lạm dụng từ vay mượn trong tiếng
Việt, việc chúng ta cần làm là tìm hiểu thật kĩ bản chất của sự việc và từ đó đưa ra
được những giải pháp đúng đắn và hợp lí.

24


×